Xemtailieu Chuc Nang Cua Mot So The Loai Chinh Van Hoc Trung Dai Viet Nam

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 110

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
................................

NGUYỄN QUẾ KỲ
CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI CHÍNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH-2009
2

MỞ ĐẦU 
       1.   Lý do chọn đề tài
1.1.Văn học trung đại Việt Nam là một loại hình văn học tồn tại và phát triển
trong thời trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Thời kì này chịu sự chi
phối sâu sắc của ý thức hệ tư tưởng, của văn học, mĩ học phong kiến và truyền
thống văn hoá các dân tộc Việt Nam. Văn học trung đại Việt Nam có một hệ thống
thi pháp riêng với nhiều thể loại kể cả thể loại nội sinh và ngoại nhập. Mỗi một thể
loại lại có chức năng riêng trong việc chuyển tải nội dung, tư tưởng, những vấn đề
nhân sinh thiết thực mà cuộc sống yêu cầu qua những hình thức nghệ thuật khác
nhau mang tính quan niệm. Vì vậy, luận văn này làm sáng rõ chức năng của một
số thể loại chính của văn học trung đại Việt Nam trong việc thể hiện “thiên chức”
của mình như: chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ…,
theo tiên chỉ “văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí” mà các nhà văn trung đại thường lấy
làm chuẩn mực.
1.2.Để thực hiện các chức năng rất đỗi thiêng liêng cao quý đó: tác động trực tiếp
đến tư tưởng, tình cảm, góp phần thanh lọc tâm hồn, di dưỡng tính tình, hoàn thiện
nhân cách, giúp con người “tự nhận thức” mà sống tốt hơn, đẹp hơn…thì mỗi một
thể loại lại có một số hình thức nhất định cho phù hợp với phẩm chất nghệ thuật,
tính chất giáo huấn tuyên truyền, có tính quan phương như: thể thơ, các biện pháp
tu từ, kết cấu, các hình thức mang tính quan niệm… Luận văn này làm sáng rõ các
hình thức mà các nhà văn, nhà thơ sử dụng để thực hiện các chức năng của mình ở
các phương diện: cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu, sự tự biểu hiện
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
         Trong luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là chức năng  của
một số thể loại chính vận văn, tản văn trong văn học trung đại Việt Nam.
3

2.2. Phạm vi nghiên cứu


       Do văn học trung đại Việt Nam có rất nhiều thể loại kể cả nội sinh và ngoại
nhập nên để cho tập trung, cho có chiều sâu nên ở luận văn này, chúng tôi chỉ
nghiên cứu chức năng của một số thể loại quan trọng như về thơ có: Thơ Đường
luật, truyện thơ; về tản văn có: truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi, kí.
3. Mục đích nghiên cứu
        Với đề tài, chúng tôi nhằm thực hiện các mục đích sau:
       - Tìm hiểu chức năng của một số thể loại văn học trung đại và các hình thức
thực hiện các chức năng đó.
       - Từ chức năng thể loại đi vào thực hiện phân tích một số tác phẩm theo đặc
trưng thể loại để có cái nhìn toàn vẹn, thấu đáo bản chất của vấn đề, hiện thực đời
sống, thế giới tinh thần của nhà văn. Và qua đó, thấy đước cá tính sáng tạo, hình
thức nghệ thuật mà nhà văn thể hiện qua tác phẩm.
4. Lịch sử vấn đề
       Việc phân chia các thể loại văn học trung đại Việt Nam, trong đó có chức năng
của từng thể loại đã được nhiều tác giả nói đến trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều
công trình nghiên cứu khoa học. Công trình đầu tiên là Việt âm thi tập do Phan Phu
Tiên thực hiện gồm 624 tác phẩm. Đây là công trình sử biên, trong đó có các bài tựa
có tính chất là phê bình, nghiên cứu. Tiếp theo là công trình Tinh tuyển chi gia luật
thi do Dương Đức Nhan thực hiện, tập hợp 427 bài thơ của 13 tác giả đời Trần, Hồ
và Lê sơ. Công trình thứ ba là Trích diễm thi tập do Hoàng Đức Lương thực hiện,
tập hợp 427 bài thơ. Ý thức phân loại thơ đã thể hiện rõ. Bùi Huy Bích có công
trình Hoàng Việt văn tuyển gồm 8 quyển, tổng cộng 112 tác phẩm, chia theo các thể
loại kí,chế sách, tản văn, công văn phú, văn tế, minh, chiếu, biểu…
4

       Lê Quý Đôn ở thiên văn nghệ chí trong Lê triều thông sử chia tác phẩm ra
thành 4 loại: hiến chương (16 loại ), Thi văn (66 tác phẩm ), Truyện kí (19 tác
phẩm), Phương kĩ (14 tác phẩm ).
       Phan Kế Bính trong Việt Hán văn khảo viết: “Văn chương có nhiều thể cách,
mỗi thể cách có lối đặt câu riêng, nhưng đại khái thì nên chia hai lối là lối có vần và
lối không có vần. Lối có vần như là thơ, phú, minh, tán, ca, ngâm khúc điệu…Lối
không có vần như là kinh nghĩa, văn sách, luận, kí, tứ lục tiểu đối…” [9, tr. 6].
Quan niệm này mang tính khoa học và hệ thống.
       Năm 1932, Bùi Kỉ trong Quốc văn cụ thể có giới thiệu các thể loại theo tên gọi
của người xưa: Lục bát, song thất lục bát, hát xẩm, hát nói, mưỡu, thơ cổ phong,
Đường luật, minh, trâm, tán, từ khúc, phú, văn tế, chiếu, biểu, cáo, hịch, trướng,
kinh nghĩa,văn sách, tựa, truyện, kí, bia, luận, chèo, tuồng.
       Năm 1943, trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đề cập đến việc
phân loại thể loại.Tác giả đã phân biệt “các thể văn mượn của tàu và các thể văn
mượn của ta”. Những thể mượn của tàu được chia làm hai loại : Vận văn (Văn có
vần: Thơ, phú, văn tế ); biền văn (Văn không có vần mà có đối : câu đối tứ lục, kinh
nghĩa). Các lối văn xuôi của Tàu: tự, bạt, truyện, kí, bi, luận. Những thể riêng của
ta: lục bát, song thất và các biến thể của hai lối ấy.
       Nguyễn Huệ Chi trong Khảo luận văn bản thơ văn Lí-Trần, căn cứ vào những
đặc điểm và phương thức biểu hiện của tác phẩm, chia thành 5 loại với 15 thể: Thơ
ca gồm: thơ sấm vĩ, thơ suy lí, thơ trữ tình, thơ tự sự; Biền văn gồm: phú, hịch, cáo,
chiếu, chế, biểu, tấu; Tản văn gồm: văn bình luận, văn thư tín, văn ngữ lục; Tạp
văn: luận thuyết tôn giáo; Truyện kể: truyện, sử, bi, kí.
       Công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử đi
theo hướng thể loại với các nhóm: Nhóm 1: Các thể thơ trữ tình, Nhóm 2: Phú và
các thể văn; Nhóm 3: Thể loại truyện chữ Hán. Ở phần thơ trữ tình, tác giả viết :
5

“Phần lớn thơ làm trong các dịp tiễn tặng, hoạ thơ người khác, đề thơ kỉ niệm, tức
cảnh, tức sự, thư sự…Khi muốn bộ lộ nỗi lòng thì họ gọi là Ngôn hoài, Thuật
hoài…” [tr 170 ] . Hay trong thể phú, tác giả cũng đề cập đến chức năng của thể
này: Tính nội dung của thể phú thể hiện ở cách sử dụng. Tính chất chung của phú là
ca ngợi. Có hai loại phú – phúng gián và tỏ chí. [tr. 267].
       Cuốn: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi chủ biên đề cập đến các thể loại cả văn học trung đại và văn học hiện đại (riêng
một số thể loại không có như: truyện truyền kì). Chẳng hạn, khi đề cập đến thơ trữ
tình, tác giả viết: “Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ những cung bậc tình cảm cho tới những
chính kiến, những tư tưởng triết học” [tr 269].
Công trình: Vấn đề phân loại thể loại văn học Việt Nam trung đại, tác giả Biện
Minh Điền khẳng định: “Vậy là, nhìn vào hệ thống thể loại, có thể khu biệt từng
giai đoạn, từng thời kì văn học và có thể nhận diện từng loại hình văn học. Chính vì
thế, hướng theo thể loại là xu thế chủ đạo trong sáng tác, nghiên cứu, phê bình và
giảng dạy văn học hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế
giới” [6]. Cũng theo tác giả: phương án phân loại là cơ sở để đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu các thể loại trong văn học Việt Nam trung đại. Có ba phương diện cần khảo sát:
nội dung, chức năng và thi pháp của thể loại.
Cuốn: Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại những vấn đề văn xuôi tự sự,
Nguyễn Đăng Na khẳng định: “Văn xuôi tự sự là một bộ phận hữu cơ không tách
rời quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Song, với tư cách là một loại hình
nghệ thuật, văn xuôi tự sự có những đặc trưng và quy luật diễn tiến riêng. Qua ba
chặng đường lịch sử với chiều dài mười thế kỉ (X – XIX) và ba xu hướng phát triển,
cùng với các loại hình thể loại văn học khác, văn xuôi tự sự đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử mà thời đại giao phó: phản ánh đời sống tâm linh của người Việt Nam thời
6

trung đại. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, các tác gia văn xuôi tự sự không
ngừng tìm tòi, kế thừa và đổi mới cả nội dung lẫn hình thức tác phẩm đặng từ đó
dần dần tự hoàn chỉnh cả ba hình thức tự sự: truyện ngắn, kí và tiểu thuyết chương
hồi” [39].
       Chuyên đề: Văn chính luận Việt Nam thời trung đại, tác giả Phạm Tuấn Vũ nói
khá rõ các chức năng của các thể: cáo, chiếu, hịch…Công trình này đã gợi ý cho
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu các chức năng của một số thể loại quan trọng của văn
học trung đại Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
       Qua luận văn, chúng tôi hi vọng sẽ tìm hiểu sâu hơn chức năng của một số thể
loại quan trọng được học trong chương trình phổ thông và phương thức thể hiện
chúng, cá tính sáng tạo của tác giả. Từ đó hình thành cho độc giả kĩ năng, cách đọc
tác phẩm theo đặc trưng thể loại, cụ thể cách đọc thơ Đường luật, truyện thơ, truyện
truyền kì, tiểu thuyết chương hồi, kí.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, so sánh
                - Phương pháp tổng hợp khái quát
7. Cấu trúc luận văn
         Ngoài phần “Mở đầu”, phần “Kết luận” và mục “Tài liệu tham khảo”, nội
dung chính của luận văn gồm ba chương:
       Chương 1. Một số vấn đề thể loại văn học của văn học trung đại Việt Nam và
các chức năng của nó
         Chương 2. Chức năng của một số thể loại vận văn
         Chương 3. Chức năng của một số thể loại tản văn
7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC CHỨC NĂNG CỦA NÓ
1.1. Một số đặc điểm về chức năng của văn học trung đại Việt Nam
1.1.1. Văn học trung đại Việt Nam
       Văn học trung đại Việt Nam chỉ một loại hình văn học tồn tại và phát triển
trong thời trung đại ở Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX). Đây là văn học của
thời kì gắn với chế độ phong kiến. Tuy nhiên chú ý thời trung đại của từng thời kì,
từng khu vực, từng quốc gia có sự khác nhau. Theo B.L. Rip tin: văn học trung đại
nhiều điều chưa xác định. Tuy nhiên những cơ sở vững chắc của khái niệm này
không thể phủ nhận vì tính chất loại hình.
       Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối sâu sắc của ý thức hệ tư tưởng,
của mĩ học phong kiến, tiếp thu tinh hoa của văn học dân gian. Điều này là tất yếu
bởi vì văn học luôn vận động, theo sát, phục vụ cuộc sống. Các nhà văn trung đại
trong quá trình sáng tác thường chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “trung quân ái
quốc”. Quan niệm phong kiến chính thống cho rằng: nước với vua là một. Nguyễn
Trãi, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu…đã trực tiếp hoặc gián tiếp bày tỏ quan
niệm này. Là một người có tri thức uyên thâm, từng đỗ đầu ba kì thi, luôn cháy
bỏng một khát vọng “trí quân trạch dân”, từng làm quan nhưng do hoàn cảnh đất
nước ta bị thực dân Pháp xâm lược nên Nguyễn Khuyến đã cáo quan về ở ẩn. Ông
từng dặn con cháu: “Trầm tư ty lạp quân ân trọng” (Suy nghĩ cho kĩ thì ơn của vua
dù bé nhỏ như sợi tơ hạt tóc vẫn là nặng; ông tự nói về mình: “Quân ân vị báo đầu
tiên bạch” (ơn vua chưa trả được mà đầu đã bạc). Đến cuối đời, nhà nho Yên Đổ
vẫn canh cánh trong lòng tâm sự u uất, day dứt, thẹn thùng, ân hận :
                       Ơn vua chưa chút báo đền
                       Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời.
8

       Nguyễn Đình Chiểu thì từng ước có một vị vua anh minh, tập hợp sức mạnh
nhân dân đánh tan, quét sạch quân xâm lược:
                        Chừng nào thánh đế ân soi thấu
                        Một trận mưa nhuần rửa núi sông
                                       (Xúc cảnh)
       Khi đất nước có ngoại xâm thì văn học là một vũ khí sắc bén, vô cùng lợi hại,
cổ vũ động viên tinh thần quân dân vùng lên giết giặc lập công. Trong thi phẩm Bảo
kính  cảnh giới (số 5), Nguyễn Trãi viết:
           Văn chương chép lấy đôi câu thánh
            Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.
          Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
           Có nhân, có trí, có anh hùng.
       Văn chương phải gắn với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm
người. Văn chương phải gắn với hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”,
phải gắn với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Muốn bảo vệ cuộc sống và
khẳng định giá trị con người thì trước hết phải bảo vệ Tổ quốc, khẳng định dân tộc,
bởi “nước mất thì nhà tan”. Văn chương phải chuyển tải được thông điệp thiêng
liêng, cao quý đó.
       Lí Thường Kiệt từng dõng dạc khẳng định chủ quyền:
                    Sông núi nước Nam vua Nam ở
                   Rành rành định phận ở sách trời
       Nghe thật hào sảng nhưng không kém phần xúc động, tự hào! Và tác giả đã nêu
cao quyết tâm, ý chí của cả toàn thể dân tộc, của con cháu Lạc Hồng:
                       Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
                      Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
                              (Bài thơ thần- Lí Thường Kiệt)
9

