Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 33

-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------

NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG

HỆ THỐNG – THIẾT BỊ BÁO CHÁY

TPHCM 01/2011
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
I. THIẾT BỊ KHỞI TẠO (đầu vào)
1. Đầu báo khói:
Đầu báo khói hay còn gọi là đầu dò khói là thiết bị dùng để phát hiện khói – một
thành phần điển hình của cháy. Đa số các đầu báo khói sẽ phát tín hiệu về trung tâm
báo cháy. Một số đầu báo khói dùng cho gia đình thì có thể phát ra âm thanh báo động
tại chỗ khi có cháy.
Đầu báo khói thường đặt trong một vỏ nhựa hình đĩa có đường kính khoảng
100mm (4in) hoặc 150mm (6 in), nhưng hình dạng có thể thay đổi tuỳ theo nhà sản
xuất hoặc dòng sản phẩm.
Đầu báo khói được đấu nối với trung tâm báo cháy bằng dây 2 lõi hoặc 4 lõi, và
từ đó có khái niệm đầu báo 2 dây và đầu báo 4 dây.
 Đầu báo 2 dây là đầu báo được cấp nguồn và truyền tín hiệu trên cùng 01 đôi
dây (2 dây). Thường sử dụng nguồn DC24V.
 Đầu báo 4 dây là đầu báo được cấp nguồn riêng với đường tín hiệu. Hai dây cấp
nguồn (12VDC hoặc 24VDC) và hai dây tín hiệu loại thường hở (N/O) hoặc
thường đóng (NC).
Hệ thống báo cháy chuyên dụng chủ yếu dùng lọai đầu báo 2 dây với điện áp 24VDC.
 Độ nhạy của đầu báo khói.
Độ mờ mịt (Obscuration – Obsc.) (hay là độ đục) là đơn vị đo lường tiêu chuẩn
dùng để xác định độ nhạy của đầu báo khói. Độ mờ mịt là hiệu ứng mà khói làm giảm
tầm nhìn của của đầu dò. Độ mờ mịt càng lớn thì nồng độ khói càng nhiều.

Theo tiêu chuẩn thì độ nhạy của các loại đầu báo khói như sau:

ĐỘ NHẠY TIÊU CHUẨN CỦA ĐẦU BÁO KHÓI

Loại đầu báo Mức độ mờ mịt (Obscuration Level)

Ionization – ion hoá 2.6–5.0% obs/m 0.8–1.5% obs/ft

Photoelectric – quang điện 6.5–13.0% obs/m 2–4% obs/ft

Aspirating – độ nhạy cao 0.005–20.5% obs/m 0.0015–6.25% obs/ft


-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
 Đầu báo khói ion hoá (Ionization detector):
Đầu báo khói ion hoá (còn gọi là báo khói ion) sử dụng một chất đồng vị phóng
xạ như Americium 241 (nguồn phát hạt alpha – α) để tạo ra sự ion hoá trong không khí.
Đầu báo khói ion có độ nhạy cao trong giai đoạn cháy rực (khói không nhìn thấy)
hơn so với đầu báo khói quang, trong khi đầu báo khói quang lại phát hiện tốt những
đám cháy trong giai đoạn đầu âm ỉ.
Buồng thu khói (smoke chamber) hay còn gọi là buồng ion hoá (ionization
chamber) có cấu tạo đặc biệt để bụi và côn trùng khó lọt vào được, nhưng khói có thể
dễ dàng đi vào. Trong buồng thu khói có một lượng nhỏ chất phóng xạ Americium 241
và 2 điện cực (hình 1.1). Chất phóng xạ sản sinh ra các ion mang điện trong không khí.
Một điện thế được đặt giữa 2 điện cực làm cho các ion dịch chuyển về các điện cực
khác dấu tạo thành một dòng điện trong mạch của đầu báo.

Nếu có một số phần tử của khói chui vào buồng ion hoá, các ion sẽ kết hợp với
các phần tử khói làm giảm dòng điện giữa 2 điện cực. Một mạnh phát hiện sự suy giảm
dòng đi ện và phát tín hiệu báo động. Ở trạng thái báo động, đèn LED trên đầu báo sẽ
sáng đồng thời tín hiệu sẽ được chuyển về trung tâm báo cháy.
Đầu báo ion có giá thành sản xuất rẻ hơn so với đầu báo khói quang, nhưng dễ
gây ra hiện tượng báo giả, nó chỉ thích hợp với đám cháy có các hạt khói quá nhỏ bé
(khói không nhìn thấy được).
 Đầu báo khói quang điện (Photoelectric Smoke Detector):
Đầu báo khói quang điện hay còn gọi là đầu báo khói quang bao gồm một nguồn
sáng nhỏ (LED phát hồng ngoại), một thấu kính hội tụ ánh sáng thành chùm tia và một
cảm biến quang điện (photoelectric hoặc photodiode) đặt lệch góc với chùm tia hồng
ngoại. Tất cả các thành phần trên đây được đặt trong một buồng quang học (optical
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
chamber) hay còn gọi là buồng khói. Hình 1.2 mô tả cấu tạo căn bản của đầu báo khói
quang.

Buồng quang học (1) có cấu tạo đặc biệt để ánh sáng bên ngòai không thể lọt
vào được, nhưng khói có thể dễ dàng đi vào. Bên ngoài của buồng quang học có một
lớp lưới để ngăn bụi và côn trùng chui vào bên trong. Trong trường hợp bình thường
(không có khói), chùm tia sáng được tạo ra từ đèn phát hồng ngoại (5) đi theo đường
thẳng không đến được đầu cảm biến quang (4). Khi có khói vào bên trong buồng quang
học ngang qua đường đi của chùm tia hồng ngoại, một số tia sáng bị khuyếch tán bởi
các hạt khói đi đến đầu cảm biến quang (4) và kích hoạt báo động. Khi đó, mạch điện
sẽ chuyển tín hiệu hồng ngọai (quang) thành tín hiệu điện (báo động). Ở trạng thái báo
động, đèn LED trên đầu báo sẽ sáng đồng thời tín hiệu sẽ được truyền về tủ báo cháy.
Đầu báo khói quang phát hiện tốt đám cháy âm ỉ. Đầu báo khói quang phản ứng
chậm hơn đầu báo ion với đám cháy bùng phát nhanh, nhưng thử nghiệm và nghiên cứu
cho thấy đầu báo khói quang đáp ứng được tất cả các loại cháy và có tuổi thọ cao hơn.
Ngày nay, một số đầu báo khói quang hiện đại có độ nhạy rất cao, bao trùm
phạm vi của đầu báo khói ion và có thể thay thế hoàn toàn cho đầu báo ion. Ví dụ đầu
báo khói của Hochiki có độ nhạy từ 0.5-3.8%/ft, trong khi độ nhạy tiêu chuẩn của đầu
báo ion là 0.8–1.5% obs/ft và của đầu báo quang là 2–4% obs/ft.
So sánh giữa đầu báo khói quang và báo ion :
 Đầu báo quang điện đáp ứng nhanh hơn (thường là 30 phút hoặc hơn) trong
giai đoạn âm ỉ trước khi thành ngọn lửa. Khói trong giai đoạn âm ỉ thường
tạo ra các hạt đốt lớn giữa 0.3 và 10 micron.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
 Đầu báo ion hoá đáp ứng nhanh hơn (thường là 30-60 giây) trong giai đoạn
lửa bùng cháy (rực lửa). Khói trong giai đoạn rực lửa thường tạo ra các hạt
đốt nhỏ – giữa 0.01 và 0.3 micron.
 Ngoài ra đầu báo ion hoá hoạt động yếu trong môi trường có luồng gió
mạnh, và vì đi ều này đầu báo quang điện là tin cậy hơn để phát hiện khói
trong cả 2 trường hợp cháy âm ỉ và cháy rực lửa. Tháng 6/2006,
Australasian Fire & Emergency Service Authorities Council, cơ quan đại
diện cao nhất cho các tổ chức cứu hoả Australia và New Zealand tuyên bố:
“báo khói ion hóa không thể hoạt động trong thời gian để cảnh báo đủ sớm
cho người cư ngụ thoát khỏi đám cháy âm ỉ”.
 Đầu ion phát hiện tốt đám cháy không có khói (khói không nhìn thấy được).
 Sự hiện diện của chất phóng xạ Americium-241 trong đầu báo ion hoá, có
nghĩa rằng tất cả các đầu báo khi hết thời gian hoạt hoạt động phải được xử
lý để tránh tạo thành mối nguy hại đối với môi trường. Một số nước đã cấm
sử dụng đầu báo khói ion.
 Đầu báo khói quang dễ dàng trong việc sửa chữa bảo trì, đ ầu báo ion có
chất phóng xạ nên không thể mở buồng ion để vệ sinh, sửa chữa được.
 Đầu ion sẽ báo gỉa nếu được lắp đặt tại nơi có luồng khí mạnh thổi qua.
 Đầu báo khói quang có tuổi thọ cao hơn đầu báo khói ion.

