Professional Documents
Culture Documents
Xemtailieu Chuc Nang Cua Mot So The Loai Chinh Van Hoc Trung Dai Viet Nam
Xemtailieu Chuc Nang Cua Mot So The Loai Chinh Van Hoc Trung Dai Viet Nam
Xemtailieu Chuc Nang Cua Mot So The Loai Chinh Van Hoc Trung Dai Viet Nam
NGUYỄN QUẾ KỲ
CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI CHÍNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM
VINH-2009
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Văn học trung đại Việt Nam là một loại hình văn học tồn tại và phát triển
trong thời trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Thời kì này chịu sự chi
phối sâu sắc của ý thức hệ tư tưởng, của văn học, mĩ học phong kiến và truyền
thống văn hoá các dân tộc Việt Nam. Văn học trung đại Việt Nam có một hệ thống
thi pháp riêng với nhiều thể loại kể cả thể loại nội sinh và ngoại nhập. Mỗi một thể
loại lại có chức năng riêng trong việc chuyển tải nội dung, tư tưởng, những vấn đề
nhân sinh thiết thực mà cuộc sống yêu cầu qua những hình thức nghệ thuật khác
nhau mang tính quan niệm. Vì vậy, luận văn này làm sáng rõ chức năng của một
số thể loại chính của văn học trung đại Việt Nam trong việc thể hiện “thiên chức”
của mình như: chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ…,
theo tiên chỉ “văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí” mà các nhà văn trung đại thường lấy
làm chuẩn mực.
1.2.Để thực hiện các chức năng rất đỗi thiêng liêng cao quý đó: tác động trực tiếp
đến tư tưởng, tình cảm, góp phần thanh lọc tâm hồn, di dưỡng tính tình, hoàn thiện
nhân cách, giúp con người “tự nhận thức” mà sống tốt hơn, đẹp hơn…thì mỗi một
thể loại lại có một số hình thức nhất định cho phù hợp với phẩm chất nghệ thuật,
tính chất giáo huấn tuyên truyền, có tính quan phương như: thể thơ, các biện pháp
tu từ, kết cấu, các hình thức mang tính quan niệm… Luận văn này làm sáng rõ các
hình thức mà các nhà văn, nhà thơ sử dụng để thực hiện các chức năng của mình ở
các phương diện: cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu, sự tự biểu hiện
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Trong luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là chức năng của
một số thể loại chính vận văn, tản văn trong văn học trung đại Việt Nam.
3
Lê Quý Đôn ở thiên văn nghệ chí trong Lê triều thông sử chia tác phẩm ra
thành 4 loại: hiến chương (16 loại ), Thi văn (66 tác phẩm ), Truyện kí (19 tác
phẩm), Phương kĩ (14 tác phẩm ).
Phan Kế Bính trong Việt Hán văn khảo viết: “Văn chương có nhiều thể cách,
mỗi thể cách có lối đặt câu riêng, nhưng đại khái thì nên chia hai lối là lối có vần và
lối không có vần. Lối có vần như là thơ, phú, minh, tán, ca, ngâm khúc điệu…Lối
không có vần như là kinh nghĩa, văn sách, luận, kí, tứ lục tiểu đối…” [9, tr. 6].
Quan niệm này mang tính khoa học và hệ thống.
Năm 1932, Bùi Kỉ trong Quốc văn cụ thể có giới thiệu các thể loại theo tên gọi
của người xưa: Lục bát, song thất lục bát, hát xẩm, hát nói, mưỡu, thơ cổ phong,
Đường luật, minh, trâm, tán, từ khúc, phú, văn tế, chiếu, biểu, cáo, hịch, trướng,
kinh nghĩa,văn sách, tựa, truyện, kí, bia, luận, chèo, tuồng.
Năm 1943, trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đề cập đến việc
phân loại thể loại.Tác giả đã phân biệt “các thể văn mượn của tàu và các thể văn
mượn của ta”. Những thể mượn của tàu được chia làm hai loại : Vận văn (Văn có
vần: Thơ, phú, văn tế ); biền văn (Văn không có vần mà có đối : câu đối tứ lục, kinh
nghĩa). Các lối văn xuôi của Tàu: tự, bạt, truyện, kí, bi, luận. Những thể riêng của
ta: lục bát, song thất và các biến thể của hai lối ấy.
Nguyễn Huệ Chi trong Khảo luận văn bản thơ văn Lí-Trần, căn cứ vào những
đặc điểm và phương thức biểu hiện của tác phẩm, chia thành 5 loại với 15 thể: Thơ
ca gồm: thơ sấm vĩ, thơ suy lí, thơ trữ tình, thơ tự sự; Biền văn gồm: phú, hịch, cáo,
chiếu, chế, biểu, tấu; Tản văn gồm: văn bình luận, văn thư tín, văn ngữ lục; Tạp
văn: luận thuyết tôn giáo; Truyện kể: truyện, sử, bi, kí.
Công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử đi
theo hướng thể loại với các nhóm: Nhóm 1: Các thể thơ trữ tình, Nhóm 2: Phú và
các thể văn; Nhóm 3: Thể loại truyện chữ Hán. Ở phần thơ trữ tình, tác giả viết :
5
“Phần lớn thơ làm trong các dịp tiễn tặng, hoạ thơ người khác, đề thơ kỉ niệm, tức
cảnh, tức sự, thư sự…Khi muốn bộ lộ nỗi lòng thì họ gọi là Ngôn hoài, Thuật
hoài…” [tr 170 ] . Hay trong thể phú, tác giả cũng đề cập đến chức năng của thể
này: Tính nội dung của thể phú thể hiện ở cách sử dụng. Tính chất chung của phú là
ca ngợi. Có hai loại phú – phúng gián và tỏ chí. [tr. 267].
Cuốn: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi chủ biên đề cập đến các thể loại cả văn học trung đại và văn học hiện đại (riêng
một số thể loại không có như: truyện truyền kì). Chẳng hạn, khi đề cập đến thơ trữ
tình, tác giả viết: “Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ những cung bậc tình cảm cho tới những
chính kiến, những tư tưởng triết học” [tr 269].
Công trình: Vấn đề phân loại thể loại văn học Việt Nam trung đại, tác giả Biện
Minh Điền khẳng định: “Vậy là, nhìn vào hệ thống thể loại, có thể khu biệt từng
giai đoạn, từng thời kì văn học và có thể nhận diện từng loại hình văn học. Chính vì
thế, hướng theo thể loại là xu thế chủ đạo trong sáng tác, nghiên cứu, phê bình và
giảng dạy văn học hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế
giới” [6]. Cũng theo tác giả: phương án phân loại là cơ sở để đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu các thể loại trong văn học Việt Nam trung đại. Có ba phương diện cần khảo sát:
nội dung, chức năng và thi pháp của thể loại.
Cuốn: Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại những vấn đề văn xuôi tự sự,
Nguyễn Đăng Na khẳng định: “Văn xuôi tự sự là một bộ phận hữu cơ không tách
rời quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Song, với tư cách là một loại hình
nghệ thuật, văn xuôi tự sự có những đặc trưng và quy luật diễn tiến riêng. Qua ba
chặng đường lịch sử với chiều dài mười thế kỉ (X – XIX) và ba xu hướng phát triển,
cùng với các loại hình thể loại văn học khác, văn xuôi tự sự đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử mà thời đại giao phó: phản ánh đời sống tâm linh của người Việt Nam thời
6
trung đại. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, các tác gia văn xuôi tự sự không
ngừng tìm tòi, kế thừa và đổi mới cả nội dung lẫn hình thức tác phẩm đặng từ đó
dần dần tự hoàn chỉnh cả ba hình thức tự sự: truyện ngắn, kí và tiểu thuyết chương
hồi” [39].
Chuyên đề: Văn chính luận Việt Nam thời trung đại, tác giả Phạm Tuấn Vũ nói
khá rõ các chức năng của các thể: cáo, chiếu, hịch…Công trình này đã gợi ý cho
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu các chức năng của một số thể loại quan trọng của văn
học trung đại Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
Qua luận văn, chúng tôi hi vọng sẽ tìm hiểu sâu hơn chức năng của một số thể
loại quan trọng được học trong chương trình phổ thông và phương thức thể hiện
chúng, cá tính sáng tạo của tác giả. Từ đó hình thành cho độc giả kĩ năng, cách đọc
tác phẩm theo đặc trưng thể loại, cụ thể cách đọc thơ Đường luật, truyện thơ, truyện
truyền kì, tiểu thuyết chương hồi, kí.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, so sánh
- Phương pháp tổng hợp khái quát
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần “Mở đầu”, phần “Kết luận” và mục “Tài liệu tham khảo”, nội
dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề thể loại văn học của văn học trung đại Việt Nam và
các chức năng của nó
Chương 2. Chức năng của một số thể loại vận văn
Chương 3. Chức năng của một số thể loại tản văn
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC CHỨC NĂNG CỦA NÓ
1.1. Một số đặc điểm về chức năng của văn học trung đại Việt Nam
1.1.1. Văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại Việt Nam chỉ một loại hình văn học tồn tại và phát triển
trong thời trung đại ở Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX). Đây là văn học của
thời kì gắn với chế độ phong kiến. Tuy nhiên chú ý thời trung đại của từng thời kì,
từng khu vực, từng quốc gia có sự khác nhau. Theo B.L. Rip tin: văn học trung đại
nhiều điều chưa xác định. Tuy nhiên những cơ sở vững chắc của khái niệm này
không thể phủ nhận vì tính chất loại hình.
Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối sâu sắc của ý thức hệ tư tưởng,
của mĩ học phong kiến, tiếp thu tinh hoa của văn học dân gian. Điều này là tất yếu
bởi vì văn học luôn vận động, theo sát, phục vụ cuộc sống. Các nhà văn trung đại
trong quá trình sáng tác thường chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “trung quân ái
quốc”. Quan niệm phong kiến chính thống cho rằng: nước với vua là một. Nguyễn
Trãi, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu…đã trực tiếp hoặc gián tiếp bày tỏ quan
niệm này. Là một người có tri thức uyên thâm, từng đỗ đầu ba kì thi, luôn cháy
bỏng một khát vọng “trí quân trạch dân”, từng làm quan nhưng do hoàn cảnh đất
nước ta bị thực dân Pháp xâm lược nên Nguyễn Khuyến đã cáo quan về ở ẩn. Ông
từng dặn con cháu: “Trầm tư ty lạp quân ân trọng” (Suy nghĩ cho kĩ thì ơn của vua
dù bé nhỏ như sợi tơ hạt tóc vẫn là nặng; ông tự nói về mình: “Quân ân vị báo đầu
tiên bạch” (ơn vua chưa trả được mà đầu đã bạc). Đến cuối đời, nhà nho Yên Đổ
vẫn canh cánh trong lòng tâm sự u uất, day dứt, thẹn thùng, ân hận :
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời.
8
Nguyễn Đình Chiểu thì từng ước có một vị vua anh minh, tập hợp sức mạnh
nhân dân đánh tan, quét sạch quân xâm lược:
Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông
(Xúc cảnh)
Khi đất nước có ngoại xâm thì văn học là một vũ khí sắc bén, vô cùng lợi hại,
cổ vũ động viên tinh thần quân dân vùng lên giết giặc lập công. Trong thi phẩm Bảo
kính cảnh giới (số 5), Nguyễn Trãi viết:
Văn chương chép lấy đôi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng.
Văn chương phải gắn với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm
người. Văn chương phải gắn với hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”,
phải gắn với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Muốn bảo vệ cuộc sống và
khẳng định giá trị con người thì trước hết phải bảo vệ Tổ quốc, khẳng định dân tộc,
bởi “nước mất thì nhà tan”. Văn chương phải chuyển tải được thông điệp thiêng
liêng, cao quý đó.
Lí Thường Kiệt từng dõng dạc khẳng định chủ quyền:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Nghe thật hào sảng nhưng không kém phần xúc động, tự hào! Và tác giả đã nêu
cao quyết tâm, ý chí của cả toàn thể dân tộc, của con cháu Lạc Hồng:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Bài thơ thần- Lí Thường Kiệt)
9
Quân địch khi nghe xong phải run sợ, mất tinh thần chiến đấu.
Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc
Tuấn…là một trong những áng văn có tính luận chiến rất rõ, có giá trị muôn đời bởi
tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Khi đất nước sạch bóng quân thù thì yêu nước là dốc toàn trí, toàn lực để xây
dựng đất nước hùng cường, no ấm, mấu mực theo xã hội Nghiêu, Thuấn ở Trung
Quốc. Yêu nước còn là phê phán những hủ lậu, những điều trái tai gai mắt, đi
ngược lại với đạo đức, lợi ích, truyền thống dân tộc. Đó là phê phán cảnh ăn chơi sa
đoạ trong phủ chúa Trịnh (trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác và
nhiều tác phẩm khác), là bọn quan lại “rỗng tuếch về trí tuệ”, “hữu danh vô thực”,
trong thời buổi hỗn loạn không làm được việc gì cho dân cho nước. Nguyễn
Khuyến gọi chúng là những ông “Phỗng đá”:
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không?
(Ông Phỗng đá- Nguyễn Khuyến)
Văn học trung đại Việt Nam còn kế thừa truyền thống nhân đạo. Đó sự đồng
cảm, sẻ chia trong hoạn nạn cuộc đời, thông cảm cho những số phận bất hạnh, đặc
biệt là nhũng người phụ nữ phải sống trong xã hội nam quyền độc đoán, đầy rẫy
những hủ tục, bất công, những định kiến hẹp hòi, phi lí. Vũ Nương trong Người con
gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Thuý Kiều, Đạm Tiên trong Truyện Kiều, những
người vợ có chồng đi chinh chiến biền biệt trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của
Đặng Trần Côn, những người phụ nữ sống trong u sầu, tủi nhục trong cung Tần,
phủ Chúa “giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”, là số phận của những người vợ lẽ,
những người phụ nữ không chồng mà chửa trong thơ Hồ Xuân Hương…Mỗi người
có nỗi niềm tâm sự riêng, nỗi khổ riêng nhưng trong tận cùng oan trái, khổ đau, họ
vẫn ngời lên vẻ đẹp nhân cách của lòng vị tha, hiếu thảo, đức hi sinh…Và qua đó,
10
các tác giả trung đại bày tỏ những khát vọng giải phóng con người khỏi áp bức đau
khổ. Đó là khát vọng về tình yêu tự do như qua câu chuyện tình yêu giữa Thuý Kiều
và Kim Trọng trong truyện Kiều; Phạm Kim và Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang
của Phạm Thái... Như chúng ta biết, sống trong xã hội phong kiến, hôn nhân xuất
phát từ tình yêu tự do là điều không tưởng. Hôn nhân phải môn đăng hộ đối, cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy, người phụ nữ luôn bị động, phải lệ thuộc, không có quyền
quyết định hạnh phúc đời người. Nguyễn Du đã gióng lên tiếng nói nhân bản, đầy ý
nghĩa, phải trả lại đúng nghĩa, đích thực của những cuộc hôn nhân: sự đam mê
mãnh liệt, có sự bí ẩn, đầy sáng tạo, hôn nhân phải xuất phát từ tình yêu tự do…Bên
cạnh đó, Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải còn bày tỏ về khát vọng công lí. Đây là
vấn đề muôn thuở mà xã hội nào cũng hướng tới.
Văn học trung đại Việt Nam cũng dành một phần lớn để tố cáo những thế lực
hắc ám đã chà đạp con người, gieo rắc nhiều đau khổ, đẩy họ vào bước đường cùng.
Thế lực này khá đông đảo từ tầng lớp vua quan như Hồ Tôn Hiến đến bọn lưu manh
như tên sở Khanh, bọn đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi, những tên buôn thịt bán
người sống bằng nghề nhơ nhớp như Bạc Bà, Bạc Hạnh trong truyện Kiều. Chà đạp
Thuý Kiều là cả một xã hội. Cũng chính chế độ nam quyền độc đoán đã giết chết
người vợ hiện thục, nết na có “tư dung tốt đẹp” Vũ Thị Nương trong Người con gái
Nam Xương của Nguyễn Dữ. Bất nhân, vô liêm sỉ như Trọng Quỳ thua bạc, gán vợ,
khiến vợ tự tử gây ra bao xót xa, bức xúc cho người đọc mọi thế hệ …Chủ nghĩa
nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng từ bi
bác ái của đạo Phật, tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo.
Văn học trung đại Việt Nam đã kế thừa sự thông minh dí dỏm, sự lạc quan,
luôn tin tưởng vào tương lai dù trong sự khốn khó nhất, bi đát nhất của văn học dân
gian. Xã hội còn nhiều điều bất cập, chà đạp nhân phẩm con người, gây cho họ bao
đau khổ. Trong thơ văn của các tác giả trung đại, đặc biệt là trong thơ Hồ Xuân
11
Hương, chúng ta vẫn thấy những nụ cười tươi rói nhưng không kém phần cay độc,
sự quấy đạp, muốn bứt tung, muốn vươn mình ra khỏi ao đời mờ nhạt, để khẳng
định mình, khẳng định bản ngã.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(Bánh trôi nước- Hồ Xuân Hương ).
Viết về chiếc bánh trôi nước nhưng thực ra là tác giả đang viết về giới mình.
Người phụ nữ vừa đẹp người lại đẹp nết, đáng lẽ phải được trân trọng, thương yêu
hết mực nhưng sống trong xã hội phong kiến, họ bị xúc phạm thậm tệ, họ chịu “kiếp
ốc nhồi”. Dù trải qua phong ba bão táp cuộc đời, họ vẫn luôn “giữ tấm lòng son”,
chung thuỷ, đằm thắm trong tình cảm. Lí Thông trong truyện thơ Thạch Sanh, gian
ác thâm hiểm nên bị trừng trị đích đáng, ngược lại Chàng Thạch Sanh dũng cảm,
hào hiệp, nhân hậu, cuối cùng có cuộc sống hạnh phúc được làm vua, lấy công
chúa. Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, trích Truyền kì mạn lục “cao
nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người”, cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa
vào tăng phòng để chuộc lỗi cho Giáng Hương vì làm cành hoa bị gãy. Chàng vốn
thích cuộc sống tự do, hoà hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi: “ta không thể
vì số lượng năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo
về, nước biếc non xanh vốn chẳng phải phụ ta vậy”. Có âm đức tất có dương báo,
chàng lấy vợ tiên và sống trong tột đỉnh của giàu sang. Nhưng chàng vốn là người
rất nặng lòng với quê hương nên đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, thần tiên về
với cuộc sống đời thường… Chắc chắn khi sáng tác, các tác giả trung đại đã chịu
ảnh hưởng từ văn học dân gian, cụ thể là từ truyện cổ tích: ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo…
12
Đặc điểm thứ hai của văn học trung đại Việt Nam, đó là thời kì dài văn học
được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Lúc đầu do chưa có chữ viết, lại chịu ách đô
hộ, thống trị, đồng hoá rất thâm độc của bọn phong kiến phương Bắc nên cha ông
chúng ta phải mượn văn tự Hán để gửi gắm tiếng lòng cũng như chuyển tải những
thông điệp, những chân lí cuộc sống qua thơ văn. Nhưng với tinh thần dân tộc, với
truyền thống kế thừa nhưng có chọn lọc và không ngừng sáng tạo cho phù hợp với
tâm hồn, tính cách dân tộc, hiện thực Việt Nam, cha ông ta đã sáng tạo chữ Nôm
trên cơ sở chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Nguyễn Khuyến…là một trong những người thành công khi sử dụng chữ Nôm
để sáng tác. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được Xuân Diệu mệnh danh là bà chúa thơ
Nôm. Nguyễn Trãi có tập thơ được xem là bông hoa nghệ thuật đầy cách tân cả ở
phương diện nội dung và nghệ thuật Quốc âm thi tập. Truyện Kiều của đại thi hào
đân tộc Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm…Điều dễ nhận thấy là các tác
giả văn học trung đại Việt Nam đã có sự cách tân khi sử dụng thể thơ, đặc biệt là
việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, thuần Việt với các thành ngữ, tục ngữ…rất gần
gũi và phù hợp với tâm lí, tư tưởng, trình độ tiếp nhân của độc giả lúc bấy giờ.
Trong bài Mời trầu của Xuân Hương có những câu thơ nghe thật nhẹ nhàng, tự
nhiên nhưng đầy lắng đọng, có sức thẩm thấu, ngân rung:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Nữ sĩ đã lấy những hình ảnh rất quen thuộc mà bất cứ người bình dân nào cũng
biết: quả cau, miếng trầu. Đến câu thứ hai với ba từ liên tiếp: “Này”, “Xuân
Hương”, “quệt”… đã thể hiện tài năng, cá tính cũng như bản lĩnh của một con
người luôn có tư tưởng chống lại số phận, những cái giả dối, trơ trẽn trái với lẽ tự
13
nhiên và của lòng người đồng thời luôn khao khát một tình yêu tròn đầy, viên mãn.
Từ “này” là đại từ chỉ thị mang tính xác định. “Này” nói rõ miếng trầu của Hồ Xuân
Hương. Nó có hai nghĩa: chỉ thái độ suồng sã, thân mật; đồng thời chỉ bản lĩnh
bướng bỉnh, có ý thức về bản thân mình. “Xuân Hương” là một cách xưng hô bạo
dạn. Trong văn học trung đại, cách xưng hô của chị em là dùng đại từ phiếm chỉ:
em, thiếp, tôi…không mấy ai xưng tên. Nghe rất tội nghiệp! Nhưng với Xuân
Hương có lẽ là bà là người phụ nữ duy nhất dám xưng tên mình vào trong thơ. Điều
đó chỉ rõ bản lĩnh của nữ sĩ như là một lời thách đố đối với xã hội nam quyền, thể
hiện thái độ của một con người có ý thức, có bản lĩnh. Can đảm vô cùng! “Quệt” là
một động từ cũng giống như bôi nhưng hành động này dứt khoát. Mới quệt chỉ sự
tươi nguyên, tinh khôi của miếng trầu. Lời mời trầu của Xuân Hương vừa tự nhiên,
vừa khiêm tốn, tha thiết nhưng vẫn thể hiện sự chủ động, sự ý thức của bản thân
mình.
Đặc điểm quan trọng nhất của văn học trung đại Việt Nam là văn học thời kì
này có một hệ thống thi pháp riêng: có thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm…Hệ
thống thi pháp này thể hiện trên nhiều phương diện như quan niệm văn học. Khái
niệm về văn học thời xưa được hiểu một cách không thống nhất. Có cách hiểu rất
rộng, văn học bao gồm tất cả những thứ viết trên lụa và trên giấy. Nhưng có quan
niệm rất hẹp, văn học chỉ bao gồm ba thể loại: Thơ, tiểu thuyết và những tác phẩm
du hí. Có quan niệm khác với hai quan niệm này: ngoài thơ, tiểu thuyết, du hí, văn
học còn có cáo, chiếu, biểu hịch. Bởi vậy, quan điểm văn chương thời trung đại
không có sự phân biệt giữa văn, sử, triết. Người ta gọi “văn sử triết bất phân”. Đời
trước khi cầm bút để chép sử hay luận về triết học, người ta có ý thức làm rõ của
một công trình khoa học. Ai cầm bút cũng luôn vươn tới ý đẹp, lời hay mang nét
thẩm mĩ. Vì vậy, đó là những tác phẩm mang tính thẩm mĩ. Văn học coi trọng cái
luân lí. Những loại được coi trọng nhất là đạo đức, triết học, luân lí. Những cuốn
14
tiểu thuyết bị xem thường. Nhà văn cảm thụ thế giới và cảm hứng thế giới không
phải như một khách thể độc lập mà là có sự giao cảm giữa thi sĩ với thiên nhiên và
thế giới. Điều này nó xuất phát từ quan niệm “thiên nhân tương cảm”, trời người
cảm ứng với nhau. Trong văn chương thường có bút pháp tượng trưng, ước lệ.
Chẳng hạn tùng, cúc, trúc, mai tượng trưng cho người quân tử. Các tác giả trung đại
khi sáng tác thông qua một hệ thống ước lệ rất chặt chẽ và phức tạp với ba tính chất
cơ bản sau. Thứ nhất là tính chất uyên bác và cách điệu hoá cao độ. Uyên bác thể
hiện văn chương đầy những điển tích, điển cố. Cách điệu hoá cao độ được nhà văn
tạo ra một thế giới nghệ thuật mang cốt cách cao sang không tầm thường. Thứ hai,
tính chất sùng cổ. Cái gì càng xa xưa là chân lí, đạo lí. Thứ ba, tính phi ngã, không
cá thể hoá, có khuynh hướng hoà cái tôi vào trong cái ta. Cái tôi cá nhân, cái tôi
trong sáng tạo nghệ thuật ít được chú trọng. Văn học trung đại hướng về thế đạo
nhân tâm. Từ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu
đến Phùng Khắc Khoan đều nói đến chức năng công dụng của văn học. Điều này do
chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm văn học của Trung Quốc. Trực tiếp là quan niệm
của Khổng-Mạnh, quan niệm Nho giáo. Khảo sát văn học Việt Nam Trung đại cả
sáng tác cũng như lí luận, chúng tôi nhận thấy: thế nào là đặc trưng của văn học hay
văn học là gì?, cha ông ta có bàn đến tuy rằng không nhiều. Ý kiến của Hoàng Đức
Lương: “văn chương là sắc đẹp cả ngoài sắc đẹp, là ngon ngoài cả vị ngon”. Phan
Kế Bính: Ta xem trong sách, nghe những lời nghị luận…tươi như hoa, đẹp như
gấm…gọi là văn chương của loài người. Theo ông văn là đẹp, chương là sáng. Văn
chương là bức tranh vẽ cái đẹp của tạo hoá. Phan Kế Bính chỉ ra khái quát ba yếu tố
cơ bản trong quan niệm văn chương là gì của các tác giả văn học Việt Nam trung
đại:
Văn chương là một bức tranh khách thể.