       Quân địch khi nghe xong phải run sợ, mất tinh thần chiến đấu.
       Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc
Tuấn…là một trong những áng văn có tính luận chiến rất rõ, có giá trị muôn đời bởi
tư tưởng nhân văn sâu sắc.
       Khi đất nước sạch bóng quân thù thì yêu nước là dốc toàn trí, toàn lực để xây
dựng đất nước hùng cường, no ấm, mấu mực theo xã hội Nghiêu, Thuấn ở Trung
Quốc. Yêu nước còn là phê phán những hủ lậu, những điều trái tai gai mắt, đi 
ngược lại với đạo đức, lợi ích, truyền thống dân tộc. Đó là phê phán cảnh ăn chơi sa
đoạ trong phủ chúa Trịnh (trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác và
nhiều tác phẩm khác), là bọn quan lại “rỗng tuếch về trí tuệ”, “hữu danh vô thực”,
trong thời buổi hỗn loạn không làm được việc gì cho dân cho nước. Nguyễn
Khuyến gọi chúng là những ông “Phỗng đá”:
                             Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
                             Non nước đầy vơi có biết không?
                                                     (Ông Phỗng đá- Nguyễn Khuyến)
      Văn học trung đại Việt Nam còn kế thừa truyền thống nhân đạo. Đó sự đồng
cảm, sẻ chia trong hoạn nạn cuộc đời, thông cảm cho những số phận bất hạnh, đặc
biệt là nhũng người phụ nữ phải sống trong xã hội nam quyền độc đoán, đầy rẫy
những hủ tục, bất công, những định kiến hẹp hòi, phi lí. Vũ Nương trong Người con
gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Thuý Kiều, Đạm Tiên trong Truyện Kiều, những
người vợ có chồng đi chinh chiến biền biệt trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của
Đặng Trần Côn, những người phụ nữ sống trong u sầu, tủi nhục trong cung Tần,
phủ Chúa “giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”, là số phận của những người vợ lẽ,
những người phụ nữ không chồng mà chửa trong thơ Hồ Xuân Hương…Mỗi người
có nỗi niềm tâm sự riêng, nỗi khổ riêng nhưng trong tận cùng oan trái, khổ đau, họ
vẫn ngời lên vẻ đẹp nhân cách của lòng vị tha, hiếu thảo, đức hi sinh…Và qua đó,
10

các tác giả trung đại bày tỏ những khát vọng giải phóng con người khỏi áp bức đau
khổ. Đó là khát vọng về tình yêu tự do như qua câu chuyện tình yêu giữa Thuý Kiều
và Kim Trọng trong truyện Kiều; Phạm Kim và Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang
của Phạm Thái... Như chúng ta biết, sống trong xã hội phong kiến, hôn nhân xuất
phát từ tình yêu tự do là điều không tưởng. Hôn nhân phải môn đăng hộ đối, cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy, người phụ nữ luôn bị động, phải lệ thuộc, không có quyền
quyết định hạnh phúc đời người. Nguyễn Du đã gióng lên tiếng nói nhân bản, đầy ý
nghĩa, phải trả lại đúng nghĩa, đích thực của những cuộc hôn nhân: sự đam mê
mãnh liệt, có sự bí ẩn, đầy sáng tạo, hôn nhân phải xuất phát từ tình yêu tự do…Bên
cạnh đó, Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải còn bày tỏ về khát vọng công lí. Đây là
vấn đề muôn thuở mà xã hội nào cũng hướng tới.
       Văn học trung đại Việt Nam cũng dành một phần lớn để tố cáo những thế lực
hắc ám đã chà đạp con người, gieo rắc nhiều đau khổ, đẩy họ vào bước đường cùng.
Thế lực này khá đông đảo từ tầng lớp vua quan như Hồ Tôn Hiến đến bọn lưu manh
như tên sở Khanh, bọn đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi, những tên buôn thịt bán
người sống bằng nghề nhơ nhớp như Bạc Bà, Bạc Hạnh trong truyện Kiều. Chà đạp
Thuý Kiều là cả một xã hội. Cũng chính chế độ nam quyền độc đoán đã giết chết
người vợ hiện thục, nết na có “tư dung tốt đẹp” Vũ Thị Nương trong Người con gái
Nam Xương của Nguyễn Dữ. Bất nhân, vô liêm sỉ như Trọng Quỳ thua bạc, gán vợ,
khiến vợ tự tử gây ra bao xót xa, bức xúc cho người đọc mọi thế hệ …Chủ nghĩa
nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng từ bi
bác ái của đạo Phật, tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo.
       Văn học trung đại Việt Nam đã kế thừa sự thông minh dí dỏm, sự lạc quan,
luôn tin tưởng vào tương lai dù trong sự khốn khó nhất, bi đát nhất của văn học dân
gian. Xã hội còn nhiều điều bất cập, chà đạp nhân phẩm con người, gây cho họ bao
đau khổ. Trong thơ văn của các tác giả trung đại, đặc biệt là trong thơ Hồ Xuân
11

Hương, chúng ta vẫn thấy những nụ cười tươi rói nhưng không kém phần cay độc,
sự quấy đạp, muốn bứt tung, muốn vươn mình ra khỏi ao đời mờ nhạt, để khẳng
định mình, khẳng định bản ngã.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
                                     (Bánh trôi nước- Hồ Xuân Hương ).
       Viết về chiếc bánh trôi nước nhưng thực ra là tác giả đang viết về giới mình.
Người phụ nữ vừa đẹp người lại đẹp nết, đáng lẽ phải được trân trọng, thương yêu
hết mực nhưng sống trong xã hội phong kiến, họ bị xúc phạm thậm tệ, họ chịu “kiếp
ốc nhồi”. Dù trải qua phong ba bão táp cuộc đời, họ vẫn luôn “giữ tấm lòng son”,
chung thuỷ, đằm thắm trong tình cảm. Lí Thông trong truyện thơ Thạch Sanh, gian
ác thâm hiểm nên bị trừng trị đích đáng, ngược lại Chàng Thạch Sanh dũng cảm,
hào hiệp, nhân hậu, cuối cùng có cuộc sống hạnh phúc  được làm vua, lấy công
chúa. Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, trích Truyền kì mạn lục “cao
nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người”, cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa
vào tăng phòng để chuộc lỗi cho Giáng Hương vì làm cành hoa bị gãy. Chàng vốn
thích cuộc sống tự do, hoà hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi: “ta không thể
vì số lượng năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo
về, nước biếc non xanh vốn chẳng phải phụ ta vậy”. Có âm đức tất có dương báo,
chàng lấy vợ tiên và sống trong tột đỉnh của giàu sang. Nhưng chàng vốn là người
rất nặng lòng với quê hương nên đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, thần tiên về
với cuộc sống đời thường… Chắc chắn khi sáng tác, các tác giả trung đại đã chịu
ảnh hưởng từ văn học dân gian, cụ thể là từ truyện cổ tích: ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo…
12

       Đặc điểm thứ hai của văn học trung đại Việt Nam, đó là thời kì dài văn học
được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Lúc đầu do chưa có chữ viết, lại chịu ách đô
hộ, thống trị, đồng hoá rất thâm độc của bọn phong kiến phương Bắc nên cha ông
chúng ta phải mượn văn tự Hán để gửi gắm tiếng lòng cũng như chuyển tải những
thông điệp, những chân lí cuộc sống qua thơ văn. Nhưng với tinh thần dân tộc, với
truyền thống kế thừa nhưng có chọn lọc và không ngừng sáng tạo cho phù hợp với
tâm hồn, tính cách dân tộc, hiện thực Việt Nam, cha ông ta đã sáng tạo chữ Nôm
trên cơ sở chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Nguyễn Khuyến…là một trong những người thành công khi sử dụng chữ Nôm
để sáng tác. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được Xuân Diệu mệnh danh là bà chúa thơ
Nôm. Nguyễn Trãi có tập thơ được xem là bông hoa nghệ thuật đầy cách tân cả ở
phương diện nội dung và nghệ thuật Quốc âm thi tập. Truyện Kiều của đại thi hào
đân tộc Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm…Điều dễ nhận thấy là các tác
giả văn học trung đại Việt Nam đã có sự cách tân khi sử dụng thể thơ, đặc biệt là
việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, thuần Việt với các thành ngữ, tục ngữ…rất gần
gũi và phù hợp với tâm lí, tư tưởng, trình độ tiếp nhân của độc giả lúc bấy giờ.
Trong bài Mời trầu của Xuân Hương có những câu thơ nghe thật nhẹ nhàng, tự
nhiên nhưng đầy lắng đọng, có sức thẩm thấu, ngân rung:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
       Nữ sĩ đã lấy những hình ảnh rất quen thuộc mà bất cứ người bình dân nào cũng
biết: quả cau, miếng trầu. Đến câu thứ hai với ba từ liên tiếp: “Này”, “Xuân
Hương”, “quệt”… đã thể hiện tài năng, cá tính cũng như bản lĩnh của một con
người luôn có tư tưởng chống lại số phận, những cái giả dối, trơ trẽn trái với lẽ tự
13

nhiên và của lòng người đồng thời luôn khao khát một tình yêu tròn đầy, viên mãn.
Từ “này” là đại từ chỉ thị mang tính xác định. “Này” nói rõ miếng trầu của Hồ Xuân
Hương. Nó có hai nghĩa: chỉ thái độ suồng sã, thân mật; đồng thời chỉ bản lĩnh
bướng bỉnh, có ý thức về bản thân mình. “Xuân Hương” là một cách xưng hô bạo
dạn. Trong văn học trung đại, cách xưng hô của chị em là dùng đại từ phiếm chỉ:
em, thiếp, tôi…không mấy ai xưng tên. Nghe rất tội nghiệp! Nhưng với Xuân
Hương có lẽ là bà là người phụ nữ duy nhất dám xưng tên mình vào trong thơ. Điều
đó chỉ rõ bản lĩnh của nữ sĩ như là một lời thách đố đối với xã hội nam quyền, thể
hiện thái độ của một con người có ý thức, có bản lĩnh. Can đảm vô cùng! “Quệt” là
một động từ cũng giống như bôi nhưng hành động này dứt khoát. Mới quệt chỉ sự
tươi nguyên, tinh khôi của miếng trầu. Lời mời trầu của Xuân Hương vừa tự nhiên,
vừa khiêm tốn, tha thiết nhưng vẫn thể hiện sự chủ động, sự ý thức của bản thân
mình.
       Đặc điểm quan trọng nhất của văn học trung đại Việt Nam là văn học thời kì
này có một hệ thống thi pháp riêng: có thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm…Hệ
thống thi pháp này thể hiện trên nhiều phương diện như quan niệm văn học. Khái
niệm về văn học thời xưa được hiểu một cách không thống nhất. Có cách hiểu rất
rộng, văn học bao gồm tất cả những thứ viết trên lụa và trên giấy. Nhưng có quan
niệm rất hẹp, văn học chỉ bao gồm ba thể loại: Thơ, tiểu thuyết và những tác phẩm
du hí. Có quan niệm khác với hai quan niệm này: ngoài thơ, tiểu thuyết, du hí, văn
học còn có cáo, chiếu, biểu hịch. Bởi vậy, quan điểm văn chương thời trung đại
không có sự phân biệt giữa văn, sử, triết. Người ta gọi “văn sử triết bất phân”. Đời
trước khi cầm bút để chép sử hay luận về triết học, người ta có ý thức làm rõ của
một công trình khoa học. Ai cầm bút cũng luôn vươn tới ý đẹp, lời hay mang nét
thẩm mĩ. Vì vậy, đó là những tác phẩm mang tính thẩm mĩ. Văn học coi trọng cái
luân lí. Những loại được coi trọng nhất là đạo đức, triết học, luân lí. Những cuốn
14

tiểu thuyết bị xem thường. Nhà văn cảm thụ thế giới và cảm hứng thế giới không
phải như một khách thể độc lập mà là có sự giao cảm giữa thi sĩ với thiên nhiên và
thế giới. Điều này nó xuất phát từ quan niệm “thiên nhân tương cảm”, trời người
cảm ứng với nhau. Trong văn chương thường có bút pháp tượng trưng, ước lệ.
Chẳng hạn tùng, cúc, trúc, mai tượng trưng cho người quân tử. Các tác giả trung đại
khi sáng tác thông qua một hệ thống ước lệ rất chặt chẽ và phức tạp với ba tính chất
cơ bản sau. Thứ nhất là tính chất uyên bác và cách điệu hoá cao độ. Uyên bác thể
hiện văn chương đầy những điển tích, điển cố. Cách điệu hoá cao độ được nhà văn
tạo ra một thế giới nghệ thuật mang cốt cách cao sang không tầm thường. Thứ hai,
tính chất sùng cổ. Cái gì càng xa xưa là chân lí, đạo lí. Thứ ba, tính phi ngã, không
cá thể hoá, có khuynh hướng hoà cái tôi vào trong cái ta. Cái tôi cá nhân, cái tôi
trong sáng tạo nghệ thuật ít được chú trọng. Văn học trung đại hướng về thế đạo
nhân tâm. Từ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu
đến Phùng Khắc Khoan đều nói đến chức năng công dụng của văn học. Điều này do
chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm văn học của Trung Quốc. Trực tiếp là quan niệm
của Khổng-Mạnh, quan niệm Nho giáo. Khảo sát văn học Việt Nam Trung đại cả
sáng tác cũng như lí luận, chúng tôi nhận thấy: thế nào là đặc trưng của văn học hay
văn học là gì?, cha ông ta có bàn đến tuy rằng không nhiều. Ý kiến của Hoàng Đức
Lương: “văn chương là sắc đẹp cả ngoài sắc đẹp, là ngon ngoài cả vị ngon”. Phan
Kế Bính: Ta xem trong sách, nghe những lời nghị luận…tươi như hoa, đẹp như
gấm…gọi là văn chương của loài người. Theo ông văn là đẹp, chương là sáng. Văn
chương là bức tranh vẽ cái đẹp của tạo hoá. Phan Kế Bính chỉ ra khái quát ba yếu tố
cơ bản trong quan niệm văn chương là gì của các tác giả văn học Việt Nam trung
đại:
       Văn chương là một bức tranh khách thể.
       Văn chương là tư tưởng, tình cảm, là quan niệm của chủ thể.
15

       Ngôn từ (lời nói) đòi hỏi phải sáng và đẹp.