 Đầu báo khói quang dạng tia (Projected Beam Detector) :

Các đầu báo như mô tả ở phần trên gọi là đầu báo khói điểm (spot detector). Với
khu vực bảo vệ có diện tích lớn, trần cao nơi mà đầu báo khói điểm khó lắp đặt và bảo
trì, ví dụ như phòng ập thể dục, giảng đường sẽ dùng đầu báo khói quang dạng tia (đầu
báo beam). Có 2 loại đầu báo khói tia: loại Thu – phát và loại Phản xạ.
 Đầu báo khói tia loại thu– phát: gồm một đầu phát (T) và một đầu thu (R) hồng
ngoại riêng biệt lắp đối diện với nhau trong khu vực cần bảo vệ.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
 Đầu báo khói tia loại phản xạ: gồm một đầu báo kết hợp bộ phận phát và bộ phận
thu trong cùng một vỏ và tấm phản xạ lắp đối diện với đầu báo trong khu vực
cần bảo vệ. Chiều dài bảo vệ của đầu beam là khoảng cách giữa đầu thu và đầu
phát, hoặc giữa đầu báo và tấm phản xạ.

Đầu báo beam hoạt động dựa trên nguyên tắc làm mờ ánh sáng (light
obscuration). Ở điều kiện môi trường sạch, không có khói, chùm tia hồng ngoại từ
đầu phát (Transmiter) sẽ đến bộ phận cảm nhận ánh sáng đặt tại đầu thu
(Reveiver) với một cường độ 100%. Điều đó được hiểu là độ làm mờ 0%, nói một các
khác toàn bộ tia hồng ngoại đến được đầu thu.
Đầu báo beam được điều chỉnh độ nhạy theo mức được thiết lập sẵn, tính theo
tỷ lệ phần trăm của độ che mờ hoàn toàn chùm tia chứ KHÔNG phải theo tỷ lệ hiện
diện (nồng độ) của khói. Mức độ nhạy này, được xác định bởi nhà sản xuất, phụ thuộc
vào chiều dài bảo vệ của đầu báo. Ví dụ: Khi đặt đầu báo có độ nhạy 25%, có nghĩa là
khi 25% tín hiệu của tia bị làm mờ bởi khói, đầu báo sẽ chuyển sang tình trạng báo
động.
Khi có cháy, khói từ đám cháy bay lên đi vào khu vực bảo vệ, cắt ngang đường
hồng ngoại của đầu báo sẽ làm suy giảm tín hiệu hồng ngọai tới đầu thu. Khi độ làm
mờ đạt tới ngưỡng báo động được đặt trước, đầu báo sẽ phát một tín hiệu báo động
cháy.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Nếu đầu thu hoàn toàn không nhận được tia hồng ngọai (đầu phát bị hư, hoặc
đứt dây, hoặc tia hồng ngọai bị che khuất 100%,…) đầu báo sẽ phát tín hiệu báo lỗi
(trouble) để tránh báo giả.
Sự thay đổi chậm của độ che mờ xảy ra, do bẩn hoặc bụi trên thấu kính của đầu
báo, sẽ được bù trừ bởi một mạch vi điều khiển với chức năng giám sát liên tục cường
độ tín hiệu và định kỳ hiệu chỉnh ngưỡng báo động và báo lỗi. Khi mạch tự bù trừ của
đầu báo đạt đến ngưỡng giới hạn của nó, đầu báo sẽ phát tín hiệu báo lỗi, dấu hiệu yêu
cầu dịch vụ bảo trì.
Khoảng cách bảo vệ của đầu beam từ vài mét đến 100 mét (hoặc nhiều hơn, tuỳ
thuộc vào nhà sản xuất), do vậy đầu báo dạng beam rất phù hợp để bảo vệ ở những nơi
có diện tích lớn, tầm nhìn không bị che khuất.
Theo NFPA72, đầu báo beam có thể bảo vệ một diện tích có chiều dài tối đa 100
m (330 ft) và khoảng cách theo chiều ngang (với tia hồng ngoại ở giữa) tối đa 18 m (60
ft), tương đương 1,800 m2 (19,800 sqft), trong khi đầu khói điểm có diện tích bảo vệ
tối đa 83m2 (900 sqft).
Theo BS5839 part 1: Đầu khói điểm có đường kính bảo vệ tối đa 7.5 m, khoảng
cách tối đa giữa 2 đầu báo là 10.5 m tương đương diện tích 110.25m2. Đầu báo beam
cho phép bảo vệ một diện tích có chiều dài tối đa 100 m và chiều ngang (với tia hồng
ngoại ở giữa) tối đa 15m, tương đương diện tích bảo vệ 1,500 m2.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
 Đầu báo khói lắp trên đường ống – Duct smoke detector :
Đầu báo Duct cung cấp khả năng phát hiện sớm khói và sản phẩm cháy có trong
không khí di chuyển theo đường ống của hệ thống HVAC (HVAC là chữ viết tắt tiếng
Anh của: H = Heating – Hệ thống sưởi ấm; V = Ventilation – Hệ thống thông gió; AC
= Air Conditioning – Hệ thống điều hòa không khí).

Có 2 ống nhỏ được lắp nhô vào bên trong đường ống của hệ thống HVAC, một
ống có các lỗ khoan theo chiều dọc lắp ngược hướng dòng khí chuyển động để thu
không khí đưa vào đầu báo Duct được gọi là ống lấy mẫu (Sampling Tube), một ống
còn lại đưa không khí ra khỏi đầu báo (Exhaust Tube).
Một đầu báo khói lắp bên trong đầu duct có nhiệm vụ phát hiện khói và phát tín
hiệu báo động về trung tâm báo cháy hoặc thông qua các relay điều khiển các lá chắn
(Damper) của hệ thống HVAC hoặc các thiết bị khác.
 Đầu báo khói độ nhạy cao – Aspirating Smoke Detector hoặc Air
Sampling Detechtor (ASD)
Đầu báo khói độ nhạy cao – ASD hay còn gọi là VESDA dùng cho các khu vực
quan trọng đòi hỏi báo cháy có độ nhạy rất cao, nơi mà nguồn lửa rất khó phát hiện,
yêu cầu chỉ một lượng khói rất mỏng phải được phát hiện ngay.
Một hệ thống ASD bao gồm một thiết bị dò khói trung tâm có khả năng thu hút
không khí bằng máy hút khí và một mạng ống nhỏ lắp trong khu vực cần bảo vệ. Các
lỗ mẫu (Sampling Point) được khoan vào mỗi ống trong theo khoảng cách phù hợp.
Không khí sau đó liên tục bị hút vào hệ thống đường ống thông qua các lỗ, hướng tới
thiết bị dò trung tâm để phân tích và kiểm tra.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Khác với các đầu báo khói thông thường là loại thụ động, hệ thống ASD phân
tích không khí trong thời gian thực và thuộc loại chủ động. Thiết kế của ASD cho phép
thu thập mẫu không khí / khói thông qua hệ thống đường ống và dẫn về bộ cảm biến
trung tâm.
Độ nhạy cao cùng với chủ động thu thập mẫu khói cho phép phát hiện cháy ở
giai đoạn rất sớm. Điều này cực kỳ quan trọng trong những trường hợp môi trường có
ngóc ngách làm loãng khói và che khuất xung quanh.