Văn chương là tư tưởng, tình cảm, là quan niệm của chủ thể.
15
chịu ảnh hưởng của hệ ý thức luận này. “Nhìn từ góc độ ý thức hệ tư tưởng, văn
hoá, thấy có hai kiểu tác giả chủ yếu trong văn học trung đại Việt Nam: kiểu tác giả
Thiền gia (xuất hiện sớm nhất) và kiểu tác giả Nho gia” (PGS.TS. Biện Minh Điền -
Nghiên cứu văn học số 4-2005 ). Nhìn chung, cái tôi cá nhân, cá tính sáng tạo, cái
bản thể của nhà văn chưa được thể hiện đậm nét, chưa trở thành một xu thế chung.
Nói như thế không có nghĩa là cái tôi nhà thơ bị xoá nhoà nhưng nó khá mờ nhạt.
Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…đã đóng dấu ấn
khó phai mờ trong lịch sử văn học dân tộc bởi tài năng, bản lĩnh, nhân cách cũng
như tư tưởng nhân văn sáng ngời. Hồ Xuân Hương đầy tự tin, nói thẳng, muốn quẫy
đạp, bứt tung, muốn vươn mình ra khỏi ao đời mờ nhạt, ra khỏi những định kiến phi
lí, hẹp hòi…để khẳng định mình, làm chủ số phận. Nữ sĩ đã để lại nhiều dư vị, dư
vang trong lòng bạn đọc bởi sự táo bạo, độc đáo hơn người, bởi tư tưởng rất hiện
đại. Nguyễn Du khi viết “máu chảy đầu ngòi bút”, thấu hiểu lẽ đời và tình người
nhưng tư tưởng còn chứa đầy mâu thuẫn, khi sáng tác ông còn bị ám ảnh, còn nặng
tư tưởng thiên mệnh “cái tài đi với cái tai một vần” nhưng mọi thế hệ người đọc
Việt Nam đều khâm phục tài năng, đức độ của ông. Truyện Kiều của ông rất thành
công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc học ngoại hình, tính cách, tâm lí
nhân vật ; xây dựng hai hệ thống nhân vật chính diện - phản diện với ý nghĩa phản
ánh mâu thuẫn xã hội đương thời; bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tác phẩm còn là thành
tựu về ngôn ngữ thơ ca: phong phú, chính xác, đẹp đẽ và cũng chính Nguyễn Du đã
đưa thể thơ lục bát lên đỉnh cao và trở nên mẫu mực về thể loại.
Văn học trung đại Việt Nam chia làm bốn giai đoạn nhỏ. Dựa vào nội dung
cảm hứng, giáo sư Nguyễn Lộc chia như sau: Từ thế kỉ X-XIV. Đây là giai đoạn tập
trung vào nội dung dân tộc, nội dung yêu nước như Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp
Thuận, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, thơ văn Lí Trần, văn học kháng Minh…
xoay quanh hào khí Đông A, những vấn đề nhân sinh. Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu
17
thế kỉ XVIII, văn học tập trung vào nội dung xã hội, ý thức nhận thức về xã hội,
cảm hứng thế tục với Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan… Cảm
hứng yêu nước phức tạp hơn. Nội dung cơ bản là phê phán hủ lậu, những tệ nạn xã
hội, giai cấp phong kiến đang suy tàn. Từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX,
cảm hứng xã hội bao trùm. Văn học đặt ra vấn đề con người cá nhân với Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm, thơ Hồ Xuân
Hương, các tác phẩm của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…Con người lúc này đòi
hỏi phải được giải phóng, với những nhu cầu khát vọng sống của nó được đảm bảo,
nên trào lưu nhân đạo chủ nghĩa nổi lên rất đậm. Văn học giai đoạn nửa sau thế kỉ
XIX, vấn đề dân tộc, vấn đề giải phóng được đặt ra do nhu cầu của xã hội “Cuộc
thử lửa với phương Tây” . Giai đoạn này ngọn lửa yêu nước được khơi dậy. Nguyễn
Đình Chiểu là lá cơ đầu, có nhiều đóng góp nhất cho dòng văn chương yêu nước
chống Pháp nửa sau thể kỉ XIX.
1.1.2. Các thể loại văn học trung đại Việt Nam
Thể loại là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học vì là nơi nhận ra
diện mạo, đường nét của một loại hình văn học. Loại (loại thể văn học) nhằm chỉ
quy luật loại hình của tác phẩm. “Đó là sự tổ chức, sự sắp xếp các tác phẩm có cùng
phương thức tiếp cận đối tượng nghệ thuật, có chung phương thức cấu trúc hình
tượng và chung phương thức cấu trúc lời văn vào thành từng loại hoặc từng
thể”(TS. Lê Văn Dương). Loại có tự sự, trữ tình, kịch. Quan niệm này có từ thời
Aristote.
Thể là khái niệm nhỏ hơn loại nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại
văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể
hiện cảm xúc, những tư tưởng, tình cảm của con người trước một hiện tượng đời
sống.
18
Thể loại mang tính lịch sử bởi sự xuất hiện của các thể loại trong lịch sử văn
học của mỗi dân tộc được xác định bằng nhu cầu xã hội, bằng khả năng, bằng nhu
cầu hoạt động văn hoá. Tính lịch sử thể loại được biểu hiện trên các mặt. Mỗi thể
loại chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học. Sau đó, nó
biến đổi hoặc là được một thể loại mới bổ sung. Các Mác: Thần thoại là một thể
loại đi không trở lại. Chức năng của từng thể loại tương quan giữa các thể loại mỗi
thời kì khác nhau. Chức năng của thơ Đường luật trong văn học trung đại Việt Nam
khác với chức năng của thơ Đường luật trong văn học hiện đại Việt Nam. Do tư duy
nghệ thuật, trình độ tiếp nhận của từng thời kì là khác nhau. Tính lịch sử của thể
loại còn biểu hiện ở chỗ sự khác nhau của cùng một thể loại trong những thời kì lịch
sử khác nhau. Thể loại mang tính loại hình. Mỗi một thể loại thể hiện một giới hạn
tiếp xúc với đời sống, một cách tiếp cận, một trường quan sát, một quan niệm đối
với đời sống. Mỗi thể loại qui định một cách giao tiếp với người đọc đồng nghĩa
mỗi thể, loại vừa có mặt ổn định nhưng đồng thời có mặt biến đổi vì các phương
thức phản ánh đời sống của văn học là có hạn. Sự tiếp cận của con người với hiện
thực suy cho cùng là có ba cách: kể lại (tự sự), trực tiếp bộc lộ cảm xúc (trữ tình),
diễn lại (kịch); do đặc điểm của phương thức tư duy nghệ thuật trong mỗi thời kì
trong là không giống nhau.
Thể loại mang tính dân tộc vì thể loại gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí, truyền
thống văn hoá của dân tộc. Ngay cả những thể loại được coi là phổ biến ở nhiều dân
tộc thì vẫn có những nét riêng khác nhau.
Thể loại văn học là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình của văn học. Theo
PGS.TS Biện Minh Điền, văn học trung đại Việt Nam hiện diện qua qua một hệ
thống thể loại với các đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, có sự hỗn dung, đan xen hay có
thể gọi là đậm tính nguyên hợp. Chẳng hạn thể truyện truyền kì, thường có pha trộn
thể loại. Thể loại chính: văn xuôi pha trộn với văn vần (đoản thi hoặc phú hoặc văn
19
tế). Cuối truyện thường có lời bình (văn nghị luận). Không phải tác giả truyện
truyền kì lộn xộn, tâm lí có vấn đề mà tác giả có ý thức thể hiện tài năng của mình
“khoe tài”. Điều quan trọng hơn là tâm lí nhân vật phức tạp hơn nên cần có nhiều
phương diện để thể hiện. Thứ hai, mang tính quy phạm cao, có đặc trưng thi pháp
hết sức chặt chẽ. Thể thơ Đường luật là minh chứng tiêu biểu cho luận điểm này.
Thứ ba, tên thể loại thường được nêu ngay từ đầu đề của tác phẩm. B.L. Ríptin nhận
xét: “Thể loại là một phạm trù chủ đạo được thể hiện trong cách thường xuyên nêu
bật nó lên ở ngay tên gọi tác phẩm” “Vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung
cổ của phương đông theo phương pháp loại hình”. Tạp chí nghiên cứu văn học, số
2/ 1974 - B.L.Ríptin. Quan niệm này nhìn chung là đúng nhưng chưa toàn diện,
chẳng hạn chữ “lục”, trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thuộc thể loại truyện
truyền kì, còn chữ “lục” trong Bắc hành tạp lục của Nguyến Du lại bằng thơ. Thứ
tư, tên thể loại thường được gọi theo chức năng và nội dung của nó. Chẳng hạn,
chức năng của thể hịch: Lời đứng đầu một vương triều tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một
phong trào nhằm vạch rõ tội ác của đối phương và khích lệ mọi người chiến đấu
tiêu diệt kẻ thù.
Do hoàn cảnh xã hội cũng như tư duy nghệ thuật của từng thời kì là khác nhau
nên mỗi thể loại xuất hiện, phát triển, đạt đến đỉnh cao hoặc biến đổi, có thể “không
trở lại”. Chẳng hạn, khi đất nước có ngoại xâm hoặc trong nước đang có nạn binh
đao, loạn lạc, tranh vương, tranh bá thì thể hịch phát triển. Khi giai cấp phong kiến
thối nát, phản động, đi lại lợi ích nhân dân, dân tộc thì thể loại truyện truyền kì phát
triển vì các tác giả trung đại đã mượn các yếu tố kì để tăng sự hấp dẫn cho tác phẩm
cũng như giúp độc giả nhận thức xã hội, giáo huấn mọi người. Khi đất nước thanh
bình thì thường thể phú chiếm độc tôn bởi phú thường dùng trong thi cử, để ca ngợi
vương triều, đặc biệt các tác giả phú qua tác phẩm của mình khuyên vua một cách
kín đáo bằng cách ca ngợi công lao, đức độ, chiến công của người xưa…Khi quyền
20
sống con người bị xâm phạm, ý thức cá nhân bùng lên mạnh mẽ thì truyện thơ phát
triển. Tóm lại, chính nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại.
Diễn trình các thể loại văn học trung đại Việt Nam. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV,
đây là giai đoạn chúng ta hoàn toàn vay mượn các thể loại Trung Quốc như thơ cổ
phong, thơ Đường luật…Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII, sang thế kỉ XV, bắt đầu
xuất hiện tác phẩm văn học dân tộc như tác phẩm: Bồ đề thắng cảnh thi trích trong
Lê triều ngự chế quốc âm thi thuộc thể song thất lục bát.
Bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng của Lê Đức Mao (1504) thuộc thể hát ả đào.
Năm 1700 xuất hiện tác phẩm: Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào theo thể loại
truyện Nôm.
Bên cạnh xuất hiện những thể loại nội sinh còn có những thể loại ngoại nhập.
Đây cũng là giai đoạn phát triển đột khởi của truyện truyền kì như tập truyện
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Đến giai đoạn này các thể loại thuộc văn học
hành chức như: thể cáo, hịch, chiếu… nhường vị trí cho các loại hình văn học hình
tượng; chú ý đến cấu tạo. Điều đó cho thấy những phương thức trong tư duy, trong
cách nhận thức đời sống của các tác giả trung đại có sự phát triển. Giai đoạn từ thế
kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển đầy đủ các thể loại đã có và mới
xuất hiện trong văn học Việt nam. Đến giữa thế kỉ XIX, sự phát triển này tương ứng
với nội dung, chức năng của các thể loại. Một số thể loại tiêu biểu của giai đoạn này
như Truyện Nôm: Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào, tiểu thuyết chương hồi:
Nam Triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm; thể ngâm khúc như
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn; Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu
báo hiệu cho thể loại hát nói. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, giai đoạn cuối của văn
học trung đại Việt nam. Giai đoạn này có sự chi phối mãnh liệt của thực dân Pháp,
sự chống quân xâm lược của nhân dân ta nên văn học có sự thay đổi về nội dung.
Về mặt thể loại, có những thay đổi một số thể loại dài hơi như: ngâm khúc, tiểu
21
thuyết chương hồi…các thể loại ngắn phát triển mạnh như thơ cổ phong, thể hát
nói, văn tế, thơ Đường luật…một số thể loại văn vần được bảo lưu thành tựu như
thơ đường luật. Một số thể loại mang tính hiện đại dưới hình thức chữ quốc ngữ
xuất hiện như thể loại du kí tiêu biểu là Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi (1876) của
Trương Vĩnh Kí. Tiểu thuyết: Thầy La zô rô Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887)
1.1.3 Chức năng của một số thể loại văn học trung đại Việt Nam
Văn học có vai trò, giá trị rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn, nhân
cách, năng lực cảm thụ văn học của người đọc. Xét từ bình diện lao động nhà văn
thể hiện chức năng văn học tức là nhằm trả lời câu hỏi: sáng tác văn học để làm gì?
nhằm mục đích nào?
Chức năng văn học thống nhất trong đa dạng. Tính thống nhất biểu hiện: văn
học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho con người hay bồi dưỡng nhân cách
cho con người. Tính đa dạng được biểu hiện văn học giúp cho con người tự bồi
dưỡng tình cảm, tư tưởng thẩm mĩ cho mỗi con người có rất nhiều khía cạnh. So với
các hình thái khác mỗi chức năng của từng văn học có tính đặc thù riêng. Chức
năng của văn học cũng có quan điểm lịch sử. Ví dụ, xét trong các giai đoạn phát
triển của văn học trung đại thì giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, cảm hứng yêu
nước nổi lên rất đậm, vai trò của chức năng giáo dục rất lớn nhưng đến giai đoạn
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, vai trò của chức năng nhận thức…Chức
năng của văn học được biểu hiện trên nhiều khía cạnh: chức năng nhận thức tức là
nói đến khả năng đáp ứng sự hiểu biết của văn học cho con người và thế giới. Văn
học chú ý sự tìm tòi cùng một lúc cả hai hướng: khám phá những quy luật khách
quan và đi sâu vào những bí ẩn của thế giới bên trong của con người. Secnưsepxki
(Nga) nhận xét “Văn học là cuốn bách khoa thư về cuộc sống”, thật toàn diện và
thấu đáo. Chức năng giáo dục, văn học có khả năng có thể cải tạo, xây dựng con
người, giúp con người sống tốt hơn, đẹp hơn. Điều đó được thể hiện, văn học làm
22
cho tình cảm con người lành mạnh, tâm hồn trong sáng, giúp con người trọng lẽ
phải, giúp con người có tính người, góp phần nhân đạo hoá con người. Chức năng
thẩm mĩ là chức năng quan trọng nhất của văn học vì cái đẹp trong nghệ thuật cao
hơn cái đẹp trong đời sống, cái đẹp được điển hình hoá, được lí giải. Bên cạnh đó,
văn học còn có các chức năng như chức năng giao tiếp, chức năng dự báo… Các
chức năng này chỉ tách rời nhau về mặt lí thuyết. Trong tác phẩm, các phương diện
trong chức năng văn học trong một chỉnh thể thống nhất định hình không tách rời và
khi tiếp xúc với tác phẩm, các mặt trong chức năng cùng đến một lần nhưng trên cơ
sở nền tảng thẩm mĩ, trên cơ sở xúc động thẩm mĩ.
Chức năng của thể loại lại nằm trong chức năng của văn học bởi mỗi thể loại
văn học lại có giới hạn tiếp xúc, một cách tiếp cận, một trường quan sát, một quan
niệm đối với đời sống. Chức năng của thơ Đường luật khác với thể thơ lục bát,
truyện truyền kí khác với kí, tiểu thuyết chương hồi khác với phú…Chẳng hạn,
chức năng của thể cáo: một thể văn thư nhà vua dùng để ban bố cho thần dân nhằm
trình bày chủ trương, công bố kết quả một sự nghiệp. Chức năng của thể hịch nhằm
vạch rõ tội ác của đối phương và khích lệ mọi người chiến đấu để tiêu diệt kẻ thù.
Chức năng của thể phú: dùng để phúng gián có nghĩa là khuyên vua một cách kín
đáo. Bên cạnh đó phú cũng có chức năng tả chí. Thể loại văn tế thì nổi lên với năm
chức năng: kể tính nết, công đức của người chết và bày tỏ sự thương tiếc của người
cúng tế; dùng văn tế để đả kích; dùng văn tế để tế người sống; dùng văn tế để bày tỏ
lòng biết ơn và tự phê phán; dùng để vĩnh biệt các tệ nạn.Trong năm chức năng của
văn tế thì chức năng đầu tiên là quan trọng nhất…Chúng tôi sẽ nói kĩ một số chức
năng của một số thể loại mà chúng tôi sẽ khảo sát trong chương sau.
23
1.2. Các hình thức để thể hiện chức năng của văn học trung đại Việt Nam
1.2.1. Hình thức bên ngoài
Tác phẩm văn học cũng như mọi khách thể khác đều tồn tại ở hai phương diện
hình thức: hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hêghen cho rằng: hình thức
đồng thời vừa chứa đựng nội dung vừa là một cái gì nằm ngoài nội dung. Cái gì
nằm ngoài nội dung là biểu hiện sinh động cá biệt. Đó là hình thức bên ngoài. Hình
thức bên ngoài của tác phẩm văn học là thể văn (văn xuôi, thơ, kịch). Chẳng hạn,
thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm có tám câu, mỗi câu bảy chữ, gồm có bốn
phần: hai câu đề; hai câu thực; hai câu luận; hai câu kết. Phú thuộc thể loại bán thi
bán văn. Tính chất thơ được thể hiện ở chỗ: có vần, có nhịp điệu còn tính chất văn
xuôi được thể hiện ở chỗ câu văn dài ngắn khác nhau. Truyện thơ nôm trung đại lúc
đầu được sáng tác theo thơ Đường luật, sau đó chủ yếu được sáng tác theo thể thơ
lục bát. Bên cạnh thể văn, hình thức bên ngoài còn được thể hiện rõ ở các biện pháp
tu từ được tác giả sử dụng như nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ, thậm
xưng, đối…
1.2.2. Hình thức bên trong
Sáng tạo ra tác phẩm văn học, nhà văn bắt đầu bằng việc sáng tạo hình thức mà
trước hết là trước hết là hình thức bên ngoài để cho tác phẩm có một sự tồn tại cụ
thể giống với hiện thực đời sống nhưng nhà văn sáng tạo ra tác phẩm chủ yếu là để
thể hiện cái quan niệm về con người và cuộc đời. Do đó, họ phải tạo ra các hình
thức mang tính quan niệm riêng của mình về và đó là hình thức bên trong. Hình
thức bên trong là hình thức chứa đựng những nội dung, tư tưởng và cá tính sáng tạo
độc đáo của nhà văn.
Nguyễn Trãi là một con người đa tài ,nhiệt huyết yêu nước, “đêm ngày cuồn
cuộn nước triều dâng” nhưng gặp nhiều oan khiên thảm khốc. Sự nghiệp văn học
của ông khá đồ sộ và đạt nhiều thành tựu ở cả thơ ca cũng như văn xuôi, văn biền
24
ngẫu. Quốc âm thi tập là tập thơ có những dấu ấn khó phai mờ. Tập thơ được sáng
tác theo thể thơ đường luật nhưng có nhiều cách tân về hình thức thơ và qua đó thể
hiện con người cũng như “cái chí” của ông. Thứ nhất đó là, tác giả đã xen vào bài
thơ Đường luật câu thơ sáu chữ gọi là thơ đường luật xen lục ngôn. Theo khảo sát
của các nhà nghiên cứu, trong tập thơ có tới 72% số bài có hiện tượng này. Thứ hai,
nếu trong thơ đường luật có quy định rất chặt chẽ về số câu, đối, nhịp phải là chẵn
trước 4/3 hoặc 2/2/3 “ luật thơ nghiêm như luật hình ” (Phạm Quỳnh) thì cũng trong
tập thơ này có khoảng 1/5 câu thơ Nôm ngắt nhịp lẻ trước chẵn sau . Bài Bảo kính
cảnh giới, 43 (Gương báu răn mình, bài số 43), thể hiện khá rõ điều đó :
Rồi, hóng mát thưở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Bài thơ trên có hai câu sáu chữ xen vào và có những câu ngắt nhịp lẻ trước,
chẵn sau (3/4) như:
Thạch lựu hiên/ còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì/ đã tịn mùi hương.
Sự cách tân về hình thức đó đã thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả, không chịu
rập khuôn máy móc và đặc biệt quan trọng nhấn mạnh điểm kết tự của hồn thơ Ức
Trai là dân tộc, là đất nước, là nhân dân. Trong bài thơ trên là mong ước cháy bỏng
của tác giả không phải cho bản thân được vinh hoa phú quý mà làm sao cho nhân
dân luôn được sống trong thanh bình, ấm no.
25
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có nhiều cách tân đầy sáng tạo. Thứ nhất, bà sử
dụng rất nhiều từ thuần Việt có tính chất động như: các thành ngữ, tục ngữ, các từ
láy, đặc biệt là việc gieo những vần chết, rất oái ăm nhưng hết sức độc đáo. Từ ngữ
sinh ra vần. Nó có hai thanh, âm trầm bổng, thanh trắc bằng. Mỗi từ có phần vần,
phần vần bao giờ cũng có khả năng lôi kéo âm thanh, làm cho từ ngữ rất sinh động.
Từ vần này, Hồ Xuân Hương đã dùng những từ lấp láy tạo ra vần lắt léo nhiều như:
rúc rích, vo ve, xù xì, khom khom…tạo ra âm thanh cao mà đặc sắc của tiếng cười
là âm thanh cao. Vần ênh trong bài Chiếc bánh: nổi nênh, lênh đênh, gập ghềnh, tấp
tênh gợi cái gì đó bấp bênh, mong manh, dễ tan vỡ hoặc vần eo trong bài Quán
khánh như vẽ ra cảnh cheo leo, hiểm trở:
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo !
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc cảnh leo teo,
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo!
Có những từ ngữ không thể đưa vào văn chương được nhưng con người “không
những độc đáo mà hai lần độc đáo” (Xuân Diệu – Bà chúa thơ Nôm) đưa vào được:
le te, rầu rĩ, khẳng kheo…Đây là một tài nghệ của bà. Nó linh lợi không quê mùa.
So với Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyễn, Chu Mạnh Trinh…ta thấy phần lớn những người này đều giống
nhau. Họ tìm đến thiên nhiên, coi thiên nhiên như bầu bạn, như người tri âm, tri kỉ,
khi họ chán ghét cuộc sống. Thiên nhiên là nơi họ thoát khỏi trần tục. Khi trở về với
thiên nhiên, tâm hồn họ thanh thản như “rửa ráy” được những dơ bẩn. Họ có nhân
26
cách hơn, thanh thản hơn. Họ tìm cách hoà nhập với thiên nhiên nên họ hay nhân
cách hoá thiên nhiên-biến thiên nhiên thành những con người. Giọng điệu khác biệt
qua từng bài, từng cảnh thiên nhiên. Trong từng bài có phong cách, cú pháp riêng
do nhu cầu cảm xúc khác nhau. Hồ Xuân Hương không hề coi thiên nhiên như bạn.
Khi đến với thiên nhiên bà không thanh thản. Bà cũng không nhân cách hoá thiên
nhiên. Bà nhìn thấy ở thiên nhiên như cái vốn có và bà đã gán cho nó những tính
chất, những khát vọng, cái chí mà mình mong muốn có, thực hiện. Vì vậy, thơ thiên
nhiên của Hồ Xuân Hương như một cái máy, như một cảm quan để ghi nhận cái
tình thiên nhiên mà Hồ Xuân Hương dành cho thiên nhiên, cho cuộc sống. Tất cả
đều có sức sống rất thật:
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
(Đá ông chồng, bà chồng )
Hay:
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
(Đèo ba dội)
Hồ Xuân Hương đứng một bên tìm ra trong thiên nhiên những cái gì rất đời
sống, rất thực của nhân sinh. Bà tìm ra trong thiên nhiên có giống đực, giống cái.
Thơ Hồ Xuân Hương rất sinh động, cởi mở, không dấu diếm. Do tâm trạng của bà
mà giọng điệu, cảnh sắc, âm thanh có khi thay đổi:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
(Tự tình 2)
Hay: Oán hận trông ra khắp mọi chòm
(Tự tình1)
27
Thiên nhiên không gượng mà xuất hiện rất tươi tắn. Trong chừng mực nào đó,
tác giả “dựng dậy” một thiên nhiên tưởng bình thường nhưng cao rộng, có hình
khối, màu sắc, âm thanh, chấp cánh cho nhà thơ vươn tới những cảm xúc vũ trụ:
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng thử coi đất ngắn dài
Nhịp thơ cũng được nữ sĩ biến đổi cho phù hợp với cảm xúc, tâm trạng. Chẳng
hạn là nhịp 1/3/3 trong bài thơ Tự tình: Trơ/ cái hồng nhan/ với nước non hay Này/
của Xuân Hương/ đã quệt rồi trong bài Mời trầu…Tất cả góp phần thể hiện cá tính,
sự táo bạo, không chịu rập khuôn của con người ưa vận động, có hoài bão tung
hoành, có sức sống mãnh liệt nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ sự lắt léo, trắc trở,
không phẳng lặng trong cuộc đời của nữ sĩ.