       Các tác giả trung đại thấy được việc sáng tạo văn học là việc luyện ý, câu, nhạc,
luôn đặt văn chương trong nhiều mối quan hệ với Tâm – Trí - Đạo -Tình - Cảnh -Sự
- Nhạc - Thể cách… Ngô Thì Nhậm thì phát biểu: Văn chương để giúp đời. Ông
cha ta thời trung đại nhấn mạnh chức năng xã hội học: cao cả, có quan hệ sâu sắc
thế đạo nhân tâm.
       Tóm lại, văn chương để giáo hoá đạo lí, di dưỡng tính tình. Văn chương là
phương tiện để kí ngụ, cảm hoài, bộc lộ nỗi lòng. Văn chương là một vũ khí để giúp
đời, để bảo vệ thế nước tục dân. Ở phương diện này, chúng ta thấy mệnh đề trong
quan niệm của Nho giáo “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”.
       Về quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái đạo đức, gắn với cái
hữu ích, hữu dụng. Tiêu chuẩn về cái đẹp theo quan niệm của cha ông ta là cái đẹp
phải có sự cân đối, hài hoà. Cấu trúc câu từ, chương, cú pháp, vần, đối…trở thành
tiêu chí hàng đầu. Cái đẹp trong văn học trung đại thường được chưng cất rất công
phu. Từ ngữ được tinh luyện, cô đúc, hàm súc, ý tại ngôn ngoại, lời hữu hạn, ý vô
cùng, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, thường được gắn với các điển tích, điển cố.
Thiên nhiên làm chuẩn mực để đánh giá cái đẹp. Nguyễn Du khi miêu tả vẻ đẹp chị
em Thuý Kiều “mỗi người một vẻ” đều gắn với các hình ảnh như: hoa, mây,
tuyết…Điều này khác với văn học hiện đại nhất là trong thơ Xuân Diệu. Tác giả đã
lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp.
       Tác giả văn học trung đại với nhiều tên gọi “Thi ông”, “Ngâm ông”, “Văn
nhân”, “Thi gia”, “Thi hào”… thường là đội ngũ tri thức, làm quan. Họ được học
sách vở thánh hiền, thông thạo kiến thức kinh điển, ngay từ nhỏ đã được tiếp xúc,
làm quen với nhiều hình thức thể cách của thi ca (thể, vần, đối, thanh…), lớn lên
qua thi cử càng được tôi luyện “nghệ thuật ngôn từ”, thường giỏi chữ Hán, chữ
Nôm và thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo nên trong quá trình sáng tác, họ
16

chịu ảnh hưởng của hệ ý thức luận này. “Nhìn từ góc độ ý thức hệ tư tưởng, văn
hoá, thấy có hai kiểu tác giả chủ yếu trong văn học trung đại Việt Nam: kiểu tác giả
Thiền gia (xuất hiện sớm nhất) và kiểu tác giả Nho gia” (PGS.TS. Biện Minh Điền -
Nghiên cứu văn học số 4-2005 ). Nhìn chung, cái tôi cá nhân, cá tính sáng tạo, cái
bản thể của nhà văn chưa được thể hiện đậm nét, chưa trở thành một xu thế chung.
Nói như thế không có nghĩa là cái tôi nhà thơ bị xoá nhoà nhưng nó khá mờ nhạt.
Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…đã đóng dấu ấn
khó phai mờ trong lịch sử văn học dân tộc bởi tài năng, bản lĩnh, nhân cách cũng
như tư tưởng nhân văn sáng ngời. Hồ Xuân Hương đầy tự tin, nói thẳng, muốn quẫy
đạp, bứt tung, muốn vươn mình ra khỏi ao đời mờ nhạt, ra khỏi những định kiến phi
lí, hẹp hòi…để khẳng định mình, làm chủ số phận. Nữ sĩ đã để lại nhiều dư vị, dư
vang trong lòng bạn đọc bởi sự táo bạo, độc đáo hơn người, bởi tư tưởng rất hiện
đại. Nguyễn Du khi viết “máu chảy đầu ngòi bút”, thấu hiểu lẽ đời và tình người
nhưng tư tưởng còn chứa đầy mâu thuẫn, khi sáng tác ông còn bị ám ảnh, còn nặng
tư tưởng thiên mệnh “cái tài đi với cái tai một vần” nhưng mọi thế hệ người đọc
Việt Nam đều khâm phục tài năng, đức độ của ông. Truyện Kiều của ông rất thành
công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc học ngoại hình, tính cách, tâm lí
nhân vật ; xây dựng hai hệ thống nhân vật chính diện - phản diện với ý nghĩa phản
ánh mâu thuẫn xã hội đương thời; bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tác phẩm còn là thành
tựu về ngôn ngữ thơ ca: phong phú, chính xác, đẹp đẽ và cũng chính Nguyễn Du đã
đưa thể thơ lục bát lên đỉnh cao và trở nên mẫu mực về thể loại.
        Văn học trung đại Việt Nam chia làm bốn giai đoạn nhỏ. Dựa vào nội dung
cảm hứng, giáo sư Nguyễn Lộc chia như sau: Từ thế kỉ X-XIV. Đây là giai đoạn tập
trung vào nội dung dân tộc, nội dung yêu nước như Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp
Thuận, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, thơ văn Lí Trần, văn học kháng Minh…
xoay quanh hào khí Đông A, những vấn đề nhân sinh. Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu
17

thế kỉ XVIII, văn học tập trung vào nội dung xã hội, ý thức nhận thức về xã hội,
cảm hứng thế tục với Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan… Cảm
hứng yêu nước phức tạp hơn. Nội dung cơ bản là phê phán hủ lậu, những tệ nạn xã
hội, giai cấp phong kiến đang suy tàn. Từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX,
cảm hứng xã hội bao trùm. Văn học đặt ra vấn đề con người cá nhân với Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm, thơ Hồ Xuân
Hương, các tác phẩm của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…Con người lúc này đòi
hỏi phải được giải phóng, với những nhu cầu khát vọng sống của nó được đảm bảo,
nên trào lưu nhân đạo chủ nghĩa nổi lên rất đậm. Văn học giai đoạn nửa sau thế kỉ
XIX, vấn đề dân tộc, vấn đề giải phóng được đặt ra do nhu cầu của xã hội “Cuộc
thử lửa với phương Tây” . Giai đoạn này ngọn lửa yêu nước được khơi dậy. Nguyễn
Đình Chiểu là lá cơ đầu, có nhiều đóng góp nhất cho dòng văn chương yêu nước
chống Pháp nửa sau thể kỉ XIX.
1.1.2. Các thể loại văn học trung đại Việt Nam
Thể loại là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học vì là nơi nhận ra
diện mạo, đường nét của một loại hình văn học. Loại (loại thể văn học) nhằm chỉ
quy luật loại hình của tác phẩm. “Đó là sự tổ chức, sự sắp xếp các tác phẩm có cùng
phương thức tiếp cận đối tượng nghệ thuật, có chung phương thức cấu trúc hình
tượng và chung phương thức cấu trúc lời văn vào thành từng loại hoặc từng
thể”(TS. Lê Văn Dương). Loại có tự sự, trữ tình, kịch. Quan niệm này có từ thời
Aristote.
        Thể là khái niệm nhỏ hơn loại nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại
văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể
hiện cảm xúc, những tư tưởng, tình cảm của con người trước một hiện tượng đời
sống.
18

       Thể loại mang tính lịch sử bởi sự xuất hiện của các thể loại trong lịch sử văn
học của mỗi dân tộc được xác định bằng nhu cầu xã hội, bằng khả năng, bằng nhu
cầu hoạt động văn hoá. Tính lịch sử thể loại được biểu hiện trên các mặt. Mỗi thể
loại chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học. Sau đó, nó
biến đổi hoặc là được một thể loại mới bổ sung. Các Mác: Thần thoại là một thể
loại đi không trở lại. Chức năng của từng thể loại tương quan giữa các thể loại mỗi
thời kì khác nhau. Chức năng của thơ Đường luật trong văn học trung đại Việt Nam
khác với chức năng của thơ Đường luật trong văn học hiện đại Việt Nam. Do tư duy
nghệ thuật, trình độ tiếp nhận của từng thời kì là khác nhau. Tính lịch sử của thể
loại còn biểu hiện ở chỗ sự khác nhau của cùng một thể loại trong những thời kì lịch
sử khác nhau. Thể loại mang tính loại hình. Mỗi một thể loại thể hiện một giới hạn
tiếp xúc với đời sống, một cách tiếp cận, một trường quan sát, một quan niệm đối
với đời sống. Mỗi thể loại qui định một cách giao tiếp với người đọc đồng nghĩa
mỗi thể, loại vừa có mặt ổn định nhưng đồng thời có mặt biến đổi vì các phương
thức phản ánh đời sống của văn học là có hạn. Sự tiếp cận của con người với hiện
thực suy cho cùng là có ba cách: kể lại (tự sự), trực tiếp bộc lộ cảm xúc (trữ tình),
diễn lại (kịch); do đặc điểm của phương thức tư duy nghệ thuật trong mỗi thời kì
trong là không giống nhau.
       Thể loại mang tính dân tộc vì thể loại gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí, truyền
thống văn hoá của dân tộc. Ngay cả những thể loại được coi là phổ biến ở nhiều dân
tộc thì vẫn có những nét riêng khác nhau.
       Thể loại văn học là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình của văn học. Theo
PGS.TS Biện Minh Điền, văn học trung đại Việt Nam hiện diện qua qua một hệ
thống thể loại với các đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, có sự hỗn dung, đan xen hay có
thể gọi là đậm tính nguyên hợp. Chẳng hạn thể truyện truyền kì, thường có pha trộn
thể loại. Thể loại chính: văn xuôi pha trộn  với văn vần (đoản thi hoặc phú hoặc văn
19

tế). Cuối truyện thường có lời bình (văn nghị luận). Không phải tác giả truyện
truyền kì lộn xộn, tâm lí có vấn đề mà tác giả có ý thức thể hiện tài năng của mình
“khoe tài”. Điều quan trọng hơn là tâm lí nhân vật phức tạp hơn nên cần có nhiều
phương diện để thể hiện. Thứ hai, mang tính quy phạm cao, có đặc trưng thi pháp
hết sức chặt chẽ. Thể thơ Đường luật là minh chứng tiêu biểu cho luận điểm này.
Thứ ba, tên thể loại thường được nêu ngay từ đầu đề của tác phẩm. B.L. Ríptin nhận
xét: “Thể loại là một phạm trù chủ đạo được thể hiện trong cách thường xuyên nêu
bật nó lên ở ngay tên gọi tác phẩm” “Vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung
cổ của phương đông theo phương pháp loại hình”. Tạp chí nghiên cứu văn học, số
2/ 1974 - B.L.Ríptin. Quan niệm này nhìn chung là đúng nhưng chưa toàn diện,
chẳng hạn chữ “lục”, trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thuộc thể loại truyện
truyền kì, còn chữ “lục” trong Bắc hành tạp lục của Nguyến Du lại bằng thơ. Thứ
tư, tên thể loại thường được gọi theo chức năng và nội dung của nó. Chẳng hạn,
chức năng của thể hịch: Lời đứng đầu một vương triều tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một
phong trào nhằm vạch rõ tội ác của đối phương và khích lệ mọi người chiến đấu
tiêu diệt kẻ thù.
       Do hoàn cảnh xã hội cũng như tư duy nghệ thuật của từng thời kì là khác nhau
nên mỗi thể loại xuất hiện, phát triển, đạt đến đỉnh cao hoặc biến đổi, có thể “không
trở lại”. Chẳng hạn, khi đất nước có ngoại xâm hoặc trong nước đang có nạn binh
đao, loạn lạc, tranh vương, tranh bá thì thể hịch phát triển. Khi giai cấp phong kiến
thối nát, phản động, đi lại lợi ích nhân dân, dân tộc thì thể loại truyện truyền kì phát
triển vì các tác giả trung đại đã mượn các yếu tố kì để tăng sự hấp dẫn cho tác phẩm
cũng như giúp độc giả nhận thức xã hội, giáo huấn mọi người. Khi đất nước thanh
bình thì thường thể phú chiếm độc tôn bởi phú  thường dùng trong thi cử, để ca ngợi
vương triều, đặc biệt các tác giả phú qua tác phẩm của mình khuyên vua một cách
kín đáo bằng cách ca ngợi công lao, đức độ, chiến công của người xưa…Khi quyền
20

sống con người bị xâm phạm, ý thức cá nhân bùng lên mạnh mẽ thì truyện thơ phát
triển. Tóm lại, chính nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại.
       Diễn trình các thể loại văn học trung đại Việt Nam. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV,
đây là giai đoạn chúng ta hoàn toàn vay mượn các thể loại Trung Quốc như thơ cổ
phong, thơ Đường luật…Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII, sang thế kỉ XV, bắt đầu
xuất hiện tác phẩm văn học dân tộc như tác phẩm: Bồ đề thắng cảnh thi trích trong
Lê triều ngự chế quốc âm thi thuộc thể song thất lục bát.
       Bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng của Lê Đức Mao (1504) thuộc thể hát ả đào.
Năm 1700 xuất hiện tác phẩm: Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào theo thể loại
truyện Nôm.
       Bên cạnh xuất hiện những thể loại nội sinh còn có những thể loại ngoại nhập.
Đây cũng là giai đoạn phát triển đột khởi của truyện truyền kì như tập truyện
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Đến giai đoạn này các thể loại thuộc văn học
hành chức như: thể cáo, hịch, chiếu… nhường vị trí cho các loại hình văn học hình
tượng; chú ý đến cấu tạo. Điều đó cho thấy những phương thức trong tư duy, trong
cách nhận thức đời sống của các tác giả trung đại có sự phát triển. Giai đoạn từ thế
kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển đầy đủ các thể loại đã có và mới
xuất hiện trong văn học Việt nam. Đến giữa thế kỉ XIX, sự phát triển này tương ứng
với nội dung, chức năng của các thể loại. Một số thể loại tiêu biểu của giai đoạn này
như Truyện Nôm: Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào, tiểu thuyết chương hồi:
Nam Triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm; thể ngâm khúc như
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn; Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu
báo hiệu cho thể loại hát nói. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, giai đoạn cuối của văn
học trung đại Việt nam. Giai đoạn này có sự chi phối mãnh liệt của thực dân Pháp,
sự chống quân xâm lược của nhân dân ta nên văn học có sự thay đổi về nội dung.
Về mặt thể loại, có những thay đổi một số thể loại dài hơi như: ngâm khúc, tiểu
21