ASD phù hợp cho các môi trường yêu cầu phát hiện khói có độ nhạy rất cao và
nhanh chóng. Điều này làm cho ASD rất phù hợp khi lắp trong phòng sạch sẽ, khu vực
chứa hàng hoá quan trọng, dễ hư hỏng do cháy, phòngđi ện tử và chất lỏng rất dễ cháy
và các loại khí. Thông thường, đầu báo khói điểm bình thường sẽ phát hiện sự nguy
hiểm quá muộn, vì khói thường không đạt đến trần nhà nhanh chóng, đủ cho đầu báo
khói phát hiện ra đám cháy kịp thời.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------

Hệ thống mạng lưới đường ống có thể lắp ẩn nên phù hợp trong môi trường yêu
cầu thẩm mỹ như văn phòng, căn hộ và phòng khách sạn. Yếu tố này cũng làm cho nó
thích hợp tại các địa điểm nơi mà đầu báo điểm có thể bị phá hoặc bị tháo mất.
Độ nhạy cao không có nghĩa rằng ASD không thể được sử dụng trong môi trường
bụi hoặc bẩn miễn là quá trình thiết kế, lắp đặt và bảo trì phù hợp. Hầu hết các sản phẩm
ASD có thể thích nghi cho một phạm vi rộng của môi trường và ứng dụng – từ cả không
gian hạn chế và không gian mở tới môi trường sạch hay bẩn nhất, bao gồm cả telecom,
phòng kiểm soát, xử lý chất thải, khai thác mỏ và nhiều hơn nữa.

2. Đầu báo nhiệt:

Đầu báo nhiệt là thiết bị báo cháy được thiết kế để phản ứng khi dòng nhiệt đối
lưu của hoả hoạn làm tăng nhiệt độ của bộ phận cảm ứng nhiệt.
Tất cả các đầu báo nhiệt đều có bộ phận thu nhiệt. Bộ phận cảm biến nhiệt có thể
là loại giãn nở cơ khí hoặc đầu dò cảm biến nhiệt thermistor.
Đầu báo nhiệt có 2 loại chính được phân loại theo hoạt động là “gia tăng” (Rate-
of-Rise) và “nhiệt độ cố định” (Fixed temperature).
 Đầu báo nhiệt Gia tăng (Rate-of-Rise)
Đầu báo nhiệt gia tăng (R-O-R) hoạt động khi nhiệt độ môi trường tăng lên nhanh
chóng theo thời gian, lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ đã được thiết lập trước bởi nhà sản xuất.
Theo tiêu chuẩn, tỷ lệ này là khoảng 15°F (8° C) mỗi phút. Hoạt động của đầu báo nhiệt
gia tăng phụ thuộc vào tốc độ tăng nhiệt độ, không phụ thuộc vào nhiệt độ của môi
trường.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Hình 2.1 mô tả đầu báo nhiệt gia tăng điển hình sử dụng kỹ thuật điện-khí nén
(Electropneumatic). Kiểu này đã được cấp bằng sáng chế lần đầu tiên năm 1941 và là
sản phẩm được cải tiến liên tục cho đến ngày nay.
Đầu báo nhiệt gia tăng bao gồm:
o Một buồng khí kín (A) có mặt phía dưới là vỏ đầu báo làm bằng hợp kim
cứng dẫn nhiệt;
o Một lỗ nhỏ (B) để làm cân bằng áp suất khí bên trong buồng với môi
trường; Một màng đàn hồi bằng kim loại (C) nối với một cực tín hiệu của
đầu báo;
o Một bộ công tắc (D) có 2 tiếp điểm thường hở, một tiếp điểm được hàn
vào màn đàn hồi (C), tiếp điểm thứ 2 nối vào cực tín hiệu còn lại của đầu
báo. Bình thư ờng 2 cực tín hiệu của đầu báo cách điện với nhau (thường
hở – NO).
Khi nhiệt độ môi trường thay đổi sẽ làm cho áp suất không khí bên trong buồng
kín thay đổi. Với sự thay đổi chậm của nhiệt độ, một lượng nhỏ không khí sẽ đi vào
hoặc đi ra buồng kín thông qua lỗ (B) để cân bằng áp suất bên trong và bên ngoài buồng
kín, giữ cho 2 cực tín hiệu của đầu báo cách điện với nhau.
Khi nhiệt độ môi trường xung quanh tăng lên rất nhanh với tốc độ lớn hơn hoặc
bằng 8oC/phút làm cho không khí bên trong buồng kín giãn nở rất nhanh vượt quá khả
năng tự cân bằng áp suất của lỗ (B), do mặt dưới của buồng kín là hợp kim cứng nên
không khí trong buồng khi giãn nở sẽ ép màng đàn hồi (C) lên phía trên làm cho công
tắc điện đóng lại phát tín hiệu về trung tâm báo cháy.
 Đầu báo nhiệt Cố định (Fixed Temperature)
Họat động của đầu báo phụ thuôc hòan tòan vào nhiệt độ của môi trường chứ không
phụ thuộc vào tốc độ gia tăng nhiệt độ. Khi nhiệt độ môi trường tại khu vực bảo vệ tăng
lên đạt tới một nhiệt độ nhất định, ứng với ngưỡng được cài đặt cho đầu báo khi sản
xuất, sẽ làm cho tiếp điểm bên trong đầu báo đóng và tạo tín hiệu báo cháy gửi trung
tâm báo cháy.
Tuỳ theo tiêu chuẩn cho mỗi thị trường mà đầu báo nhiệt cố định có các ngưỡng
báo động khác nhau, ví dụ: 60oC, 65oC, 70oC, 90oC… hoặc 57oC (135oF), 87oC
(190oF)…
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Có nhiều loại đầu báo nhiệt cố định khác nhau, dưới đây giới thiệu một số loại
thông dụng :
Đầu báo nhiệt cố định cơ-điện (Electromechanical)
a) Đầu báo nhiệt sử dụng thanh lưỡng kim (Hình 2.2.1a)

Đầu báo nhiệt có một thanh lưỡng kim, với một đầu gắn cố định và đầu kia để
tự do có thể di chuyển phụ thuộc nhiệt độ của nó. Khi nhiệt độ tăng thì thanh lưỡng kim
bị uốn cong làm chạm mạch điện tín hiệu của đầu báo và kích hoạt báo động.Thanh
lưỡng kim sẽ trở về trạng thái ban đầu khi nhiệt độ giảm. Loại đầu báo nhiệt này có thể
sử dụng nhiều lần.
b) Đầu báo nhiệt sử dụng chất nóng chảy eutectic (hình 2.2.1b)

Đầu báo này sử dụng liên kết nóng chảy của hợp kim eutectic. Đây là loại đầu báo nhiệt
được sử dụng rất phổ biến trong giai đoạn những năm 1970 đến 2000.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Hợp kim eutectic là một hỗn hợp của 2 hoặc nhiều kim loại có điểm tan chảy ở nhiệt
độ thấp hơn kim loại riêng lẻ. Nếu nhiệt độ của hợp kim lớn hơn hoặc bằng nhiệt độ tan
chảy nó sẽ chuyển từ trạng thái rắn sang trạng thái lỏng. Trong đầu báo nhiệt có một
lẫy kim loại đàn hồi được giữ chặt bởi hợp kim eutectic, giúp cho 2 cực tín hiệu của
đầu báo tách rời nhau (thường hở). Khi nhiệt độ môi trường tăng đến nhiệt độ nóng
chảy của hợp kim (đây là nhiệt độ báo động của đầu báo, tuỳ vào loại hợp kim khi sản
xuất), hợp kim sẽ tan chảy làm lẫy đàn hồi đang bị nén bung ra và 2 cực tín hiệu của
đầu báo chạm vào nhau tạo một dòng điện kích hoạt báo động.
Đầu báo nhiệt loại này không sử dụng lại được sau khi đã báo động.
c) Báo nhiệt cố định kiểu dây (line-type)
Loại báo nhiệt cố định cơ-điện thứ ba là loại đầu báo dạng dây (hay còn được
biết đến như là Linear Heat Detectors) (hình 2.2.1c)