Nguyễn Du khi miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều cũng thể hiện quan niệm rõ. Vẻ
đẹp của Thuý Vân là: trang trọng, khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang, hoa cười
ngọc thốt, mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Một vẻ đẹp phúc hậu, đoan
trang, tròn đầy, báo hiệu cuộc sống yên ổn, phẳng lặng về sau. Còn vẻ đẹp của Thuý
Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn báo hiệu cuộc sống đa đoan nhiều trắc trở,
gập ghềnh, sóng gió. Rõ ràng, những tác giả trên đã tạo ra “vân chữ” riêng, những
hình thức độc đáo trong lịch sử văn học dân tộc.
28
Chương 2
CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI VẬN VĂN
2.1. Chức năng thơ trữ tình trung đại Việt Nam
Thơ ca là thể loại phát triển khá sớm và chiếm ưu thế trong nền văn học dân
tộc. Người xưa đã dùng thơ ca để chuyển tải những tư tưởng, tình cảm, những ước
mơ khát vọng, những trạng thái tâm trạng, để phản ánh hiện thực. Nhà thơ qua tác
phẩm của mình đã gửi gắm tiếng lòng đang thổn thức, đang gào thét, những trăn trở
băn khoăn về lẽ đời, tình người. Đọc tác phẩm, độc giả sẽ cảm nhận được thế giới
tình cảm phong phú đó, những chân lí cuộc sống, những phát hiện về cái đẹp của
cuộc đời được người nghệ sĩ chuyển tải qua một hình thức nghệ thuật không lặp lại.
Nhà thơ qua tác phẩm thể hiện mình, tìm kiếm mình. Một tác phẩm thực sự có giá
trị phải là tác phẩm mới mẻ về nội dung và độc đáo về hình thức thể hiện, là bông
hoa trông thấy lần đầu, lần cuối, gợi cho người đọc một sự rung động thực sự, có
những liên tưởng sâu xa, chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm “như một
cuộc hành trình mở” (PGS.TS Trương Đăng Dung) để người đọc không ngừng tìm
tòi, cắt nghĩa, lí giải, suy tưởng không biết chán.
Ở phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam, thơ ca là loại hình
phát triển nhất vì một số lí do sau. Thứ nhất, một số triều đại phong kiến có tổ chức
thi thơ để tuyển chọn nhân tài. Thứ hai, xã hội Việt Nam là xã hội có nền văn minh
nông nghiệp phát triển lâu đời, mà con người trong xã hội ấy có tư duy trữ tình phát
triển, có thế giới nội tâm phong phú. Họ thường sống kín đáo, khép mình. Điều này
khác với các nước có ngành thương nghiệp, công nghiệp phát triển khá sớm. Con
người trong xã hôi ấy thường cởi mở, hoạt bát hơn, tư duy giao tiếp phát triển hơn
nên gắn với hình thức văn xuôi, kịch phát triển hơn.
Thơ ca cùng với các hình thức nghệ thuật khác ngày càng phát triển. Chúng tôi
đã khảo sát, nghiên cứu một số khái niệm về thơ mà chúng tôi cho là khả thoả đáng.
29
Bạch Cư Dị đời Đường trong thư gửi Nguyên Chẩn (kí Nguyên Cửu) đưa ra
thuyết cây thơ rất được các nhà thơ ngày xưa tán thành và ngày nay nó vẫn có giá
trị: ‘Thi dã: căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thục nghĩa”. Giáo sư Nguyễn Khắc Phi
dịch: với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa.
Câu nói đầy hình ảnh và đặc biệt nó thể hiện khá đầy đủ thấu đáo bản chất của thơ.
Thứ nhất, tác giả nêu lên được những yếu tố then chốt cơ bản của thơ: tình, ngôn
ngữ, âm thanh, ý nghĩa. Thứ hai, tác giả chỉ ra được các mối liên hệ giữa các yếu tố
đó trong một chỉnh thể sống động. Tuy nhiên, quan niệm về thơ của ông cũng bị
khống chế bởi tư tưởng, quan niệm của các nhà thơ ngày xưa: tình là đạo lí, nghĩa
không phải là mọi ý nghĩa mà nó phải mang tải một chân lí. Hơn nữa tình cảm trong
thơ phải khác với tình cảm thông thường. Nó phải đạt đến độ mãnh liệt, cao trào;
phải là thứ tình cảm kết tinh, phải mang giá trị nhất định. Tác giả chưa nói rõ điều
này.
Quan niệm thơ của các nhà cấu trúc chủ nghĩa lại hướng sự tìm tòi vào đặc
trưng cấu trúc của ngôn ngữ thơ. Tương tác phổ biến của họ là phân biệt đối lập
ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ mang tính chất thơ.
Jakobson viết: “Nhưng tính chất thơ được hiểu ra như thế nào? Theo cái cách từ
ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải là vật thay thế đơn giản, đại
lượng được chỉ định theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của
chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng. Không phải là các dấu hiệu vô
hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng của chúng”. Thơ là gì?
Jackobson dịch tạp chí văn học 1996. Quan niệm này cũng gần như trùng hợp với
với một số nhà văn, nhà thơ khác như Valey, Breton, Satre…khi họ đối sánh ngôn
ngữ văn xuôi với thơ hay.
Tiếp tục triển khai lí thuyết về tính tự quy chiếu của ngôn ngữ thơ nói trên
trong tiểu thuyết luận ngôn ngữ và thi ca, sau khi nhắc lại về hai thao tác của hành
30
động ngôn ngữ là lựa chọn và kết hợp, Jackobson nêu một sự kết hợp rất cơ bản về
chức năng thơ ca là đem nguyên lí tương đương của trục tuyển lựa lên trục kết hợp.
Từ một số ý kiến trên, chúng ta có thể nêu lên một số đặc điểm về thơ trữ tình.
Thứ nhất, xét về phương thức tiếp cận đối tượng nghệ thuật, tác giả không xây
dựng những tính cách hoàn chỉnh, đa dạng các biến cố, có mở đầu, phát triển và có
kết thúc mà chủ yếu là thông qua con đường bộc lộ trực tiếp cảm xúc của tác giả và
của nhân vật trữ tình. Khác tự sự và kịch ở nhận thức nghệ thuật, trong tác phẩm trữ
tình không có sự tái hiện mở rộng và chi tiết về các sự kiện, các hành vi các quan hệ
qua lại của con người mà trữ tình nắm bắt thế giới bên trong của con người. Nói thơ
ca trữ tình chủ yếu là thơ ca chủ quan nội tại , là sự biểu hiện của chính nhà thơ như
Bêlinxki là rất thoả đáng. “Trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ không nhằm mục đích
kể và tả những điều quan sát trong thế giới hiện thực mà chủ yếu là những điều xảy
ra trong thế giới nội tâm và cũng chính vì vậy việc tái hiện các quan hệ xã hội, cách
ứng xử của con người với con người trong tác phẩm trữ tình không đóng vai trò gì
lớn và phổ biến. Do không có sự tái hiện ấy như trong tác phẩm tự sự hay nói cách
khác tác phẩm trữ tình nhằm thể hiện phương diện chủ thể của thế giới, do đó việc
miêu tả thế giới bên ngoài, những cảnh đời bên ngoài nếu có chỉ nhằm phục vụ
nhiệm vụ trữ tình” (TS. Lê Văn Dương).
Thứ hai, xét về phương thức cấu trúc hình tượng, tác phẩm trữ tình phổ biến là
không có cốt truyện hiểu theo nghĩa chặt chẽ nhất của thuật ngữ cốt truyện vì tác
phẩm trữ tình bộc lộ cảm xúc. Dung lượng tác phẩm trữ tình thường là ngắn vì trạng
thái cảm xúc khó có thể kéo dài. Ở tác phẩm trữ tình, cái tôi trữ tình chiếm vai trò
hết sức quan trọng và thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình. Ở đây cần phân
biệt khái niệm cái tôi trữ tình với nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình nhằm chỉ hình
tượng người đang thực hiện, thể hiện trực tiếp cảm xúc, ý nghĩ. Còn cái tôi trữ tình
thống nhất nhưng không đồng nhất với nhân vật trữ tình. Cái tôi nghiêng về diện
31
mạo riêng, độc đáo nổi bật trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ. Trái lại nhân vật trữ
tình chỉ là một bộ phận của cái tôi trữ tình. Mỗi quan hệ giữa giữa nhà thơ và nhân
vật trữ tình được biểu hiện trên hai mặt. Nhà thơ là một cá nhân có tiểu sử xác định
với một nhân vật trữ tình được nhà thơ sáng tạo ra thì giống như nguyên mẫu trong
đời thường với điển hình nghệ thuật nghĩa là người ta xem nhân vật trữ tình là một
hiện tượng khái quát như là một tính cách văn học được sáng tác trên cơ sở lấy sự
thật trong tiểu sử nhà thơ làm nguyên mẫu. Ở đây tính tư liệu của việc biểu hiện trữ
tình, sự quan sát của bản thân nhà thơ, sự bộc bạch phải chiếm ưu thế so với hư cấu,
so với tưởng tượng. Cùng với hiện tượng do mình sáng tạo ra, nhà thơ bày tỏ tình
cảm chân thành của bản thân trong những tình huống trữ tình tới mức người đọc tin
rằng những tình cảm ấy là thực, là thật. Chúng ta không nên đối lập nhân vật vật trữ
tình với nhà thơ vì: văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vì vậy,
sáng tác của bất kì của một nhà thơ nào bao giờ cũng bằng cách này hay cách khác
bao giờ cũng gắn với tiểu sử của nhà thơ đó. Không đối lập nhưng cũng không đồng
nhất nhân vật trữ tình với bản thân nhà thơ vì nhân vật trữ tình là một hiện tượng
nghệ thuật có mặt trong tác phẩm mang theo một giọng điệu, một cách nghĩ, một
cách cảm, một cách nhìn nhất định. Ngược lại tác giả tức là nhà thơ là một con
người có thật ở ngoài đời với tiểu sử cụ thể mà giữa văn và đời, giữa kết quả sáng
tạo và đời sống thực luôn luôn có một khoảng cách nhất định vì nhân vật trữ tình
gắn với cách cảm, gắn với cách nghĩ trong từng tình huống trữ tình cụ thể khiến cho
cùng một tác giả nhưng có thể có nhiều nhân vật trữ tình khác nhau. Trong tác
phẩm trữ tình, nhà thơ thường hiện diện như người đại diện cho xã hội, cho thời đại
và cho nhân loại nghĩa là nhà thơ đã tự nâng mình lên một tầm khác với cái tôi
trong đời sống cá biệt. Trong tác phẩm trữ tình, nhân vật trữ tình thường xuất hiện
dưới hai dạng: nhân vật tự thuật tâm trạng như tâm trạng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
trong chùm thơ tự tình; nhân vật trữ tình nhập vai như người chinh phụ do tác giả
32
nhập vai trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Trong nhân vật trữ tình nhập
vai có hai dạng: nhân vật trữ tình nhập vai vào tâm trạng và nhân vật trữ tình nhập
vai vào hiện tượng thiên nhiên. Nhân vật trữ tình cũng khác với đối tượng trữ tình.
Đối tượng trữ tình là đối tượng để người viết trang trải nỗi niềm thường là nguyên
nhân khơi gợi cảm xúc cho người viết.
Thứ ba, xét về phương thức cấu trúc lời văn, về mặt tổ chức, câu thơ trong tác
phẩm trữ tình phân theo dòng, cuối dòng thường có vần. Thơ trữ tình cũng như các
loại hình nghệ thuật khác cũng sử dụng các phương thức tu từ như ẩn dụ, hoán dụ,
nói lái, độc ngược, độc xuôi, nói lửng, chiết tự. Ngôn từ thơ trữ tình hàm súc, giàu
tính nhạc. Tính nhạc được thể hiện trên ba mặt: sự cân đối, sự trầm bổng, sự trùng
điệp. Sự cân đối được thể hiện ở sự hài hoà của các dòng thơ. Sự trầm bổng được
thể hiện ở sự thay đổi các âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh
trắc. Sự trùng điệp được thể hiện việc dùng vần, điệp câu, điệp ngữ, láy đi láy lại có
tác dụng dính nối các dòng thơ lại với nhau giúp người đọc dễ nhớ, dễ thuộc. Ngô
ngữ thơ trữ tình giàu tính biểu tượng, sử dụng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng.
Đến với thơ trữ tình, người đọc có một tâm thế tiếp nhận đặc biệt. Đó là xem
tiếng nói trữ tình trong thơ cũng là tiếng nói trữ tình của mình. Khi sự đồng nhất
giữa nhân vật trữ tình và người đọc thơ được thể hiện, thế giới trữ tình bỗng trở
thành một thế giới mở, hiểu theo nghĩa thời gian, không gian được nhắc trong đó
bỗng trở thành thế giới biểu trương mà ý nghĩa không còn bị đóng khuôn trong
trong những hình thái cá biệt cụ thể nữa.
“Thơ trữ tình cổ điển là sản phẩm tinh tuý của thời trung đại, thời thống trị của
ý thức về tính bất biến của vũ trụ, về sự thống hợp của thế giới, sự đồng nhất của ba
yếu tố: thiên, địa, nhân. Thời mà người ta nhìn nhận sự thay đổi trong xã hội chỉ là
một sự thay đổi luân chuyển tuần hoàn khép kín, thời của khuôn vàng thước ngọc
áp đặt lên mọi ứng xử, hành động của con người kể cả hành động sáng tạo nghệ
33
thuật” (TS Phan Huy Dũng). Thơ trữ tình cổ điển với ba thể thơ tiêu biểu: thơ
Đường luật, thể hát nói, thể ngâm khúc. Thơ cổ điển có niêm luật chặt chẽ với vần,
đối, nhịp, số câu, số từ được quy định nghiêm ngặt, hầu như không sử dụng hư từ.
Nội dung bài thơ được dồn vào từ, hình ảnh. Điều này khác với thơ ca hiện đại. Đa
số các bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do, hay thơ văn xuôi đều không quy
định số câu, số từ (trong thơ tự do câu thơ dài nhất thường không quá 12 âm tiết ),
vần ( trong thơ văn xuôi không yêu cầu phải có hiệp vần) đối, nhịp điệu cũng thay
đổi buông lơi theo dòng cảm xúc. Nội dung bài thơ không chỉ được thể hiện qua từ,
hình ảnh, mà còn thể hiện ở nhịp, giọng điệu. Trong thơ văn xuôi, chúng ta thường
thấy có các hình thức lập luận: nếu…thì, hình thức đối thoại gạch đầu dòng…Tất cả
những yếu tố trên góp phần chuyển tải được nhiều trạng thái tâm lí khác nhau,
những vẫn đề nhân sinh, những thông điệp cuộc sống mà người nghệ sĩ muốn tâm
sự cũng bạn đọc.
Thơ Đường luật hay còn gọi là thơ cận thể hay thơ cách luật là thể thơ được
chuyển hoá ở đời Đường Trung Quốc. Thơ đường luật có ba dạng: bát cú, tứ tuyệt,
bài luật hay trường luật là loại thơ có vần, có đối, dài từ 20 câu trở lên.
Thơ Đường luật xuất hiện khá sớm. Thi phẩm Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận
được xem là bài thơ Đường luật đầu tiên. Sang thế kỉ XV có những tập thơ quy mô
được sáng tác theo thể thơ Đường luật như tập thơ được viết bằng chữ Hán: Ức Trai
thi tập. Đặc biệt xu hướng Việt hoá thơ đường luật được biểu hiện mạnh mẽ. Tập
thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có 71/ 254 bài là thơ Đường luật. Từ thế kỉ
XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII có những tập thơ đường luật Quy mô được viết bằng
chữ quốc âm như Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm có đến 1000 bài,
hiện tại còn hai phần. Tập thơ Nôm của Trịnh Căn có 100 bài thơ Nôm đường luật.
Hiện tượng độc đáo là liên kết những thơ đường luật để tạo thành truyện thơ như:
Vương Tường, Tô Công phụng sứ, Lâm tuyền kì ngộ. Từ nửa sau thế kỉ XVIII đến
34
nửa đầu thế kỉ XIX, thơ Đường luật vẫn là thể được sử dụng nhiều nhất. Đặc biệt
thơ đường luật có sự biến đổi về phong cách. Nửa sau thế kỉ XIX, thơ Đường luật
đạt nhiều thành tựu và có khuynh hướng trào phúng.
Thơ Đường luật hay còn gọi là thơ cận thể phải đáp ứng được sáu yêu cầu cơ
bản sau:
Về bố cục, gọi 4 câu: nhất, nhị, tam, tứ; 4 liên, liên đầu (câu 1- câu 2), liên cằm
(câu 3-4), liên cổ (câu 5-6), liên đuôi (câu 7-8). Đến đời Nguyên, Dương Tải gọi
theo chức năng: khai- thừa- chuyển - hợp. Ở Việt Nam gọi là đề- thực- luận- kết.
Về niêm (dính). Dính hai câu thơ thuộc hai liên khác nhau. Nguyên tắc dính:
lấy câu thơ thứ hai của câu chẵn thuộc liên trên cùng thanh với câu hai của câu thứ
hai của câu lẻ thuộc liên dưới. Một bài thơ Đường luật có bốn chỗ dính.
Về luật: sự đối thanh theo chiều ngang. Sự phân phối bằng trắc trong thơ cận
thể khác nhau.
Về vần: vị trí của vần, vần chân (cước vận) rơi vào câu 1 và các câu chẵn. Có
năm chỗ hiệp vần, chủ yếu vần bằng. Số lượng: năm.
Về đối : vần thứ hai và thứ ba đối: đối tứ, đối ý, đối thanh.
Về nhịp (tiết tấu): Do thơ Đường luật có thi pháp rất chặt chẽ, người Trung Hoa
đặt ra một số lệ đặc biệt: bất luận, nhất - tam - ngũ bất luận; nhị - tứ - lục phân
minh.
Thơ Đường luật chấp nhận hiện tượng chiết vận, lạc vận, tạo ra một số câu thơ
độc đáo: cô nhạn xuất quần, cô nhạn nhập quần, thất minh, thất luật.
Tóm lại, đây là một thể loại thuộc thơ trữ tình thời trung đại Việt Nam có các
chức năng và nội dung, mang tính quy phạm cao.
2.1.1. Thơ tỏ chí theo kiểu trực tiếp
Người ta thường nói, thơ trữ tình cổ điển là thơ trữ tình tỏ chí, nói chí dù viết về
đề tài gì, các thi nhân cũng không quên nói lên cái chí của mình. “Nhưng theo một
35
cái nhìn phân loại cụ thể, chúng ta vẫn có thể nói tới một loại thơ tả chí riêng trong
cái loại biệt thơ ấy mà đặc điểm nổi bật của thể thơ ấy là nhà thơ trực tiếp bày tỏ
chí khí, ý nguyện, hoài bão của mình.” ( TS. Phan Huy Dũng).
Ý niệm “thi ngôn chí” là một ý niệm có từ thời Nghiêu Thuấn. Nó thường được
nhắc đến như một mệnh đề mĩ học, nói về bản chất của thơ nói chung. Từ “chí”
theo từ nguyên Trung Quốc có nghĩa là kí ức, ghi chép, chí hướng, hoài bão. Từ
Mao thi tự, “chí” hợp với “tình”. Các nhà thơ Việt Nam dường như là không ai nói
đến (hoặc bằng nghị luận hoặc bằng cảm xúc, hình ảnh thơ ) rằng: “ Thơ là để nói
chí”. Vấn đề là chí đặt ở đâu?, “Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh,
có kẻ chí để ở sự nhàn dật” (Nguyễn Bỉnh Khiêm). “Nếu chí mà ở đạo đức thì tất
phát ra lời lẽ hồn hậu; chí mà ở sự nghiệp thì tất nhả ra khí phách hào hùng; chí ở
rừng, suối, gò hoang thì thích giọng thơ liêu tịch; chí ở gió mây, trăng, tuyết thì
thích vẻ thơ thanh cao; chí ở nỗi uất ức thì làm ra lời thơ ưu tư; chí ở niềm cảm
thương thì làm ra điệu thơ ai oán” (Phùng Khắc Khoan)… Các tác giả trung đại
Việt Nam có thể đặt chí trước nhiều bối cảnh, tình huống, quan hệ khác nhau,
nhưng nhìn chung, họ vẫn “ưu tiên cho việc đặt nó trước quan hệ với nghĩa lớn, với
vận mệnh của đất nước”. Và vũ trụ, càn khôn luôn luôn là không gian lí tưởng cho
sự hiện diện của con người “hữu chí”, “ nam nhi chí”.
Ngôn hoài, cảm hoài, thuật hoài, thuật hứng, tức sự…là những nhan đề quen
thuộc trong thơ ca trung đại.
Xuất phát từ đặc điểm trên nên cái tứ phổ biến trong tâm trạng của loại thơ này
được triển khai dựa trên sự đối lập nhưng đồng nhất giữa nhân vật trữ tình với các
đại lượng lớn của vũ trụ như trời - đất, sông - núi, xưa - sau…Trong tương quan ấy,
kích thước con người như được phóng to lên và khả năng giao cảm giữa con người
và thiên địa gần như là vô giới hạn.
36
Về kết cấu, với tứ thơ trên, “nhà thơ có thể bắt đầu bằng những câu nói vẽ lên
hình ảnh của mình, cũng có khi nhà thơ khẳng định ngay cái chí của mình ngay vào
lúc bài thơ rồi mới vẽ cái nền đằng sau là một bối cảnh vô cùng khoáng đãng. Ta
cũng gặp trường hợp nhà thơ trình bày cùng một lúc vừa hình ảnh bản thân vừa
hình ảnh vũ trụ trong một tứ thơ được sáng tạo bằng những liên tưởng xuất thần rất
thị vị. Nhìn chung do những hạn chế tất yếu về ngôn từ nên các nhà thơ không tránh
khỏi cách trình bày đối tượng theo thứ tự lớp sau nhưng nhìn bao quát cả bài, chúng
tôi có cảm nhận rất rõ ràng: hình ảnh thiên nhiên vũ trụ đã được dương lên như một
cái khung, như một cái nền để ôm vào giữa. Hình ảnh con người với những phẩm
chất tự tôn, tự tại, tự túc, tự lạc…của nó” (TS. Phan Huy Dũng)
Trong những bài thơ tả chí, những quan hệ xác lập của thời đại đã được thiên
nhiên hoá, vũ trụ hoá bằng việc nhà thơ quy các sự kiện cụ thể vào các phạm trù
phố quát như thời, thế, vận, mệnh. Quy cách sắc thái tình cảm phong phú vào các
khái niệm chung nhất như: sầu, hận, bi, phẫn. Quy các phản ứng có thể rất đa dạng
của nhân vật trữ tình vào các hành động công thức rất dễ nhận ra như: cúi đầu
xuống đất, ngửa mặt lên trời, mài kiếm, xắn tay, nghiến răng…
2.1.1.1. Thơ trữ tình nói về việc lập công danh
Tư tưởng chính thống của Nho giáo là đối với trang nam nhi sống trên cõi đời
là phải lập công danh để lại tiếng thơm cho hậu thế. Tư tưởng này đã ăn sâu vào
tiềm thức, nếp cảm, nếp nghĩ của bao thế hệ người Việt và trở thành lí tưởng sống,
trở thành chuẩn mực để mọi người cùng phấn đấu. Dân gian đã từng lưu truyền bài
ca dao:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.
37
Làm trai phải từng trải, có vốn sống, có sự hiểu biết…để giúp đời, lưu bang tế
thế. Nguyễn Quảng Nghiêm, trong Hưu hướng Như Lai có một chí khí táo bạo vượt
ra khỏi sự ràng buộc của giáo chỉ nhà Phật:
Làm trai lập chí xông trời thẳm,
Theo gót Như lai luống nhọc mình.
Ở hai câu đầu bài thơ: Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão đã làm sống dậy một tráng sĩ
với thế đứng vững chãi và dẫu rằng nhừng người ấy đã chiến đấu bao năm tháng
vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang, bất khuất sẵn sàng xả thân vì
dân tộc, mang tầm vóc vũ trụ:
Hoành sóc (sáo) giang sơn cáp kỉ thu
(Cắp ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy mùa thu)
Hình ảnh người tráng sĩ lại được lồng trong hình ảnh dân tộc, hình ảnh của cả
thế hệ Phạm Ngũ Lão, của dân tộc đang sống trong “Hào khí đông A” với sức mạnh
ba quân được ví như như sức mạnh của hổ báo làm át sao Ngâu (sao to và sáng),
cũng có cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa: sức mạnh của ba quân có thể nuốt
tươi trâu
Hình ảnh người tráng sĩ của Phạm Ngũ Lão là hình ảnh kì vĩ nhưng chân thực
không phải là hình ảnh ước lệ, ngoa dụ như trong chinh phụ ngâm của Đặng Trần
Côn hay trong thơ Lê Thánh Tông:
Miệng hàm thèm gương dạ nuốt trâu
Chí hăm hở dang tay bắt vượn.
Trong bối cảnh đó, Phạm Ngũ Lão bộc lộ cái chí của mình cũng là cái chí của
người tráng sĩ nói chung:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tan nghe chuyện Vũ Hầu.
38
Tác giả với tư cách là một vị tướng đã tự cảm thấy hổ thẹn, day dứt, còn vương
nợ với đời, với đất nước giang sơn vì chưa lập được chiến công lẫy lừng, làm nên
nghiệp lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh trừ giặc, cứu nước. Phạm Ngũ
Lão quả là con người khiêm tốn, giàu ý chí, rất đáng được khâm phục.