thuyết chương hồi…các thể loại ngắn phát triển mạnh như thơ cổ phong, thể hát
nói, văn tế, thơ Đường luật…một số thể loại văn vần được bảo lưu thành tựu như
thơ đường luật. Một số thể loại mang tính hiện đại dưới hình thức chữ quốc ngữ 
xuất hiện như thể loại du kí tiêu biểu là Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi (1876) của
Trương Vĩnh Kí. Tiểu thuyết: Thầy La zô rô Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887)
1.1.3 Chức năng của một số thể loại văn học trung đại Việt Nam
       Văn học có vai trò, giá trị rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn, nhân
cách, năng lực cảm thụ văn học của người đọc. Xét từ bình diện lao động nhà văn
thể hiện chức năng văn học tức là nhằm trả lời câu hỏi: sáng tác văn học để làm gì?
nhằm mục đích nào?
       Chức năng văn học thống nhất trong đa dạng. Tính thống nhất biểu hiện: văn
học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho con người hay bồi dưỡng nhân cách
cho con người. Tính đa dạng được biểu hiện văn học giúp cho con người tự bồi
dưỡng tình cảm, tư tưởng thẩm mĩ cho mỗi con người có rất nhiều khía cạnh. So với
các hình thái khác mỗi chức năng của từng văn học có tính đặc thù riêng. Chức
năng của văn học cũng có quan điểm lịch sử. Ví dụ, xét trong các giai đoạn phát
triển của văn học trung đại thì giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, cảm hứng yêu
nước nổi lên rất đậm, vai trò của chức năng giáo dục rất lớn nhưng đến giai đoạn
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, vai trò của chức năng nhận thức…Chức
năng của văn học được biểu hiện trên nhiều khía cạnh: chức năng nhận thức tức là
nói đến khả năng đáp ứng sự hiểu biết của văn học cho con người và thế giới. Văn
học chú ý sự tìm tòi cùng một lúc cả hai hướng: khám phá những quy luật khách
quan và đi sâu vào những bí ẩn của thế giới bên trong của con người. Secnưsepxki
(Nga) nhận xét “Văn học là cuốn bách khoa thư về cuộc sống”, thật toàn diện và
thấu đáo. Chức năng giáo dục, văn học có khả năng có thể cải tạo, xây dựng con
người, giúp con người sống tốt hơn, đẹp hơn. Điều đó được thể hiện, văn học làm
22

cho tình cảm con người lành mạnh, tâm hồn trong sáng, giúp con người trọng lẽ
phải, giúp con người có tính người, góp phần nhân đạo hoá con người. Chức năng
thẩm mĩ là chức năng quan trọng nhất của văn học vì cái đẹp trong nghệ thuật cao
hơn cái đẹp trong đời sống, cái đẹp được điển hình hoá, được lí giải. Bên cạnh đó,
văn học còn có các chức năng như chức năng giao tiếp, chức năng dự báo… Các
chức năng này chỉ tách rời nhau về mặt lí thuyết. Trong tác phẩm, các phương diện
trong chức năng văn học trong một chỉnh thể thống nhất định hình không tách rời và
khi tiếp xúc với tác phẩm, các mặt trong chức năng cùng đến một lần nhưng trên cơ
sở nền tảng thẩm mĩ, trên cơ sở xúc động thẩm mĩ.
       Chức năng của thể loại lại nằm trong chức năng của văn học bởi mỗi thể loại
văn học lại có giới hạn tiếp xúc, một cách tiếp cận, một trường quan sát, một quan
niệm đối với đời sống. Chức năng của thơ Đường luật khác với thể thơ lục bát,
truyện truyền kí khác với kí, tiểu thuyết chương hồi khác với phú…Chẳng hạn,
chức năng của thể cáo: một thể văn thư nhà vua dùng để ban bố cho thần dân nhằm
trình bày chủ trương, công bố kết quả một sự nghiệp. Chức năng của thể hịch nhằm
vạch rõ tội ác của đối phương và khích lệ mọi người chiến đấu để tiêu diệt kẻ thù.
Chức năng của thể phú: dùng để phúng gián có nghĩa là khuyên vua một cách kín
đáo. Bên cạnh đó phú cũng có chức năng tả chí. Thể loại văn tế thì nổi lên với năm
chức năng: kể tính nết, công đức của người chết và bày tỏ sự thương tiếc của người
cúng tế; dùng văn tế để đả kích; dùng văn tế để tế người sống; dùng văn tế để bày tỏ
lòng biết ơn và tự phê phán; dùng để vĩnh biệt các tệ nạn.Trong năm chức năng của
văn tế thì chức năng đầu tiên là quan trọng nhất…Chúng tôi sẽ nói kĩ một số chức
năng của một số thể loại mà chúng tôi sẽ khảo sát trong chương sau.
      
23

 1.2. Các hình thức để thể hiện chức năng của văn học trung đại Việt Nam
       1.2.1. Hình thức bên ngoài
       Tác phẩm văn học cũng như mọi khách thể khác đều tồn tại ở hai phương diện
hình thức: hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hêghen cho rằng: hình thức
đồng thời vừa chứa đựng nội dung vừa là một cái gì nằm ngoài nội dung. Cái gì
nằm ngoài nội dung là biểu hiện sinh động cá biệt. Đó là hình thức bên ngoài. Hình
thức bên ngoài của tác phẩm văn học là thể văn (văn xuôi, thơ, kịch). Chẳng hạn,
thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm có tám câu, mỗi câu bảy chữ, gồm có bốn
phần: hai câu đề; hai câu thực; hai câu luận; hai câu kết. Phú thuộc thể loại bán thi
bán văn. Tính chất thơ được thể hiện ở chỗ: có vần, có nhịp điệu còn tính chất văn
xuôi được thể hiện ở chỗ câu văn dài ngắn khác nhau. Truyện thơ nôm trung đại lúc
đầu được sáng tác theo thơ Đường luật, sau đó chủ yếu được sáng tác theo thể thơ
lục bát. Bên cạnh thể văn, hình thức bên ngoài còn được thể hiện rõ ở các biện pháp
tu từ được tác giả sử dụng như nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ, thậm
xưng, đối…
1.2.2. Hình thức bên trong
       Sáng tạo ra tác phẩm văn học, nhà văn bắt đầu bằng việc sáng tạo hình thức mà
trước hết là trước hết là hình thức bên ngoài để cho tác phẩm có một sự tồn tại cụ
thể giống với hiện thực đời sống nhưng nhà văn sáng tạo ra tác phẩm chủ yếu là để
thể hiện cái quan niệm về con người và cuộc đời. Do đó, họ phải tạo ra các hình
thức mang tính quan niệm riêng của mình về và đó là hình thức bên trong. Hình
thức bên trong là hình thức chứa đựng những nội dung, tư tưởng và cá tính sáng tạo
độc đáo của nhà văn.
       Nguyễn Trãi là một con người đa tài ,nhiệt huyết yêu nước, “đêm ngày cuồn
cuộn nước triều dâng” nhưng gặp nhiều oan khiên thảm khốc. Sự nghiệp văn học
của ông khá đồ sộ và đạt nhiều thành tựu ở cả thơ ca cũng như văn xuôi, văn biền
24

ngẫu. Quốc âm thi tập là tập thơ có những dấu ấn khó phai mờ. Tập thơ được sáng
tác theo thể thơ đường luật nhưng có nhiều cách tân về hình thức thơ và qua đó thể
hiện con người cũng như “cái chí” của ông. Thứ nhất đó là, tác giả đã xen vào bài
thơ Đường luật câu thơ sáu chữ gọi là thơ đường luật xen lục ngôn. Theo khảo sát
của các nhà nghiên cứu, trong tập thơ có tới 72% số bài có hiện tượng này. Thứ hai,
nếu trong thơ đường luật có quy định rất chặt chẽ về số câu, đối, nhịp phải là chẵn
trước 4/3 hoặc 2/2/3 “ luật thơ nghiêm như luật hình ” (Phạm Quỳnh) thì cũng trong
tập thơ này có khoảng 1/5 câu thơ Nôm ngắt nhịp lẻ trước chẵn sau . Bài Bảo kính
cảnh giới, 43 (Gương báu răn mình, bài số 43), thể hiện khá rõ điều đó :
                   Rồi, hóng mát thưở ngày trường,
                   Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
                   Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
                   Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
                   Lao xao chợ cá làng ngư phủ
                   Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
                   Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
                   Dân giàu đủ khắp đòi phương.
       Bài thơ trên có hai câu sáu chữ xen vào và có những câu ngắt nhịp lẻ trước,
chẵn sau (3/4) như:  
                Thạch lựu hiên/ còn phun thức đỏ,
                Hồng liên trì/ đã tịn mùi hương.
       Sự cách tân về hình thức đó đã thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả, không chịu
rập khuôn máy móc và đặc biệt quan trọng nhấn mạnh điểm kết tự của hồn thơ Ức
Trai là dân tộc, là đất nước, là nhân dân. Trong bài thơ trên là mong ước cháy bỏng
của tác giả không phải cho bản thân được vinh hoa phú quý mà làm sao cho nhân
dân luôn được sống trong thanh bình, ấm no.
25

       Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có nhiều cách tân đầy sáng tạo. Thứ nhất, bà sử
dụng rất nhiều từ thuần Việt có tính chất động như: các thành ngữ, tục ngữ, các từ
láy, đặc biệt là việc gieo những vần chết, rất oái ăm nhưng hết sức độc đáo. Từ ngữ
sinh ra vần. Nó có hai thanh, âm trầm bổng, thanh trắc bằng. Mỗi từ có phần vần,
phần vần bao giờ cũng có khả năng lôi kéo âm thanh, làm cho từ ngữ rất sinh động.
Từ vần này, Hồ Xuân Hương đã dùng những từ lấp láy tạo ra vần lắt léo nhiều như:
rúc rích, vo ve, xù xì, khom khom…tạo ra âm thanh cao mà đặc sắc của tiếng cười
là âm thanh cao. Vần ênh trong bài Chiếc bánh: nổi nênh, lênh đênh, gập ghềnh, tấp
tênh gợi cái gì đó bấp bênh, mong manh, dễ tan vỡ hoặc vần eo trong bài Quán
khánh như vẽ ra cảnh cheo leo, hiểm trở:
                           Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
                           Đường đi thiên thẹo quán cheo leo !
                           Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
                           Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.
                           Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
                           Một dòng nước biếc cảnh leo teo,
                          Thú vui quên cả niềm lo cũ,
                          Kìa cái diều ai nó lộn lèo!
       Có những từ ngữ không thể đưa vào văn chương được nhưng con người “không
những độc đáo mà hai lần độc đáo” (Xuân Diệu – Bà chúa thơ Nôm) đưa vào được:
le te, rầu rĩ, khẳng kheo…Đây là một tài nghệ của bà. Nó linh lợi không quê mùa.
       So với Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyễn, Chu Mạnh Trinh…ta thấy phần lớn những người này đều giống
nhau. Họ tìm đến thiên nhiên, coi thiên nhiên như bầu bạn, như người tri âm, tri kỉ,
khi họ chán ghét cuộc sống. Thiên nhiên là nơi họ thoát khỏi trần tục. Khi trở về với
thiên nhiên, tâm hồn họ thanh thản như “rửa ráy” được những dơ bẩn. Họ có nhân
26

cách hơn, thanh thản hơn. Họ tìm cách hoà nhập với thiên nhiên nên họ hay nhân
cách hoá thiên nhiên-biến thiên nhiên thành những con người. Giọng điệu khác biệt
qua từng bài, từng cảnh thiên nhiên. Trong từng bài có phong cách, cú pháp riêng
do nhu cầu cảm xúc khác nhau. Hồ Xuân Hương không hề coi thiên nhiên như bạn.
Khi đến với thiên nhiên bà không thanh thản. Bà cũng không nhân cách hoá thiên
nhiên. Bà nhìn thấy ở thiên nhiên như cái vốn có và bà đã gán cho nó những tính
chất, những khát vọng, cái chí mà mình mong muốn có, thực hiện. Vì vậy, thơ thiên
nhiên của Hồ Xuân Hương như một cái máy, như một cảm quan để ghi nhận cái
tình thiên nhiên mà Hồ Xuân Hương dành cho thiên nhiên, cho cuộc sống. Tất cả
đều có sức sống rất thật:
                    Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
                     Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
                                         (Đá ông chồng, bà chồng )
       Hay:
                    Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
                                    (Đèo ba dội)
       Hồ Xuân Hương đứng một bên tìm ra trong thiên nhiên những cái gì rất đời
sống, rất thực của nhân sinh. Bà tìm ra trong thiên nhiên có giống đực, giống cái.
Thơ Hồ Xuân Hương rất sinh động, cởi mở, không dấu diếm. Do tâm trạng của bà
mà giọng điệu, cảnh sắc, âm thanh có khi thay đổi:
                          Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
                                         (Tự tình 2)
         Hay:         Oán hận trông ra khắp mọi chòm
                                               (Tự tình1)
27

       Thiên nhiên không gượng mà xuất hiện rất tươi tắn. Trong chừng mực nào đó,
tác giả “dựng dậy” một thiên nhiên tưởng bình thường nhưng cao rộng, có hình
khối, màu sắc, âm thanh, chấp cánh cho nhà thơ vươn tới những cảm xúc vũ trụ:
                          
Giơ tay với thử trời cao thấp
                            Xoạc cẳng thử coi đất ngắn dài
      Nhịp thơ cũng được nữ sĩ biến đổi cho phù hợp với cảm xúc, tâm trạng. Chẳng
hạn là nhịp 1/3/3 trong bài thơ Tự tình: Trơ/ cái hồng nhan/ với nước non hay Này/
của Xuân Hương/ đã quệt rồi trong bài Mời trầu…Tất cả góp phần thể hiện cá tính,
sự táo bạo, không chịu rập khuôn của con người ưa vận động, có hoài bão tung
hoành, có sức sống mãnh liệt nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ sự lắt léo, trắc trở,
không phẳng lặng trong cuộc đời của nữ sĩ.
       Nguyễn Du khi miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều cũng thể hiện quan niệm rõ. Vẻ
đẹp của Thuý Vân là: trang trọng, khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang, hoa cười
ngọc thốt, mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Một vẻ đẹp phúc hậu, đoan
trang, tròn đầy, báo hiệu cuộc sống yên ổn, phẳng lặng về sau. Còn vẻ đẹp của Thuý
Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn báo hiệu cuộc sống đa đoan nhiều trắc trở,
gập ghềnh, sóng gió. Rõ ràng, những tác giả trên đã tạo ra “vân chữ” riêng, những
hình thức độc đáo trong lịch sử văn học dân tộc.  
 