Cấu tạo của thiết bị này bao gồm 2 dây dẫn điện bằng thép được cách điện riêng
biệt bởi một chất rất nhạy cảm với nhiệt độ. Hai dây này được xoắn với nhau (twisted
pair) để tạo một lực ép giữa 2 dây, sau đó bọc một lớp băng bảo vệ và ngoài cùng là lớp
vỏ phù hợp với môi trường lắp đặt.
Nếu một điểm nào đó của dây tiếp xúc với nhiệt độ lớn hơn nhiệt độ quy định
(đây là nhiệt độ báo động, tuỳ thuộc vào chất cách điện khi sản xuất) lớp cách điện nhạy
cảm với nhiệt độ sẽ bị phá hỏng làm cho 2 dây dẫn chạm vào nhau tại điểm đó. Điều
này tạo nên một tín hiệu báo cháy gửi về trung tâm báo cháy.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Một số nhà sản xuất chế tạo trung tâm điều khiển dùng riêng với Linear Heat
Detector cho phép xác định được vị trí điểm báo động của dây báo nhiệt, tức là xác định
được vị trí cháy.
Đầu báo nhiệt cố định điện tử (Thermistor)
Ngoài loại đầu báo nhiệt kiểu cơ-điện thì hiện nay xuất hiện khá phổ biến loại
đầu báo nhiệt kiểu điện tử (Thermistor). Loại này sử dụng Thermistor để phát hiện sự
thay đổi nhiệt độ của môi trường.
Thermistor thường là điện trở nhiệt. Nó được làm bằng chất bán dẫn đa tinh thể,
có hệ số nhiệt điện trở âm, và khá lớn. Nghĩa là khi nhiệt độ tăng thì điện trở của nó sẽ
giảm khá mạnh.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Nhiệt độ môi trường thay đổi làm cho điện trở của Thermistor thay đổi và
chuyển thành tín hiệu báo động. Sử dụng Thermistor, đầu báo nhiệt có thể được chế tạo
theo kiểu gia tăng hoặc cố định hoặc kết hợp cả hai phù hợp với nhu cầu sử
dụng. Những đầu báo loại này cũng có thể có chức năng giảm khả năng báo giả.

3. Đầu báo lửa (Flame Detector):

Ngọn lửa là một phần biểu hiện thấy được (phát ra ánh sáng) của sự cháy. Nó tạo
ra từ các phản ứng hóa học có sự tỏa nhiệt cao (cháy, phản ứng oxy hóa tự duy trì) diễn
ra trong môi trường hẹp.
Ngọn lửa là một trạng thái tồn tại của vật chất và được xếp như một loại khí plasma
bị ion hóa một phần.Trong nhiều năm đầu báo lửa quang học đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu của hệ thống báo cháy tự động.
Đầu báo lửa quang học có thể “nhìn” thấy ngọn lửa từ khoảng cách xa mà không
cần nhiệt hoặc khói đi đến đầu báo. Chức năng này giúp cho đầu báo lửa rất thích hợp
với khu vực lớn hoặc những khu vực mà phương pháp phát hiện cháy khác không làm
việc được.
Đầu báo lửa là một dạng thiết bị dùng cảm biến quang học để phát hiện lửa. Đầu
báo lửa thường được dùng chủ yếu ở những trạm hydrogen để ngăn ngừa đám cháy xảy
ra. Về bản chất, hiện nay có rất nhiều loại đầu báo lửa khác nhau. Những loại này bao
gồm đầu báo lửa tử ngoại (UV – ultraviolet), hồng ngoại (IR- infrared), kết hợp UV/IR,
IR/IR, IR/IR/IR, cảm biến quan sát, video camera.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Đầu báo lửa tử ngoại (UV)
Do đặc tính bước sóng ngắn nên dải quang phổ tử ngoại được hấp thụ vào bầu
khí quyển bởi không khí, khói, bụi, gas và các chất hữu cơ khác. Bức xạ tử ngoại của
mặt trời khuyếch tán trong khí quyển (đặc biệt là tại bước sóng ngắn hơn 300 nm
(nanometre) – dải quang phổ không nhìn thấy của mặt trời) bị hấp thu bởi khí quyển sẽ
không gây nên báo động giả cho đầu báo UV.
Đầu báo UV hoạt động với ánh sáng có bước sóng ngắn hơn 300nm, có khả năng
dò tìm cháy và nổ với tốc độ cao (từ 3-4 mili giây) nhờ bức xạ tử ngoại có năng lượng
lớn phát từ ngọn lửa hoặc sự nổ ngay khi bốc cháy.

Tuy nhiên khi lắp ở ngoài trời, bức xạ tử ngoại phát ra từ ngọn lửa từ một khoảng
cách xa nhiều mét có thể bị yếu đi bởi những chất ô nhiễm trong không khí như khói,
sương mù, hơi hydrocarbon và những chất hữu cơ tích tụ trên thấu kính hoặc cửa sổ
của đầu báo. Thêm vào nữa đầu báo UV có thể bị báo giả bởi nguồn tử ngoại khác như
ánh sáng mặt trời, bức xạ, hồ quang hàn điện và tia chớp.
Bởi những nguyên nhân nêu trên đầu UV chủ yếu được lắp đặt trong nhà, nơi
không có bức xạ trực tiếp hoặc phản xạ của ánh sáng mặt trời hoặc tia chớp thâm nhập
vào khu vực bảo vệ. Đầu báo phải được che chắn tránh hướng về hơi chất hữu cơ có
thể hấp thu bức xạ, và lắp đặt ở những vị trí không xoay về hướng tia lửa hàn hoặc thiết
bị điện áp cao.
Để giảm bớt khả năng báo giả, đầu báo tử ngoại thường thiết kế kèm chức năng
trễ 2-3 giây.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Đầu báo lửa hồng ngoại (IR)
Bức xạ hồng ngoại (IR) tồn tại ở hầu hết các ngọn lửa. Nhiệt độ của ngọn lửa và
sự hội tụ khí nóng của lửa (các sản phẩm cháy) phát ra một loại quang phổ đặc trưng
có thể dễ dàng phát hiện bởi công nghệ cảm biến hồng ngoại.
Tuy nhiên lửa không phải là nguồn duy nhất phát ra bức xạ hồng ngoại, trong
thực tế bất kỳ bề mặt nóng nào (như bếp lò, đèn sợi đốt, đèn halogen, lò sưởi và bức xạ
mặt trời) cũng có thể phát ra bức xạ hồng ngoại có những bước sóng trùng với bức xạ
hồng ngoại của ngọn lửa.
Vậy làm sao có thể phân biệt phân biệt quang phổ hồng ngoại của lửa với quang
phổ hồng ngoại của những nguồn khác? Các nghiên cứu cho thấy ngọn lửa nhấp nháy
(bập bùng) có bức xạ hồng ngoại bước sóng 4.4 μm (micrometre) và một giải sóng điện
tần số thấp (1-10 Hz) (ứng với tần số bập bùng của lửa). Do vậy hầu hết các đầu báo
lửa hồng ngoại đơn sử dụng cảm biến pyroelectric với một bộ lọc quang học chỉ cho
bước sóng 4.4 μm và dải tần số 1-10 Hz đi qua.
Loại đầu báo này được thiết kế để nhận ra đám cháy khi bức xạ hồng ngoại 4.4
μm, phát ra từ một đám cháy của chảo xăng diện tích 0.1m2 (1ft2) ở khoảng cách 15
m, vượt qua một giá trị định trước.
Đầu báo IR đơn tần chỉ phản hồi với một cường độ bức xạ nhấp nháy nhất định
tại bước sóng 4.4 μm. Vì vậy chúng rất nhạy với bức xạ nhiệt điện từ biến điệu
hoặc nhấp nháy. Trong một số điều kiện nhất định, hiện tượng nhấp nháy gây ra bởi
những thứ như ánh sáng lung linh của nước, đèn xoay, bức xạ nhiệt ngắt quãng… có
thể được hiểu là cháy bởi loại đầu báo IR đơn tần. Những nguồn bức xạ không phải của
lửa sẽ làm cho loại đầu báo này báo giả theo những điều kiện nêu trên đây.
Đầu báo lửa IR đơn được sử dụng chủ yếu trong nhà. Tuy nhiên chúng cũng có
thể sử dụng ngoài trời với một khoảng cách bảo vệ ngắn (tới 20m) và ở những khu vực
mà các khả năng gây ra báo gỉa (như nêu trên) không xuất hiện. Để cải thiện độ tin cậy
của chúng, một mạch kiểm tra (Built-in-test (BIT)) được tích hợp bên trong đầu báo.
Thời gian đáp ứng thông thường của đầu báo lửa hồng ngoại là 3-5 giây.
Để giảm thiểu hoặc loại trừ khả năng báo giả, công nghệ bước sóng kép (dual
wavelength) được áp dụng cho đầu báo lửa quang học. Công nghệ bước sóng kép có 2
nhánh chính là UV/IR và IR/IR.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Đầu báo lửa UV/IR
Đầu báo lửa UV/IR sử dụng kết hợp cả công nghệ tử ngoại và hồng ngoại để dò
tìm cháy. Cảm biến tử ngoại (UV) chính nó là một đầu dò lửa rất nhạy, nhưng nó lại dễ
dàng bị kích hoạt báo động bởi tia lửa hàn, chớp, tia X, bức xạ mặt trời,…
Để ngăn chặn việc báo động bởi những nguồn này một cảm biến kênh hồng
ngoại (IR) được thêm vào làm việc ở dải quang phổ 2.7 μm hoặc 4.1 – 4.6 μm.
Đầu báo UV/IR thu thập thông tin dữ liệu tử ngoại và dữ liệu hồng ngoại. Khi
cả hai công nghệ làm việc cùng nhau thì báo giả sẽ được giảm đến mức tối thiểu và
được coi là khá tin cậy đối với hầu hết các ứng dụng tầm trung