Nguyễn Công Trứ cũng là người đã thực hiện chí nam nhi của mình một cách
ngang tàng. Ông đã tự bằng lòng về mình, tự đánh giá cao nhân cách của mình. Là
một người có nhiều công trạng như khai hoang lấn bãi…Tác giả từng ý thức, từng
dõng dạc phát biểu:
Không công danh thà nát cỏ cây
Hay:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Trong Bài ca ngất ngưởng được sáng tác theo thể hát nói, tác giả đã tự thuật lại
quãng đời lên xuống đảo điên. Mở đầu là một câu thơ bằng tiếng Hán rất trang
trọng thể hiện sự tự tin, sự kiêu hãnh, sự ý thức trách nhiệm về mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
(Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ta)
Tiếp đến ông giới thiệu về mình một cách nghiêm trang lại vừa hài hước:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Thái độ tự tôn cá nhân thật độc đáo, không phải ai cũng dám làm nhất là trong
xã hội phong kiến. Và ông đã liệt kê hàng loạt chức danh mà mình đã từng đảm
nhận cũng là mà cách để khẳng định mình: mở đầu là học vị thủ khoa vẻ vang, tiếp
đó là chức tước Tham Tán, Tổng đốc Đông, Phủ Doãn Thừa Thiên, là chiến tích
“Lúc bình Tây cờ đại tướng. Tất cả đã khẳng định rằng, Nguyễn Công Trứ đã thực
hiện chí nam nhi của mình một cách ngang tàng. Chí nam nhi của tác giả được diễn
đạt qua những từ ngữ Hán Việt uy nghiêm trang trọng, qua âm điệu nhịp nhàng
39
được tạo nên bởi cách sử dụng điệp từ và cách ngắt nhịp câu thơ như: Khi Thủ
khoa/ khi Tham Tán/ khi Tổng đốc đông.
Hồ Xuân Hương nhà thơ độc đáo vô song (GS. Nguyễn Lộc), một con người
đầy bản lĩnh, đầy cá tính, rất mực tài năng. Đứng trước đền thờ Sầm Nghi Đống,
một tên tướng bại trận, phải thắt cổ nhục nhã, tác giả ước:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Nếu đổi thành cái phận được trọng của phận làm trai, Xuân Hương sẽ thực hiện
được cái chí làm trai của mình, sẽ làm được cái việc anh hùng to tát lẫy lừng trong
bốn biển hơn kia, chứ khong phải cái sự anh hùng của Sầm. Can đảm vô cùng,
mạnh mẽ vô cùng, thẳng thắn không ai bằng. Nữ sĩ là người đầu tiên trong lịch sử
văn học dõng dạc xưng tên mình một cách trịnh trọng, đường hoàng : Xuân Hương,
khiến nhiều trang nam nhi thời xưa cũng phải e dè, nể phục.
Nguyễn Xuân Ôn thì viết:
Thử sinh dĩ phụ tang bồng chí
Mạc tác đồ ngư lão giản biên.
Nghĩa là:
Đời này đã phụ chí tang bồng,
Đừng có làm con mọt già ở nơi sách vở.
Đất nước bị quân thù xâm lược, giày xéo thì cái chí là phải dốc toàn sức, toàn
trí phục vụ dân tộc, đấu tranh cho lẽ phải, bảo vệ giá trị con người, sự bình yên cho
cuộc sống. Sách vở thánh hiền không còn phù hợp đối với những người “hữu chí”.
Sau này, Phan Bội Châu trong bài: Xuất dương lưu biệt cũng quả quyết:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
40
Bên cạnh cá nhân trực tiếp bày tỏ chí khí của mình thì trong thơ trữ tình trung
đại, chúng ta còn thấy cái chí của cả toàn thể dân tộc, của cả thời đại. Khi đất nước
có xâm lăng thì cả một rừng cánh tay giơ cao: quyết chiến, quyết thắng!, cuốn
phăng bè lũ cướp nước, bán nước đem lại cuộc sống hoà bình ấm no cho nhân dân
theo cái mô hình lí tưởng mà các triều đại phong kiến Việt Nam thường lấy làm
chuẩn mực: xã hội Nghiêu, Thuấn ở Trung Quốc. “Khi nào người Tây nhổ hết cỏ
nước Nam thì mới thôi người Nam đánh Tây”. Bởi nước ta là một nước có chủ
quyền, có vị trí địa lí, thuận theo lẽ trời:
Sông núi nước Nam vua nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
(Bài thơ thần của lí Thường Kiệt)
Nguyễn Trãi trong áng văn chính luận mẫu mực: Bình Ngô đại cáo, cũng từng
khẳng định, đầy tự hào:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Với giọng điệu trang nghiêm, trịnh trọng đầy tự tin, Nguyễn Trãi đã nhắc lại và
có bổ sung về địa lí và truyền thống dân tộc: là nước độc lập có tên nước là Đại
Việt, có lãnh thổ, có lịch sử, có nền văn hiến riêng và đặc biệt, Nguyễn Trãi đã dùng
từ “xưng Đế” để khẳng định người đứng đầu đất nước chúng ta cũng ngang hàng
41
với người đứng đầu Trung Quốc. Thật trọn vẹn sâu sắc, thấu tình đạt lí, phù hợp với
hiện thực khách quan.
Bọn phong kiến phương Bắc bất chấp đạo lí, vi phạm nhân quyền một cách
trắng trợn sang cướp nước ta, chắc chắn chúng sẽ chuốc lấy thảm bại, bị đánh tơi
bởi, vết nhơ còn mãi, về đến nước vẫn còn tim đập chân rung bởi con người Việt
Nam nhiệt huyết yêu nước, biết nuôi “chí lớn” để phục thù, bảo vệ toàn vẹn giang
sơn lãnh thổ:
Cớ sao lũ giác sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
(Nam quốc sơn hà)
Ta chiến thắng nhưng tuyệt đối không được chủ quan, không say sưa kể lại
chiến công mà quên đi hiện tại, tương lai dân tộc. Cái ý chí, hoài bão, cái khát
vọng…luôn nằm trong huyết quản của người dân lúc này là phải ra sức rèn luyện trí
tuệ, sức lực, hiến kế xây dựng đất nước hùng cường giàu đẹp:
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang sơn
(Tụng giá hoàn kinh sư- Trần Quang Khải)
Với lời thơ ngắn, trang nghiêm, nhịp điệu trầm lắng, hai câu thơ đã mở ra
hướng đi cho tương lai dân tộc, thể hiện một tầm nhìn chiến lược, một chân lí cuộc
sống.
Là một tri thức nho học, có kiến thức uyên thâm, luôn mong muốn lam quan để
“trí quân trạch dân” (giúp vua giúp nước) nhưng sống trong xã hội đầy nhố nhăng,
đầy biến động, phức tạp… nên Nguyễn Khuyến đã cáo quan về ở ẩn. Ông mang
trong mình tâm trạng của con người bất đắc chí nên giọng điệu trong thơ ông là
giọng điều vò xé, day dứt, bất lực trước cảnh đất nước ngày một điêu tàn. Một loạt
câu thơ đã nói rõ điều đó :
42
sống nhàn nhưng thanh thản. Những sinh hoạt của tác giả rất đời thường nhưng thật
vui, thật hạnh phúc, không phải ai cũng thấy được:
Một mai một cuốc một cần câu,
Thơ thẩn nào ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá,
Xuân tắm hồ ao hạ tắm sen.
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Con người anh hùng trước hết là con người chiến thắng chính mình: chiến
thắng những dục vọng tầm thường, chiến thắng sự ích kỉ, sự đua chen trên bước
đường danh lợi…Có người suốt đời chạy theo đời sống vật chất, tiền tài mà đánh
mất mình, thậm chí bán rẻ cả lương tâm, để luôn phải sống trong sự lo sợ , hận thù,
day dứt khôn nguôi, không có một giây phút thanh thản, giữ được khoảng lặng
trong tâm hồn, niềm vui trong cuộc sống, để khi nhận ra ân hận thì đã quá muộn.
Giữ cho nhân cách của mình không bao giờ thay đổi dẫu hoàn cảnh có thay đổi quả
đáng khâm phục. Phải có ý chí lớn, lập trường luôn vững vàng, luôn phải di dưỡng
tính tình, đấu tranh bên trong thì mới thực hiện được, dẹp bớt đi “tham, sân, si, ái, ố,
dục”.
Chu Văn An cũng về ở ẩn. Qua một số bài thơ trong tập thơ Tiều ẩn thi tập của
ông như Đề Dương Công Thuỷ hoa đình, Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính,
Cung hoa ngự chế động chương cho ta thấy một con người thanh thản, điềm tĩnh:
Đình vũ thai cầm vân yểm quan
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan
Bích đào hoa hạ hồn vô sự
45
việc nước; yêu nước là căm thù giặc sục sôi, đau đớn nhức nhối tim gan trước sự
hung bạo của kẻ thù:
Còn một tấc lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.
Ngay cả khi về ở ẩn cũng không nguôi lo nghĩ:
Thân nhàn nhưng tâm bất nhàn.
Qua việc nói trực tiếp cái chí của mình, lí tưởng, hoài bão của mình, chúng ta
thấy các nhà thơ xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Nho gia, nhất là quan niệm
“trung quân ái quốc”. Cái chí cũng như việc thực hiện nó đều bị tư tưởng này chi
phối. Mặc dầu cái chí của các bậc quân tử xưa na ná giống nhau, nhưng chúng ta
vẫn nhận thấy hiện lên nhân cách, bản lĩnh của họ trong thời đại đầy biến động.
2.1.2. Thơ trữ tình tỏ chí theo kiểu gián tiếp qua các bài thơ vịnh vật
Danh mục “sự vật’ thường được vịnh xuất hiện nhiều nhất trong danh mục này
là các loại thảo mộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen; những loài cầm thú như: chim
ưng, chim sáo, chó, mèo, ngựa…Cũng có khi ít hơn người ta nhắc đến những sự vật
do bàn tay con người chế tác như: cái quạt, cái chổi…
Nguyễn Trãi có một loạt bài thơ viết về các loài hoa, cây cảnh nhưng qua đó tác
giả gửi gắm tiếng lòng, “cái chí” của mình. Bài Hoa mai:
Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi?
Yêu mi vì tiết sạch hơn người.
Gác Đông ắt đã từng làm khách,
Há những Bồ Tiên kết bạn chơi?
Viết về đặc điểm của hoa mai “chẳng tốt tươi” dầu “xuân đến”, khác với các
loài hoa khác: “Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu” (Viên Chiếu- Tham đồ hiển
quyết). Mở đầu là một câu hỏi, một sự chất vấn mọi người và chất vấn lòng mình
trước quy luật của thiên nhiên:
47
Chuyện bánh trôi là có thật, bánh muốn chín phải thả vào nước, nước sôi, bảy
nổi ba chìm…Bánh trôi ấy là “thân em”. Cái thân này lại đặt vào hoàn cảnh xã hội
đảo điên, giả dối, hạn chế sự phát triển cá tính con người. Người phụ nữ sống trong
xã hội ấy chịu nhiều đau khổ chồng chất, “không được thoả sức yêu đương”, tự do
bộc lộ tình cảm, bị coi thường. Họ chịu “kiếp ốc nhồi”. Xã hội muốn họ như thế
này, thế nọ, theo đúng chuẩn mực Nho giáo “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Còn em
vẫn “giữ tấm lòng son”, “quyết chí” giữ gìn sự trong sạch: chung thuỷ, tha thiết
trong tình cảm, luôn khao khát hạnh phúc tròn đầy, viên mãn.
Hình tượng trung tâm để các tác giả ngâm, vịnh là hình tượng của các con vật.
Các tác giả chỉ tập trung làm nổi bật lên các phẩm chất, đăc trưng mang tính chất
chủng loại của chúng mà bỏ sang sự tồn tại của chúng trong những hình thức cá
biệt. Mỗi nét miêu tả về chúng bao giờ cũng đi kèm một ý hướng khái quát và
những phẩm chất của chúng luôn được quy đồng vào những đức tính cao đẹp của
người quân tử hay những đặc tính khinh bỉ của kẻ tiểu nhân. Điều này cũng có
nghĩa là dù có vẻ chưa bao giờ nhà thơ bỏ rơi đối tượng miêu tả nhưng sự thật thì
đối tượng đó đã bị hi sinh cho một “cái chí” trừu tượng. Nói cách khác, “nhà thơ tuy
có nhìn vào đối tượng bình vịnh nhưng anh ta chẳng thấy cái gì thực sự là của riêng
nó mà chỉ thấy một cái bản chất chung bao hàm trong đó mà thôi. Điều này nhiều
lúc đã đẩy các bài thơ vịnh vật tả chí rơi vào triết lí khô khan. Gặp trường hợp chí
không đồng nghĩa với khẩu chí của người quân tử mà đồng nghĩa với một tâm trạng
cá biệt thì những bài thơ vịnh vật đỡ khô khan hơn nhiều. Lúc này tính tượng
trương của hình tượng mờ đi để tính ẩn dụ nổi lên và mỗi nét tả về về sự vật đều
hàm chứa trong đó những nỗi niềm”(TS. Phan Huy Dũng).
Nguyễn Khuyến nhân “con chim cuốc kêu” mà giãi bày tình cảm, tâm trạng
“bất đắc chí” của mình đối với đất nước. Từ điển tích cuốc kêu (vần c) diễn tả cảm
xúc nước non, đến chữ quốc (vần q) nghĩa là đất nước, non sông. Vận dụng tiếng
50
đồng âm kết hợp với điển tích kể trên, tác giả đã bộc bạch tâm sự riêng của mình
một cách tha thiết, réo rắt.
Từ chuyện xa xưa, vua Thục vì để mất nước mà day dứt, thương tiếc cuối cùng
hiện thành con chim quyên (gọi là chim cuốc) cứ mùa hè tới thì kêu ròng rã suốt
ngày đêm cho đến khi ứa máu và rũ xuống, tác giả đã bày tỏ sự xúc động chân
thành, sâu sắc cũng như nỗi thất vọng trước vận mệnh đất nước.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Mượn hình ảnh con chim cuốc kêu hè, tác giả đã nói lên nỗi đau rỉ máu, nỗi buồn
trĩu nặng, nát ruột tan hồn của bản thân mình vì cảnh điêu linh của đất nước Nó diễn
ra từ ngày sang đêm triền miên bất tận “đêm hè vắng”, “bóng nguyệt mờ”.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Hai câu thơ tiếp tục khắc hoạ tình cảm tha thiết của tác giả trước vận mệnh của đất
nước qua một dấu hỏi, một nghi vấn: Hồn nước đi về đâu? Ở đâu?.
Cặp kết trở lại đề tài về tiếng cuốc kêu để một lần nữa tác giả xoáy sâu vào tình
cảm yêu nước nhưng đầy bi kịch, bởi “đau đời có cứu được đời đâu”!
Để bày tỏ tình cảm, chí hướng, tâm trạng của mình một cách kín đáo qua các bài
thơ vịnh vật, các tác giả trung đại đã vận dụng triệt để ưu thế của thơ Đường luật
như kết cấu mạch lạc, ý tứ hàm súc, đối ngẫu chặt chẽ, nhất là từ ngữ uyển chuyển
mà chính xác, gợi cảm.
Thơ Đường luật có sức sống dẻo giai, mãnh liệt, trải theo chiều dài lịch sử văn
học dân tộc. Mặc dầu, nó có hệ thống thi pháp hết sức chặt chẽ, gò bó, hạn chế
người sáng tác trong việc giãi bày tâm sự, chuyển tải cảm xúc, tư tưởng, tâm trạng
nhưng nó vẫn là thể loại chiếm vị trí quan trọng nhất trong tất cả các thể loại văn
học trung đại Việt Nam. Người đọc, qua thể loại này đồng cảm, thấu hiểu “cái chí”,
51
ước mơ, lí tưởng cũng như sự thất vọng, “bất đắc chí” của các cá nhân nhà thơ, tầng
lớp người nào đó trong xã hội. Thi dĩ ngôn chí vừa thể hiện trực tiếp vừa gián tiếp.
2.2. Tự sự bằng vận văn và chức năng của truyện thơ Nôm
Nếu thơ trữ tình bộc lộ thế giới chủ quan của nhà thơ thì thơ tự sự thiên về phản
ánh hiện thực khách quan trong tính chủ quan, “chủ yếu là thơ ca khách quan bề
ngoài”. Thơ tự sự có dung lượng lớn, có cốt truyện, có hệ thống nhân vật, có các sự
kiện, các biến cố.
Cốt truyện trong tiếng Việt, do yếu tố cốt cho nên cốt trưyện thường được hiểu
như là cốt lõi, cái sườn, bộ xương, cơ sở truyện chứ chưa phải là truyện. Cốt truyện
có thể tóm tắt được và có khả năng vay mượn, di chuyển. Cốt truyện có vai trò quan
trọng trong việc liên kết các quan hệ với nhân vật, tổ chức, sắp xếp các sự kiện và
góp phần bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Các thành phần của cốt truyện: Thắt
nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút.
Nhân vật trong thơ tự sự đa dạng, gồm nhiều thành phần, từ tầng lớp vua quan
đến tầng lớp bình dân, bọn lưu manh… Trong thơ tự sự có hai hệ thống nhân vật
chính: hệ thống nhân vật chính diện, đại diện cho lẽ phải, cho điều tốt, cho sự tiến
bộ của con người và hệ thống nhân vật phản diện, đại diện cho cái xấu, phi nghĩa, đi
lại lợi ích con người. Ngoài ra còn có hệ thống nhân vật lưỡng diện vừa tốt, vừa
xấu. Nhân vật trong thơ tự sự không chỉ có hành động mà còn có đời sống nội tâm
phong phú. Khác với nhân vật trữ tình chỉ tập trung thể hiện một vài tâm trạng cá
biệt thì nhân vật của loại tự sự không những có tính đa dạng của nó mà còn có tính
phát triển, có quá trình và khác với nhân vật kịch trong loại văn tự sự, nhân vật
được thể hiện qua một câu chuyện về nhân vật đó chứ không phải qua hoạt động
độc lập của nhân vật ở trên sân khấu.
Trong tác phẩm trữ tình cũng như trong tác phẩm kịch không có người kể
chuyện. Người trần thuật và người kể chuyện là một yếu tố góp phần tạo nên đặc
52
trưng thể loại tự sự nói chung, thơ tự sự nói riêng. Người kể chuyện là hình tượng
ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học. Nó chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể chính là hình
tượng của tác giả nhưng có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo nên.
Người trần thuật là hình thái của hiện tượng tác giả trong tác phẩm văn học. Là
người mang tiếng nói, mang quan điểm của tác giả trong tác phẩm tự sự. Trong một
tác phẩm tự sự nói chung, thơ tự sự nói riêng, mọi sự biểu hiện, mọi sự miêu tả đều
là của tác giả, do tác giả thể hiện nhưng khi nhà văn không xuất đầu lộ diện mặc
dầu nhà văn biết tất cả, thông suốt tất cả về đời sống nội tâm và hành động của nhân
vật thì đó là người trần thuật. Khi nhà văn xuất hiện như một nhân vật tham gia vào
một vai trong truyện thì đó là người kể chuyện.
Trong thơ tự sự có ngôn ngữ người kể chuyện vì có người kể chuyện nên phải
có ngôn ngữ người kể chuyện. Chẳng hạn, mở đầu truyện Kiều là ngôn ngữ của
Nguyễn Du:
Trăm năm, trong cõi người ta,
Chứ tài, chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Bên cạnh ngôn ngữ người kể chuyện còn có ngôn ngữ nhân vật. Thông qua đối
thoại, nhờ đối thoại, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật tạo ra cảm
giác bất ngờ, tình huống bất ngờ góp phần bộc lộ tính cách. Đây là lời nhân vật Từ
Hải trả lời Kiều:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
53
với một tên tác giả cụ thể. Thứ hai truyện thơ Nôm bình dân xuất hiện trước phần
lớn sự dụng cốt truyện dân gian, có sử dụng cốt truyện nước ngoài nhưng rất hạn
hữu. Truyện thơ Nôm bác học hay còn gọi là truyện Nôm văn nhân có tên tác giả
như Truyện Kiều của Nguyễn Du, cốt truyện thường được tác giả vay mượn cốt
truyện nước ngoài như truyện Kiều được Nguyễn Du vay mượn từ cốt truyện tiểu
thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân hoặc tự sáng tác
như truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Tuy vay mượn cốt truyện nước
ngoài nhưng trong quá trình sáng tác, các tác giả đã có quá trình sáng tạo không
ngừng “dấu ấn cá nhân tác giả vẫn thể hiện rất rõ rệt, đậm nét”. Việc sáng tạo của
tác giả thể hiện nhiều điều. Thứ nhất, thể hiện phẩm chất của người nghệ sĩ: sáng
tạo và không ngừng sáng tạo, tức là trên cốt lõi nội dung mà cốt truyện đó mang lại,
tác giả phải có sự cách tân, “làm mới” cả về nôi dung, đặc biệt là hình thức diễn đạt.
Sêcxpia khi viết các vở bi kịch nổi tiếng cả thế giới, có tầm nhân loại, tạo được dấu
ấn khó phai mờ và được xem là mẫu mực ở thể loại kịch cũng lấy cốt truyện từ
truyện kể dân gian. Cái đáng quý nhất của Sêcxpia là ông đã đưa yếu tố tâm lí với
nhiều độc thoại nội tâm tạo cho nhân vật có chiều sâu về tầm nhận thức. Nếu nhà
thơ không tự làm mới mình tức là anh ta đã làm hại mình, vai trò cũng như cá tính
sáng tạo của anh ta sẽ rất mờ nhạt. Thứ hai, nhà thơ trong quá trình viết “phải đổi
mới không ngừng” để phù hợp với hiện thực cuộc sống, tư tưởng, tâm lí cũng như
trình độ tiếp nhận của độc giả lúc bấy giờ. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một
minh chứng tiêu biểu, xác đáng. Từ thể loại tiểu thuyết chương hồi, tác giả đã
chuyển thành thể thơ lục bát và còn đưa nó lên tới đỉnh cao, trở thành mẫu mực về
thể loại. Trên cơ sở cốt truyện đó, tác giả không ngần ngại cắt bỏ khoảng 1/3 chi tiết
mà tác giả cho là làm ảnh hưởng đến mĩ quan người tiếp nhận, hoặc có tính chất kể
lể rườm rà, chỉ có tính chất văn xuôi, trong khi đó yêu cầu ở thơ phải có tính cô
đọng, phải gợi cho người đọc một chiều sâu liên tưởng, suy nghĩ. Nhân vật trong
55
Truyện Kiều cũng đã thay đổi. Nếu Thuý Kiều trong Kim Vân Kiều truyện gặp
nhiều trắc trở, làm điếm, rất ít khi trăn trở, suy nghĩ, đau buồn thì Nàng Kiều của
Nguyễn Du có dấu ấn khó phai mờ, nổi bật từ vẻ đẹp hình thể, nhất là có một phẩm
chất rất tốt đẹp, có đời sống nội tâm phong phú. Nàng là hiện thân của lòng vị tha,
đức hi sinh, chung thuỷ. Từ Hải trong nguyên tác là một tên giặc cỏ thì trong
truyện Kiều của Nguyễn Du là đại diện cho công lí, chống lại ách áp bức cường
quyền. Chính Từ Hải đã đòi lại công bằng cho Kiều, giúp Thuý Kiều báo ân, báo
oán. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng thay đổi nhiều chi tiết cho phù hợp với
hoàn cảnh, tâm trạng như lúc chị em Thuý Kiều đi tảo mộ mùa xuân gặp Kim Trọng
sau đó trong nguyên tác chị em Kiều về trước nhưng trong truyện Kiều, Nguyễn Du
để cho Kim Trọng về trước. Vì vậy cuộc chia tay thêm lưu luyến, bịn rịn, hợp tình,
hợp cảnh:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Cao Huy Đỉnh, Trần Đình Sử đã nêu các đặc trưng thi pháp truyện thơ như sau:
1. Nhân vật đã được quan niệm rõ ràng về tên họ, quê quán…
2. Có quan hệ xã hội rõ ràng và phức tạp hơn. Nhân vật nói là loại hình chứ
chưa phải là cá tính.
3. Yếu tố tự sự tăng cường bằng nhiều biện pháp miêu tả cảnh vật, sinh hoạt xã
hội, hoạt động của con người.
4. Yếu tố trữ tình cũng chiếm một liều lượng phong phú.
5. Ngoài ra còn có các yếu tố kịch, đối thoại dài giữa các nhân vật.
6. Các yếu tố phi cốt truyện: lời bình triết lí, trữ tình.
Truyện Nôm là sản phẩm sáng tạo kết hợp các cốt truyện có sẵn với khả năng tự
sự của thơ lục bát. Nó sáng tác để kể nhưng cũng để xem. Ý thức sáng tác văn học
viết thể hiện rất rõ ngay đoạn mở đầu truyện Tống Trân- Cúc Hoa, một truyện mà
56
tính chất dân gian nổi lên rất đậm: “Nhân khi thong thả thư trai, Giở xem truyện cũ,
đặt bài quốc âm”. Người ta không kể chuyện “ thư trai” bao giờ” nhất là các ông
xẩm, người kể chuyện rong. Ở đây người viết giở xem truyện cũ” rồi đặt bài quốc
âm mới. “Quốc âm” là thuật ngữ chỉ văn học viết dân tộc.
Truyện thơ Nôm đã thể hiện ý thức làm truyện rõ ràng, chứng tỏ tác giả dân
gian muốn làm văn học viết, ý thức làm văn tự. Truyện Nôm không dừng lại để kể
mà còn để xem, để ngâm và phải chép thành văn thì mới xong:
Mạnh tay góp nhặt chuyện người
Ghi vào một tập xem chơi cũng kỳ
(Tuyển phu ngộ phối tân truyện)
Hay:
Thừa nhân mượn bút chép ghi,
Phong lưu gọi một truyền kì mà chơi
(Từ Thức)
Chức năng của truyện thơ Nôm.
Tái hiện hiên thực, qua cuộc đời và số phận của các nhân vật mà giúp cho độc
giả nắm bắt được bản chất của cuộc sống, thấu hiểu lẽ đời, tình đời, sự vùng lên của
ý thức cái tôi cá nhân.
