Professional Documents
Culture Documents
TH C TR NG NGU N NHÂN L C NƯ C Ta
TH C TR NG NGU N NHÂN L C NƯ C Ta
Theo kết quả đánh giá chỉ số nhân lực ở việt nam cho thấy tình trạng thiếu hụt lao
động trầm trọng ở một số ngành nghề như dệt may, da giày, du lịch…. ở rất nhiều
doanh nghiệp, họ phàn nàn về tình trạng thiếu lao động nhất là lao động có tay
nghề cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên ở nước ta một phần là do chất
lượng đào tạo ở nước ta. ở góc độ giáo dục, nhất là nguồn lực đào tạo, kết quả phổ
cấp giáo dục đạt kết quả tốt nhưng kết quả giáo dục sau bắt buộc vẫn còn rất nhiều
hạn chế, thiếu hướng nghiệp, thiếu kĩ năng mềm, sự tụt hậu của các dân tộc thiểu
số, vùng xa. Theo như nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên hiện nay sau khi ra
trường không nắm vững được lĩnh vực chuyên môn của mình, 72% sinh viên thiếu
kỹ năng thực hành và kinh nghiêm\j thực tế, 42% sinh viên thiếu kĩ năng làm việc
nhóm và chỉ có hơn 15% số sinh viên ra trường đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, theo thống kê của bộ gd-dt có khoảng 60000 du hoc sinh
đang theo hoc tai các cơ sở đào tạo nước ngaoif, trong số các du học sinh đã tốt
nghiệp thì 64% quyết định làm việc tại các nước sở tại vì họ cho rằng chế dộ
lương/thưởng ở vn chưa được xứng đáng với công sức tiền bạc mà họ đàu tư cho
việc học ở nước ngoài.
Nguồn lực từ nông dân:
Kết quả tổng điều tra dân số lần thứ 5 tại |VN cho thấy tính đến 0 giờ ngày
1/4/2019 tổng dân số VN đạt 96208984 người trong đó nông dân chiếm khoảng
65.6%. Số liệu trên đã phản ánh một thực thế là nông dân nước ta chiêms tỷ lệ cao
về mặt lực lượng lao động xã hội. Tuy nhiên,, chất lượng nguồn nhân lực nông
thôn còn chưa cao: số lượng lao dộng giỏi trong các ngành nghề còn chất lượng
thấp. Lao động nông thôn được đào tạo nghề nghiệp chủ yếu là trình độ sơ cấp, đào
tạo dưới 3 tháng và ở trình độ trung cấp, cao đẳng còn thấp. Tình trạng trên dẫn
đến một số bộ phận nông dân không có viêc làm ở các khu công nghiệp công
trường. Tình trạng sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn còn trong tình trạng sản
xuất thô,nhỏ và còn theo kiểu truyền thống chưa áp dụng được khoa học kỹ thuật
như các nước phát triển.
Nguồn lực từ công nhân:
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê năm 2020 tổng số công nhân VN chiếm
khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội. Sau quá trình đổi mới, mở
cửa và hội nhập quốc tế, xu hướng công nhân làm việc cho các doanh ngjieepj nhà
nước thường giảm dần trong khi đó số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. điều
đó dẫn đến sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân
ngày càng sâu sắc. So với thời kỳ đổi mới thành phần xuất thân của công nhân
ngày càng đa dạng hơn, không thuần nhất như trước đây. Với đặc điểm là nước
thuần nông thì xuất thân của giai cấp công nhân phần lớn là nông dân với trình độ
chuyên m\ôn nghề nghiệp còn hạn chế và chịu nhiều tác phong, lối làm việc của
người nông dân, chưa thích nghi với tác phong của người lao động hiện đại. Một
số bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế trong giác ngộ bản lĩnh chính trị và hiểu
biết về pháp luật chính sách, gây khó khan nhất định cho việc phát triển đảng viên
là công nhân.
Nguồn lực từ tri thức, công chức, viên chức:
Đội ngũ trí thức ở vn trong những năm\ gần đây tăng rất nhanh tuy nhiên chất
lượng nguồn nhân lực còn yếu. Hiện nay, còn khoảng 80% số công chức, viên
chức là việc trong các cơ quan nhà nước còn thiếu trình độ, năng lực quản lý kinh
tế xã hooin còn nhiều bất cập thiếu hụt kiến thức về quản trị nhà nước, về kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế, trình độ ngaoij ngữ và tin học còn thấp so với yêu
cầu. Bên cạnh đó, có khoảng 63% tổng số sinh viên ra khỏi trường ko có việc làm,
60% sinh viên làm trái ngành trái nghề, không ít các doanh nghiệp đơn vị nhận
người vào làm mất 1-2 đào tạo lại ….
Nói tóm lại, thực trạng nguồn nhân lực ở vn khá dồi dào nhưng chưa thực sự được
quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, đào tạo còn nửa
vời. Điều đó dẫn dến chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, thiếu kỹ năng, thiếu
kinh nghiệm. Sự kết hợp giữa nguồn nhân lực công nhân, trí thức chưa tốt thiếu
động lực để cùng nhau thực hiện mục tiêu chung.
Ba là, quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn
nhân lực chưa theo kịp quá trình hội nhập kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng sâu
rộng của Việt nam.
Bốn là, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của
phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm
chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.