Tuy nhiên ngay cả công nghệ tiên tiến này cũng có những hạn chế của nó, vì
mỗi loại lửa có một tỷ lệ cụ thế của bức xạ tử ngoại và hồng ngoại. Ví dụ, ngoạn lửa
Hydrogen tạo ra nhiều bức xạ tử ngoại với rất ít hồng ngoại, trong khi lửa than tạo ra
rất ít bức xạ tử ngoại nhưng rất nhiều hồng ngoại. Do vậy đầu báo UV/IR phải kết hợp
cả hai tín hiệu và so sánh chúng để nhận ra dấu hiệu cháy từ những kích thích báo động
giả.
Để đảm bảo độ tin cậy của đầu báo, một mạch phân tích so sánh ngưỡng tín hiệu
bức xạ tử ngoại, ngưỡng tín hiệu hồng ngoại, tỷ lệ của chúng cũng như kiểu nhấp nháy.
Chỉ khi tất cả các thông số đáp ứng các thuật toán phù hợp một tín hiệu báo cháy mới
được xác nhận.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở các phần trên, đầu dò UV và IR đều có thể bị báo
giả bởi những nguồn bức xạ không phải lửa. Nếu những nguồn báo giả này tác động cả
hai kênh UV và IR đồng thời, có thể tạo ra tình huống như khi có cháy. Ví dụ, bức xạ
tử ngoại không mong muốn của mặt trời kết hợp với nguồn hồng ngoại không ổn định
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
(như sự di chuyển của các đối tượng phía trước nguồn nóng) là nguy cơ gây ra các đầu
báo UV/IR báo động giả.
Đầu báo lửa IR/IR (IR2)
Để loại bỏ các báo động sai, công nghệ bước sóng kép kết hợp hai dãy quang
phổ hẹp trong vùng quang phổ hồng ngoại gần đã được lựa chọn cho đầu báo lửa kép
IR/IR.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng ngọn lửa hydrocarbon phát ra năng lượng có tính
chất liên tục trong vùng hồng ngoại gần và một đỉnh duy nhất tại khoảng sóng 4.3 – 4.5
μm (gây ra bởi CO2 nóng – sản phẩm của cháy), vì vậy các đặc tính này là "trái tim"
của hầu hết các dò IR kép.
Đầu báo IR/IR dò tìm và phân tích sự khác biệt cường độ của hai dải quang phổ
hồng ngoại. Hai dải quang phổ được lựa chọn phổ biến nhất gồm một dải 4,2 – 4.7 μm
và một dải tham chiếu khác trong phạm vi 3,8 – 4.1 μm dùng để giám sát năng lượng
nền.
Đầu dò loại này cảm nhận bức xạ hồng ngoại tại hai kênh và quá trình phân tích tín hiệu
đầu vào dựa trên các thông số sau đây:
• Phân tích sự nhấp nháy.
• Cường độ bức xạ trên một ngưỡng nhất định.
• Tỷ lệ giữa hai tín hiệu nhận được ở hai cảm biến.
Tuy nhiên, do hầu hết các đầu báo IR kép sử dụng cảm biến 4.3-4.4 μm cho kênh
chính để phát hiện cháy, bức xạ này bị suy giảm trong khí quyển, đặc biệt là khi áp
dụng dò tìm ở khoảng cách xa.
Đầu báo lửa IR/IR/IR (IR3).
Đầu báo lửa IR3 là đầu báo hồng ngoại “3 trong 1”, sử dụng kết hợp 3 cảm biến
hồng ngoại (IR) theo dõi 3 dải bước sóng riêng biệt trong vùng hồng ngoại và so sánh
tỷ lệ giữa chúng với nhau
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Một đầu cảm biến theo dõi ở phạm vi bước sóng 4.4 μm (bức xạ của khí CO2
nóng được tạo ra trong quá trình cháy), các cảm biến khác tham chiếu ở dãy bước sóng
liền kề phía trên và phía dưới, khu vực bức xạ của blackbody (gây ra bởi bếp lò, lò sưởi,
đèn sợi đốt, đèn halogen…) và của bức xạ nền (background).
Trong khi đầu cảm biến ở dải bức xạ của CO2 có nhiệm vụ phát hiện bức xạ của
lửa, thì các đầu cảm biến khác cảm nhận tất cả bức xạ không phải của lửa. Đầu báo IR3
sẽ phân tích cường độ, tỷ lệ, sự tương quan, giá trị ngưỡng và tín hiệu nhấp nháy của
bức xạ thu được từ ba cảm biến này.
Kết quả là đầu báo IR3 có phạm vi bảo vệ lớn và khả năng chống báo giả cao.
Đầu báo IR3 có thể phát hiện lửa của một chảo dầu kích thước 0.1m2 tại khoảng cách
xa đến 65m trong thời gian dưới 6 giây. Đầu báo lửa IR3 có độ nhạy cao, phạm vi phát
hiện lớn, trong khi khả năng giảm thiểu báo động giả được duy trì. So sánh về phạm vi
bảo vệ, đầu báo lửa hồng ngoại tiêu chuẩn có phạm vi bảo vệ 15-20m, trong khi đầu
báo lửa IR3 cho phép mở rộng phạm vi phát hiện lên tới 65m.
Đầu báo lửa IR3 sẽ không báo động giả với bất kỳ bức xạ liên tục, biến điệu hay
dao động của những nguồn khác với lửa (bao gồm bất kỳ nguồn khác như bức xạ của
blackbody hay graybody)
Nếu so sánh với đầu báo lửa UV/IR hoặc IR/IR thì đầu báo lửa IR3 mặc dù có
chi phí cao hơn một chút, nhưng rất hiệu quả vì IR3 cung cấp một phạm vi bảo vệ mở
rộng do vậy cho phép sử dụng ít đầu báo hơn.
Kỹ thuật này đã được mở rộng để phát hiện ngọn lửa không nhìn thấy từ đám
cháy của Hydrogen. Ở đây đầu dò phát hiện ra sự giải phóng H2O điển hình của đám
cháy H2, trong khi 2 đầu dò nền đảm bảo không cò sự báo giả.
Một số đầu báo lửa Quad-IR sử dụng 2 đầu dò phát hiện và 2 đầu dò bức xạ nền
để phát hiện hydrocarbons và hydrogen.
Đầu báo khí Gas (Gas Detector)
Đầu báo gas là thiết bị dùng để phát hiện ra sự hiện diện của các loại khí khác
nhau trong khu vực bảo vệ, nó là một phần của hệ thống an toàn. Đầu báo gas được
dùng để phát hiện ra sự rò rỉ của khí và kết nối với hệ thống điều khiển để thực hiện
quá trình tự động ngắt nguồn cung cấp khí hoặc phát tín hiệu báo động.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Đầu báo gas cũng có thể tích hợp còi báo động tại chỗ để thực hiện sơ tán an
toàn, điều này rất quan trọng vì với một lượng khí lớn có thể gây ra cháy nổ hoặc làm
tổn hại đến sức khoẻ của người và động vật.
Đầu báo gas có thể phát hiện ra các loại khí nhiên liệu cháy, khí dễ cháy và khí
độc.
Đầu báo gas đo sự tập trung của khí, nếu như nồng độ khí vượt quá ngưỡng định
trước thì báo động hoặc tín hiệu báo động sẽ được kích hoạt. Đầu báo gas có thể là loại
cầm tay hoặc gắn cố định.
Trước đây, đầu báo được sản xuất để chỉ có thể phát hiện một loại khí, nhưng
những đầu báo gas hiện đại cho phép phát hiện nhiều loại khí độc, khí đốt, hoặc thậm
chí kết hợp cả hai.