Đặng Thanh Lê với công trình: Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, đã khẳng
định truyện Nôm là “Phản ánh đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp”. Đặng Thanh
Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận trong công trình : Văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, truyện Nôm “trực tiếp miêu tả những gì liên quan chặt
chẽ đến cuộc sống con người trong một bối cảnh xã hội lịch sử cụ thể”.
Ý kiến của Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong cuốn: Sơ
thảo lịch sử văn học Việt Nam viết: “Truyện Nôm ở thế kỉ XVIII chính là thể hiện ý
57
thức cá nhân đối kháng với đạo đức, lễ giáo phong kiến, cho nên sự phồn thịnh của
truyện Nôm chính là báo hiệu của ý thức cá nhân đã xuất hiện”.
Tình yêu của Phạm Tải, Ngọc Hoa trong truyện thơ Phạm Tải Cúc Hoa cũng
gặp nhiều trắc trở, sóng gió nhưng cuối cùng cũng gặp nhau và nên duyên vợ
chồng. Ngọc Hoa thấy Phạm Tải thì yêu ngay “nhất kiến chung tình”, cha mẹ tán
thành theo ý con nhưng tiểu nhân phá hoại: điện Biền tạc tượng dâng vua. Vua đắm
đuối nữ sắc bất chấp đạo lí, tuyển Ngọc Hoa vào cung, đầu độc Phạm Tải. Ngọc
Hoa để tang rồi đoạn tang thì chết theo chồng. Đi kiện tại Diêm Vương, Thiên Tào
tra sổ, cho quỷ sứ bắt Trang Vương bỏ vạc dầu, cho Phạm Tải và Ngọc Hoa sống
lại, để Phạm Tải làm vua.
Truyện Nôm Thạch Sanh, theo bản in miền Bắc có 1812 câu, ca ngợi nhân vật
Thạch Sanh hào hiệp, lương thiện, dũng cảm, đồng thời tố cáo tên Lí Thông gian ác,
thâm độc, cơ hội. Lí Thông có thể làm bất cứ chuyện gì bất chấp đạo lí, tình nghĩa.
Đây là lời lẽ đường mật mà hắn dụ Thạch Sanh đi canh miếu thần:
Lí Thông cười nói tưng bừng
Truyện trò bả lả ra chừng vui tươi
Nỗi sợ hãi và âm mưu thâm độc được che đậy bởi hình thức bề ngoài: cười nói
tưng bừng. Bản chất đã được che dấu bởi hình thức bên ngoài khiến Thạch Sanh cả
tin đi ngay, không một chút do dự, dùng dằng. Rồi giọng nói ngọt ngào của hắn để
lừa phỉnh: “Miếu thần, em khá thẳng qua, Tuần xong em trở về nhà mà thôi”. Lời
hắn êm ái nghe như lời hát:
Rằng anh có việc em thời giúp anh
Nhân nay có lệnh triều đình
Đến phiên anh phải đi canh miếu thờ
Để mà kiểm điểm xem qua
Đĩa vàng chén ngọc bây giờ đủ không
58
thực ở chùa chiền và ông đã bóc trần không thương tiếc. Thật đáng buồn thay,
không một ông sư, bà vãi nào tu hành nghiêm chỉnh mà là bọn: “hết gạo lỡ tiền, Túi
thơ bầu rượu giả tiên dối đời”, hoặc là kẻ thất tình trốn đời. Có thể nói toàn một lũ
“nết quỷ dạ tinh, Miệng tuy bò tát mà tình dạ thoa”. Đó là những hình ảnh:
Sư huynh chải chuốt vãi già đong đưa.
Ra vào tiểu gái lẳng lơ,
Long lanh mắt liếc, say sưa miệng cười.
Ăn chơi sĩ, nữ xôn xao,
Kẻ ra sơn đỗng người vào thuỷ cung.
Chùa cầu tím mới não nùng,
Sư dịu dàng dạng, tiểu phong phanh hình…
Phạm Thái khó chịu và đã thốt lên:
Ối nao ôi, khổ tu hành!
Biết Tây phương có dạng hình này không.
Nguyễn Du là con người chứng nhân: sống và trải nghiệm lịch sử. Sinh ra trong
một gia đình phong lưu, có truyền thống văn chương nhưng Nguyễn Du hầu như
không đón nhận về mặt giáo dục ở gia đình mà Nguyễn Du sớm trôi nổi, lăn lóc
trong trường đời. Sớm lăn lóc trong cuộc sống và sau lăn lóc trong cảm xúc cho nên
đã tạo cho Nguyễn Du một trường giao tiếp càng ngày càng rộng rãi. Từ đây,
Nguyễn Du nảy sinh khuynh hướng những ai trăn trở lăn lóc như mình, họ không
khác gì mình, mình không khác gì họ nên hướng về nổi khổ tạo ra vốn sống, vốn
kinh nghiệm cho người sáng tác.
Một người sống, dành nhiều tình cảm cho đời, cho người chắc là người đa sầu
đa cảm. Hầu như Nguyễn Du đã trải qua nhiều mặt văn chương. Năm 21 tuổi ông
đã làm thơ, cho đến lúc viết xong Truyện Kiều, ông còn sáng tác và cuối cùng
Nguyễn Du đã chọn thể lục bát trong thể tài thuần tuý của dân tộc làm nên chuyện
61
để đời. Ông là người sống trải qua thời đại nhiều biến động. Bản thân ông cũng
không nhận ra đường đi cho mình.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du chú ý đến lớp người đau khổ nhất là người phụ
nữ. Mở đầu ông viết:
Trăm năm, trăm cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh, rỏ là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điêu trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc, tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Trong phạm vi một cuộc đời (100 năm) ai cũng thấy hạnh phúc, cũng thấy đau
khổ. Con người trong một trăm năm ấy dễ thấy đau khổ, cũng chưa thấy hạnh phúc.
Ông đặt ra một vấn đề nhân sinh: không gian ở đây là cuộc sống “cõi người ta”-
chuyện đời người.
Tư tưởng của Nguyễn Du rất hiện thực. Có cái gì rất nghiệt ngã bằng chữ tài,
chữ mệnh rõ là ghét nhau - như một quy luật thời gian của người và khả năng sống
giường như là mâu thuẫn với nhau. Mệnh bằng thời gian sống. Ba yếu tố của vũ trụ:
trời - đất - con người. Nguyễn Du coi như là một luật và trong đời người ai cũng sẽ
như vậy nhưng cách trình bày của Nguyễn Du lộ ra sự mỉa mai “ khéo là”, nhận
thức ra.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Đã sống một cuộc đời, nếu ai từng trải, lăn lóc nhiều, gặp nhiều thay đổi, những
tai hoạ lớn thì dễ đồng cảm. Ai từng trải, mình từng chứng kiến thì mình càng đau
đớn (buồn, bất hạnh…). Ở đây cũng có ý khẳng định:
Người mà đến thế thì thôi,
62
bất hạnh, oan ức. Truyện Kiều là một tiếng chuông gióng lên tố cáo xã hội chà đạp
tài hoa, đức hạnh. Nguyễn Du không chỉ đặt ra vấn đề lên án xã hội phong kiến mà
còn đề ra khả năng cho người ta dành lấy hạnh phúc. Ông đã xây dựng một mối tình
cho những người phụ nữ bất hạnh.
Tác phẩm là lời tự tình về tình yêu hạnh phúc, chống lại trật tự xã hội thối nát.
Mối tình Kim - Kiều là mối tình hiện thực, bất chấp xã hội, thế lực đồng tiền…cuối
cùng vượt được về bến an toàn:
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Nhưng mối tình đang diễn ra trong xã hội phong kiến như vậy nên tự nó cũng
tố cáo chính xã hội phong kiến đã phủ nhận quyền sống, quyền được yêu của đôi
lứa. Nguyễn Du mong mỏi những ai thương yêu nhau đều được hạnh phúc. Ông đã
xây dựng một mối tình trải qua bao gian truân, mối tình bạc mệnh. Ông xây dựng
một một loại nhân vật lịch lãm trong tình yêu nhưng cũng rất hồn nhiên trong trắng.
Qua từng chặng đời khác nhau nhưng cuối cùng vẫn chung thuỷ duy nhất ban đầu,
coi như sợi chỉ xuyên suốt trong tâm lí Thuý Kiều là Kim Trọng. Như thể hai con
người này chứng minh con người mình đúng. Mối tình Kim - Kiều đang lụi tàn.
Kim - Kiều là bạn. Nguyễn Du nghĩ rất tế nhị: mối tình tay ba không thể tồn tại.
Cuối cùng mối tình tàn lụi: hai người cùng đi hai ngả khác nhau. Từ đây không có
hạnh phúc tình yêu thật trong đôi lứa này nhưng nó trở thành lí tưởng.
Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên cũng chịu ảnh hưởng
tư tưởng Nho giáo. Trong luận ngữ, Khổng Tử nhắc trên 60 lần “nhân nghĩa”. Đối
tượng phân hai loại: người quân tử là người thực hiện lí tưởng nhân nghĩa và kẻ tiểu
nhân. Nhân nghĩa phải quay trở lại phục vụ người quân tử chứ không phải vì dân.
Từ đó xuất hiện mệnh đề “trí quân trạch dân” : phò vua giúp dân. Trí quân mà
không trạch dân gọi là ngu trung, thờ vua một cách mù quáng. Vừa trí quân vừa
trạch dân: công, tội lẫn lộn. Trường hợp quyền lợi vua - dân phù hợp là công, ngược
65
lại là tội. Lấy trạch dân làm gốc, coi trọng dân hơn vua tạo ra cái vĩ nhân của lịch
sử. Nguyễn Đình Chiểu lấy trạch dân làm gốc. Trong Nho giáo có các khái niệm:
trung, hiếu, tiết, nghĩa. Hiếu là đầu mối các quan hệ, trung là cứu cánh. Hiếu, tiết,
nghĩa không được mâu thuẫn với trung quân. Nếu mâu thuẫn thì hi sinh hiếu, tiết,
nghĩa. Trung vua - tôi: vua có trách nhiệm dẫn dắt bề tôi, bề tôi có trách nhiệm phục
vụ vua. Trong lí thuyết và thực tế có mâu thuẫn. Sở Vương trong truyện thơ Lục
Vân Tiên lúc đầu không phải là ông vua sáng suốt vì đã cống Kiều Nguyệt Nga cho
giặc Ô Qua. Cuối tác phẩm Sở Vương là một minh quân: tha tội cho Hớn Minh,
Kiều Nguyệt Nga. Vua từ xấu sang tốt. Cảm hứng trung tâm trong Lục Vân Tiên là
hiếu, tiết, nghĩa. Kiều Nguyệt Nga đã chống lại chữ trung. Khi Sở Vương bảo nàng
sang cống giặc Ô Qua, đi giữa đường nàng tự vẫn để giữ trọn chữ tiết-chống lại vua,
tạo ra sự rạn nứt chữ trung. Ở đây đã có sự điều hoà mâu thuẫn: Kim Liên cống thay
cho Kiều Nguyệt Nga. Đối với chữ hiếu, theo lí thuyết cha mẹ có trách nhiệm nuôi
dưỡng con cái, con cái phụng dưỡng cha mẹ lúc về già. Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy, nhấn mạnh cha mẹ tạo ra tinh thần, gia trưởng trong điều hoà các mối quan hệ.
Quan hệ giữa Lục Vân Tiên, Kiều Công và Kiều Nguyệt Nga. Sau khi cứu Nguyệt
Nga :
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”.
Vân Tiên không nhận tiền mà làm thơ tặng nàng, sau đó không hề nói chuyện
gia thất, quay lại với lí thuyết. Kiều Công để cho Kiều Nguyệt Nga toàn quyền
quyết định về chuyện gia đình. Quan hệ Lục Vân Tiên-Lục Ông. Chàng yêu thương
cha mẹ, cha mẹ cũng vậy, trở về đúng chữ hiếu. Đặt trên cơ sở tình thương là chính
là điểm tiến bộ trong cách nhìn của Nguyễn Đình Chiểu. Mối quan hệ chữ tiết: mối
66
quan hệ chồng - vợ. Nho giáo quan niệm: vợ chồng tương kính như tân - đối đãi
nhau như khách, chồng, vợ có trách nhiệm, thương yêu nhau. Vợ có trách nhiệm
giữ chữ tiết với chồng, con. Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga không có quan hệ ràng
buộc gì cả. Chữ tiết mang tính tự nguyện, diễn ra sau khi đánh cướp Phong Lai,
Nguyệt Nga quan tâm nhiều hơn. Nàng đi đâu cũng mang ảnh Lục Vân tiên. Bùi
Kiệm nhận ra ảnh Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga vẽ rất giống ảnh Lục Vân Tiên.
Chàng cũng rất coi trọng chữ tiết. Tác giả quan tâm đến lòng thành, đề cao chữ tiết:
tiết ân nghĩa, ân tình. Về chữ nghĩa, tác phẩm đã giải quyết tốt mối quan hệ trong lí
thuyết của nhà Nho. Trong tác phẩm, tác giả nhấn mạnh hai yếu tố: nghĩa bầu bạn,
nghĩa thuỷ chung. Chúng luôn xuất hiện trong tác phẩm thành hai tuyết đối lập
nhau. Quan hệ tiểu Đồng và Lục Vân tiên là quan hệ chủ- tớ. Trong tác phẩm không
hề có quan hệ đó mà chỉ có quan hệ bầu bạn, thuỷ chung. Nghe tin Lục Vân Tiên
chết, tiểu Đồng đã chè chòi giữ mả ba năm. Lục Vân Tiên sau khi sáng mắt, làm lễ
tế Tiểu đồng và gặp lại. Nghĩa thuỷ chung, Kiều Nguyệt Nga không có ràng buộc gì
nhưng trước sau vẫn chung thuỷ. Nàng đã khóc lóc thảm thiết khi nghe tin Vân Tiên
ốm và mất:
“Biết nhau chưa được mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ơi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,
Thương người quân tử biết đời nào phai.”
Khi bị bắt đi cống giặc Ô Qua, nàng đã làm chay cho Vân Tiên, rồi đến thăm
Lục Ông, để lại tiền của giúp ông:
“Chẳng chi cũng gọi là dâu,
Muốn cho việc nước phải âu việc nhà.
Một ngày một bước một xa,
Của này để lại cho cha dưỡng già.”
67
Điều này đối lập hoàn toàn với Võ Thể Loan. Một số lớn nhân vật thể hiện tư
tưởng nhân nghĩa: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Trực, Hớn Minh, Tiểu
Đồng, lão Bà…Lực lượng phù trợ: sóng thần đưa vào bờ, Phật bà, sơn quân. Hệ
thống nhân vật trong tác phẩm, đó là con người nhất phiến: một mặt là tốt, một mặt
là xấu, chưa có con người lưỡng phân như trong truyện Kiều: vừa tốt vừa xấu. Nhân
vật luôn được coi trọng ở hành động chứ không coi trọng tâm lí nhân vật. Nhân vật
của Nguyễn Đình Chiểu luôn luôn trên đường đi. Không gian địa lí (rừng, núi…)
không phải không gian hẹp. Trong tác phẩm, tác giả không chú trọng đến độc thoại
nội tâm mà chỉ chú ý đến đối thoại: màu sắc, hình ảnh ngôn ngữ. Màu sắc nói và kể
rất rõ nên gắn với văn học dân gian, gần với văn học dân gian. So với Nho giáo,
truyện thơ Lục Vân Tiên có tiến bộ về trung, hiếu, tiết, nghĩa. Tác phẩm này không
phải là truyện thơ cuối cùng mà là truyện thơ hay. Sau này có Nguyễn Bính…Sức
hấp dẫn của nó là có sự kết hợp giữa: truyện và thơ, vừa trữ tình vừa tự sự, đáp ứng
yêu cầu kể chuyện. Để chuyển từ văn học truyện thơ sang tác phẩm truyện đòi hỏi
có một thời gian dài, giai đoạn giao thoa văn học.
Để chuyển tải được nội dung đó, các tác giả văn học trung đại thường sử dụng
các thể thơ: Đường luật, thể lục bát. Truyện thơ Nôm có cốt truyện và thể thơ. Cốt
truyện là phần nội dung có thể vay mượn hay lấy từ thực tế dân tộc. Thể thơ lục bát
là nghệ thuật rất dân tộc, thể thơ dân tộc. Theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Na trong
gần 150 truyện thơ Nôm thì chỉ có 3 truyện viết theo thể luật đường, chiếm tỉ lệ gần
2%. Đó là các truyện: Tô Công phụng sứ, Lâm tuyền kì ngộ và Vương Tường. Vì
thơ luật Đường có quy mô kết cấu và có quy định cấu trúc, nó không đủ khả năng
làm công cụ tự sự.
Thơ lục bát là thể thuần tuý của dân tộc: câu đầu sáu tiếng, câu sau tám tiếng
khác thơ Đường. Tính chất thơ lục bát: vừa miêu tả cụ thể vừa miêu tả khái quát.
Miêu tả cụ thể là trực tiếp miêu tả sự vật, hiện tượng, thường chỉ miêu tả bề ngoài;
68
miêu tả khái quát dễ miêu tả bên trong. Miêu tả cụ thể sẽ dẫn đến miêu tả mâu thuẫn
khái quát, dẫn đến sự biểu hiện tinh thần, khác miêu tả cụ thể biểu hiện vật chất.
Chẳng hạn, miêu tả khái quát:
Trăm năm, trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
Miêu tả cụ thể nhân vật Từ Hải:
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
So sánh:
Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến, nét thu ngại ngùng.
Miêu tả trạng thái giữa Thuý Kiều và Kim Trọng: có một đôi mắt nhìn, có một
lỗ tai đang nghe. Mây thanh mắt trong như dáng mùa xuân và trong như gợn sóng
mùa xuân. Câu thơ có khả năng kể được chuyện rất thuận tiện cho việc xây dựng tự
sự.
Câu thơ lục bát giàu vì nó có vần và vần này nhanh chóng biến thành nhịp và
nhịp nhanh chóng biến thành điệu. Từ thể thơ này các tác giả văn học trung đại nghĩ
ngay đến tự sự và kể chuyện một cách khác người. Nguyễn Du không kể như tác
phẩm văn học trung Quốc. Thanh Tâm Tài Nhân kể theo tiểu thuyết chương hồi,
Nguyễn Du kể bằng văn vần. Nếu Thanh Tâm tài Nhân lưu ý đến từng đoạn cao
trào, kể chuyện ở hồi, ở mưu: sự việc - sự việc - sự việc; nhân vật - nhân vật - nhân
vật; hành động- hành động- hành động tạo ra những pha gay cấn cho người đọc
nhưng không sâu sắc thì Nguyễn Du lưu ý nhịp ở hoàn cảnh và ở những tâm trạng -
những cái bên trong sự việc: hoàn cảnh - hoản cảnh - hoàn cảnh; nhân vật - tâm
trạng - tâm trạng, không hấp dẫn nhưng sâu sắc. Nguyễn Du phải xây dựng một hệ
thống nhân vật sao cho gọn để dễ kể.
69
Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nguyễn Du không cần kể một lúc nhiều nhân
vật mà đẩy hình ảnh người sắp kể vào tâm trí người đang kể như Thuý Kiều nhớ
Kim Trọng.
Ông yêu thương, trân trọng, bênh vực nhân vật chính diện tốt đẹp: Thuý Kiều,
Kim Trọng, Từ Hải và cực lực phê phán tuyến phản diện: những nhân vật đối diện
hoàn toàn với những nhân vật chính diện gây ra đau khổ, phiền phức cho ba người:
Bọn Nha lại, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến…Ngoài ra còn có hệ
thống nhân vật lưỡng diện như Thúc Sinh, Hoạn Thư, những nhân vật rất thường
trong cuộc đời: Vương Bà, bà Giác Duyên, Thuý Vân, Vương Quan…Loại nhân vật
này rất thật. Bà mụ quản gia thấy Thuý Kiều đau khổ: dỗ dành. Vương Bà là người
mẹ mẫu mực, Thuý Kiều đi tảo mộ về khóc:
Dạy rằng: “Mộng huyễn chắc đâu?
“Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!”
Khi nghe tin con không lấy Mã Giám Sinh, bà rất đau đớn.
Nguyễn Du có ý triển khai hai bút pháp nhân vật: bút pháp tự sự, giãi bày và
bút pháp phân tích tâm lí nhân vật - miêu tả cho ra tâm trạng của nhân vật. Nguyễn
Du hay sử dụng thủ pháp hô ứng: gọi - đáp. Hô ứng là thủ pháp lớn trong Truyện
Kiều. Chẳng hạn:
Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao!
“Hại nhân nhân hại sự nào tại ta?
Mở đầu Truyện Kiều là hội đạp thanh, lễ tảo mộ, kết thúc là hội đoàn viên,
Thuý Kiều và Kim Trọng sống và tưởng niệm những kỉ niệm cuả mình. Khi bước
chân ra đi là cuối xuân, khi ra cuối đoạn trường đã bước sang mùa thu nhằm để báo
đáp một vấn đề gì đấy: để hô- ứng hấp dẫn, miêu tả giữa cảnh và tình có mối quan
hệ. Tác giả sử dụng bút pháp “Tâm-Cảnh”:
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
70
chỉnh và có thể coi đây là cuốn tiểu thuyết tâm lí đầu tiên của Việt Nam. Tâm lí của
những người đang yêu nhau theo một cú pháp phân tích. Tâm lí điển hình và tính
cách cũng điển hình. Tác giả phân tích tận cùng, rốt ráo “ phép biện chứng tâm
hồn”. Nguyễn Du phân tích tâm lí tàn nhẫn (Phan Ngọc), tâm lí Thuý Kiều. Hoàn
cảnh nó kéo theo những tâm thế, tâm trạng của nhân vật, một nội tâm nhân vật để từ
đó nhân vật có một tâm thế để hành động. Truyện Kiều “là cuốn bách khoa toàn thư
của ngàn tâm trạng” đầy đủ các tâm trạng: buồn, vui, hoàn cảnh sống, tâm lí nhân
vật phong phú, phức tạp. Đây gọi là phép chỉ ra những mặt rất lo gic, rất luận lí
trong tâm hồn nhân vật. Bức tranh tâm hồn nhân vật rất rõ.
Ngôn ngữ trong truyện Kiều: thơ lục bát miêu tả đạt đến độ coi như miêu tả
mẫu mực:
“Của tin, gọi một chút này làm ghi”.
Thơ chữ Nôm:
Này chồng, này mẹ, này cha,
Này là em ruột này là em dâu.
Đạt được điều này là do Nguyễn Du sử dụng hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ bình
dân và ngôn ngữ bác học. Ngôn ngữ bình dân mang dáng dấp hiện thực bên ngoài.
Ngôn ngữ bác học mang dáng dấp văn chương mà trong đời sống lời nói phát sinh
ghi được qua câu văn có tính chất lời nói thường: khẩu ngữ. Đã văn chương thì phải
trau chuốt, phải tạo ra dáng “nghệ thuật”. Mộc mạc nhưng sắc sảo, bình thường mà
sang trọng, gọt rũa mà vẫn tự nhiên.
Chém cha cái số hoa đào
…
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Thuý Kiều nói:
Đã buồn cả ruột lại dơ cả đời.
74
Sở Khanh:
Dơ tường nghĩ cũng tìm đường rút lui.
Từ ngồi, kinh nghiệm dân gian làm được, còn bác học thì khó, Nguyễn Du
miêu tả được. Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Hay, Thuý Kiều nói với Thuý Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Thuý Kiều
nói với Kim Trọng Kim Trọng:
“Biết thân đến bước lạc loài,
“Nhị đào thà bẻ cho người chung tay!
“Vì ai ngăn đón gió đông,
“Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi.
“Trùng phùng dù hoạ có khi,
“Thân này thôi có còn gì mà mong!
Từ ngôn ngữ đời sống, tác giả mở rộng vốn ngôn ngữ cho mình. Đó là các lối
nói trong ngôn ngữ bình dân: các thành ngữ, tục ngữ. Chúng ta thấy sử dụng thành
ngữ dễ hơn tục ngữ. Đó là các loại thành ngữ chiếm bốn từ: thành ngữ đời sống,
bình dân, văn chương. Thành ngữ bình dân rất nhiều. Chẳng hạn: Ngựa xe như
nước, áo quần như nêm, một hội một thuyền, một giày một mỏng, hai mặt một lời,
mèo mả gà đồng, cá chậu chim lồng…Những thành ngữ bác học, để nguyên: bỉ sắc
tư phong, quốc sắc thiên hương… Thành ngữ dịch: Mưa Sở mây Tần, bóng chim
tăm cá, sắc nước hương trời… Hiệu quả: trập trùng những thành ngữ: thành ngữ
văn chương vừa bình dân: hồng điệp xích thằng : lá thắm chỉ hồng. Cách diễn đạt
bình thường nhưng sang trọng. Ông sử dụng lớp từ chỉ diễn đạt một trạng thái, theo
lối điệp ngữ. Ví dụ:
Làm cho, cho mệt, cho mê,
Làm cho đau đớn, ê chề, cho coi!
75
Những từ: những, mà, thì, đã đành…có tính chất quan hệ từ, ý nghĩa không
nhiều:
Đã đành nước chảy hoa trôi
Vô duyên là phận hồng nhan sao đành.
Nguyễn Du sử dụng một lớp nghĩa riêng của ông. Do cách viết, xuất phát từ
câu thơ lục bát: Nghĩ người ăn gió, nằm sương, xót thầm nghĩa là vất vả trên đường
trường: ăn uống trong gió, nằm trong sương. Người này đón nhận trong mình như
ăn như nằm. Hay :
Biết bao bướm lả, ong lơi.
Sự chịu đựng của con người trong cuộc khổ hơn.