 
 
 
 
 
 
28

Chương 2
CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI VẬN VĂN
2.1. Chức năng thơ trữ tình trung đại Việt Nam
       Thơ ca là thể loại phát triển khá sớm và chiếm ưu thế trong nền văn học dân
tộc. Người xưa đã dùng thơ ca để chuyển tải những tư tưởng, tình cảm, những ước
mơ khát vọng, những trạng thái tâm trạng, để phản ánh hiện thực. Nhà thơ qua tác
phẩm của mình đã gửi gắm tiếng lòng đang thổn thức, đang gào thét, những trăn trở
băn khoăn về lẽ đời, tình người. Đọc tác phẩm, độc giả sẽ cảm nhận được thế giới
tình cảm phong phú đó, những chân lí cuộc sống, những phát hiện về cái đẹp của
cuộc đời được người nghệ sĩ chuyển tải qua một hình thức nghệ thuật không lặp lại.
Nhà thơ qua tác phẩm thể hiện mình, tìm kiếm mình. Một tác phẩm thực sự có giá
trị phải là tác phẩm mới mẻ về nội dung và độc đáo về hình thức thể hiện, là bông
hoa trông thấy lần đầu, lần cuối, gợi cho người đọc một sự rung động thực sự, có
những liên tưởng sâu xa, chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm “như một
cuộc hành trình mở” (PGS.TS Trương Đăng Dung) để người đọc không ngừng tìm
tòi, cắt nghĩa, lí giải, suy tưởng không biết chán.
       Ở phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam, thơ ca là loại hình
phát triển nhất vì một số lí do sau. Thứ nhất, một số triều đại phong kiến có tổ chức
thi thơ để tuyển chọn nhân tài. Thứ hai, xã hội Việt Nam là xã hội có nền văn minh
nông nghiệp phát triển lâu đời, mà con người trong xã hội ấy có tư duy trữ tình phát
triển, có thế giới nội tâm phong phú. Họ thường sống kín đáo, khép mình. Điều này
khác với các nước có ngành thương nghiệp, công nghiệp phát triển khá sớm. Con
người trong xã hôi ấy thường cởi mở, hoạt bát hơn, tư duy giao tiếp phát triển hơn
nên gắn với hình thức văn xuôi, kịch phát triển hơn.
       Thơ ca cùng với các hình thức nghệ thuật khác ngày càng phát triển. Chúng tôi
đã khảo sát, nghiên cứu một số khái niệm về thơ mà chúng tôi cho là khả thoả đáng.
29

       Bạch Cư Dị đời Đường trong thư gửi Nguyên Chẩn (kí Nguyên Cửu) đưa ra
thuyết cây thơ rất được các nhà thơ ngày xưa tán thành và ngày nay nó vẫn có giá
trị: ‘Thi dã: căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thục nghĩa”. Giáo sư Nguyễn Khắc Phi
dịch: với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa.
Câu nói đầy hình ảnh và đặc biệt nó thể hiện khá đầy đủ thấu đáo bản chất của thơ.
Thứ nhất, tác giả nêu lên được những yếu tố then chốt cơ bản của thơ: tình, ngôn
ngữ, âm thanh, ý nghĩa. Thứ hai, tác giả chỉ ra được các mối liên hệ giữa các yếu tố
đó trong một chỉnh thể sống động. Tuy nhiên, quan niệm về thơ của ông cũng bị
khống chế bởi tư tưởng, quan niệm của các nhà thơ ngày xưa: tình là đạo lí, nghĩa
không phải là mọi ý nghĩa mà nó phải mang tải một chân lí. Hơn nữa tình cảm trong
thơ phải khác với tình cảm thông thường. Nó phải đạt đến độ mãnh liệt, cao trào;
phải là thứ tình cảm kết tinh, phải mang giá trị nhất định. Tác giả chưa nói rõ điều
này.
       Quan niệm thơ của các nhà cấu trúc chủ nghĩa lại hướng sự tìm tòi vào đặc
trưng cấu trúc của ngôn ngữ thơ. Tương tác phổ biến của họ là phân biệt đối lập
ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ mang tính chất thơ.
       Jakobson viết: “Nhưng tính chất thơ được hiểu ra như thế nào? Theo cái cách từ
ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải là vật thay thế đơn giản, đại
lượng được chỉ định theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của
chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng. Không phải là các dấu hiệu vô
hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng của chúng”. Thơ là gì?
Jackobson dịch tạp chí văn học 1996. Quan niệm này cũng gần như trùng hợp với
với một số nhà văn, nhà thơ khác như Valey, Breton, Satre…khi họ đối sánh ngôn
ngữ văn xuôi với thơ hay.
       Tiếp tục triển khai lí thuyết về tính tự quy chiếu của ngôn ngữ thơ nói trên
trong tiểu thuyết luận ngôn ngữ và thi ca, sau khi nhắc lại về hai thao tác của hành
30

động ngôn ngữ là lựa chọn và kết hợp, Jackobson nêu một sự kết hợp rất cơ bản về
chức năng thơ ca là đem nguyên lí tương đương của trục tuyển lựa lên trục kết hợp. 
       Từ một số ý kiến trên, chúng ta có thể nêu lên một số đặc điểm về thơ trữ tình.
       Thứ nhất, xét về phương thức tiếp cận đối tượng nghệ thuật, tác giả không xây
dựng những tính cách hoàn chỉnh, đa dạng các biến cố, có mở đầu, phát triển và có
kết thúc mà chủ yếu là thông qua con đường bộc lộ trực tiếp cảm xúc của tác giả và
của nhân vật trữ tình. Khác tự sự và kịch ở nhận thức nghệ thuật, trong tác phẩm trữ
tình không có sự tái hiện mở rộng và chi tiết về các sự kiện, các hành vi các quan hệ
qua lại của con người mà trữ tình nắm bắt thế giới bên trong của con người. Nói thơ
ca trữ tình chủ yếu là thơ ca chủ quan nội tại , là sự biểu hiện của chính nhà thơ như
Bêlinxki là rất thoả đáng. “Trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ không nhằm mục đích
kể và tả những điều quan sát trong thế giới hiện thực mà chủ yếu là những điều xảy
ra trong thế giới nội tâm và cũng chính vì vậy việc tái hiện các quan hệ xã hội, cách
ứng xử của con người với con người trong tác phẩm trữ tình không đóng vai trò gì
lớn và phổ biến. Do không có sự tái hiện ấy như trong tác phẩm tự sự hay nói cách
khác tác phẩm trữ tình nhằm thể hiện phương diện chủ thể của thế giới, do đó việc
miêu tả thế giới bên ngoài, những cảnh đời bên ngoài nếu có chỉ nhằm phục vụ
nhiệm vụ trữ tình” (TS. Lê Văn Dương).
       Thứ hai, xét về phương thức cấu trúc hình tượng, tác phẩm trữ tình phổ biến là
không có cốt truyện hiểu theo nghĩa chặt chẽ nhất của thuật ngữ cốt truyện vì tác
phẩm trữ tình bộc lộ cảm xúc. Dung lượng tác phẩm trữ tình thường là ngắn vì trạng
thái cảm xúc khó có thể kéo dài. Ở tác phẩm trữ tình, cái tôi trữ tình chiếm vai trò
hết sức quan trọng và thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình. Ở đây cần phân
biệt khái niệm cái tôi trữ tình với nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình nhằm chỉ hình
tượng người đang thực hiện, thể hiện trực tiếp cảm xúc, ý nghĩ. Còn cái tôi trữ tình
thống nhất nhưng không đồng nhất với nhân vật trữ tình. Cái tôi nghiêng về diện
31

mạo riêng, độc đáo nổi bật trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ. Trái lại nhân vật trữ
tình chỉ là một bộ phận của cái tôi trữ tình. Mỗi quan hệ giữa giữa nhà thơ và nhân
vật trữ tình được biểu hiện trên hai mặt. Nhà thơ là một cá nhân có tiểu sử xác định
với một nhân vật trữ tình được nhà thơ sáng tạo ra thì giống như nguyên mẫu trong
đời thường với điển hình nghệ thuật nghĩa là người ta xem nhân vật trữ tình là một
hiện tượng khái quát như là một tính cách văn học được sáng tác trên cơ sở lấy sự
thật trong tiểu sử nhà thơ làm nguyên mẫu. Ở đây tính tư liệu của việc biểu hiện trữ
tình, sự quan sát của bản thân nhà thơ, sự bộc bạch phải chiếm ưu thế so với hư cấu,
so với tưởng tượng. Cùng với hiện tượng do mình sáng tạo ra, nhà thơ bày tỏ tình
cảm chân thành của bản thân trong những tình huống trữ tình tới mức người đọc tin
rằng những tình cảm ấy là thực, là thật. Chúng ta không nên đối lập nhân vật vật trữ
tình với nhà thơ vì: văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vì vậy,
sáng tác của bất kì của một nhà thơ nào bao giờ cũng bằng cách này hay cách khác
bao giờ cũng gắn với tiểu sử của nhà thơ đó. Không đối lập nhưng cũng không đồng
nhất nhân vật trữ tình với bản thân nhà thơ vì nhân vật trữ tình là một hiện tượng
nghệ thuật có mặt trong tác phẩm mang theo một giọng điệu, một cách nghĩ, một
cách cảm, một cách nhìn nhất định. Ngược lại tác giả tức là nhà thơ là một con
người có thật ở ngoài đời với tiểu sử cụ thể mà giữa văn và đời, giữa kết quả sáng
tạo và đời sống thực luôn luôn có một khoảng cách nhất định vì nhân vật trữ tình
gắn với cách cảm, gắn với cách nghĩ trong từng tình huống trữ tình cụ thể khiến cho
cùng một tác giả nhưng có thể có nhiều nhân vật trữ tình khác nhau. Trong tác
phẩm trữ tình, nhà thơ thường hiện diện như người đại diện cho xã hội, cho thời đại
và cho nhân loại nghĩa là nhà thơ đã tự nâng mình lên một tầm khác với cái tôi
trong đời sống cá biệt. Trong tác phẩm trữ tình, nhân vật trữ tình thường xuất hiện
dưới hai dạng: nhân vật tự thuật tâm trạng như tâm trạng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
trong chùm thơ tự tình; nhân vật trữ tình nhập vai như người chinh phụ do tác giả
32

nhập vai trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Trong nhân vật trữ tình nhập
vai có hai dạng: nhân vật trữ tình nhập vai vào tâm trạng và nhân vật trữ tình nhập
vai vào hiện tượng thiên nhiên. Nhân vật trữ tình cũng khác với đối tượng trữ tình.
Đối tượng trữ tình là đối tượng để người viết trang trải nỗi niềm thường là nguyên
nhân khơi gợi cảm xúc cho người viết.
       Thứ ba, xét về phương thức cấu trúc lời văn, về mặt tổ chức, câu thơ trong tác
phẩm trữ tình phân theo dòng, cuối dòng thường có vần. Thơ trữ tình cũng như các
loại hình nghệ thuật khác cũng sử dụng các phương thức tu từ như ẩn dụ, hoán dụ,
nói lái, độc ngược, độc xuôi, nói lửng, chiết tự. Ngôn từ thơ trữ tình hàm súc, giàu
tính nhạc. Tính nhạc được thể hiện trên ba mặt: sự cân đối, sự trầm bổng, sự trùng
điệp. Sự cân đối được thể hiện ở sự hài hoà của các dòng thơ. Sự trầm bổng được
thể hiện ở sự thay đổi các âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh
trắc. Sự trùng điệp được thể hiện việc dùng vần, điệp câu, điệp ngữ, láy đi láy lại có
tác dụng dính nối các dòng thơ lại với nhau giúp người đọc dễ nhớ, dễ thuộc. Ngô
ngữ thơ trữ tình giàu tính biểu tượng, sử dụng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng.
       Đến với thơ trữ tình, người đọc có một tâm thế tiếp nhận đặc biệt. Đó là xem
tiếng nói trữ tình trong thơ cũng là tiếng nói trữ tình của mình. Khi sự đồng nhất
giữa nhân vật trữ tình và người đọc thơ được thể hiện, thế giới trữ tình bỗng trở
thành một thế giới mở, hiểu theo nghĩa thời gian, không gian được nhắc trong đó
bỗng trở thành thế giới biểu trương mà ý nghĩa không còn bị đóng khuôn trong
trong những hình thái cá biệt cụ thể nữa.
       “Thơ trữ tình cổ điển là sản phẩm tinh tuý của thời trung đại, thời thống trị của
ý thức về tính bất biến của vũ trụ, về sự thống hợp của thế giới, sự đồng nhất của ba
yếu tố: thiên, địa, nhân. Thời mà người ta nhìn nhận sự thay đổi trong xã hội chỉ là
một sự thay đổi luân chuyển tuần hoàn khép kín, thời của khuôn vàng thước ngọc
áp đặt lên mọi ứng xử, hành động của con người kể cả hành động sáng tạo nghệ
33

thuật” (TS Phan Huy Dũng). Thơ trữ tình cổ điển với  ba thể thơ tiêu biểu: thơ
Đường luật, thể hát nói, thể ngâm khúc. Thơ cổ điển có niêm luật chặt chẽ với vần,
đối, nhịp, số câu, số từ được quy định nghiêm ngặt, hầu như không sử dụng hư từ.
Nội dung bài thơ được dồn vào từ, hình ảnh. Điều này khác với thơ ca hiện đại. Đa
số các bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do, hay thơ văn xuôi đều không quy
định số câu, số từ (trong thơ tự do câu thơ dài nhất thường không quá 12 âm tiết ),
vần ( trong thơ văn xuôi không yêu cầu phải có hiệp vần) đối, nhịp điệu cũng thay
đổi buông lơi theo dòng cảm xúc. Nội dung bài thơ không chỉ được thể hiện qua từ,
hình ảnh, mà còn thể hiện ở nhịp, giọng điệu. Trong thơ văn xuôi, chúng ta thường
thấy có các hình thức lập luận: nếu…thì, hình thức đối thoại gạch đầu dòng…Tất cả
những yếu tố trên góp phần chuyển tải được nhiều trạng thái tâm lí khác nhau,
những vẫn đề nhân sinh, những thông điệp cuộc sống mà người nghệ sĩ muốn tâm
sự cũng bạn đọc.
       Thơ Đường luật hay còn gọi là thơ cận thể hay thơ cách luật là thể thơ được
chuyển hoá ở đời Đường Trung Quốc. Thơ đường luật có ba dạng: bát cú, tứ tuyệt,
bài luật hay trường luật là loại thơ có vần, có đối, dài từ 20 câu trở lên.
       Thơ Đường luật xuất hiện khá sớm. Thi phẩm Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận
được xem là bài thơ Đường luật đầu tiên. Sang thế kỉ XV có những tập thơ quy mô
được sáng tác theo thể thơ Đường luật như tập thơ được viết bằng chữ Hán: Ức Trai
thi tập. Đặc biệt xu hướng Việt hoá thơ đường luật được biểu hiện mạnh mẽ. Tập
thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có 71/ 254 bài là thơ Đường luật. Từ thế kỉ
XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII có những tập thơ đường luật Quy mô được viết bằng
chữ quốc âm như Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm có đến 1000 bài,
hiện tại còn hai phần. Tập thơ Nôm của Trịnh Căn có 100 bài thơ Nôm đường luật.
Hiện tượng độc đáo là liên kết những thơ đường luật để tạo thành truyện thơ như:
Vương Tường, Tô Công phụng sứ, Lâm tuyền kì ngộ. Từ nửa sau thế kỉ XVIII đến
34