4. Hộp báo cháy bằng tay (Manual Call Point):

Hộp báo cháy bằng tay dùng để báo động trong những trường hợp khẩn cấp,
được lắp tại những vị trí dễ quan sát, nơi có nhiều qua lại như hành lang, cầu thang, lối
thóat nạn…
Hộp báo cháy bằng tay thực chất là một công tắc điện dạng thường hở (NO), khi bị tác
động công tắc này sẽ đóng mạch kích hoạt tín hiệu gửi về trung tâm báo cháy.
Hộp báo cháy bằng tay thường được thiết kế để hạn chế những tác động không
mong muốn. Hộp báo cháy bằng tay có nhiều dạng như nhấn, đập vỡ tấm kính, hoặc
kéo chốt…

5. Thiết bị cảnh báo.

Là những thiết bị phát ra âm thanh, ánh sáng dùng để cảnh báo cho người cư ngụ
trong khu vực biết để xử lý hoặc sơ tán khi có cháy xảy ra.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Thiết bị này có thể nghe được và nhìn thấy được, với một âm thanh riêng biệt
hoặc hệ thống loa để hướng dẫn trực tiếp hay phát ra hướng dẫn được ghi âm sẵn nội
dung.
Thiết bị báo động bằng âm thanh,thường là chuông hoặc còi, phát ra âm thanh
riêng biệt. Thiết bị báo động bằng ánh sáng thường là đèn chớp tắt, plash. Hai loại thiết
bị này thường lắp đặt tại tất cả những nơi công cộng và khu vực sử dụng chung.
Chuông báo cháy
Hoạt động bằng nguồn điện một chiều 12 hoặc 24V lấy trực tiếp từ trung tâm
báo cháy.
Chuông có thể là loại động cơ điện hoặc điện từ, loại động cơ điện tiêu thụ dòng
điện rất nhỏ (cỡ vài chục mA) nên được sử dụng rộng rãi.
Chuông có nhiều kích thước khác nhau 4” (100mm), 6” (150mm), 8” (200mm),
10” (250mm). Tuỳ theo kích thước và cấu tạo mà cường độ âm thanh của chuông phát
ra sẽ khác nhau, đơn vị đặc trưng cho cường độ của âm thanh tính bằng dB/m hoặc
dB/ft (decibel đo tại khoảng cách 1 m hoặc 1ft phía trước).
Còi báo động
Còi báo động thường phát ra âm thanh rất lớn với tần số cao. Do âm thanh của
còi thường rất lớn (>100db /m) nên có thể sử dụng số lượng ít mà vẫn đảm bảo cảnh
báo cho một khu vực rộng lớn.
Giống như chuông, trong hệ thống báo cháy còi báo động sử dụng nguồn điện
12VDC hoặc 24VDC có thể lấy trực tiếp từ tủ báo cháy. Tuy nhiên do dòng điện tiêu
thụ của còi thường lớn (cỡ vài trăm mA) nên khi sử dụng nhiều còi thì cần cấp điện cho
còi bằng một nguồn riêng.
Đèn báo động
Đèn báo động có thể sử dụng bóng đèn LED chớp tắt hoặc đèn Flash với cường
cộ sáng mạnh. Đèn báo động có thể lắp riêng rẽ hoặc tích hợp chung cùng một vỏ với
còi báo động. Đèn báo động sử dụng nguồn 12/24VDC lấy từ tủ hoặc từ nguồn riêng.

6. Hệ thống thông báo khẩn cấp

Hệ thống thông báo khẩn cấp được sử dụng như là một phần của một hệ thống
báo cháy.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Hệ thống loa có độ tin cậy cao được sử dụng để thông báo cho những người cư
ngụ những hành động cần thiết khi có cháy hoặc trong tình huống khẩn cấp khác.
Hệ thống loa này được sử dụng trong các cơ sở lớn, nơi có nhiều người cư ngụ,
dễ xảy ra hỗn loạn khi sơ tán khẩn cấp.
Hệ thống thông báo khẩn cấp sẽ tự động khởi động bằng hệ thống báo cháy khi
có cháy, và sau một giai điệu trước cảnh báo, các cụm loa được lựa chọn sẽ phát ra một
hoặc nhiều tin nhắn được ghi âm chỉ đạo những người cư ngụ sơ tán an toàn. Những
thông điệp này có thể được lặp đi lặp lại trong một hoặc nhiều ngôn ngữ.
Hướng dẫn cũng có thể thực hiện trực tiếp bởi người có trách nhiệm thông qua
Micro của hệ thống.

7. Bộ hiển thị phụ, bộ lặp lại:

Bộ hiển thị phụ (Annunciator) và bộ lặp lại (Mimic) là thiết bị kết nối trực tiếp
với trung tâm báo cháy, chủ yếu để hiển thị chi tiết thông tin của các khu vực khi có
cháy hoặc sự cố.
Một số bộ hiển thị phụ cho phép điều khiển hệ thống giống như thao tác trực tiếp
trên trung tâm báo cháy.
Bộ hiển thị phụ và bộ lặp lại thường lắp đặt ở khu vực bảo vệ, lễ tân hoặc các
khu vực riêng biệt, với mục đích hiển thị chi tiết thông tin khu vực có cháy nhanh nhất
cho người có trách nhiệm biết để xử lý thay vì phải tới trung tâm báo cháy để lấy thông
tin.

8. Các thiết bị khác

Khi có cháy, thông qua các relay trung tâm báo cháy có thể điều khiển các hệ thống
liên quan của toà nhà như hệ thống chữa cháy, hệ thống thang máy, cửa ngăn cháy,
thoát nạn…

9. Trung tâm báo cháy:

 Trung tâm báo cháy thường (Conventional Fire Alarm Control Panel)
Trung tâm báo cháy loại thường sử dụng 1 hoặc nhiều mạch điện kết nối với các
thiết bị khởi tạo (đầu báo, nút nhấn) theo kiểu nối dây song song, mỗi mạch điện này
được gọi là mạch tín hiệu.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Mạch tín hiệu được nối với hỗn hợp thiết bị khởi tạo trong cùng một khu vực
bảo vệ. Tình trạng bình thường, không bình thường hay báo động của khu vực được
hiển thị nhìn thấy trên mặt hiển thị (annunciator) của trung tâm báo cháy. Mặt hiển thị
có thể là LED hoặc LCD.
Trên mặt hiển thị thường ghi tên khu vực (zone) bảo vệ. Chính vì lý do này mà
chúng ta quen gọi một cách thiếu chính xác rằng mạch tín hiệu của trung tâm báo cháy
là zone.
Để kiểm soát đường tín hiệu, một thiết bị (thường là điện trở) được lắp ở cuối
đường dây tín hiệu, song song với thiết bị xa nhất trên đường tín hiệu, thiết bị này
thường gọi là thiết bị cuối đường dây hay là điện trở cuối đường dây. Kiểu nối dây này
gọi là kiểu Class B.