Thông thường khi sử dụng một lớp từ ngữ nào, Nguyễn Du cũng rất chú ý hoàn
cảnh mang nghĩa từ đó. Từ đó phải chỉ nghĩa trong hoàn cảnh đó. Nguyễn Du tạo ra
những trạng thái riêng biệt cho từ đó để tìm hiểu trạng thái của nhân vật đó. Thuý
Kiều gặp Kim Trọng trong đêm tái hợp:
Nàng rằng: “Phận thiếp đã đành,
“Có làm chi nữa, cái mình bỏ đi!
“Nghĩa chàng nghĩa cũ, tình ghi,
“Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may.
Cách gọi này gợi ra một trạng thái rất đằm thắm nhưng xót xa giữa Thuý Kiều
và Kim Trọng. Thuý Kiều nói:
“ Khéo là giở nhuốc bày trò,
“Còn tình đâu nữa, là thù đó thôi!
Tình yêu quả tha thiết nhưng cũng cay đắng.
Kim Trọng chấp nhận cho phép đổi thành tình bạn:
Nghe lời sửa áo cài trâm,
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng
76
Kim Trọng xứng đáng là người tình lí tưởng. Thuý Kiều rút lui là có danh dự.
Kim Trọng là người hiểu biết cao thượng. Thuý Kiều đàn một khúc đàn sau lời yêu
cầu của Kim Trọng:
“Mấy lời tâm phúc ruột rà,
Tương tri dường ấy, mới là tương tri!
Tóm lại, tuy ra đời muộn hơn một số thể loại khác và chủ yếu được sáng tác
theo thể thơ dân tộc, thuần dân tộc nhưng truyện thơ vẫn có những đóng góp lớn về
mặt nội dung, tư tưởng cũng như phương diện nghệ thuật. Truyện Kiều của Nguyễn
Du là một minh chứng xác đáng, tiêu biểu nhất. Dung lượng phản ánh của truyện
thơ rất lớn: từ hiện thực cho đến đời sống tâm hồn, tình cảm. Ngôn ngữ tự sự sắc
cạnh, đạt đến độ mẫu mực, diễn đạt được nhiều khía cạnh cuộc sống, những vấn đề
nhân sinh cũng như những trạng thái “tế vi” trong tâm hồn nhân vật. Qua các truyện
thơ, người đọc thêm một lần thấu hiểu bản chất con người và cuộc đời.
77
Chương 3
CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI TẢN VĂN
3.1. Truyện truyền kì
Truyện truyền kì là một thể loại được du nhập từ Trung Quốc. Tên gọi thể loại
truyền kì bắt nguồn từ tên một tác phẩm của Bùi Hình đời Đường. Truyện truyền kì
đời Đường kế thừa truyền thống của truyện chí quái thời Lục Triều. Nếu truyện Chí
Quái chủ yếu viết về thần linh quái đản; nặng về ghi chép những chuyện lưu truyền
trong dân gian thì truyện truyền kì chủ yếu viết về con người, nặng về hư cấu. Cho
đến nay ở nước ta khái niệm truyện truyền kì vẫn còn được hiểu theo những phạm
vi khác nhau. Có người cho rằng hầu hết truyện có thần linh ma quái là truyện
truyền kì. Có quan niệm khác coi trọng hư cấu của nhà văn. Quan niệm hợp lí nhất
của truyện truyền kì bắt đầu từ Thánh Tông di thảo và không phải toàn bộ các
truyện trong đó là truyện truyền kì mà chỉ có 12 đến 13 truyện.
Truyện truyền kì Việt Nam hầu như được viết bằng chữ Hán. Các truyện truyền
kì: Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ,
Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm đánh dấu sự chín muồi của nghệ thuật tự sự
Việt Nam. Khác với truyện truyền kì Trung Quốc, nhân vật trong truyện truyền kì
Việt Nam nhất là trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục đều là những con
người rất bình thường. Đó là một thanh niên khảng khái đốt đền, một người con
quan khi gia đình sa sút đâm ra chơi bời… Các nhân vật quan, tướng, thần, ma đều
đều thể hiện khía cạnh của con người đời thường, đời tư như Hạng Vương, Dương
Thiên Tích. Các nhân vật nữ thì đau khổ chồng chất, bị xúc phạm thậm tệ về nhân
phẩm, danh dự, bị lệ thuộc, không có quyền quyết định hạnh phúc tương lai. Số
phận họ như cái bóng, họ chịu phận mỏng, bạc bẽo. Nét đặc sắc thứ hai trong truyện
truyền kì Việt Nam là nội dung truyện hoàn toàn là việc và người ở Việt Nam. Tính
chất hư cấu, biểu tượng nổi lên rất đậm, được Lê Quý Đôn gọi là “ngụ ngôn”.
78
Truyện truyền kì Việt Nam có cốt truyện hoàn chỉnh như những tác phẩm nghệ
thuật hoàn chỉnh, có thắt nút, phát triển và mở nút.
Đặc điểm lớn nhất của truyện truyền kì là tính chất kì, tức là sự khác lạ của
hình tượng con người. Trung Quốc định nghĩa truyện truyền kì: “thuật kì kí dị”
(thuật lại điều kì lạ), “phi kì bất truyện”, không phải kì lạ là không phải truyện
truyền kì đích thực hoặc truyện truyền kì là “ kì văn dị sự”, văn lạ việc lạ. Sử dụng
yếu tố siêu thực không phải là độc hữu của truyện truyền kì. Truyện cổ tích Tấm
Cám, cô Tấm từng biến đi biến lại nhiều lần: con chim vàng anh, cây thị… hay
Đạm Tiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du hiện về báo mộng cho nàng Kiều…
Sự khác biệt ở các thế loại khác, yếu tố kì tồn tại với tư cách thủ pháp nghệ thuật,
tức là lược bỏ nó thì nó vẫn tồn tại dù chất lượng nghệ thuật có bị ảnh hưởng. Ở
truyện truyền kì, yếu tố siêu thực là bản chất thẩm mỹ của thể loại nghĩa là không
có nó thì truyện không tồn tại. Kì ở truyện truyền kì biểu hiện: Xóa bỏ hay đảo lộn
những ước lệ của con người và văn học truyền thống. Người và loài vật có khả năng
biến hoá và chuyển hoá, người biến thành vật, vật biến thành người. Chẳng hạn, bà
vợ quan Hành Khiển, Nguỵ Nhược Chân, trong chuyện nghiệp oan của Đào thị
(Trích Truyền kì mạn lục-Nguyễn Dữ) vốn không có con nhưng vào một đêm, bà
chiêm bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó, bà có
mang và sinh ra hai người con trai đặt tên là Long Thức, Long Quý. Hai người này,
do Hàn Than và Vô Kỷ đầu thai. Hàn Than vốn “phải đi tu” để trốn chạy sự trả thù
của Nguỵ Nhược Chân, vợ quan Hành Khiển. Ở chốn tu hành, Hàn Than gặp vị “sư
bác” Vô Kỷ, “cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai
người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp mùa xuân, trận
mưa cửu hạn, chẳng còn để ý đến kinh kệ nữa”. Nhờ sư già Pháp Vân ra tay trừ diệt
nên “canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết…Hai cái thây
hoá thành hai con rắn vàng, lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả”. Đó là bản
79
chất của văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung, nó đem lại một bức tranh lạ về
thế giới và con người.
Trong mỗi truyện truyền kì đều có yếu tố siêu thực. Đối lập với thực là hư. Đặc
điểm của truyện truyền kì là cái thực luôn được hư hoá và ngược lại. Cái siêu thực
ngày xưa gọi là hư. Thực được hư hoá như Vũ Thị Thiết trong Người con gái Nam
Xương của Nguyễn Dữ bị chồng nghi ngờ phải nhảy xuống sông ( thực ) thành hư:
sau đó nàng được rước đến thuỷ phủ mà người ta sống với nhau rất thân ái (hư hoá).
Còn hư được thực hoá, cuối truyện truyền kì thường có những chỉ dẫn về di tích
hoặc là hậu duệ hiện còn. Ngày nay vùng ấy còn di tích để người ta tin truyện này là
có thật. Hay truyện Thánh Gióng, trong Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên. Ông bà
nọ sinh được đứa con ba tuổi nhưng không biết nói (thực) thành hư: khi giặc Ân
xâm lược, đứa bé biết nói, ăn bao nhiêu cũng không no, lớn nhanh như thổi, biến
thành một tráng sĩ, cao hơn trượng, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, nhổ tre đánh giặc,
sau khi giặc thảm bại, tơi bời, chàng bay về trời. Cuối truyện, ngày nay còn đền thờ
ở làng Phù Đổng (làng Gióng), còn nhiều ao liên tiếp do ngựa Thánh Gióng đi qua.
Đặc điểm hình thức của truyện truyền kì: truyện thường có sự pha trộn thể loại.
Thể loại chính văn xuôi pha trộn với văn vần (đoản thi hoặc phú hoặc văn tế).
Chẳng hạn, đây là thư của Lệ Nương gửi lại cho Phật Sinh trong Lệ Nương truyện
(Trích Truyền kì mạn lục-Nguyễn Dữ). Thiếp nghe:
Trời có âm dương, đạo trời mới đủ,
Người có chồng vợ, đạo người mới thành.
Đôi ta vì đâu?
Lỡ làng đến vậy!
Tâm tình buổi trước, đã kết mối dây!
Ly biệt ngày nay, bao khuây nguồn cảm.
Bóng trước lầu đã rụng,
80
để đứt dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không? Cho nên người quân tử phải
biết tòng quyền chứ không nên chấp nhất. Giữ điều nhỏ để mất điều lớn chẳng là gã
Lí Sinh này ư?
Có sự pha trộn như vậy, không phải các tác giả truyện truyền kì lộn xộn, tâm lí có
vấn đề mà tác giả có ý thức thể hiện tài năng của mình “khoe tài”. Tâm lí nhân vật
phong phú, phức tạp hơn nên cần có nhiều phương diện để thể hiện. Cốt truyện đa
dạng và phức tạp hơn. Trong thư gửi người yêu, Lệ Nương đau xót, sầu não, day
dứt khôn nguôi.
Luống những mạch sầu đợt đợt,
Sóng lệ trùng trùng
….
Man mác nỗi lòng.
Chỉ cần chín âm tiết: những mạch sầu đợt đợt, Sóng lệ trùng trùng đã làm nổi
bật được tâm trạng, tấm lòng, sự trân trọng của nàng đối với mối tình của mình như
thế nào.
Nỗi buồn nặng trĩu, tâm sự chồng chất nhưng nàng vẫn rất tỉnh táo, vẫn khuyên
người yêu:
Xin chàng trân trọng lấy mình,
Liệu kết nhân duyên chốn khác.
Đừng vì tình một buổi,
Để lỡ kế trăm năm.
Lệ Nương quả nhân hậu, không ích kỉ, luôn mong cho người yêu được hạnh
phúc. Bởi nàng đã ý thức được thân phận của mình nói riêng, người phụ nữ trong xã
hội phong kiến nói chung như cái bóng (Chuyện người con gái Nam Xương), kiếp
ốc nhồi trong thơ Hồ Xuân Hương: “Bọn chúng ta vóc mềm tựa liễu, mệnh bạc như
vôi”. Thật đáng thương! Tư tưởng của Nguyễn Dữ rất hiện đại, thể hiện “văn hoá
82
yêu”, vì hoàn cảnh nghiệt ngã mà không lấy được nhau thì luôn mong cho người
yêu được hạnh phúc. Người yêu có nhân duyên mới, thực hiện nghĩa vụ của người
con trai trong xã hội phong kiến: lấy vợ sinh con đẻ cái thì nàng chắc chắn sẽ thanh
thản hơn, đỡ đau khổ phần nào. Ở lời nhận xét, tác giả viết: “không lấy vợ, để đứt
dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không?” của Phật Sinh, khâm phục ít đáng
trách nhiều vì “giữ điều nhỏ để mất điều lớn”.
Từ các đặc điểm trên, chúng ta rút ra hai chức năng chính của truyện truyền kì:
Thứ nhất là chức năng nhận thức. Truyện truyền kì dùng hình thức siêu thực
nhưng nhằm đạt đến nhận thức chân thực và sâu sắc về cuộc đời.
Thứ hai, chính dùng hình thức ma quỷ mà truyện truyền kì có thể thực hiện
chức năng giáo hoá: tự nhiên, chân thực, sâu sắc. Điều này cũng phù hợp với yêu
cầu của Nho giáo: văn chương phải có thưởng, có phạt theo yêu cầu của người ta.
Chẳng hạn người cương trực như Tử Văn phải có thưởng. Qua đối đáp của Hồ Tông
Thốc với Hạng Vương trong Câu chuyện ở đền Hạng Vương (Trích truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ) :“Phàm xoay cái thế thiên hạ ở trí chứ không phải ở sức, thu
tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo…” thật sâu sắc, trọn vẹn. Nó vừa
chân lí vừa là đạo lí, có tính giáo dục cao nhất là đối với giai cấp thống trị phong
kiến.
Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thánh Miện,
Hải Dương. Ông từng đi thi và có thể đã ra làm quan ( ? ). Chán ghét cảnh quan
trường nên ông đã về ở ẩn.
Truyền kì mạn lục là tác phẩm của ông gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán
theo lối tản văn, văn biền ngẫu, vận văn. Tác phẩm được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ
chính và Nguyễn Thế Nghi bạn cùng thời với tác giả dịch ra chữ Nôm. Tất cả
truyện trong truyền kì mạn lục đều viết về những chuyện đã xảy ra mang yếu tố
83
hoang đường, li kì, kì ảo và qua đó hiện lên rất rõ bức tranh xã hội hiện thực có
nhiều nét tương đồng với thực tiễn.
Đây là đoạn đầu văn bản: Chuyện chức phận đền Tản Viên. “Ngô Tử Văn tên là
Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy,
thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người
cương trực. Trong làng có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô
sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có
viên Bách hộ, họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian.
Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền. Mọi
người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn vung tay không cần
gì cả”. Đoạn văn đã thể hiện được tính cương trực, dũng cảm, đấu tranh vì chính
nghĩa của Tử Văn. Tính cách đó được khắc hoạ rõ nét qua từng tình tiết, sự kiện.
Trước hết, tính cách của chàng được thể hiện qua lời của tác giả : “Chàng vốn
khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta
vẫn khen là một người cương trực”. Đặc biệt, hành động của chàng châm lửa đốt
ngôi đền thiêng: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm rửa sạch sẽ, khấn trời, rồi châm
lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn
vung tay không cần gì cả”. Phản ứng của Tử Văn trước cái xấu, thói ác, nhanh,
mạnh như thuốc súng. Hành động “ tắm gội sạch sẽ” trước khi đốt đền, “vung tay
không cần gì cả” sau khi đốt đền chứng tỏ chàng đã quyết đấu, quyết sống với kẻ
gian tà, dù đối thủ của Tử Văn là ai cũng phải kinh sợ. Khi đứng trước công đường,
khí phách của chàng càng được khẳng định. Chàng “kêu to”, ý thức về mình : “ Ngô
Soạn này là một kẻ ngay thẳng ở trần gian”. Lời của chàng nghe thật dõng dạc,
đường hoàng đầy tự tin làm sao! Chàng đã dũng cảm vạch mặt tên bại tướng gian tà
với lời lẽ rất: “cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Chàng chiến đấu đến
cùng vì lẽ phải. Kẻ thù của chàng “có vẻ sợ, quỳ xuống tâu” với Diêm Vương : “ –
84
Gã kia một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng
như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức
rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức
hiếu sinh”. Nhưng sự điêu trá của hắn cũng không giúp hắn thoát tội. Cuối cùng,
hắn bị “lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng…bỏ vào ngục Cửu U”.
Cũng truyện này tác giả đã vạch trần không thương tiếc bộ mặt gian tà của
không ít kẻ đương quyền “quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược. Ngòi
bút của tác giả không chỉ lên án một số quan lại tham nhũng đương thời mà còn tố
cáo mạnh mẽ hiện thực xã hội với “rễ ác mọc lan, khó lòng lay động”. Chỉ với tám
âm tiết nhưng nó có sức khái quát lớn, đi sâu vào bản chất xã hội đương thời, thì
thật là tài tình. Nguy hiểm hơn, gây ra sự bức xúc cho người dân lúc này là một bộ
phận quan lại “vì tham của đút” mà bênh vực cho kẻ gian tà.
Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương là nạn nhân của chế độ
nam quyền độc đoán. Nàng “ tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, rất
mực hiếu thảo “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngon ngọt khôn khéo
khuyên lơn” mẹ chồng. Khi bà cụ mất thì “nàng hết sức thương xót, phàm việc ma
chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Đúng là một người vợ tốt, mẫu
mực, đảm đang, một nàng dâu không chê vào đâu được. Nàng không ham vinh hoa
phú quý “chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm”, chỉ mong hai chữ
“bình yên”! Ước mơ của nàng là có một gia đình vui vẻ, hạnh phúc thật giản dị
nhưng cũng không được. Người chồng của nàng là một gã ngu dốt, gia trưởng, đa
nghi, vũ phu, hay ghen, khi nghe đứa con nói đã “la um lên cho hả giận…lấy
chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và “đánh đuổi đi” khiến nàng phải
“gieo mình xuống sông mà chết”. Oan uổng quá, thương xót quá, bức xúc quá!
Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương cũng là nạn nhân của xã hội phong kiến.
Nàng và Phật Sinh “cùng đi lại với nhau suồng sã, cùng nhau xướng hoạ thơ từ”.
85
Tuy kì cưới xin chưa định nhưng hai tình gắn bó, chẳng khác chi vợ chồng vậy.
Niên hiệu Kiến Tân, năm Kỉ Mão (1399), đời Trần, cái vạ Trần Khát Chân, nàng bị
bắt vào trong cung, Phật Sinh rất thất vọng. Khi Sinh đương ngủ, chợt nghe tiếng
ấm ối, Sinh vùng dậy đẩy cửa ra xem thấy hơn trăm chiếc kiệu hoa rậm rịch đi qua,
có một bức thư bằng lụa cài vào ngưỡng cửa. Đó là bút tích của Lệ Nương. Sinh
đau thương bỏ cả ăn ngủ. Vì cớ hôn sự đã hỏng, chàng bèn xin ra ở ngoài miền
đông. Nặng tình với lệ Nương, chàng chưa nỡ lấy ai cả. Phật sinh từ biệt mẹ vào
Nam để tìm Lệ Nương. Nghe tướng giặc Lã Nghị bắt cướp mấy trăm phụ nữ hiện
đóng giữ ở phủ Thiên Trường trơ trọi, không có quân ứng viện, Sinh muốn nhờ thế
quân của vua đánh úp mà cướp lại Lệ Nương nhưng không thành. Lệ Nương cùng
mấy người tự tận. Lệ Nương nói: “Bọn chúng ta vốn mềm tựa liễu, mệnh bạc như
vôi, nước vỡ nhà tan, lưu ly đến đó. Nay nếu lại theo họ qua cửa ải, tức là đến nước
non quê người. Chẳng thà chết rấp ở ngoài lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang
làm cái cô hồn ở bên đất Bắc”. Nàng quả là “trinh thuần cương liệt”!...
Cấu trúc trong truyền kì mạn lục viết theo kết cấu thời gian. Cái gì xảy ra trước,
viết trước, cái gì xảy ra sau viết sau giống như cấu trúc của truyện cổ tích trong văn
học dân gian, nhưng ở truyện cổ tích văn học dân gian nghiêng về sự kiện còn
truyền kì mạn lục lại nghiêng về tâm trạng, tình cảm con người.
Các câu chuyện trong Truyền kì mạn lục đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của
thế giới âm cung với những hồn ma, bóng quỷ, với những cảnh vật khác thường,
với những chuyện người chết đi, sống lại, từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm
về cõi trần, người chết trò chuyện với người sống, vật hoá thành người, người hoá
thành vật…Nhưng các câu chuyên lại có vẻ như “ người thực, việc thực” bởi cách
dẫn người, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán, cả thời gian, địa điểm xảy ra sự
việc. Hai yếu tố làm nên Truyền kì mạn lục nói riêng, truyện truyền kì nói chung.
Đó là, yếu tố kì ảo, một biện pháp nghệ thuật làm tăng tính hấp dẫn của câu chuyện
86
và yếu tố hiện thực làm tăng tính xác thực, làm cho câu chuyện có ý nghĩa xã hội
sâu sắc.
Truyện truyền kì có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và kịch; giữa ngôn ngữ nhân
vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca.
Đọc truyện Truyền kì mạn lục, chúng ta thấy bức tranh sinh động về xã hội
phong kiến suy loạn thế kỉ XVI. Nguyễn Dữ đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến
từ trên cao vua quan cho đến tầng lớp tri thức, kể cả nhà sư. Thứ hai trong truyện
đặt ra vấn đề hạnh phúc gia đình. Đó là các yếu tố bảo đảm cho hạnh phúc lứa đôi:
thuỷ chung, đức hi sinh, lòng yêu thương. Những yếu tố làm cho hạnh phúc gia
đình tan rã: sự nghi kị, ăn chơi sa đoạ, sự vũ phu. Tác phẩm đề cao vai trò yêu
đương và đề cao người phụ nữ. Tác giả thể hiện thái độ đồng tình với tình yêu nên
những trang viết về tình yêu theo chúng tôi là những trang hay nhất trong Truyền kì
mạn lục. Điều đó chứng tỏ tác giả rất nhạy cảm và tinh tế trước vấn đề cuộc sống.
Tác phẩm này cũng phản ánh tâm trạng, tư tưởng Nguyễn Dữ. Tư tưởng chủ đạo
của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Khi ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội
là để cổ vũ thuần phong mĩ tục, xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến; phủ
định triều đại đương thời để khẳng định một vương triều lí tưởng trong tương lai;
lên án bọn bá giả để đề cao đạo “thuần vương’; phê phán bọn vua quan tàn bạo là để
ca ngợi thánh quân hiền thần. Ngoài ra, chúng ta thấy ông còn chịu ảnh hưởng tư
tưởng Đạo giáo, Phật giáo để nói lên quan niệm của mình như thuyết nhân quả, báo
ứng, nghiệp chướng; tư tưởng nhân dân, khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ để nói
lên đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, sự đối kháng giai cấp.
Truyện truyện kì Việt Nam đã phản ánh khá toàn diện và sắc nét hiện thực
đời sống cũng như thế giới tinh thần của nhân dân ta ngày xưa. Sống trong xã hội,
con người “vui thì ít mà buồn đau thì nhiều”, cái ác hoành hành, nhân phẩm bị xúc
phạm nhất là người phụ nữ. Biết bao cuộc tình bị đổ vở, bao gia đình tan nát, bao
87
cái chết thương tâm xảy ra… bởi chế độ nam quyền độc đoán. Truyện truyền kì đã
giúp chúng ta nhận thức được những trang đen tối trong lịch sử dân tộc. Yếu tố kì
ảo, hoang đường làm nên nét đặc sắc của thể loại này.
3.2. Tiểu thuyết chương hồi
Tiểu thuyết chương hồi là một thể loại được du nhập từ Trung Quốc. Không chỉ
có ở Việt Nam mà ở một số nước như Triều Tiên, Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng từ
các tiểu thuyết như: Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Hồng lâu mộng của
Tào Tuyết Cần…Văn học trung đại Việt Nam có bộ ba tiểu thuyết được viết bằng
tiếng Hán: Nam triều công nghiệp diễn chí gồm 30 hồi do Nguyễn Khoa Chiêm
soạn vào năm 22 đời chúa Minh Vương 1719, Tây Dương Gia Tô bí lục gồm 9
quyển của các tác giả Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường, Nguyễn Bá Am, Trần
Trình Hiến và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái gồm Ngô Thời Chí,
Ngô Thời Du và một số danh sĩ khác soạn.
Tiểu thuyết chương hồi được viết bằng chữ Hán là một hiện tượng độc đáo của
văn học trung đại Việt Nam. Khác với các tác phẩm cùng thể loại của Triều Tiên,
Nhật Bản đề cập nhiều đến đề tài tình yêu thì các tiểu thuyết chương hồi Việt Nam
lại đề cập các đề tài liên quan đến lịch sử nhưng không phải là lịch sử quá khứ xa
xưa mà là lịch sử hiện tại. Do đó tính chính trị, tính lịch sử thể hiện rất cao.
Chức năng chính của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam là đề cập đến những vấn
đề lịch sử, miêu tả các trạng thái xã hội và số phận bi kịch cá nhân.
Lập trường tác giả Nguyễn Khoa Chiêm khi viết Việt Nam khai quốc chính
truyện (nguyên tác: Nam triều công nghiệp diễn chí), do Ngô Tất Tố đặt lại, đứng
về phía các chúa Nguyễn. Khi đọc tác phẩm này, chúng tôi thấy, tác giả chịu ảnh
hưởng từ tiểu thuyết của La Quán Trung: Tam Quốc chí diễn nghĩa. Chẳng hạn như
câu chuyện được kể theo trình tự thời gian nhưng ở tác giả Nguyễn Khoa Chiêm kể
cặn kẽ hơn. Ông chú ý tới ba yếu tố: niên hiệu, tuế thứ và can chi. Sau mỗi sự kiện
88
tác giả thường kết lại một bài thơ, bộc lộ thái độ của tác giả như sau sự kiện Hàn
Tiến tử tử, Nguyễn Khoa Chiêm viết:
Người đương thời có thơ than rằng:
Trung nghĩa lòng son chí chẳng dời
Nào hay tâm sự chẳng theo thời
Núi vôi trúng đạn người khôn đoái
Nhà trạm canh khuya luống ngậm cười
Năm trước xót ông buồn chưa dứt
Này rầy tưởng nhớ lệ khôn rơi
Mới hay phú quý là giấc mộng
Chẳng quản nên chăng chuyện ở đời.