nửa đầu thế kỉ XIX, thơ Đường luật vẫn là thể được sử dụng nhiều nhất. Đặc biệt
thơ đường luật có sự biến đổi về phong cách. Nửa sau thế kỉ XIX, thơ Đường luật
đạt nhiều thành tựu và có khuynh hướng trào phúng.
       Thơ Đường luật hay còn gọi là thơ cận thể phải đáp ứng được sáu yêu cầu cơ
bản sau:
       Về bố cục, gọi 4 câu: nhất, nhị, tam, tứ; 4 liên, liên đầu (câu 1- câu 2), liên cằm
(câu 3-4), liên cổ (câu 5-6), liên đuôi (câu 7-8). Đến đời Nguyên, Dương Tải gọi
theo chức năng: khai- thừa- chuyển - hợp. Ở Việt Nam gọi là đề- thực- luận- kết.
       Về niêm (dính). Dính hai câu thơ thuộc hai liên khác nhau. Nguyên tắc dính:
lấy câu thơ thứ hai của câu chẵn thuộc liên trên cùng thanh với câu hai của câu thứ
hai của câu lẻ thuộc liên dưới. Một bài thơ Đường luật có bốn chỗ dính.
       Về luật: sự đối thanh theo chiều ngang. Sự phân phối bằng trắc trong thơ cận
thể khác nhau.
       Về vần: vị trí của vần, vần chân (cước vận) rơi vào câu 1 và các câu chẵn. Có
năm chỗ hiệp vần, chủ yếu vần bằng. Số lượng: năm.
       Về đối : vần thứ hai và thứ ba đối: đối tứ, đối ý, đối thanh.
       Về nhịp (tiết tấu): Do thơ Đường luật có thi pháp rất chặt chẽ, người Trung Hoa
đặt ra một số lệ đặc biệt: bất luận, nhất - tam - ngũ bất luận; nhị - tứ - lục phân
minh.
       Thơ Đường luật chấp nhận hiện tượng chiết vận, lạc vận, tạo ra một số câu thơ
độc đáo: cô nhạn xuất quần, cô nhạn nhập quần, thất minh, thất luật.
       Tóm lại, đây là một thể loại thuộc thơ trữ tình thời trung đại Việt Nam có các
chức năng và nội dung, mang tính quy phạm cao.
2.1.1. Thơ tỏ chí theo kiểu trực tiếp
       Người ta thường nói, thơ trữ tình cổ điển là thơ trữ tình tỏ chí, nói chí dù viết về
đề tài gì, các thi nhân cũng không quên nói lên cái chí của mình. “Nhưng theo một
35

cái nhìn phân loại cụ thể, chúng ta vẫn có thể nói tới một loại thơ tả chí riêng trong
cái loại biệt thơ ấy mà đặc điểm nổi bật của thể thơ ấy là nhà thơ trực tiếp bày tỏ 
chí khí, ý nguyện, hoài bão của mình.” ( TS. Phan Huy Dũng).
       Ý niệm “thi ngôn chí” là một ý niệm có từ thời Nghiêu Thuấn. Nó thường được
nhắc đến như một mệnh đề mĩ học, nói về bản chất của thơ nói chung. Từ “chí”
theo từ nguyên Trung Quốc có nghĩa là kí ức, ghi chép, chí hướng, hoài bão. Từ
Mao thi tự, “chí” hợp với “tình”. Các nhà thơ Việt Nam dường như là không ai nói
đến (hoặc bằng nghị luận hoặc bằng cảm xúc, hình ảnh thơ ) rằng: “ Thơ là để nói
chí”. Vấn đề là chí đặt ở đâu?, “Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh,
có kẻ chí để ở sự nhàn dật” (Nguyễn Bỉnh Khiêm). “Nếu chí mà ở đạo đức  thì tất
phát ra lời lẽ hồn hậu; chí mà ở sự nghiệp thì tất nhả ra khí phách hào hùng; chí ở
rừng, suối, gò hoang thì thích giọng thơ liêu tịch; chí ở gió mây, trăng, tuyết thì
thích vẻ thơ thanh cao; chí ở nỗi uất ức thì làm ra lời thơ ưu tư; chí ở niềm cảm
thương thì làm ra điệu thơ ai oán” (Phùng Khắc Khoan)… Các tác giả trung đại
Việt Nam có thể đặt chí trước nhiều bối cảnh, tình huống, quan hệ khác nhau,
nhưng nhìn chung, họ vẫn “ưu tiên cho việc đặt nó trước quan hệ với nghĩa lớn, với
vận mệnh của đất nước”. Và vũ trụ, càn khôn luôn luôn là không gian lí tưởng cho
sự hiện diện  của con người “hữu chí”, “ nam nhi chí”.
           Ngôn hoài, cảm hoài, thuật hoài, thuật hứng, tức sự…là những nhan đề quen
thuộc trong thơ ca trung đại.
        Xuất phát từ đặc điểm trên nên cái tứ phổ biến trong tâm trạng của loại thơ này
được triển khai dựa trên sự đối lập nhưng đồng nhất giữa nhân vật trữ tình với các
đại lượng lớn của vũ trụ như trời - đất, sông - núi, xưa - sau…Trong tương quan ấy,
kích thước con người như được phóng to lên và khả năng giao cảm giữa con người
và thiên địa gần như là vô giới hạn.
36

       Về kết cấu, với tứ thơ trên, “nhà thơ có thể bắt đầu bằng những câu nói vẽ lên
hình ảnh của mình, cũng có khi nhà thơ khẳng định ngay cái chí của mình ngay vào
lúc bài thơ rồi mới vẽ cái nền đằng sau là một bối cảnh vô cùng khoáng đãng. Ta
cũng gặp trường hợp nhà thơ trình bày cùng một lúc vừa hình ảnh bản thân vừa
hình ảnh vũ trụ trong một tứ thơ được sáng tạo bằng  những liên tưởng xuất thần rất
thị vị. Nhìn chung do những hạn chế tất yếu về ngôn từ nên các nhà thơ không tránh
khỏi cách trình bày đối tượng theo thứ tự lớp sau nhưng nhìn bao quát cả bài, chúng
tôi có cảm nhận rất rõ ràng: hình ảnh thiên nhiên vũ trụ đã được dương lên như một
cái khung, như một cái nền để ôm vào giữa. Hình ảnh con người với những phẩm
chất tự tôn, tự tại, tự túc, tự lạc…của nó” (TS. Phan Huy Dũng)
       Trong những bài thơ tả chí, những quan hệ xác lập của thời đại đã được thiên
nhiên hoá, vũ trụ hoá bằng việc nhà thơ quy các sự kiện cụ thể vào các phạm trù
phố quát như thời, thế, vận, mệnh. Quy cách sắc thái tình cảm phong phú vào các
khái niệm chung nhất như: sầu, hận, bi, phẫn. Quy các phản ứng có thể rất đa dạng
của nhân vật trữ tình vào các hành động công thức rất dễ nhận ra như: cúi đầu
xuống đất, ngửa mặt lên trời, mài kiếm, xắn tay, nghiến răng… 
       2.1.1.1. Thơ trữ tình nói về việc lập công danh
       Tư tưởng chính thống của Nho giáo là đối với trang nam nhi sống trên cõi đời
là phải lập công danh để lại tiếng thơm cho hậu thế. Tư tưởng này đã ăn sâu vào
tiềm thức, nếp cảm, nếp nghĩ của bao thế hệ người Việt và trở thành lí tưởng sống,
trở thành chuẩn mực để mọi người cùng phấn đấu. Dân gian đã từng lưu truyền bài
ca dao:
                                    Làm trai cho đáng nên trai
                               Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.
37

       Làm trai phải từng trải, có vốn sống, có sự hiểu biết…để giúp đời, lưu bang tế
thế. Nguyễn Quảng Nghiêm, trong Hưu hướng Như Lai có một chí khí táo bạo vượt
ra khỏi sự ràng buộc của giáo chỉ nhà Phật:
                      Làm trai lập chí xông trời thẳm,
                      Theo gót Như lai luống nhọc mình.
       Ở hai câu đầu bài thơ: Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão đã làm sống dậy một tráng sĩ
với thế đứng vững chãi và dẫu rằng nhừng người ấy đã chiến đấu bao năm tháng
vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang, bất khuất sẵn sàng xả thân vì
dân tộc, mang tầm vóc vũ trụ:
                                     Hoành sóc (sáo) giang sơn cáp kỉ thu
                           (Cắp ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy mùa thu)
       Hình ảnh người tráng sĩ lại được lồng trong hình ảnh dân tộc, hình ảnh của cả
thế hệ Phạm Ngũ Lão, của dân tộc đang sống trong “Hào khí đông A” với sức mạnh
ba quân được ví như như sức mạnh của hổ báo làm át sao Ngâu (sao to và sáng),
cũng có cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa: sức mạnh của ba quân có thể nuốt
tươi trâu
       Hình ảnh người tráng sĩ của Phạm Ngũ Lão là hình ảnh kì vĩ nhưng chân thực
không phải là hình ảnh ước lệ, ngoa dụ như trong chinh phụ ngâm của Đặng Trần
Côn hay trong thơ Lê Thánh Tông:
                                   Miệng hàm thèm gương dạ nuốt trâu
                                   Chí hăm hở dang tay bắt vượn.
       Trong bối cảnh đó, Phạm Ngũ Lão bộc lộ cái chí của mình cũng là cái chí của
người tráng sĩ nói chung:
                                  Công danh nam tử còn vương nợ
                                  Luống thẹn tan nghe chuyện Vũ Hầu.
38

       Tác giả với tư cách là một vị tướng đã tự cảm thấy hổ thẹn, day dứt, còn vương
nợ với đời, với đất nước giang sơn vì chưa lập được chiến công lẫy lừng, làm nên
nghiệp lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh trừ giặc, cứu nước. Phạm Ngũ
Lão quả là con người khiêm tốn, giàu ý chí, rất đáng được khâm phục.
       Nguyễn Công Trứ cũng là người đã thực hiện chí nam nhi của mình một cách
ngang tàng. Ông đã tự bằng lòng về mình, tự đánh giá cao nhân cách của mình. Là
một người có nhiều công trạng như khai hoang lấn bãi…Tác giả từng ý thức, từng
dõng dạc phát biểu:
                              Không công danh thà nát cỏ cây
       Hay:
                            Đã mang tiếng ở trong trời đất
                            Phải có danh gì với núi sông.
       Trong Bài ca ngất ngưởng được sáng tác theo thể hát nói, tác giả đã tự thuật lại
quãng đời lên xuống đảo điên. Mở đầu là một câu thơ bằng tiếng Hán rất trang
trọng thể hiện sự tự tin, sự kiêu hãnh, sự ý thức trách nhiệm về mình:
                  Vũ trụ nội mạc phi phận sự
       (Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ta)
       Tiếp đến ông giới thiệu về mình một cách nghiêm trang lại vừa hài hước:
             Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
       Thái độ tự tôn cá nhân thật độc đáo, không phải ai cũng dám làm nhất là trong
xã hội phong kiến. Và ông đã liệt kê hàng loạt chức danh mà mình đã từng đảm
nhận cũng là mà cách để khẳng định mình: mở đầu là học vị thủ khoa vẻ vang, tiếp
đó là chức tước Tham Tán, Tổng đốc Đông, Phủ Doãn Thừa Thiên, là chiến tích
“Lúc bình Tây cờ đại tướng. Tất cả đã khẳng định rằng, Nguyễn Công Trứ đã thực
hiện chí nam nhi của mình một cách ngang tàng. Chí nam nhi của tác giả được diễn
đạt qua những từ ngữ Hán Việt uy nghiêm trang trọng, qua âm điệu nhịp nhàng
39

được tạo nên bởi cách sử dụng điệp từ và cách ngắt nhịp câu thơ như: Khi Thủ
khoa/ khi Tham Tán/ khi Tổng đốc đông.
       Hồ Xuân Hương nhà thơ độc đáo vô song (GS. Nguyễn Lộc), một con người
đầy bản lĩnh, đầy cá tính, rất mực tài năng. Đứng trước đền thờ Sầm Nghi Đống,
một tên tướng bại trận, phải thắt cổ nhục nhã, tác giả ước:
                                    Ví đây đổi phận làm trai được
                                    Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
                                                  (Đề đền Sầm Nghi Đống)
       Nếu đổi thành cái phận được trọng của phận làm trai, Xuân Hương sẽ thực hiện
được cái chí làm trai của mình, sẽ làm được cái việc anh hùng to tát lẫy lừng trong
bốn biển hơn kia, chứ khong phải cái sự anh hùng của Sầm. Can đảm vô cùng,
mạnh mẽ vô cùng, thẳng thắn không ai bằng. Nữ sĩ là người đầu tiên trong lịch sử
văn học dõng dạc xưng tên mình một cách trịnh trọng, đường hoàng : Xuân Hương,
khiến nhiều trang nam nhi thời xưa cũng phải e dè, nể phục.
       Nguyễn Xuân Ôn thì viết:
                   Thử sinh dĩ phụ tang bồng chí
                   Mạc tác đồ ngư lão giản biên.
          Nghĩa là:
Đời này đã phụ chí tang bồng,
                     Đừng có làm con mọt già ở nơi sách vở.
       Đất nước bị quân thù xâm lược, giày xéo thì cái chí là phải dốc toàn sức, toàn
trí phục vụ dân tộc, đấu tranh cho lẽ phải, bảo vệ giá trị con người, sự bình yên cho
cuộc sống. Sách vở thánh hiền không còn phù hợp đối với những người “hữu chí”.
Sau này, Phan Bội Châu trong bài: Xuất dương lưu biệt cũng quả quyết:
       Non sông đã chết sống thêm nhục
       Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
40