Bình thường trên mạch tín hiệu sẽ có một dòng điện đi qua thiết bị cuối đường
dây trở về trung tâm báo cháy. Nếu đường dây bị đứt, dòng điện sẽ bị suy giảm và trung
tâm sẽ phát tín hiệu báo sự cố của mạch đó.
Để chức năng giám sát có hiệu quả yêu cầu các thiết bị trên đường tín hiệu không
được nối dây theo kiểu rẽ nhánh.
Một số trung tâm báo cháy cho phép đấu nối đường tín hiệu theo kiểu mạch vòng
(Class A) mà không dùng điện trở cuối đường dây. Phương pháp này rất hiệu quả trong
việc gíam sát và duy trì hoạt động của hệ thống khi bị đứt dây, tuy nhiên thường thì khi
chọn đấu dây kiểu Class A dung lượng zone của tủ bị giảm đi một nửa.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------

Trung tâm báo cháy có một hoặc nhiều mạch cảnh báo (đầu ra). Các thiết bị báo
động bằng âm thanh hoặc ánh sáng được lắp song song trên mạch cảnh báo. Mạch cảnh
báo có thể được lập trình để báo động theo một hoặc một nhóm mạch tín hiệu (zone)
hoặc báo động chung.
Một số trung tâm cho phép lắp thiết bị cuối đường dây để kiểm soát mạch cảnh
báo theo kiểu Class B hoặc lắp mạch vòng theo kiểu Class A.
Bình thường, có một dòng điện tĩnh cỡ vài mA đi qua mạch tín hiệu và trung
tâm không hiển thị bất cứ sự cố hoặc báo động nào.
Khi các thiết bị khởi đầu (đầu báo, hộp báo khẩn cấp) bị kích hoạt (do khói,
nhiệt, lửa hoặc tác động bằng tay) sẽ làm cho dòng điện tiêu thụ trên mạch tín hiệu tăng
cao vượt qua ngưỡng báo động, trung tâm báo cháy sẽ hiển thị khu vực có báo cháy
trên mặt hiển thị đồng thời kêu còi báo động (buzzer) của tủ và kích hoạt mạch cảnh
báo cũng như thiết bị ngoại vi theo sự thiết lập từ trước.
Do nhiều thiết bị báo cháy có thể được lắp trên cùng một mạch tín hiệu nên khi
có sự cố hoặc báo cháy trung tâm báo cháy chỉ hiển thị tên khu vực mà không cho ta
biết chính xác thiết bị nào bị kích hoạt hoặc nơi nào trên mạch tín hiệu có sự cố.
Trung tâm báo cháy cũng cung cấp một số mạch relay dùng điều khiển thiết bị
ngoại vi hoặc gửi thông tin tình trạng sự cố hoặc cháy.
Trên mặt tủ cũng có các công tắc chức năng dùng để khôi phục (reset), tắt còi
báo động của tủ, tắt mạch cảnh báo, kích hoạt báo động toàn hệ thống…
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
10. Nguồn điện

Nguồn điện chính: Trung tâm báo cháy được cấp một một nguồn điện 120VAC
hoặc 220VAC lấy từ lưới điện thương mại, sử dụng một nhánh dây riêng cho hệ thống
báo cháy và các thành phần của nó.
Nguồn điện dự phòng: Thành phần này, thông thường là acquy khô chứa bên
trong trung tâm báo cháy hoặc nguồn điện khẩn cấp khác bao gồm máy phát điện, được
sử dụng để cung cấp điện cho hệ thống hoạt động khi nguồn điện chính bị mất.
 Trung tâm báo cháy địa chỉ (Addressable Fire Alarm Control Panel)
Mạch tín hiệu (SLC).
Trung tâm báo cháy địa chỉ sử dụng 1 hoặc nhiều mạch tín hiệu SLC (Signaling
Line Circuits), thường được gọi là loop. Tuỳ thuộc vào giao thức (Protocol) được sử
dụng, mạch SLC có thể gíam sát hoặc điều khiển hàng trăm thiết bị.
Một số giao thức cho phép lắp hỗn hợp đầu dò và các module vào/ra trên cùng
một mạch SLC, trong khi một số giao thức lại chỉ cho phép lắp tối đa 50% dung lượng
cho đầu báo/đầu dò và 50% cho module vào/ra.
Trung tâm báo cháy giám sát các thiết bị trên mạch SLC theo kiểu thăm dò (poll),
mỗi lần thăm dò một vài hoặc nhiều thiết bị tuỳ nhà sản xuất. Hệ thống báo cháy lớn có
thể sử dụng nhiều mạch SLC.
Mỗi một thiết bị lắp trên mạch SLC sở hữu một địa chỉ riêng, do đó trung tâm
báo cháy biết được tình trạng của từng thiết bị riêng lẻ kết nối với nó.
Khác với trung tâm báo cháy thường, trung tâm báo cháy địa chỉ cho phép đấu
nối lẫn lộn cả thiết bị khởi đầu (đầu vào) và thiết bị điều khiển (đầu ra) chung trên cùng
một mạch tín hiệu loop SLC.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Những thiết bị khởi đầu (đầu vào) thông thường trên mạch loop SLC gồm có:
• Đầu báo khói, đầu báo nhiệt
• Hộp báo cháy khẩn cấp
• Module giám sát kết nối với đầu báo và nút nhấn thường
• Module ngõ vào (Input Module) dùng để nhận tín hiệu của:
- Các đầu vào của hệ thống sprinkler như công tắc dòng chảy, van báo
động, thiết bị giám sát van, công tắc áp lực…
- Các tín hiệu trạng thái bơm chữa cháy
- Các tín hiệu phản hồi xác nhận một tác động gửi đi từ trung tâm báo
cháy đã được thực hiện. Ví dụ: một tín hiệu kích hoạt gửi từ hệ thống báo
cháy tới hệ thống quạt tạo áp, khi quạt chạy sẽ có một tín hiệu phản hồi
lại xác nhận quạt đã hoạt động.
- Các công tắc điều khiển khác.
- Các tín hiệu đầu vào khác của toà nhà
-…
Những thiết bị điều khiển (đầu ra) thông thường trên mạch SLC gồm có:
• Thiết bị cảnh báo (còi, đèn) địa chỉ
• Module điều khiển và giám sát mạch cảnh báo.
• Module relay dùng để:
- Điều khiển hệ thống thang máy về vị trí an toàn.
- Đóng/mở vách ngăn cháy
- Đóng/mở cửa thoát nạn
- Kích hoạt hệ thống xả khí chữa cháy
- Kích hoạt hệ thống thông báo
- Ngắt hệ thống điện
- Kích hoạt trung tâm báo cháy khác hoặc gửi thông tin.
-…
Ngoài những thiết bị kể trên thì mạch cách ly (isolator) có thể được lắp xen kẽ
với các thiết bị trên mạch SLC dưới dạng Module cách ly hoặc tích hợp trên các đầu
báo/ module để bảo vệ mạch SLC khi bị chập mạch.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Tuỳ theo giao thức, cho phép mạch tín hiệu SLC có thể được đấu nối theo kiểu
Class A hoặc Class B hoặc cả hai.
Giao thức – Protocol
Giao thức truyền thông là ngôn ngữ, là cách thức để các thiết bị và trung tâm báo cháy
giao tiếp với nhau thông qua mạch tín hiệu SLC. Chỉ các thiết bị có cùng giao thức với
trung tâm báo cháy mới có thể kết nối với trung tâm báo cháy. Mỗi nhà sản xuất thường
đưa ra các giao thức riêng cho sản phẩm của mình để giữ độc quyền.
Các thiết bị thông thường (không địa chỉ) không thể lắp trực tiếp vào mạch SLC mà
phải được lắp gián tiếp thông qua các module như đã nêu ở phần trên. Giao thức thức
truyền thông được sử dụng sẽ quyết định nhiều thông số hoạt động của trung tâm báo
cháy như:
• Chiều dài mạch tín hiệu loop SLC
• Loại dây sử dụng cho mạch tín hiệu loop SLC
• Tốc độ truyền thông tin trên mạch loop SLC
• Thời gian đáp ứng của mạch tín hiệu khi có báo động…
Giao thức truyền thông chia làm 2 loại là giao thức không kỹ thuật số và giao
thức kỹ thuật số.
Giao thức không kỹ thuật số (Non-Digital Protocal).
Mỗi đầu báo khi nhận được yêu cầu từ trung tâm báo cháy sẽ trả lời bằng một
tín hiệu dưới dạng các xung sóng vuông. Trung tâm sẽ đọc các sóng vuông này và đo
chiều dài của các cạnh sóng vuông để xác định giá trị (Hình 2.2.1a).
Sự giao thoa với các nguồn nhiễu bên ngoài có thể làm cạnh vuông của sóng trở nên
tròn lại (Hình 2.2.1b), điều này làm cho việc đọc thông tin của trung tâm trở nên khó
khăn, thiếu chính xác.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Như thế khả năng mạch tín hiệu SLC của giao thức không kỹ thuật số bị nhiễu
là khá cao. Do vậy hầu hết các nhà sản xuất sử dụng giao thức không kỹ thuật số sẽ đưa
ra các yêu cầu đặc biệt cho mạch tín hiệu SLC như là sử dụng dây loại xoắn hoặc cáp
có lớp chống nhiễu để chống lại vấn đề này.
Với hệ thống sử dụng giao thức không kỹ thuật số, khi có một thiết bị báo động,
một số tủ điều khiển vẫn tiếp tục quá trình thăm dò theo trình tự cho đến khi nó gặp
thiết bị có báo động, khi đó tín hiệu báo động mới chính thức được phát ra.
Đối với hệ thống lớn với hàng trăm điểm (địa chỉ) thì có thể gây ra sự chậm trễ
báo động của hệ thống.
Giao thức kỹ thuật số (Digital Protocal)
Sử dụng giao thức kỹ thuật số, mỗi đầu báo khi nhận được yêu cầu từ trung tâm
báo cháy sẽ trả lời bằng một tín hiệu dưới dạng các chuỗi bit “1”. Khoảng cách phân
biệt giữa bit “1” và bit “0” là khá lớn, trên 24V. Tủ điều khiển tìm các chuỗi của các bit
“1” bằng cách tìm kiếm các mức điện áp hơn là đo chiều dài của xung. (Hình 2.2.2a).
Ngay cả nếu như nguồn giao thoa làm tròn đầu của xung kỹ thuật số thì điện áp vẫn
hiện diện để tủ điều khiển xác định giá trị kỹ thuật số (Hình 2.2.2b).