Cách giới thiệu nhân vật, miêu tả chiến tranh…cũng có những công thức hoặc
mô típ na ná giống với tác phẩm của La Quán Trung
Là tiểu thuyết viết về cuộc chiến giữa các phe phái phong kiến để tranh giành
quyền lực. Tiểu thuyết này kể về các trận đánh, kể về binh pháp, về mưu mẹo để
tiêu diệt đối phương, củng cố địa vị của các chúa Nguyễn-chúa Trịnh trải ba đời:
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần. Hai mươi chương cuối
tập trung miêu tả cuộc chiến liên miên giữa chúa Trịnh Tráng và Nguyễn Phúc Tần
qua đời thì kết thúc. Trong cuộc chiến của Trịnh Tráng- Phúc Tần kéo dài trên 50
năm, đốc chiếu Chiêu Vũ đóng vai như Vũ Hầu, còn tiết chế Thuận Nghĩa là tướng
tài nhưng hẹp lượng như Chu Du. Cuối cùng Chiêu Vũ và Thuận nghĩa mâu thuẫn
làm lỡ thời cơ tiến ra Thăng Long, rút về cố thủ ở Phú Xuân. Ở đây, tác giả kể rất
nhiều phép dụng binh: phản gián, mĩ nhân kế, điệu hổ li sơn, nghi binh, lấy ít địch
nhiều… Khi Chiêu Vũ bị cô lập, bị bỏ rơi thì cho quân ca hát, nghi binh làm cho
địch không dám tiến. “Bị Thuận Nghĩa bỏ rơi, Chiêu Vũ kẹt vào thế cô, quân ít.
Trước sức tấn công của hơn 10 vạn quân Bắc Hà do Trịnh Căn chỉ huy, Chiêu Vũ
89
“bèn truyền lệnh cho quân sĩ cứ ở trong doanh trại vui vẻ ca hát, gõ trống gãy đàn.
Một mặt truyền mật lệnh sửa soạn rút quân. Bấy giờ bên quân Bắc, quận Phú Trịnh
Căn đã chia quân bao vây đồn Khu Độc. Nhưng dò xét chỉ nghe từ các trại trong
đồn vọng ra tiếng trống đàn, ca hát. Trịnh Căn ngờ rằng Chiêu Vũ lại có kế gì nên
không dám khua quân tiến vào”, Chiêu Vũ dùng kế phản gián làm cho nhiều tướng
Trịnh rơi đầu…
Bên cạnh viết về các sự kiện lịch sử đầy biến động, nóng bỏng, tác phẩm này
còn nói về thảm cảnh xã hội và số phận bi kịch. Đó là thảm hoạ thiên nhiên, đời
sống nhân dân rơi vào tình cảnh “sống dở, chết dở”, người tốt, tài năng bị đố kị,
hãm hại, con người đối xử với nhau không hơn gì con vật… Đó là, vào năm 1617
“Mạc Phủ Long sai gian tế đốt cháy kinh thành Thăng Long…Tháng bảy trời bão
lớn, mưa xối như trút. Ở miền ven biển, nước mặn ập vào cuốn phăng ruộng bờ, nhà
cửa, trâu bò, gia súc bị kéo trôi ra biển. Lại ở xứ Sơn Tây nạn sâu keo cắn mất hết
lúa má hoa màu…Cả kinh thành và các nơi người chết đói đầy đường, kẻ sống sót
tìm đường khắp tây đông bôn tẩu để lo mạng sống…”. Phùng Khắc Khoan, Lưỡng
Quốc trạng nguyên bị kẻ xấu dèm pha khiến chúa Trịnh Tùng định chém. Sau đó
nhiều người can gián ông mới thoát chết, nhưng bị thích chữ vào mặt, đi đày ở chỗ
núi sâu. “Đào Duy Từ trí tuệ siêu việt, được tôn xưng là Gia Cát tiên sinh, nhưng vì
xuất thân ca xướng không được đi thi, đành nuốt hận” tìm đường vào đàng trong,
trên đường phải làm kẻ chăn trâu cho phú hộ để kiếm sống. Bình An Vương Trịnh
Tùng bị cha con Trịnh Đỗ cướp rước khỏi điện, đến xã Cầu Đơ (Hà Đông) thì ốm
chết, bị cha con Trịnh Đỗ vứt xác bên cầu…
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái gồm 17 hồi : ba hồi đầu kể
chuyện nhà chúa Trịnh suy tàn, kiêu binh nổi loạn; từ chương 4 đến chương 14, chủ
yếu miêu tả hoạt động của quân Tây sơn, chương 14 đại thắng quân Thanh, dẹp yên
bờ cõi.
90
Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh toàn diện, sâu sắc bức tranh xã hội phong
kiến kéo dài trong nhiều thế kỉ, từ khi Trịnh Kiểm phụ chính giúp vua dẹp yên họ
Mạc và từ đó họ Trịnh đời đời kế tiếp tước vương. Việc tranh giành quyền bính,
khiến trong nội bộ giai cấp chia rẽ sâu sắc, anh em huynh đệ tương tàn, nồi da nấu
thịt, đầu rơi máu chảy. Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1740-1786), gây ra nhiều tội lỗi.
Vì vô cùng sủng ái Đặng Thị Huệ mà mắc nhiều sai lầm dẫn đến hậu quả khôn
lường. Trịnh Sâm đã lấy tên mình lúc nhỏ là Cán để đặt tên cho con của Đặng Thị
Huệ. Chúa đã từng bắt thế tử Tông phải đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong
Trạch Các. Nghiêm trọng nhất là “truất Trịnh Tông làm con út, trọn đời giữ đạo làm
tôi”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc hoạ tính cách, bản chất của nhân vật
bằng những lời nhận xét sắc sảo, qua những hành động mà các nhân vật đó gây ra.
Đầu tiên là nhân vật Huy quận Công Hoàng Tố Lí ( Hoàng Đăng Bảo ). Là con
người rất cơ hội, đầy tính toán, có âm mưu thâm độc. Hắn từng quản số quân của
quận Việp, sau đó xin về triều. Hắn nghĩ rằng Thi Huệ tuy được chúa yêu nhưng
con trai thị Huệ còn nhỏ, trong khi thế tử Tông đã lớn nên hùa theo thị Huệ “e
không phải là kế lâu bền” và hắn đã lấy châu báu “100 lượng vàng và mười tấm
đoạn Nam Kinh” đút lót thế tử để xin nương tựa, lợi dụng nhưng thế tử không nhận.
Không lung lay được ý chí của thế tử Tông, hắn quyết hùa theo Đặng Thị Huệ và
âm thầm có chí phế lập. Và hắn đã có những hành động để lấy lòng ả như: dâng
ngôi nhà cũ của quận Vương cho Vương tử Cán làm dinh thự. Huy mở dinh quận
trung Nhuệ kiêm lĩnh chức trấn thủ trấn sơn Nam. Việc lên ngôi Chúa cho Trịnh
Cán cũng do y sắp đặt rất chu toàn. Đặng Thị Huệ cũng là một kẻ đa mưu, đầy tham
vọng. Ỷ thế được chúa chiều nên thị đã nhiều phen làm mưa làm gió, kiêu căng. Thị
đã từng nắm” viên ngọc dạ quang của chúa ném xuống đất và bảo chúa quý của hơn
người. Khi đã có con trai là thế tử Cán, tuy bị bệnh “chứng cam” nhưng rất thông
minh, lanh lợi, thị càng được lướt làm càn. Thị cùng với quận Huy Hoàng Đăng
91
Bảo tìm kế, lập mưu, theo dõi ngầm hại thế tử Tông, củng cố phe phái nhưng lịch
sử không chiều theo ý thị, cuối cùng thị phải nhận kết cục thảm hại. Trịnh Tông
(sau đổi tên là Trịnh Khải) vì không được chúa tin tưởng, không muốn nhường ngôi
chúa cho nên cũng biết lo lắng, tính kế. Theo lệ cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ
đến 12 tuổi thì phải ra ở Đông Cung nhưng chúa lại bắt Tông ra ở tại nhà riêng của
quan a bảo Nguyễn Đĩnh. Khi Trịnh Tông mười lăm tuổi, Trịnh Cán ra đời, nỗi lo
đó càng lớn. Tông cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thấm Thọ, Vịnh
Vũ… bàn mưu tính kế đêm ngày, rồi nghe theo bọn tôi tớ sắm sửa binh khí, chiêu
mộ dũng sĩ, đồng thời báo cho hai trấn Tây, Bắc đem quân về phối hợp… Đặng
Mậu Lân, em trai Vương Phi Đặng thị Huệ cũng nổi tiếng tàn ác, dâm đãng, hống
hách, đầy những thành tích bất hảo. Mỗi lần đi ra ngoài thấy cô gái nào vừa ý là hắn
cho người quây rồi hiếp luôn, người nào không đồng ý thì hắn xẻo luôn đầu vú.
Chồng, cha mẹ họ mà hé răng tố cáo thì lập tức hắn cho người tới “vặn gãy răng”,
nhiều người bị đánh chết. Hắn còn “tuốt gươm chém chết ngay” người bảo vệ công
chúa. Người đời sợ y hơn sợ beo sói…
Đám kiêu binh cậy thế có công trong việc phế truất con thứ là Trịnh Cán lập
Trịnh Tông mà ra sức làm càn. Chúng tham gia vào công việc triều chính “việc này
nên nên đế, việc kia nên đối”, “nhiều khi những việc vô lí họ cũng buộc triều đình
phải làm” . Hai viên quan là Nguyễn Khản và Dương Khuông em ruột Dương Thái
Phi không được đám kiêu binh phục nên họ đòi giết chết . Dương Phi sụt sùi khóc
xin vì tình máu mủ nên Dương Khuông được tha, còn Nguyễn Khản chạy thoát
thân, còn Triêm Vũ Hầu trốn trong phủ chúa sau cũng phải để cho đám kiêu binh trị
tội: “lấy đá, gạch đập vào đầu, lấy gươm đâm sau lưng”. Chúa hoàn toàn bất lực
phải dụ họ rồi lấy vàng bạc để đút lót, nhờ Nguyễn Thọ đứng ra dàn xếp với đám
kiêu binh. Sau này chúa thông đồng với bọn Nguyễn Quốc sư diệt trừ nội loạn mà
không thành. Khi quân Tây sơn đến đánh, chúa cùng đám tuỳ tùng nháo nhác chạy,
92
trông thật thảm hại, nhục nhã. Tông “ cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt
xuống ngồi núp trong chăn hòm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ”.
Cảnh Trịnh Tông cùng đám quần thần bỏ chạy thật thảm thương, thêm một lần nhục
nhã. Chúa Tông vì uất ức, sợ hãi nên đã lấy dao đâm vào cổ nhưng mọi người biết
hết sức can ngăn, sau đó chúa khăng khăng xin được uống nước lã và qua đời.
Nguyễn Hữu Chỉnh cũng là một tay cơ hội, tài năng, tinh tường, tính toán như
thần, thông hiểu binh pháp. Khi có biến, hắn đã nhanh chóng thu xếp để cùng gia
quyến dong thuyền dông thẳng vô Nam xin nương nhờ nhà Nguyễn (Nguyễn Nhạc).
Để Nguyễn Nhạc tin tưởng, hắn đã kể đầu đuôi câu chuyện và sẵn sàng dâng vợ con
làm con tin. Khi người em rể vào theo mật chỉ của nhà chúa thu phục hắn nhưng
hắn không về mà còn giết luôn người thuyết khách đó. Hắn từng dõng dạc huênh
hoang trước mặt Nguyễn Bình, Quang Trung Nguyễn Huệ: “Người tài Bắc Hà chỉ
một Chỉnh này thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cả nước rỗng không, xin ngài chớ nghi
ngại!”. Nguyễn Bình lấy được thành Phú Xuân cũng như tiêu diệt nhanh nhà Trịnh,
phần thì do “thuận theo lẽ trời”, nước lụt rút cũng như gió nồm thổi mạnh nhưng
quan trọng nhất là có sự giúp đỡ đắc lực của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng cũng
Nguyễn Hữu Chỉnh không được anh em Tây sơn tin tưởng khi cho bàn việc rút
quân về phương Nam. Sau đó chính Chỉnh đã một thuyền chạy ra biển rất đơn độc
và đuổi kịp quân Tây sơn. Bằng tài năng, mưu mẹo mà hắn lập được nhiều chiến
công như tham mưu để Nguyễn Như Thái, Hoàng Viết Tuyến mang quân đi đánh
Tế…Chỉnh dần dần leo lên địa vị quyền lực, coi thường nhà vua, coi nhà vua như
đứa trẻ, chỉ e ngại Bắc bình Vương, Nguyễn Huệ và hắn đã âm mưu làm phản khi
thời cơ chín muồi. Do “xem việc hắn làm giống như ma quỷ, xét bụng hắn nghĩ, độc
hơn hùm beo” hay “Chỉnh là đứa phản phúc gian dối, không thể tin cậy” nên cuối
cùng Chỉnh đã bị Võ Văn Nhậm, con rể nhà Nguyễn, một vị tướng của Quang
Trung “bảo phanh thây Chỉnh, thả cho chó ăn”.
93
Lê Duy Kỳ, Lê Chiêu Thống thì luồn cúi đê hèn, khi về đến kinh đô, hắn đã trả
thù người thân rất tàn nhẫn. Có ba người chú vua liên lạc với Tây Sơn, gả con gái
cho họ, liền bị vua “ngầm sai bắt đem chặt chân rồi vứt xuống cái giếng ở trong
cung”. Độc ác hơn, hắn còn cho mổ bụng cả một tôn nữ đang có mang, vì người con
gái này “đã lấy viên tướng Tây Sơn”. Ở Trung Quốc, Lê Chiêu Thông bị Khang An
lừa và hắn đã sống trong sự nhục nhã của một tên phản bội mất nước. Hắn nói:
“Chúng tôi không giữ được nước nhà, mau nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước
phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy có tiếc gì?”. Rồi
cả bọn chúng “gọt đầu, gióc tóc, thay đổi đồ mặc” như người Trung Quốc. Nhân
dân thì nhận xét về vị vua Lê Chiêu Thống: “Nước Nam ta, từ khi có đế, có vương
đến nay chưa thấy có một ông vua nào luồn cúi, đê hèn như thế”. Thật đắt, người
đọc rất hả hê trước vị vua bù nhìn này.
Ngô Thì Nhậm là một quan văn có tài nhưng cũng là người rất am hiểu binh
pháp. Chính Nhậm đã cố vấn cho Ngô Văn Sở rút quân về nơi hiểm yếu để bảo toàn
lực lượng, tránh đối đầu trực diện với đại quân Sĩ Nghị. Ngô Thì Nhậm đã giúp đỡ
cho Quang Trung, Nguyễn Huệ soạn những giấy tờ quan trọng để giao thiệp với nhà
Thanh…
Quang Trung, Nguyễn Huệ là một vị anh hùng, hào kiệt. Là người thông minh,
quyết đoán, quỷ quyệt, kiêu căng, lão luyện trong việc dùng binh. Quang Trung đã
lãnh đạo nông dân khởi nghĩa, làm cho đối phương vô khiếp sợ “hồn bay phách
lạc”. Uy thế của vua Quang Trung vô cùng lẫy lừng. Quang Trung cũng là người có
tầm nhìn xa trông rộng, mềm dẻo trong giao tiếp. Khi kéo quân ra Thăng Long để
đánh quân Thanh, trừng trị bọn cướp nước hại dân, Biết được chắc chắn quân địch
sẽ thua: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.
Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn
gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù.
94
Nếu thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào
mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao,
không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được
yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu, quân mạnh, thì ta có sợ gì
chúng?”. Quang Trung băng hà quá sớm, lúc 39 tuổi, cơ đồ, sự nghiệp Tây Sơn giao
cho con trai Quang Toản chưa có kinh nghiệm “thu phục lòng người” để xây dựng,
củng cố, bảo vệ giang sơn bờ cõi nên cuối cùng đất nước rơi vào tay Nguyễn Ánh.
Để diễn đạt được nội dung phản ánh xã hội rộng lớn cũng như cục chính trị xã
hội đương thời, qua đó khái quát đặc điểm, số phận, tính cách của nhân vật, tiểu
thuyết chương hồi đã viết thành nhiều hồi, mỗi hồi kể một câu chuyện. Mỗi hồi có
một nhan đề riêng để người đọc tiện theo dõi. Kết thúc mỗi hồi thường có những
câu thơ vừa có tính chất tổng kết, vừa đưa những lời bình ngụ ý khen chê cũng như
thái độ của người viết trước các hiện tượng, sự kiện được diễn ra. Chẳng hạn trước
việc Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học, Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở
ngoài Tây thành, tác giả viết:
Quạ, cáo tranh nhau không đáng ngại
Cọp rồng đánh lộn cũng ghê thay.
Để tạo sự hấp dẫn cũng như gây sự liền mạch cho độc giả, kết thúc mỗi hồi
thường có câu: “Muốn biết sự việc gì sẽ xảy ra, hồi sau phân giải”.
Tuy nhiên, mỗi tác giả khi viết tác phẩm nào dù tuân theo đặc trưng thể loại thì
vẫn thể hiện cái cá tính riêng, không trộn lẫn. Hoàng Lê nhất thống chí là một ví dụ
khá điển hình. Do đặc trưng của loại tiểu thuyết này chủ yếu là kể về các sự kiện,
biến cố trong đời sống xã hội chính trị đương thời nhưng tác giả đã có sự kết hợp
giữa kể và tả, đi kèm là những lời bình đúng mực khiến cho độc giả vừa có cơ hội
nắm bắt được sự kiện, vừa có thời gian nghiền ngẫm vấn đề. Đây là đoạn văn miêu
tả cảnh bọn kiêu binh lập Trịnh Tông lên ngôi chúa:
95
…Anh em quận Huy chết rồi, quân lính reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà
tả Xuyên phò thế tử Tông lên miếu đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm
chung quanh gào lên vui sướng:
- Xin ngài cao thêm nữa để thiên hạ đều thấy được mặt rồng, cho thoả lòng vui
của mọi người!
Trong lúc gấp vội không có kí sập, phạm dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc
làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng
bổng chiếc mâm lên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên
đầu. Cứ thế cứ lên lên xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng
phật. Mỗi lần thế tử được nhô cao lên, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một
chập. Những kẻ buôn bán ở phố phường đều tranh nhau kéo đến xem chúa, sân phủ
đông như họp chợ.
Đoạn văn miêu tả sinh động nhưng rất khôi hài cảnh Trịnh Tông lên Ngôi chúa.
Đoạn văn kể lại một cách tự nhiên, chi tiết, căn kẽ. Từ thông tin rất đươc đồng tình :
Anh em quận Huy chết rồi đến việc thế tử Tông lên ngôi như thế nào. Ngôn ngữ
miêu tả pha chút hài hước: “Trong lúc gấp vội…y như người ta giỡn quả cầu hoặc
rước pho tượng Phật” khiến người ta nghĩ rằng đây không phải là việc Chúa đăng
quang mà là một trò hề trên sân khấu chính trị.
Trong tác phẩm có hàng trăm nhân vật. Cái biệt tài của tác giả là tạo cho họ
một bộ mặt, tính cách sắc nét. Họ vừa mang đặc điểm chung của giai cấp thống trị
nhưng vừa có những nét cá biệt. Có được điều đó là nhờ tác giả vừa để cho nhân vật
bộc lộ, vừa kết hợp với sự nhận xét của các nhân vật trong tác phẩm kết hợp với lồi
bình của tác giả.
Tiêu biểu nhất cho điều này là Nguyễn Hữu Chỉnh. Hắn là một người có tài,
cực kì lợi hại, nguy hiểm, là một kẻ cơ hội chủ nghĩa. Hắn từng đánh cắp của công
hàng trăm vạn và nhất định không xưng khi bị tra tấn để được vô tội và khiến quan
96
thầy hắn là Quận Huy không bị liên luỵ và dong thuyền chạy trốn vào Nam theo
Nguyễn Nhạc. Để tạo sự tin tưởng cho Nguyễn Nhạc, hắn đã kể đầu đuôi sự việc,
sau đó dâng cả vợ con để làm con tin. Hắn đã giết người thuyết khách mà chúa
Trịnh vào khuyên hắn về dù người đó là em rể. Sau đó nhờ ngoại binh, hắn đã rửa
thù thầy. Hắn thật tàn ác, bất nhân. Những động cơ hành động của hắn thể hiện mối
quan hệ logic giữa tư tưởng và hành động, chẳng hạn, hắn đang tay giết người em rể
làm thuyết khách, rõ ràng có động cơ mua chuộc lòng tin cậy của Nguyễn Nhạc rồi
từ đó mà tiến lên thực hiện cái mưu đồ cá nhân, mưu đồ chính trị.
Hoàng lê nhất thống chí là một trong những tiểu thuyết chương hồi văn xuôi
đầu tiên của Việt Nam. Hệ thống sự việc trở thành biến cố, qua biến cố thì xây dựng
được nhân vật lịch sử: hành động-hành động… Từ sự việc đến sự kiện đến biến cố,
nhân vật sẽ hành động. Tiểu thuyết này viết về đề tài lịch sử. Sự thật lịch sử rất
quan trọng. Viết theo thể tài, chí: nội dung là sự thật không hư cấu gì cả. Hình thức
này pha trộn, đan xen giữa hai thể: kí và tiểu thuyết. Kí: sự việc rất thật - hiện thực
lịch sử. Tiểu thuyết phải hư cấu. Đã là tác phẩm là kí phải là người thật việc thật.
Đã là tiểu thuyết: nhân vật này là loại hư cấu, sự việc có thêm thắt. Đã là tiểu
thuyết, nó thuộc về một loại rất lớn là loại tự sự, kí cũng là loại tự sự nhưng không
được xây dựng nhân vật, không được hư cấu.
Thủ pháp nghệ thuật chung là thủ pháp miêu tả song song hay miêu tả đối lập
về hai phía của nhân vật gọi là phản chính đối lập: nhân vật phản động, cơ hội- nhân
vật chính nghĩa, hướng về lịch sử, có lòng tin đối với dân tộc.
Miêu tả tâm lí. Tiểu thuyết chương hồi không thích miêu tả tâm lí, nhưng miêu
tả mưu mô, hành động hấp dẫn hơn. Họ miêu tả Tây Sơn là giặc…nên họ miêu tả
nhà Tây Sơn…Đây là hư cấu. Nguyễn Nhạc: đó là một ông lái buôn quê mùa và
hám lợi, chú ý những việc cỏn con, chân tình quá độ ít hiểu biết. Khi nhận một xâu
97
cá ở Nghệ An do những người dân chài tặng: mừng rỡ, cảm ơn…Ra Bắc Hà xin các
tiến sĩ đất Bắc Hà về, coi như mắm cá…
Nguyễn Huệ đánh Trịnh trả ngôi cho nhà Lê. Ông muốn lấy vợ Bắc Hà,
Nguyễn Hữu Chỉnh nói ý đó với vua Lê Hiển Tông. Những nhân vật này hành động
trong cái guồng rất dữ dội làm cho họ suy nghĩ.
Tư duy của nhân vật được bộc lộ rất rõ qua những lời nói hay những trăn trở
hành động của họ. Ý nghĩ của các tướng trong trận đánh không ai biết chỉ Nguyễn
Huệ và những tướng thân cận biết. Tâm lí, mhững sự việc, hành động là hư cấu.
Tiểu thuyết này viết đầy đủ hai mặt lịch sử: hài kịch, bi kịch. Hài kịch nắm về
phía phản diện, bi kịch nằm ở một lực lượng mới ra đời nhưng thất bại sau khi
Nguyễn Ánh lên phong trào Tây Sơn thất bại. Mưu đồ nhà Lê cuối cùng trở thành
một trò cười. Họ đã thay đổi quan điểm về chính thống, họ vui vẻ đưa đến, chôn cất
một chế độ đã sụp đổ.
Tóm lại, đây là tác phẩm văn xuôi có những thành tựu về nội dung và nghệ
thuật rất rõ. Bức tranh lịch sử rất thật. Các tác giả không mang tiếng xuyên tạc lịch
sử. Miêu tả sự việc, sự kiện, ít miêu tả tâm lí nhân vật nhưng nó có vai trò quan
trọng, làm cho tiểu thuyết Việt Nam đi vào ngõ phân tích tâm lí nhân vật. Là một kí
sự pha tiểu thuyết nên thành công được là rất khó. Giữa sự thật và hư cấu là nó
không tác hại đến nhau-pha trộn giữa thể tài này với thể tài khác trong văn xuôi
Việt nam. Trong tác phẩm có hai tính chất: miêu tả bức tranh lịch sử đường hoàng,
trang trọng theo giọng sử thi; miêu tả bức tranh lịch sử theo giọng trào lộng, châm
biếm nên có hai giá trị: giá trị sử học và giá trị văn học. Tác phẩm mang đậm tính
chất hiện thực, có những tính cách điển hình như Nguyễn Huệ, nhất là Nguyễn Hữu
Chỉnh.
Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại có dung lượng lớn, phản ánh
sâu sắc hiện thực cuộc sống, những vấn đề nóng bỏng của xã hội, cục diện chính trị,
98
các phe phái cũng như số phận của các cá nhân. Các tác giả đã giữ sự khách quan
cần thiết, tôn trọng lịch sử; có kế thừa truyền thống văn học Trung Hoa nhưng vẫn
thể hiện bản sắc riêng, độc đáo, phù hợp với con người Việt Nam; có hư cấu nhưng
không xuyên tạc lịch sử mà cốt yếu là để tăng tính chất nghệ thuật cho tác phẩm.
