CNXHKH

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Chủ đề 2: Bạn liên hệ thực tiễn lịch sử để chỉ ra các quốc gia đã quá độ lên Chủ

nghĩa xã hội bằng hình thức trực tiếp và gián tiếp?


Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ quan điểm của các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn
đề thu hút sự quan tâm của các chính đảng, các nhà nghiên cứu thuộc những xu hướng
chính trị khác nhau. Với Việt Nam, khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở nước ta hiện nay.

Thời kỳ quá độ trực tiếp 


Theo C. Mác, quá độ chính trị của CNTB không phải chỉ là sự thể hiện ra ở một, hay một
số cuộc cách mạng chính trị. Đây là cả một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài và khó khăn,
từ CNTB phát triển cao trực tiếp lên CNXH. Đây là một quá trình cách mạng không
ngừng thực hiện không chỉ một điểm quá độ, mà là một giai đoạn quá độ tất yếu. Trong
đó, chính trị (chuyên chính vô sản- CCVS) là điều kiện tiên quyết để thực hiện quá độ
trong mọi lĩnh vực khác của xã hội.
Theo V. I. Lênin, từ xã hội phong kiến lên CNTB, ngay trong giai đoạn quá độ đã hình
thành cả LLSX lẫn những tổ chức kinh tế mới và những hình thức quan hệ TBCN. Đến
giai đoạn quá độ chính trị (cách mạng tư sản), mới sinh thành chế độ chính trị TBCN.
Nhưng ở TKQĐ lên CNXH trước hết sinh thành nhà nước XHCN, nhờ đó mới phát triển
dần LLSX và quan hệ sản xuất (QHSX) XHCN. Cho nên, TKQĐ không dễ dàng, không
chóng vánh. Độ dài của nó có thể được tham chiếu từ các giai đoạn nhiều trăm năm hình
thành các xã hội nô lệ, phong kiến, TBCN. 
Sau khi phân biệt rõ “giai đoạn đầu” và “giai đoạn cao” của CNCS, C. Mác nói đến
TKQĐ ở “giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN”. Tức là nó đã vượt qua giai đoạn cuối của
CNTB, nhưng chưa đi vào “giai đoạn đầu” của CNCS, càng không thể tới ngay “giai
đoạn cao”. Do đó, TKQĐ chỉ có thể là từ CNTB lên “giai đoạn đầu”. V. I. Lênin vào năm
1917 gọi “giai đoạn đầu” là CNXH và xác định, TKQĐ không phải là CNXH hoàn chỉnh.
Chúng có bản chất khác nhau rõ rệt: TKQĐ không thể có đầy đủ thuộc tính của CSCN,
nhưng CNXH đã thể hiện bản chất này nói chung và phản ánh xu hướng đi tới CNCS.
Sự phân biệt rõ ràng TKQĐ với CNXH về mặt lý luận, việc nhận thức theo đúng tư
tưởng của Mác - Ăngghen - Lênin rằng, TKQĐ khác CNXH, không phải là vấn đề hàn
lâm kinh viện đơn thuần, không thiết thực. Trái lại, nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn, vừa
quan trọng, cơ bản, lâu dài, vừa thường xuyên, trực tiếp, cấp bách. Mô hình Xôviết do
đồng nhất TKQĐ với CNXH, hoặc ngộ nhận một xã hội ở TKQĐ là CNXH, hoặc lầm
tưởng TKQĐ ở trình độ thấp (gián tiếp) là TKQĐ ở trình độ cao (trực tiếp), nên đã xác
lập QHSX XHCN một cách hình thức, thiếu cơ sở kinh tế - kỹ thuật tiên tiến cần thiết, tất
yếu, phù hợp tương ứng. Việc vội vã xây dựng QHSX mới vượt quá quy mô, trình độ
thực tế của LLSX còn thấp, khiến cho chính ở những nơi có sự bất cập, hụt hẫng, chênh
lệch ấy, QHSX này không tránh khỏi bị biến dạng, biến chất. Ở Liên Xô trước đây, sở
hữu tập thể, quốc doanh đã dần bị tha hóa thành các hình thái trá hình của tư hữu. Tại
những vùng có điểm xuất phát thấp, có lúc, có nơi còn tái hiện cả kiểu sở hữu nhà nước
chuyên chế cổ - trung đại của phương thức sản xuất (PTSX) châu Á, phương Đông mà C.
Mác từng nói đến.
Thời kỳ quá độ gián tiếp 
Thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Cùng với sự phát triển lịch đại của
một xã hội theo chiều dọc thời gian, tuần tự trải qua các hình thái do mâu thuẫn bên
trong, C. Mác còn đề cập đến sự phát triển đồng đại theo chiều ngang không gian do
tương tác qua lại giữa các xã hội. Ông chú ý đến trường hợp đặc biệt là, hai xã hội thời cổ
đại “tác động qua lại làm nảy sinh ra một cái gì mới, một sự tổng hợp”, “kết hợp cả hai”
PTSX và cùng tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Đó là trường hợp người
Giécmanh từ xã hội công xã nguyên thủy bỏ qua xã hội nô lệ, cùng người La Mã đi lên
xã hội phong kiến. Từ khi người Giécmanh bắt đầu lấn át người La Mã vào thế kỷ thứ II
và đánh đổ chế độ nô lệ vào thế kỷ thứ V, họ chỉ mất 300 năm để từ cuối công xã nguyên
thủy bỏ qua chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến. Nếu vẫn tồn tại riêng biệt, thì để có sự
phát triển đó, họ phải trải qua xã hội nô lệ hàng nghìn năm.
Từ cách tiếp cận này C. Mác cũng chỉ ra, khi một số nước TBCN ở châu Âu có trình độ
công nghiệp khác nhau tác động qua lại, thì mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX ở nước có
trình độ thấp vẫn có thể gây xung đột chính trị gay gắt, khiến cho cách mạng vô sản sớm
nổ ra. 
Khi quan tâm đến tình hình nước Nga Sa hoàng đương thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cho
rằng, không chỉ nước TBCN tiên tiến phương Tây có thể làm cách mạng vô sản thành
công rồi bước vào TKQĐ, mà nước Nga và các nước tiền TBCN nói chung cũng có thể
thực hiện điều đó. Điều kiện quan trọng ở đây là, các nước này được nước phương Tây
phối hợp cùng làm cách mạng vô sản thành công, tiếp tục giúp đỡ về vật chất khi bước
vào TKQĐ. Lúc ấy nước phương Tây thực hiện TKQĐ trực tiếp. Nước được giúp đỡ
“không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”, “rút ngắn tiến trình đi lên CNXH”, có
nghĩa là rút ngắn chính lịch trình vận động, phát triển của xã hội TBCN. Nhưng nó vẫn
phải thực hiện TKQĐ từ tiền đề vật chất không tự tạo ra ở bên trong, mà được giúp đỡ từ
bên ngoài. Chính vì thế, TKQĐ này không hoàn toàn trực tiếp, mà chỉ là nửa trực tiếp.
Thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ TBCN. Theo V. I. Lênin, từ cuối thế kỷ XIX, CNTB có
nhiều biến chuyển quan trọng: độc quyền thay thế cạnh tranh, việc mở mang thị trường
thế giới đã đạt đến giới hạn địa lý toàn cầu. Mâu thuẫn giữa các nước phương Tây trở nên
gay gắt. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Xuất hiện cơ hội cho cách mạng XHCN
có thể thắng lợi ở một nước riêng biệt không phải là nước tiên tiến, và đó chính là nước
Nga. Tiếp theo, nước này có thể bước vào TKQĐ gián tiếp lên CNXH, bỏ qua chế độ
TBCN. Thời kỳ quá độ gián tiếp có một nội dung chủ yếu là, dưới sự kiểm soát, bảo đảm
của nhà nước XHCN, cần sử dụng, phát triển kinh tế TBCN để xây dựng LLSX. Sau đó,
tiếp tục chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của TKQĐ trực tiếp, là xây dựng cơ sở ban đầu
cho CNXH. 
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V. I. Lênin cho rằng các nước lạc hậu phụ thuộc,
thuộc địa ở phương Đông cũng có thể thực hiện cách mạng XHCN và TKQĐ, khi liên
minh với nước Nga Xôviết. Trong tư tưởng của V. I. Lênin, đương nhiên TKQĐ này sẽ
khó khăn hơn nếu diễn ra đơn độc. Nhưng dù có thực hiện được sự liên minh, thì TKQĐ
ấy cũng vẫn chỉ là gián tiếp và ở trình độ thấp hơn nhiều so với TKQĐ gián tiếp ở nước
Nga. Ngoài ra, phải phân biệt tư tưởng đó của V. I. Lênin với một ý kiến khác của chính
ông cho rằng, nếu được giai cấp vô sản các nước tiên tiến giúp đỡ, thì các nước lạc hậu có
thể đi lên CNXH “không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”. Đây chính là tư tưởng
của C. Mác và Ph. Ăngghen về TKQĐ nửa trực tiếp, không giống TKQĐ gián tiếp mà V.
I. Lênin mới nêu lên.
Hiện nay, để tiếp tục giữ vững, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, Việt
Nam cần đẩy mạnh vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng, đường lối của V. I. Lênin về
TKQĐ gián tiếp với một số điểm chú ý sau:

Thực tế thành công lẫn thất bại của CNXH hiện thực trên thế giới một thế kỷ qua đều
chứng minh lý luận của V. I. Lênin về TKQĐ gián tiếp là đúng đắn. Để phát triển, tiến bộ
nhanh, mạnh, bền vững, mà không lặp lại những hạn chế của CNTB, các nước đang phát
triển vẫn có thể và cần phải thực hiện TKQĐ này. Điều đổi mới nhận thức về TKQĐ đó
là bỏ qua chính trị TBCN, mà vẫn sử dụng, khai thác kinh tế CNTB để phục vụ cho
CNXH, đặc biệt là phát triển LLSX, kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học – công
nghệ… đồng thời với vai trò của nhà nước pháp quyền XHCN sẽ điều tiết sự phát triển
nhân văn hơn.

Để giữ được bản chất và định hướng XHCN trong thực hiện đường lối về TKQĐ gián
tiếp, thì phải bảo đảm: một là, khi thực hiện, QHSX TBCN và giai cấp tư sản tuyệt nhiên
không thể trở thành thống trị; hai là, người đại diện (nhà nước XHCN) cho chủ sở hữu
(quần chúng nhân dân) không thể thay thế hoàn toàn chính người chủ sở hữu này, để trở
thành một chủ sở hữu mới trên thực tế. Những điều này phụ thuộc vào việc, Đảng phải
luôn kiên định và sáng tạo trong lãnh đạo thực hiện mục tiêu, con đường lên CNXH dựa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận, đường lối chính trị của V. I. Lênin về TKQĐ gián
tiếp, cần kết hợp thống nhất, chặt chẽ, chuyển đổi linh hoạt, hợp lý hai chính sách chủ
yếu trên. Đồng thời, phải đổi mới, phát triển chúng phù hợp với điều kiện trong nước.
Tài liệu

PGS, TS. Phạm Văn Chúc, Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương(29/08/2018).
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn trên
thế giới một thế kỷ qua. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, hệ thống tư liệu – văn
kiện Đảng

You might also like