Tủ điều khiển sử dụng giao thức kỹ thuật số có khả năng chống nhiễu cao, thường
không yêu cầu sử dụng cáp đặc biệt do sự giao thoa không gây nên vấn đề gì cho tín
hiệu.
Điều này giúp cho giảm chi phí hệ thống dây so với loại giao thức không kỹ
thuật số, đồng thời cho phép thay thế các hệ thống báo cháy thông thường cũ bằng hệ
thống báo cháy địa chỉ kỹ thuật số bằng cách sử dụng cáp tín hiệu hiện có.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Với hầu hết các hệ thống sử dụng giao thức kỹ thuật số, khi một đầu báo phát
hiện ra cháy, đầu báo này phát ra một yêu cầu làm ngắt chu trình thăm dò để xử lý báo
động ngay lập tức.
Hệ thống với hàng trăm điểm sẽ phản hồi các báo động trong khoảng thời gian
rất ngắn giống như đối với hệ thống nhỏ chỉ với rất ít điểm.
 Hệ thống báo cháy địa chỉ Analog
Hệ thống báo cháy địa chỉ Analoge có thể sử dụng giao thức kỹ thuật số. Để
tránh nhầm lẫn chúng ta cần phân biệt giữa hệ thống báo cháy địa chỉ (không analoge)
với hệ thống báo cháy analog như sau:
• Với hệ thống báo cháy địa chỉ (không analoge), khi đầu báo phát hiện cháy
nó sẽ phát tín hiệu cháy về trung tâm điều khiển để báo động. Như vậy trạng
thái/ngưỡng báo động được xác định bởi các đầu báo.
• Còn với hệ thống báo cháy analog các đầu dò gửi giá trị thông tin về trung
tâm báo cháy tương ứng với lượng khói hoặc nhiệt mà các đầu dò cảm nhận
được theo những giá trị bất kỳ liên tục (giá trị analog). Trung tâm điều khiển dựa
trên các thông tin này để xử lý, quyết định báo động hay không.
Như vậy trong hệ thống báo cháy analog, vai trò của đầu dò là phát hiện và
truyền thông tin còn thông tin đó có được chuyển thành trạng thái báo động hay không
thì phụ thuộc vào việc thiết lập thông số trên trung tâm điều khiển. Chính vì vậy các
thiết bị phát hiện cháy ở hệ thống analog được gọi là đầu dò (sensor) chứ không gọi là
đầu báo (detector).
Trung tâm báo cháy địa chỉ analog có một số tính năng nâng cao mà một số hệ thống
địa chỉ không có:
 Bù trôi / Cảnh báo bảo trì
 Độ nhạy của đầu dò có thể điều chỉnh được.
 Điều chỉnh độ nhạy của đầu dò theo Ngày/Đêm.
 …
Bù trôi – Drift Compensation:
Bù trôi là quá trình trong đó trung tâm điều khiển địa chỉ analog tự động điều chỉnh
ngưỡng báo động của đầu dò analog để bù lại sự thay đổi gây ra do các chất gây ô nhiễm
như bụi, bẩn.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Điều này đảm bảo cho đầu báo được duy trì ở mức độ nhạy phù hợp, giúp chống
lại hiện tượng báo giả gây nên khi các đầu báo bị bụi bẩn.
Cảnh báo bảo trì – Maintenance Alert:
Sự bù trôi xảy ra cho đến khi nó đến gần một điểm mà ở đó không thể bù được
nữa và vẫn trong phạm vi yêu cầu của tiêu chuẩn. Điểm này gọi là “Cảnh báo bảo trì
– Maintenance Alert”. Một vài hệ thống xử lý tình trạng “Cảnh báo bảo trì” như là
một sự cố, trong khi các hệ thống khác chỉ đánh dấu tình trạng bằng cờ và tiếp tục hoạt
động bình thường. Một đầu báo ở trong tình trạng “cảnh báo bảo trì” rốt cuộc sẽ rơi vào
“sự cố hiệu chuẩn” nếu không được bảo dưỡng. Một đầu báo ở trong “sự cố hiệu chuẩn”
sẽ hoạt động không chính xác và yêu cầu phải được bảo dưỡng ngay lập tức.
Điều chỉnh độ nhạy của đầu dò – Adjustable Sensitivity:
Để cho phép đầu dò thay đổi hoạt động theo điều kiện môi trường hoặc để phát
hiện cháy nhanh hơn, hệ thống analog thường cho phép thay đổi độ nhạy của đầu dò
trong giới hạn dung sai cho phép của tiêu chuẩn. Điều này thường làm cho hệ thống trở
nên thân thiện với người sử dụng bởi đưa ra được các lựa chọn cài đặt ở các mức cao –
trung bình – thấp.
Điều chỉnh độ nhạy Ngày/Đêm – Adjustable (Day/Night) Sensitivity
Bằng cách thay đổi độ nhạy các đầu dò, chúng ta đang định hướng cho tủ điều
khiển điều chỉnh ngưỡng báo động (giá trị analog) của nó lên hoặc xuống cho phù hợp.
Một số hệ thống cho phép điều chỉnh độ nhạy này diễn ra một cách tự động theo lịch
trình Ngày/Đêm.
Nối mạng – Networking
Các trung tâm báo cháy địa chỉ cho phép kết nối từ một vài cho đến hàng chục
trung tâm với nhau. Đầu vào của trung tâm báo cháy này có thể kích hoạt đầu ra của
trung tâm báo cháy khác trên mạng. Các trung tâm báo cháy có thể hiển thị thông tin
hoặc điều khiển lẫn nhau. Điều này làm tăng khả năng mở rộng và giám sát hệ thống.
Mạng cũng là một cách hiệu quả tránh nguy cơ bị tê liệt toàn hệ thống, nếu như
chỉ sử dụng một trung tâm báo cháy duy nhất, khi có sự cố hoặc yêu cầu bảo trì.
Hệ thống báo cháy cũng có thể nối mạng với hệ thống quản lý toà nhà (BMS)
thông qua giao thức phổ biến là BACnet hoặc MODbus. Một số ít trung tâm báo cháy
cho phép kết nối mạng Ethernet để truyền thông tin và thiết lập từ xa.
-------------------------------------------------- * --------------------------------------------------
Chức năng điều khiển (Cause and Effect)
Trung tâm báo cháy địa chỉ cho phép thiết lập một số lượng lớn các lệnh điều khiển
giữa các đầu vào và đầu ra một các mềm dẻo, linh hoạt. Các nguyên nhân (Cause) được
đưa vào từ các thiết bị khởi đầu lắp trên mạch SLC hoặc từ các mạch đầu vào (input)
của tủ điều khiển. Các tác động (Effect) được đưa ra các thiết bị điều khiển lắp trên
mạch SLC hoặc các mạch đầu ra (output) của tủ điều khiển. Có thể lựa chọn một hoặc
một nhóm thiết bị đầu vào điều khiển một hoặc nhiều thiết bị đầu ra theo những điều
kiện khác nhau. Việc điều khiển không chỉ thực hiện giữa các thiết bị trên cùng một
mạch loop SLC mà một số trung tâm điều khiển cho phép thực hiện điều khiển giữa các
thiết bị của các mạch loop khác nhau của cùng một tủ hoặc khác tủ trong mạng.

-------------------- * ---------------------

You might also like