       Bên cạnh cá nhân trực tiếp bày tỏ chí khí của mình thì trong thơ trữ tình trung
đại, chúng ta còn thấy cái chí của cả toàn thể dân tộc, của cả thời đại. Khi đất nước
có xâm lăng thì cả một rừng cánh tay giơ cao: quyết chiến, quyết thắng!, cuốn
phăng bè lũ cướp nước, bán nước đem lại cuộc sống hoà bình ấm no cho nhân dân
theo cái mô hình lí tưởng mà các triều đại phong kiến Việt Nam thường lấy làm
chuẩn mực: xã hội Nghiêu, Thuấn ở Trung Quốc. “Khi nào người Tây nhổ hết cỏ
nước Nam thì mới thôi người Nam đánh Tây”. Bởi nước ta là một nước có chủ
quyền, có vị trí địa lí, thuận theo lẽ trời:
            Sông núi nước Nam vua nam ở
          Rành rành định phận ở sách trời
                             (Bài thơ thần của lí Thường Kiệt)
       Nguyễn Trãi trong áng văn chính luận mẫu mực: Bình Ngô đại cáo, cũng từng
khẳng định, đầy tự hào:
                             Như nước Đại Việt ta từ trước
                             Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
                              Núi sông bờ cõi đã chia
                              Phong tục Bắc Nam cũng khác
                              Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
                              Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
                               Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
                               Song hào kiệt đời nào cũng có
       Với giọng điệu trang nghiêm, trịnh trọng đầy tự tin, Nguyễn Trãi đã nhắc lại và
có bổ sung về địa lí và truyền thống dân tộc: là nước độc lập có tên nước là Đại
Việt, có lãnh thổ, có lịch sử, có nền văn hiến riêng và đặc biệt, Nguyễn Trãi đã dùng
từ “xưng Đế” để khẳng định người đứng đầu đất nước chúng ta cũng ngang hàng
41

với người đứng đầu Trung Quốc. Thật trọn vẹn sâu sắc, thấu tình đạt lí, phù hợp với
hiện thực khách quan.
       Bọn phong kiến phương Bắc bất chấp đạo lí, vi phạm nhân quyền một cách
trắng trợn sang cướp nước ta, chắc chắn chúng sẽ chuốc lấy thảm bại, bị đánh tơi
bởi, vết nhơ còn mãi, về đến nước vẫn còn tim đập chân rung bởi con người Việt
Nam nhiệt huyết yêu nước, biết nuôi “chí lớn” để phục thù, bảo vệ toàn vẹn giang
sơn lãnh thổ:
                                        Cớ sao lũ giác sang xâm phạm
                                        Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
                                               (Nam quốc sơn hà)
       Ta chiến thắng nhưng tuyệt đối không được chủ quan, không say sưa kể lại
chiến công mà quên đi hiện tại, tương lai dân tộc. Cái ý chí, hoài bão, cái khát
vọng…luôn nằm trong huyết quản của người dân lúc này là phải ra sức rèn luyện trí
tuệ, sức lực, hiến kế xây dựng đất nước hùng cường giàu đẹp:
                                        Thái bình tu nỗ lực
                                         Vạn cổ thử giang sơn
                                           (Tụng giá hoàn kinh sư- Trần Quang Khải)
       Với lời thơ ngắn, trang nghiêm, nhịp điệu trầm lắng, hai câu thơ đã mở ra 
hướng đi cho tương lai dân tộc, thể hiện một tầm nhìn chiến lược, một chân lí cuộc
sống.
       Là một tri thức nho học, có kiến thức uyên thâm, luôn mong muốn lam quan để
“trí quân trạch dân” (giúp vua giúp nước) nhưng sống trong  xã hội đầy nhố nhăng,
đầy biến động, phức tạp… nên Nguyễn Khuyến đã cáo quan về ở ẩn. Ông mang
trong mình tâm trạng của con người bất đắc chí nên giọng điệu trong thơ ông là
giọng điều vò xé, day dứt, bất lực trước cảnh đất nước ngày một điêu tàn. Một loạt
câu thơ đã nói rõ điều đó :
42

            Cố quốc sơn hà chân thảm đạm


                                             (Hung niên)
            ( Nước cũ non sông thật là thảm đạm )
  Hay:        Sơn hà cử mục tối kham liên
                                        (Kỉ sửu trùng dương)
          ( Ngước mắt nhìn giang sơn rất thương cảm )
  Hay:       Nhất độ giang sơn nhất bạch đầu
                                                        (Thu tứ)
           (Mỗi lần giang sơn biến đổi là mỗi lần ta phải bạc đầu)
       Nhận thức đúng đắn bản chất vấn đề, của xã hội, của thế thái nhân tình, của
những sự kiện đang diễn ra nhưng không giúp được gì cho dân, cho nước, trở nên
bất lực chưa lập được công danh hiển hách để lưu danh nên tác giả buồn, chua xót.
       Con đường lập thân chủ yếu trong xã hội phong kiến là qua thi cử đỗ đạt, ra
làm quan hoặc ra trận lập công trạng. Tú Xương cũng lều chõng đi thi nhưng rất lận
đận. Ông đã tám lần đi thi và bị hỏng không phải vì ông kém tài năng mà vì ông
phạm huý. Ông đã thể hiện sự bực dọc, thất vọng não nuột. Khoa canh tý (năm
1900), hỏng thi nhà thơ bộc lộ:
       Đau quá đòn ghen
       Rát hơn lửa bỏng
       Hổ bút hổ nghiên
       Hổ lều hổ chỏng
       Nghĩ đến chữ “nam nhi đắc chí”, thêm nỗi thẹn thùng.
       Ngẫm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
       Khoa cuối cùng (1906), tiếng thở dài ấy nghe càng thêm não nuột:
       Bụng buồn còn muốn nói năng chi,
       Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
43

       Một việc văn chương thôi cũng nhảm,


       Trăm năm thân thế có ra gì.
       Là một nhà nho có tư tưởng tiến bộ, một trong những người có công trong việc
“hiện đại hoá” nghệ thuật thơ dân tộc và Tú Xương cũng rơi vào “bi kịch” của các
nhà nho, những con người vô tích sự, phải ăn bám vợ:
       Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
       Có chồng hờ hững cũng như không
       (Thương vợ)
       Tóm lại, thơ tỏ chí trực tiếp nói về việc lập công danh để cứu nước cứu đời
chiếm số lượng lớn và đóng vai trò chủ đạo trong thơ ca trữ tình trung đại Việt
Nam. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có một bộ phận thơ trữ tình trực tiếp bày tỏ chí
khí của người quân tử, của kẻ sỹ: luôn giữ cho tâm hồn mình được trong sạch trước
thói đời ô trọc, diều quạ cao hơn phượng hoàng, hoa thì héo cỏ thì tươi.
       2.1.1.2.  Thơ trữ tình trực tiếp nói về việc di dưỡng tính tình, luôn giữ cho
tâm hồn được trong sạch trước thói đời ô trọc, trước sự xoay vần của con tạo.
       Xã hội luôn vận động và phát triển dù có những lúc, những giai đoạn có sự thụt
lùi tạm thời. Phản ánh vừa là đặc trưng vừa là nhiệm vụ, đối tượng của văn học.
Người nghệ sỹ có vốn sống phong phú, có trái tim rất nhạy cảm, tinh tế…nên rất am
hiểu bản chất của xã hội, sự chuyển vần của thời cuộc, của lòng người. Trước hoàn
cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, phức tạp, nhũng nhiễu, phản động… nên nhiều nhà thơ
đã trốn tránh thực tại bằng cách lui về ở ẩn, “nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo
thì ở ẩn”. Họ tỏ sự bất mãn, thích cuộc sống nhàn tản, hoà hợp với thiên nhiên, cuộc
sống nghèo mà thanh, luôn giữ cốt cách của một nhà  nho: coi thường danh lợi,
“ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” thói xu nịnh vào luồn ra cúi, khinh bỉ những
người coi của cải, vật chất hơn tình cảm tình nghĩa, chạy chọt để thăng quan tiến
chức. Qua bài thơ Chữ nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm “quyết chí” thực hiện một lối
44

sống nhàn nhưng thanh thản.  Những sinh hoạt của tác giả rất đời thường nhưng thật
vui, thật hạnh phúc, không phải ai cũng thấy được:
       Một mai một cuốc một cần câu,
       Thơ thẩn nào ai vui thú nào.
       Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
       Người khôn người đến chốn lao xao.
       Thu ăn măng trúc đông ăn giá,
       Xuân tắm hồ ao hạ tắm sen.
       Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,
       Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
       Con người anh hùng trước hết là con người chiến thắng chính mình: chiến
thắng những dục vọng tầm thường, chiến thắng sự ích kỉ, sự đua chen trên bước
đường danh lợi…Có người suốt đời chạy theo đời sống vật chất, tiền tài mà đánh
mất mình, thậm chí bán rẻ cả lương tâm, để luôn phải sống trong  sự lo sợ , hận thù,
day dứt khôn nguôi, không có một giây phút thanh thản, giữ được khoảng lặng
trong tâm hồn, niềm vui trong cuộc sống, để khi nhận ra ân hận thì đã quá muộn.
Giữ cho nhân cách của mình không bao giờ thay đổi dẫu hoàn cảnh có thay đổi quả
đáng khâm phục. Phải có ý chí lớn, lập trường luôn vững vàng, luôn phải di dưỡng
tính tình, đấu tranh bên trong thì mới thực hiện được, dẹp bớt đi “tham, sân, si, ái, ố,
dục”.
       Chu Văn An  cũng về ở ẩn. Qua một số bài thơ trong tập thơ Tiều ẩn thi tập của
ông như Đề Dương Công Thuỷ hoa đình, Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính,
Cung hoa ngự chế động chương cho ta thấy một con người thanh thản, điềm tĩnh:
                          Đình vũ thai cầm vân yểm quan
                          Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan
                          Bích đào hoa hạ hồn vô sự
45

                          Thời thiến đông phong tảo thạch đàn.


                                                   (Cung hoạ ngự chế động chương)
        (Chim hạc múa ngoài sân, mây chư rợp cửa,
          Nuốt xong cánh hoa đẫm sương cảm thấy thanh thản, khoan khoái.
          Dưới hoa đào thắm, hồn nhiên không có việc gì,
           Thỉnh thoảng mượn gió đông quét bàn đá)
       Điều đáng khâm phục ở những con người này là dầu tìm về với thiên nhiên, xa
lánh bụi trần nhưng tâm hồn họ luôn đau đáu một nỗi niềm với nước
       Chu Văn An vẫn luôn mang nặng tư tưởng trung quân, vẫn day dứt trước thực
trạng xã hội. Thơ ông bộc lộ rõ tâm trạng dằn vặt lo đời nhưng bất lực không thể
làm gì được để cứu đời. Bài thơ Miết trì thể hiện điều đó :
            Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
          Hà hoa hà diệp tĩnh tương y.
            Ngư du cổ chiểu long hà tại
            Vân mãn không sơn hạc bất quy.
           (Trăng nước bên cầu giỡn ánh tà,
            Lặng tờ sen đứng, lá nương hoa.
           Cá bơi ao cũ, rồng đâu vắng?
            Mây phủ non sương, hạc chẳng ra).
       Trong văn học trung đại, rồng thượng tượng trung cho đấng minh quân, hạc
tượng trưng cho những nhà hiền triết, sen biểu tượng của người quân tử. Nhà Trần
lúc đó thiếu vắng một minh quân.
       Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến cũng lánh đục, tìm trong nhưng “thân nhàn mà
tâm bất nhàn”. Trong thơ văn Nguyễn Trãi, nội dung yêu nước không chỉ là nội
dung tư tưởng mà còn là nội dung cảm xúc, là tâm trạng luôn luôn thường trực
trong tâm Nguyễn Trãi. Biểu hiện, yêu nước là lo việc nước, thao thức, vật vã về
46

việc nước; yêu nước là căm thù giặc sục sôi, đau đớn nhức nhối tim gan trước sự
hung bạo của kẻ thù:
             Còn một tấc lòng âu việc nước
            Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.
       Ngay cả khi về ở ẩn cũng không nguôi lo nghĩ:
                 Thân nhàn nhưng tâm bất nhàn.
       Qua việc nói trực tiếp cái chí của mình, lí tưởng, hoài bão của mình, chúng ta
thấy các nhà thơ xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Nho gia, nhất là quan niệm
“trung quân ái quốc”. Cái chí cũng như việc thực hiện nó đều bị tư tưởng này chi
phối. Mặc dầu cái chí của các bậc quân tử xưa na ná giống nhau, nhưng chúng ta
vẫn nhận thấy hiện lên nhân cách, bản lĩnh của họ trong thời đại đầy biến động.
              2.1.2. Thơ trữ tình tỏ chí theo kiểu gián tiếp qua các bài thơ vịnh vật
       Danh mục “sự vật’ thường được vịnh xuất hiện nhiều nhất trong danh mục này
là các loại thảo mộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen; những loài cầm thú như: chim
ưng, chim sáo, chó, mèo, ngựa…Cũng có khi ít hơn người ta nhắc đến những sự vật
do bàn tay con người chế tác như: cái quạt, cái chổi…
       Nguyễn Trãi có một loạt bài thơ viết về các loài hoa, cây cảnh nhưng qua đó tác
giả gửi gắm tiếng lòng, “cái chí” của mình. Bài Hoa mai:
         Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi?
         Yêu mi vì tiết sạch hơn người.
         Gác Đông ắt đã từng làm khách,
         Há những Bồ Tiên kết bạn chơi?
        Viết về đặc điểm của hoa mai “chẳng tốt tươi” dầu “xuân đến”, khác với các
loài hoa khác: “Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu” (Viên Chiếu- Tham đồ hiển
quyết). Mở đầu là một câu hỏi, một sự chất vấn mọi người và chất vấn lòng mình
trước quy luật của thiên nhiên:
47

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi?


       Viết về hoa mai “chẳng tốt tươi”, dầu là xuân đến hay là để viết về một hiện
tượng, một nghịch lí đang diễn ra rất phổ biến trong đời sống, từ đời này sang đời
khác: cái đẹp, những người tài cao, chí trọng, phẩm chất sáng, luôn lo cho dân cho
nước, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên hết lại không được trọng dụng, bị bọn
nịnh thần ganh ghép, tìm mọi cách hãm hại, giết chết? Đất nước thanh bình, sạch
bóng quân thù là cơ hội tốt để cho các trang nam nhi, những bậc quân tử, những
người như ông “trí quân trạch dân”. Vậy mà tài năng, tâm huyết của ông bị vùi dập,
thật phũ phàng cũng giống như hoa mai kia?  
        Yêu hoa mai và đồng thời đưa ra một phương châm sống: luôn giữ cho mình
một khí tiết, một tư thế sống đàng hoàng trước “lòng người đen bạc, hiểm nguy”,
hoàn cảnh xã hội rối ren, mọi chuẩn mực bị đảo lộn.
       Bài Hoa Sen
       Lầm nhơ chẳng biến, tốt hoà thanh,
       Quân tử ham, nhân được thửa danh.
       Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh,
       “Trinh” làm của có ai tranh?
       Hoa sen “lầm nhơ chẳng biến”, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hương sen
thoang thoảng, gợi cảm giác rất đễ chịu, lâng lâng nhất là vào những đêm hè nóng
nực. Hoa sen là hình ảnh ẩn dụ nói về bậc quân tử: trong cuộc sống mình luôn phải
có lập trường, sống phải lấy cái Tâm làm đầu. Danh vọng, tiền tài là cái phù phiếm.
Mình không được “ham” chúng mà mắc những sai lầm, dành dật, phải sống trong
vòng cương toả, nhơ nhớp. Từ “chẳng” đã khẳng định dứt khoát thái độ của tác giả,
lời tuyên bố của tác giả trước chốn quan trường hiểm ác, vào luồn ra cúi. Phong
cách sống của tác giả quả đáng khâm phục! Tác giả sống đúng với giá trị một con
người chân chính, một con người có nhân cách lớn, hiểu biết thế thái nhân tình.
48