Tuy đời sống tâm lí của các nhân vật ít được chú trọng, mổ xẻ, đào sâu nhưng các
tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại đã mở ra cho các nhà văn hiện đại
hướng khai thác, khắc hoạ đời sống tâm hồn vốn dĩ rất phức tạp và phong phú, tiềm
ẩn nhiều điều thú vị.
3.3. Kí
Mặc dầu không có mặt trong Văn tuyển của Tiêu Thống, cũng không được Lưu
Hiệp nhắc tới trong Văn tâm điêu long nhưng thể loại văn học kí vẫn có vai trò, có
sự đóng góp nhất định cho văn học nói chung, văn học trung đại Việt Nam trung
đại nói riêng.
Kí xuất hiện nhiều từ đời Đường Trung Quốc. Kí dùng để ghi việc xen lời bình,
sau phát triển thêm mộ kí, phần kí, tháp kí…Ở Trung Quốc nổi lên với một số tác
phẩm: Yến hỉ đình kí của Bạch Cư Dị, Kí dật trong chu sử xa giá Nguyên lăng kí
của Thái Ung…
Ở Việt Nam nổi lên với một số tác phẩm kí: Vũ Trung tuỳ bút của Phạm Đình
Hổ, Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác ...
Kí trung đại Việt Nam gồm: tạp kí và kí sự.
Tạp kí ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy. Trương Quốc Dụng viết: “Phàm đi
làm quan đến đâu, tai nghe mắt thấy, cũng là được các học giả chuyện trò, dưới các
chuyện thường trong thôn xóm, về cương vực nhà nước, các nhân vật, các sự vật
điều gì có thể tham khảo được thường ghi lên trên giấy”.
Kí sự: chọn cuộc hành trình với những cuộc gặp gỡ làm việc, thù tạc.
99
Từ những đặc điểm trên, chúng ta rút ra các đặc điểm về thể kí. Thứ nhất, kí
khác với truyện truyện kì, truyện vừa, tiểu thuyết sau này, kí có quan điểm thể loại
là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư cấu. Sự việc và con người
trong kí phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi. Đó là vì kí dựng lại những sự
thật đời sống cá biệt một cách sinh động, chứ không gây dựng các hình tượng mang
tính khái quát. Thứ hai, vì tôn trọng sự thật khách quan nên kí thường không có cốt
truyện hư cấu. Thứ ba, kí vẫn thể hiện rõ phong cách tài năng của người viết kí.
Chức năng của kí trung đại: Ghi lại những điều tai nghe mắt thấy, chọn cuộc
hành trình với những cuộc gặp gỡ, thù tạc…qua đó giúp cho người đọc nhận thức,
hiểu biết cuộc sống, thực trạng xã hội, cũng như nhân cách, cá tính người viết kí.
Kí có dung lượng ngắn vì tác giả chỉ “chớp” lấy những khoảng khắc bất chợt,
những ấn tượng sâu đậm về cảnh và con người cụ thể, những câu chuyện bất ngờ,
thú vị. Người trần thuật trong các tác phẩm kí trung đại: ngôi thứ nhất xưng “tôi”,
quan sát, ghi chép, tả, thuật lại câu chuyện. Để cho sinh động, khách quan, tác giả
còn thay đổi điểm nhìn trần thuật. Như ông Nho sinh Phạm Diên Bá kể với ta rằng:
mình đã ăn phải thịt người như thế nào…
Nội dung mà các bài kí mang lại cho độc giả khá phong phú hoặc du tháp hoặc
lập bia, hoặc xây đình, hoặc chơi núi Phật Linh (Phạm Đình Hổ). Những việc dân
giã cũng được kí đề cập đến như chuyện viết chữ, uống chè. Đây là nét đẹp văn hoá
của cha ông ta. Phạm Đình Hổ tả việc Hoàng Huy Đỗ viết chữ: “Hễ cầm bút lên thì
rụt rè như không thể viết được, nhưng lúc đã đặt bút xuống giấy thì nét chữ tươi tắn,
có ý nhị của hoa đào đọng giọt mưa, lá dương phủ làn khói…”. Câu văn sinh động,
giàu hình ảnh thể hiện được cái tâm lí khi bắt đầu cầm bút. Còn việc uống chè, tác
giả viết: “Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió
mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách, mà ung
dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức, thì có thể tỉnh được mộng trần, sửa được lòng
100
tục”. Và cách uống trà ông viết: “Uống chè cốt ấm nước nho nhỏ, mỏng, khi pha
mới nổi hương vị. Và ấm thẳng thì nước không đọng, mặt đĩa phẳng thì khi đặt chén
không nghiêng, về lò xây mà lỗ thư thì than lửa không bốc nóng quá, lòng ấm siêu
lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi…”. Đoạn văn viết về đặc điểm chè
tàu, cách uống chè tàu, không gian uống trà, đặc biệt giá trị mà chè tàu đưa lại là nó
làm bừng tỉnh những ảo mộng, giúp con người thanh lọc tâm hồn, hoàn thiện nhân
cách, sống sao cho xứng đáng một con người. Câu văn cân đối hài hoà giữa các vế:
tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho hay buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong…
tạo cho người đọc cảm giác dễ chịu, lâng lâng. Tác giả quả là người am hiểu kĩ càng
từng chi tiết nhỏ về trà cũng như cách thưởng thức nó.
Vũ Trung tuỳ bút hiểu theo nghĩa tuỳ theo ngọn bút viết trong khi mưa của
Phạm Đình Hổ, được Nguyễn Phương Chi nhận xét: dẫu nhìn nhận, suy nghĩ, chiêm
nghiệm của ông ở một vài chỗ còn có phần thiên lệch, bảo thủ; song nhìn chung tác
phẩm đã ghi lại được những hình ảnh chân thực của đoạn đường lịch sử với những
biến động xã hội, chính trị phức tạp…Cùng với Hoàng Lê nhất thống chí, Thượng
kinh kí sự, Vũ Trung tuỳ bút là thiên kí tiêu biểu xuất sắc của mảng văn xuôi giàu
tính hiện thực.
Đây là văn bản: Chuyện cũ trong Phủ chúa Trịnh (Trích Vũ Trung tuỳ bút-
Phạm Đình Hổ)
“Khoảng năm giáp Ngọ, Ất Mùi, trong nước vô sự, Trịnh Sâm thích chơi đèn
đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dục Thuý. Việc xây
dựng đền đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thuỵ Liên trên bờ
Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn,
mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.
101
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán
các thứ như ở của hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác
chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vào khúc nhạc.
Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây
cảnh ở chốn trần gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả
cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây
cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng
nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khen đi
cho đều tay. Trong phủ, tuỳ chỗ, điểm xuyết bày vẻ hình núi non bộ trông như bốn
bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn
bể , hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp , vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giã biết đó
là triệu bất tường . Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài
doạ dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên
ngay hai chữ “ phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai
tay chân đem lính đến lấy phăng đi , rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng, để
doạ lấy tiền.”
Lối sống của Trịng Sâm thật trác táng, xa hoa. Chỉ một chuyến đi chơi của hắn
mà tốn bao tiền của của nhân dân, huy đông bao nhiêu binh lính, nội thần. Hắn đã
đốc thúc quân lính vơ vét bao nhiêu của ngon vật lạ từ: “Bao nhiêu loài trân cầm dị
thú, cổ mọc quái thạch, chậu hoa cây cảnh…lấy cả cây đa to”. Trong phủ hắn bày
vẽ “hình núi non bộ trông như bốn bể đầu non”. Bọn hoạn quan cung giám lợi dụng
mà ra sức thu vén, cướp bóc, nhũng nhiễu nhân dân. Câu văn: “Việc xây dựng đền
đài cứ liên miên” đã khái quát được sự bóc lột tận xương, tận tuỷ của chúa Trịnh để
phục vụ cho cuộc sống tột cùng của sự xa hoa của y. Xã hội rối loạn. Người ăn
không hết, kẻ lần không ra, rất bất công!
102
“Hồi loạn năm canh thân, Tân Dậu, tỉnh Hải Dương ta chịu hại về việc binh đao
đến 18 năm, ruộng đất hầu thành rừng rậm. Giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ đầy cả
ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn. Mỗi
một mẫu ruộng chỉ bán được một cái bánh nướng. Tổng Minh Luân ta có một bà cụ
goá mà giàu, người làng bầu cụ làm hậu thần. Vì tiền của bà cụ chất như núi, nên
tục gọi là bà hậu Núi”. Gặp năm mất mùa, nhà hết cả thóc ăn, bà mang năm bao bạc
đi đổi thóc không được, phải chết đói ở bên xóm chùa Bình Đê. Bấy giờ làng ta bỏ
hoang rậm rạp ngập mắt. Đến khi loạn lạc đã yên, người làng mới từ chốn kinh đô
lục tục kéo về, chặt tranh phá cỏ, đi tìm nhận lấy nền nhà cũ, thu nhặt những xương
tàn đem chôn. Nay ở phía Nam đầu làng vẫn còn một khu nghĩa trang, hằng năm cứ
đến rằm tháng bảy, người làng đem cỗ bàn ra cũng viếng.
Các cụ nho làng ta ngày xưa, như ông Nho sinh Phạm Diên Bá, thường nói
chuyện với ta rằng: Đương lúc loạn lạc, ông đi đường về tỉnh đông, có vào nhà hàng
cơm bên đường, thấy mùi thịt rất tanh, trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như
hình bán nguyệt. Hỏi người hàng cơm thì họ nói đó là thịt lợn lòi. Khi ăn đến nửa
chừng, thấy có con rận chết trên mặt bát mới biết là thịt người, vội vàng trở ra móc
cổ thổ ra. Ôi! đời xưa bảo rằng “thú ăn thịt người” cũng chưa quá nỗi đến tệ như
thế”. (Vũ Trung Tuỳ bút- Phạm Đình Hổ)
Khi đất nước có nạn binh đao thì đời sống người dân càng thêm cực khổ. Cạn
kiệt lương thảo, người dân phải đi bóc vỏ cây , bắt chuột để mà ăn. Một sự hoàn
toàn không tương xứng về giá trị: “Mỗi một mẫu ruộng chỉ bán được cái bánh
nướng”. Chi tiết Bà hậu Núi mang năm bao bạc đi đổi thóc không được phải phải
chết đói thật thảm thương, toát lên sự tố cáo mạnh mẽ. Chính các tập đoàn phong
kiến vì lợi ích riêng đã đẩy nhân dân vào tình trạng không đáng sống này. Đau xót
nhất, đáng sợ nhất, tệ bạc nhất, đáng lên án nhất là con người đối xử với nhau
103
không bằng con vật: người hàng cơm đã dùng thịt người để kinh doanh, làm thức ăn
cho người. Thật rùng rợn!
Trong truyện Trộm cắp, tác giả kể rất chi tiết, tường tận, rốt ráo từ thời gian,
không gian, diễn tiến câu chuyện. Phường Diên Hưng (Hàng Ngang) và phường
Đồng Lạc (Hàng Đào) là nơi phố hàng áo, bán các thứ tơ lụa vóc nhiễu rất nhiều.
Phiên chợ là những ngày: mồng một, mồng sáu, mười một, mười bốn, rằm, hai mốt,
hai sáu, ba mươi. Vào những ngày đó, “những quân trộm cắp hay thừa cơ cướp giật,
có khi thò tay vào túi người ta móc lấy hết cả. Có khi chúng cố ý làm cho ồn ào, đổ
xô nhau mà chạy, để rồi, cắp bọc áo người ta, hoặc khuân đồ vật hàng hoá. Có khi
chúng huyên truyền là voi lồng ngựa sổ để các người chợ búa và người đi đường xô
nhau chạy, hàng hoá đồ vật vứt bừa bãi. Lúc biết là chúng huyên truyền láo thì quân
kẻ cắp đã phỗng hết cả rồi”. Ấn tượng nhất, hấp dẫn nhất, đáng cười nhưng thật là
đau xót khi người đọc tiếp nhận được câu chuyện này. “Một hôm ở phường Đông
Các (Hàng Bạc) có một bà lão đi võng mành mành cánh sáo, đầy tớ lính hầu rậm
rịch, đến trước cửa một nhà hàng bạc, truyền thị tỳ dừng võng lại để hỏi mua mấy
chục nén bạc. Mà cả giá chưa xong, bà lão ngồi trên võng truyền vú giá hãy cầm
chục nén bạc đem về dinh, trình quan lớn xem qua, sẽ định giá. Chủ nhà hàng cũng
không ngờ gì. Một lát thị tỳ và lính hầu lẻn dần đi hết, hai tên lính khiêng võng
cũng cút mất”. Cách sắp xếp các câu chuyện của tác giả rất lo gic, hấp dẫn. Chuyện
nào hay hơn, độc đáo hơn thì để ra sau, kể cũng chi tiết hơn và kèm theo đó là thái
độ của tác giả. Chỉ cần Hai từ “cút mất” trong đoạn văn đó cũng nói lên được thái
độ bức xúc, khinh bỉ của tác giả trược nạn trộm cắp hoành hành đồng thời tố cáo
bọn quan lại để “dân đen mắc nạn này”. Qua các tác phẩm, tác giả đã bày tỏ cảm
xúc, thái độ quan niệm sống của mình trước cuộc đời, trước thế thái nhân tình. “Ôi!
đời xưa bảo rằng “thú ăn thịt người”cũng chưa quá nối đến tệ như thế”. Trong câu
chuyện Trộm cắp, tác giả viết: “Ấy, những lối ăn cắp lừa dối như thế rất nhiều,
104
không thể kể hết được. Cái tài giỏi của kẻ gian cũng lắm lối rất buồn cười, xem thế
đủ hiểu cái thịnh suy của đời thăng bình vậy”.
(Vũ Trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ)
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quý tộc, giỏi binh thư, võ nghệ.
Cũng giống như một số nhà Nho khác, trước thực trạng xã hội thối nát, cương
thường lỏng lẻo, ông cáo quan lánh đục tìm trong, với lí do là nuôi mẹ già. Ngày 12
tháng Giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh của chúa
Trịnh về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Cán. Trên đường đi từ
Hương Sơn, quê ông đến kinh thành chứng kiến nhiều cảnh, nhiều sự kiện với
những con người cụ thể nên thôi thúc ông viết tác phẩm Thượng kinh kí sự. Năm
1783, tập kí này được viết bằng chữ Hán hoàn thành. Tập kí sự gồm 15 mục: Lên
đường, Đến kinh thành, Chẩn bệnh thế tử, Dọn nhà, Hoạ thơ, Nhớ nhà, Gặp bạn
cũ, Tiễn bạn, Chữa bệnh tại kinh thành, Viếng chùa Trấn Quốc, Tái ngộ cổ nhân,
Thăm làng cũ, Thăm bệnh của chúa Trịnh Sâm, Chữa bệnh không thành, Về nhà.
Đây là tác phẩm kí thành công, gây được tiếng vang lớn bởi giá trị hiện thực
cũng như thể hiện tài năng, đức độ của một thầy thuốc luôn: “Thiện tâm cốt ở cứu
người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu! Biết vui nghèo cũng hơn giàu.Làm ơn nào
phải mong câu trả ơn.” làm phương châm sống cho mình. Câu chuyện Gặp bạn cũ
đã chứng minh tài năng quan sát, sự nhạy cảm, nhân cách cũng như nghệ thuật viết
kí của ông đạt đến độ mẫu mực đến dường nào.
Thứ nhất, chúng ta thấy ông là một người giàu tình, nặng nghĩa, đầy trách
nhiệm với người bệnh. Bệnh bà mẹ và cô em viên quan trấn Quảng Yên có tình
nghĩa sâu đậm với tác giả được tác giả chữa trị chu tất. Người cậu họ vợ tác giả rồi
viên quan lúc thiếu thời là “bạn tâm giao” cũng được tác giả tận tình cứu chữa.
“Đêm ấy, viên quan này nằm ngủ chung với tôi. Nửa vách đèn tàn và ba chén trà
đặc, cùng nhau luận cổ đàn kim, gà gáy mới nhắm mắt”. Chỉ ba cụm từ: viên quan
105
này nằm ngủ chung với tôi, cùng nhau luận cổ đàn kim, gà gáy mới nhắm mắt đã
cho độc giả thấy được tình cảm mênh mông, sâu thẳm, sự tri ân của hai người.
Người cậu ấy đã làm thơ tặng “tôi”, tác giả:
Danh tiếng kinh kì nay đã khắp
Lương phương thọ mãi để người nhờ.
Lê Hữu Trác từng trả lời: “Kẻ làm thuốc phải lo tính mệnh người, bổn phận là
phải chịu khó nhọc, không từ nan điều gì, dám biếng nhác buông tuồng được sao!”
có ý nghĩa trong mọi thời đại. Bởi tác giả đã đặt tính mệnh con người lên hàng đầu.
Hơn nữa, con người làm nghề gì cũng vậy, nhất là nghề thuốc phải có cái Tâm; luôn
siêng năng, chấp nhận gian khó,có trách nhiệm và không ngừng học hỏi.
Thứ hai, ông là người rất tinh tường nghề thuốc. Khi bắt mạch cho vợ Quận
hầu, ông biết ngay chắc chắn bà sẽ sinh con trai, mặc dầu bà ta mới có thai ba
tháng. Đây là lời tự thuật của tác giả khi bắt mạch cho một vị quan: “Tôi thấy sáu
đường mạch như tơ, hai đường mạch ở hai tay tựa như không có, tôi giật mình thốt
lên: Tiếc thay, ngài khó lòng mà hưởng được tuổi thọ.”. Ông cũng là người rất
khiêm tốn. Tôi thưa: “Kẻ ốm yếu ngu dại nơi quê mùa, biết sơ sài cái thuật nhỏ
mọn, sao đương nổi lời quá khen ấy.” Không chỉ giỏi y thuật mà ông cũng rất giỏi
văn thơ, thông hiểu chữ nghĩa, kiến thức kinh điển. Khi cảm xúc dâng trào hoặc tức
cảnh sinh tình hay trước những tâm sự u hoài, tác giả đều sáng tác thơ. Trước một
tên hầu vừa điếc, vừa câm: “Hắn vạch trên trán là nói nhà vua đó, trỏ tay vào miệng
là có chỉ triệu đó, tay vẫy là lại, chân nhảy là đi đó”, Lê Hữư Trác sáng tác ngay
một bài:
Tạo vật sinh người vốn vẹn tuyền
Anh này tính khí cớ sao thiên
Khác chi Dự Nhưỡng toàn trung tiết
Cũng tựa Hàn hầu chúc thọ niên
106
tráng kiện”. Câu văn đạt chuẩn mực về mặt ngữ pháp, theo mặt logic tương phản.
Tác giả đã làm nổi bật được sức mạnh tinh thần của người cậu. Thật tài tình! Và đây
là đoạn văn khi “tôi” đến nhà quan Tả Binh Sĩ Đoan, thân sinh ông Cẩm Giang.
“Các công tử con ông mời tôi đến nhà thuỷ tạ bên hồ, pha trà uống, cùng nhau nói
chuyện. Đây là cái hồ bằng phẳng, rộng ước chừng nghìn mẫu. Qua lại, thuỷ điểu
dỡn làn sóng nhẹ; nhảy nhót du ngủ tranh chiếc lá rơi. Giữa hồ sóng cỏ trước gió
dâng lên; bên hồ hoa sen thâu đêm vẫn nở. Trước hồ có đắp một con đê nhỏ hình
bán nguyệt. Phía trong đê đều trồng sen trắng, cạnh đê những cổ thụ rủ bóng mát,
những hoa quý phô sắc xinh. Trước sân vài gốc mai vàng nghiêng mình trên ghế đá;
ngoài song mấy khóm trúc xanh toả bóng bên án thư. Hạc nội đứng co ro một mình,
ý chừng sợ khí trời lạnh lẽo, trăm hoa như đối thoại, mắt coi thấy sáng tươi. Nói
chẳng hết được cái phong vị u nhàn”. Cách kể của tác giả rất lo gic, các sự việc
được sắp xếp mạch lạc như nó xảy ra. Đầu tiên là thông tin các công tử mời tôi đến,
rồi pha trà uống, sau đó cùng nhau nói chuyện. Tác giả đã phóng bút ghi lại, tả bao
quát, rồi cụ thể: “cái hồ bằng phẳng”, giữa hồ, trước hồ, bên hồ; một con đê, phía
trong đê, cạnh đê. Đặc biệt tác giả đã “nhập thân” vào sự vật để nói lên được cái
thần thái, tâm trạng của sự vật: Hạc nội đứng co ro một mình, ý chừng sợ khí trời
lạnh lẽo…Đoạn văn giàu tính nhạc, đã thể hiện tài quan sát, óc tưởng tượng phong
phú của tác giả và qua đó ta thấy được đời sống vương giả của một số quan lại “đã
về trí sĩ”. Để có được cơ ngơi này, cái phong vị u nhàn này là bao nhiêu tiền của mồ
hôi, công sức, xương máu của “dân đen”. Cách viết rất nhẹ nhàng nhưng đầy sức
nặng, gợi cho người đọc cái chiều sâu cảm xúc, sự liên tưởng sâu xa.
Để các tác phẩm thuộc thể kí nói riêng, các tác phẩm cùng thể loại khác nói
chung “có đất sống”, trước hết nó phải mới và lạ từ nội dung cho đến hình thức thể
hiện. Người viết kí phải chọn những đề tài hấp dẫn, những vấn đề được nhiều người
quan tâm, có tính khái quát. Chi tiết cũng phải được lựa chọn, tránh chồng chéo,
108
rườm ra. Nó phải có sức chứa lớn về cảm xúc và chiều sâu tư tưởng. Chẳng hạn chi
tiết, bà Hậu núi mang năm bao bạc đi đổi thóc không được, phải chết đói trong Vũ
Trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ gợi cho người đọc nhiều tầng suy nghĩ về hiện
thực xã hội lúc đó, về tình người trong hoạn nạn như thế nào. Bên cạnh đó, nghệ
thuật viết kí cũng phải “mẫu mực”, sao cho hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Đó có thể
là cách sắp xếp các sự kiện, kết hợp giữa kể và tả, giữa ngôn ngữ tự sự và ngôn ngữ
trữ tình. Câu văn cũng phải phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh, vừa truyền nhận
thức, vừa truyền cảm xúc. Để có sức thuyết phục, tạo niềm tin cho độc giả tác giả kí
phải kể một cách chi tiết đến ngọn ngành từ thời gian đến không gian, diễn tiến xảy
ra câu chuyện…
Tóm lại kí trung đại Việt Nam đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin
phong phú về phong cảnh, đời sống của con người Việt Nam trong xã hội phong
kiến nhất là giai đoạn vua Lê, chúa Trịnh và nhân cách người viết kí. Và qua đó,
người đọc cũng thấy tài năng, phẩm chất nghệ thuật của các tác giả kí trung đại…
109
KẾT LUẬN
Văn học trung đại Việt Nam đã cung cấp cho người đọc nguồn tri thức vô tận
về hiên thực Việt Nam thời trung đại, nhất là thế giới tâm hồn, tính cách, văn hoá
dân tộc cũng như khả năng tư duy nghệ thuật của con người Việt Nam. Văn học
trung đại Việt Nam phát triển theo những nguyên tắc đặc thù của nó. Những vấn đề
nhân sinh mà các tác giả trung đại đặt ra không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà có ý
nghĩa muôn đời. Tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ trở thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử văn học dân tộc và trở thành truyền thống để cho các
tác giả về sau học hỏi, vận dụng, bởi nền văn học ấy đã “lưu giữ các giá trị tinh thần
và giá trị nghệ thuật” (GS.TS Trần Đình Sử)
Phần lớn các thể loại văn học trung đại Việt Nam tuy có nguồn gốc từ Trung
Quốc nhưng nó vẫn có những nét riêng, có đóng góp riêng từ nội dung cho đến hình
thức nghệ thuật, có vai trò rất lớn trong việc “nhân đạo hoá con người”. Dù thực
hiện chức năng tự sự hay chức năng trữ tình thì các thể loại được cha ông chúng ta
sử dụng vẫn thể hiện được bản lĩnh, truyền thống con người Việt Nam, văn hoá Việt
Nam, hiện thực Việt Nam.
Mỗi một thể loại lại có phạm vi tiếp xúc, phản ánh riêng, có hình thức cho phù
hợp với đối tượng phản ánh. Mỗi tác giả khi sáng tác dù là ở thể loại nào thì vẫn có
những đóng góp nhất định cho lịch sử văn học nước nhà. Đóng góp lớn nhất ở thể
loại thơ Đường luật là Nguyễn Trãi với tập thơ Quốc âm thi tập; ở thể loại truyện
thơ là Nguyễn Du với Truyện Kiều; ở truyện truyền kì là Nguyễn Dữ với Truyền kì
mạn lục; ở tiểu thuyết chương hồi là Ngô gia Văn phái với tiểu thuyết: Hoàng lê
nhất thống chí; ở thể loại kí là Lê Hữu Trác với Thượng kinh kí sự.
Các tác giả văn học Việt Nam hiện đại cũng cần học hỏi các tác giả văn học
trung đại Việt Nam trong việc khai thác đề tài, chọn chủ đề (tất nhiên hiện thực Việt
Nam ngày nay, ý thức hệ ngày nay khác hoàn toàn xưa), cách viết, lựa chọn ngôn
110
ngữ…, đặc biệt là nhân cách người cần bút, ý thức được hoạt động nghệ thuật là
sáng tạo ra cái đẹp mà cái đẹp thì có giá trị muôn đời.
Luận văn này góp phần hình thành cho độc giả kĩ năng, cách đọc tác phẩm văn
học trung đại theo đặc trưng thể loại của nó một cách khoa học, hiệu quả nhất. Từ
đặc trưng thể loại soi chiếu vào tác phẩm để thấy được tài năng, cá tính, chiều sâu
tư tưởng, tầm văn hoá, vốn sống của nhà văn.
-