       Bài Hoa Cúc


       Người đua nhan sắc thưở xuân dương,
       Nghỉ, chờ thu: cực lạ nhường!
       Hoa nhài rằng đeo danh ẩn dật
       Thức còn phô, bạn khách chương.
       Tính tình nào đoái bề ong bướm,
       Tiết muộn chẳng nài thưa tuyết sương.
       Dầu thấy xuân lan càng lọn được,
       Ai ai đều có mỗ mùi hương.
       Hoa Cúc lại nở vào mùa thu khác với các loài hoa khác “khoe sắc” vào mùa
xuân. Tác giả đã “nhập hồn” vào nó để viết, cũng là một dịp bày tỏ khí phách của
người quân tử: không đoái hoài chuyện trai gái, những dục vọng tầm thường; phải
biết kiên nhẫn, chấp nhận gian khó, chờ thời; không ích kỉ, nhỏ nhen, luôn nhìn đời
bằng con mắt tỉnh táo, yêu thương.
         Tính tình nào đoái bề ong bướm,
         Tiết muộn chẳng nài thưa tuyết sương.
         Dầu thấy xuân lan càng lọn được
         Ai ai đều có mỗ mùi hương.
Hồ Xuân Hương viết nhiều về các đồ vật như: Vịnh cái quạt, Quả mít… nhưng qua
đó nữ sĩ gửi gắm những thông điệp, bày tỏ nỗi lòng sâu thẳm cũng như cái chí của
mình nói riêng, giới mình nói chung. Bài Bánh trôi là một ví dụ khá điển hình.
                     Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
                     Bảy nồi ba chìm với nước non.
                     Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
                    Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
49

        Chuyện bánh trôi là có thật, bánh muốn chín phải thả vào nước, nước sôi, bảy
nổi ba chìm…Bánh trôi ấy là “thân em”. Cái thân này lại đặt vào hoàn cảnh xã hội
đảo điên, giả dối, hạn chế sự phát triển cá tính con người. Người phụ nữ sống trong
xã hội ấy chịu nhiều đau khổ chồng chất, “không được thoả sức yêu đương”, tự do
bộc lộ tình cảm, bị coi thường. Họ chịu “kiếp ốc nhồi”. Xã hội muốn họ như thế
này, thế nọ, theo đúng chuẩn mực Nho giáo “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Còn em
vẫn “giữ tấm lòng son”, “quyết chí” giữ gìn sự trong sạch: chung thuỷ, tha thiết
trong tình cảm, luôn khao khát hạnh phúc tròn đầy, viên mãn.
     Hình tượng trung tâm để các tác giả ngâm, vịnh là hình tượng của các con vật.
Các tác giả chỉ tập trung làm nổi bật lên các phẩm chất, đăc trưng mang tính chất
chủng loại của chúng mà bỏ sang sự tồn tại của chúng trong những hình thức cá
biệt. Mỗi nét miêu tả về chúng bao giờ cũng đi kèm một ý hướng khái quát và
những phẩm chất của chúng luôn được quy đồng vào những đức tính cao đẹp của
người quân tử hay những đặc tính khinh bỉ của kẻ tiểu nhân. Điều này cũng có
nghĩa là dù có vẻ chưa bao giờ nhà thơ bỏ rơi đối tượng miêu tả nhưng sự thật thì
đối tượng đó đã bị hi sinh cho một “cái chí” trừu tượng. Nói cách khác, “nhà thơ tuy
có nhìn vào đối tượng bình vịnh nhưng anh ta chẳng thấy cái gì thực sự là của riêng
nó mà chỉ thấy một cái bản chất chung bao hàm trong đó mà thôi. Điều này nhiều
lúc đã đẩy các bài thơ vịnh vật tả chí rơi vào triết lí khô khan. Gặp trường hợp chí
không đồng nghĩa với khẩu chí của người quân tử mà đồng nghĩa với một tâm trạng
cá biệt thì những bài thơ vịnh vật đỡ khô khan hơn nhiều. Lúc này tính tượng
trương của hình tượng mờ đi để tính ẩn dụ nổi lên và mỗi nét tả về về sự vật đều
hàm chứa trong đó những nỗi niềm”(TS. Phan Huy Dũng).
      Nguyễn Khuyến nhân “con chim cuốc kêu” mà giãi bày tình cảm, tâm trạng
“bất đắc chí” của mình đối với đất nước. Từ điển tích cuốc kêu (vần c) diễn tả cảm
xúc nước non, đến chữ quốc (vần q) nghĩa là đất nước, non sông. Vận dụng tiếng
50

đồng âm kết hợp với điển tích kể trên, tác giả đã bộc bạch tâm sự riêng của mình
một cách tha thiết, réo rắt.
    Từ chuyện xa xưa, vua Thục vì để mất nước mà day dứt, thương tiếc cuối cùng
hiện thành con chim quyên (gọi là chim cuốc) cứ mùa hè tới thì kêu ròng rã suốt
ngày đêm cho đến khi ứa máu và rũ xuống, tác giả đã bày tỏ sự xúc động chân
thành, sâu sắc cũng như nỗi thất vọng trước vận mệnh đất nước.
                 Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
                 Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Mượn hình ảnh con chim cuốc kêu hè, tác giả đã nói lên nỗi đau rỉ máu, nỗi buồn
trĩu nặng, nát ruột tan hồn của bản thân mình vì cảnh điêu linh của đất nước Nó diễn
ra từ ngày sang đêm triền miên bất tận “đêm hè vắng”, “bóng nguyệt mờ”.
                  Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
                  Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Hai câu thơ tiếp tục khắc hoạ tình cảm tha thiết của tác giả trước vận mệnh của đất
nước qua một dấu hỏi, một nghi vấn: Hồn nước đi về đâu? Ở đâu?.
Cặp kết trở lại đề tài về tiếng cuốc kêu để một lần nữa tác giả xoáy sâu vào tình
cảm yêu nước nhưng đầy bi kịch, bởi “đau đời có cứu được đời đâu”!
Để bày tỏ tình cảm, chí hướng, tâm trạng của mình một cách kín đáo qua các bài
thơ vịnh vật, các tác giả trung đại đã vận dụng triệt để ưu thế của thơ Đường luật
như kết cấu mạch lạc, ý tứ hàm súc, đối ngẫu chặt chẽ, nhất là từ ngữ uyển chuyển
mà chính xác, gợi cảm.
       Thơ Đường luật có sức sống dẻo giai, mãnh liệt, trải theo chiều dài lịch sử văn
học dân tộc. Mặc dầu, nó có hệ thống thi pháp hết sức chặt chẽ, gò bó, hạn chế
người sáng tác trong việc giãi bày tâm sự, chuyển tải cảm xúc, tư tưởng, tâm trạng
nhưng nó vẫn là thể loại chiếm vị trí quan trọng nhất trong tất cả các thể loại văn
học trung đại Việt Nam. Người đọc, qua thể loại này đồng cảm, thấu hiểu “cái chí”,
51

ước mơ, lí tưởng cũng như sự thất vọng, “bất đắc chí” của các cá nhân nhà thơ, tầng
lớp người nào đó trong xã hội. Thi dĩ ngôn chí vừa thể hiện trực tiếp vừa gián tiếp.
       2.2. Tự sự bằng vận văn và chức năng của truyện thơ Nôm
       Nếu thơ trữ tình bộc lộ thế giới chủ quan của nhà thơ thì thơ tự sự thiên về phản
ánh hiện thực khách quan trong tính chủ quan, “chủ yếu là thơ ca khách quan bề
ngoài”. Thơ tự sự có dung lượng lớn, có cốt truyện, có hệ thống nhân vật, có các sự
kiện, các biến cố.
       Cốt truyện trong tiếng Việt, do yếu tố cốt cho nên cốt trưyện thường được hiểu
như là cốt lõi, cái sườn, bộ xương, cơ sở truyện chứ chưa phải là truyện. Cốt truyện
có thể tóm tắt được và có khả năng vay mượn, di chuyển. Cốt truyện có vai trò quan
trọng trong việc liên kết các quan hệ với nhân vật, tổ chức, sắp xếp các sự kiện và
góp phần bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Các thành phần của cốt truyện: Thắt
nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút.
       Nhân vật trong thơ tự sự đa dạng, gồm nhiều thành phần, từ tầng lớp vua quan
đến tầng lớp bình dân, bọn lưu manh… Trong thơ tự sự có hai hệ thống nhân vật
chính: hệ thống nhân vật chính diện, đại diện cho lẽ phải, cho điều tốt, cho sự tiến
bộ của con người và hệ thống nhân vật phản diện, đại diện cho cái xấu, phi nghĩa, đi
lại lợi ích con người. Ngoài ra còn có hệ thống nhân vật lưỡng diện vừa tốt, vừa
xấu. Nhân vật trong thơ tự sự không chỉ có hành động mà còn có đời sống nội tâm
phong phú. Khác với nhân vật trữ tình chỉ tập trung thể hiện một vài tâm trạng cá
biệt thì nhân vật của loại tự sự không những có tính đa dạng của nó mà còn có tính
phát triển, có quá trình và khác với nhân vật kịch trong loại văn tự sự, nhân vật
được thể hiện qua một câu chuyện về  nhân vật đó chứ không phải qua hoạt động
độc lập của nhân vật  ở trên sân khấu.
       Trong tác phẩm trữ tình cũng như trong tác phẩm kịch không có người kể
chuyện. Người trần thuật và người kể chuyện là một yếu tố góp phần tạo nên đặc
52

trưng thể loại tự sự nói chung, thơ tự sự nói riêng. Người kể chuyện là hình tượng
ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học. Nó chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể chính là hình
tượng của tác giả nhưng có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo nên.
Người trần thuật là hình thái của hiện tượng tác giả trong tác phẩm văn học. Là
người mang tiếng nói, mang quan điểm của tác giả trong tác phẩm tự sự. Trong một
tác phẩm tự sự nói chung, thơ tự sự nói riêng, mọi sự biểu hiện, mọi sự miêu tả đều
là của tác giả, do tác giả thể hiện nhưng khi nhà văn không xuất đầu lộ diện mặc
dầu nhà văn biết tất cả, thông suốt tất cả về đời sống nội tâm và hành động của nhân
vật thì đó là người trần thuật. Khi nhà văn xuất hiện như một nhân vật tham gia vào
một vai trong truyện thì đó là người kể chuyện.
       Trong thơ tự sự có ngôn ngữ người kể chuyện vì có người kể chuyện nên phải
có ngôn ngữ người kể chuyện. Chẳng hạn, mở đầu truyện Kiều là ngôn ngữ của
Nguyễn Du:
                               Trăm năm, trong cõi người ta,
                           Chứ tài, chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
                                  Trải qua một cuộc bể dâu,
                             Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
       Bên cạnh ngôn ngữ người kể chuyện còn có ngôn ngữ nhân vật. Thông qua đối
thoại, nhờ đối thoại, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật tạo ra cảm
giác bất ngờ, tình huống bất ngờ góp phần bộc lộ tính cách. Đây là lời nhân vật Từ
Hải trả lời Kiều:
                               Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
                      Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
                                Bao giờ mười vạn tinh binh,
                        Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
53

                                Làm cho rõ mặt phi thường,


                        Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
                               Bằng nay bốn bể không nhà,
                          Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
                               Đành lòng chờ đó ít lâu,
                          Chấy chăng là một năm sau vội gì!”.
       Nhà văn không đứng trên, không đứng xa nhân vật mà hoà vào nhân vật cùng
tâm tình, cùng đối thoại, cùng chất vấn. Bên cạnh lời nói gián tiếp đóng vai trò chủ
đạo nhằm tái hiện, phân tích, phẩm bình các sự vật, các hiện tượng còn có lời trực
tiếp để cho các nhân vật tự nói lên trong tác phẩm. Bên cạnh hình thức miêu tả là
những đoạn bình luận trữ tình ngoại đề góp phần tạo nên tính phức điệu của ngôn
ngữ tự sự.
       Truyện thơ Nôm là một sáng tạo độc đáo của văn học dân tộc. Ở  Việt Nam
hiện nay có khoảng 100 truyện thơ Nôm (Theo Kiều Thu Hoạch). Là thể loại phát
triển rầm rộ trong hai thế kỉ XVII và XVIII, hiện nay truyện thơ Nôm chủ yếu ở thế
kỉ XVIII- XIX. Tiến trình phát triển truyện thơ Nôm: giai đoạn đầu là các truyện
thơ Nôm được cấu tạo bằng một chuỗi thơ đường luật. Một số tác phẩm thơ đáng
chú ý như: Tô Công phụng sứ, Vương Tường, Lâm Tuyền kì ngộ và Tam Quốc thi.
Giai đoạn thứ hai là là xuất hiện diễn ca lịch sử như Thiên nam ngữ lục, tiếp đến là
xuất hiện các truyện thơ Nôm bình dân như Quan thế âm, Phạm Công Cúc Hoa, Lí
Công Cúc Hoa. Với mẫu câu và cách gieo vần gần gũi với Thiên Nam ngữ lục cuối
thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII. Đỉnh cao là giao đoạn xuất hiện truyện thơ Nôm bác
học. Truyện thơ Nôm thế kỉ XIII mượt mà  và cách gieo vần, miêu tả, kể chuyện đã
khác so với truyện bình dân thế kỉ trước. Sự khác nhau giữa truyện thơ Nôm bình
dân và truyện thơ Nôm bác học. Thứ nhất, truyện thơ Nôm bình dân phần lớn là
truyện thơ của tác giả Vô danh, trong khi đó truyện thơ Nôm bác học phần lớn gắn
54

với một tên tác giả cụ thể. Thứ hai truyện thơ Nôm bình dân xuất hiện trước phần
lớn sự dụng cốt truyện dân gian, có sử dụng cốt truyện nước ngoài nhưng rất hạn
hữu. Truyện thơ Nôm bác học hay còn gọi là truyện Nôm văn nhân có tên tác giả
như Truyện Kiều của Nguyễn Du, cốt truyện thường được tác giả vay mượn cốt
truyện nước ngoài như truyện Kiều được Nguyễn Du vay mượn từ cốt truyện tiểu
thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân hoặc tự sáng tác
như truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Tuy vay mượn cốt truyện nước
ngoài nhưng trong quá trình sáng tác, các tác giả đã có quá trình sáng tạo không
ngừng “dấu ấn cá nhân tác giả vẫn thể hiện rất rõ rệt, đậm nét”. Việc sáng tạo của
tác giả thể hiện nhiều điều. Thứ nhất, thể hiện phẩm chất của người nghệ sĩ: sáng
tạo và không ngừng sáng tạo, tức là trên cốt lõi nội dung mà cốt truyện đó mang lại,
tác giả phải có sự cách tân, “làm mới” cả về nôi dung, đặc biệt là hình thức diễn đạt.
Sêcxpia khi viết các vở bi kịch nổi tiếng cả thế giới, có tầm nhân loại, tạo được dấu
ấn khó phai mờ và được xem là mẫu mực ở thể loại kịch cũng lấy cốt truyện từ
truyện kể dân gian. Cái đáng quý nhất của Sêcxpia là ông đã đưa yếu tố tâm lí với
nhiều độc thoại nội tâm tạo cho nhân vật có chiều sâu về tầm nhận thức. Nếu nhà
thơ không tự làm mới mình tức là anh ta đã làm hại mình, vai trò cũng như cá tính
sáng tạo của anh ta sẽ rất mờ nhạt. Thứ hai, nhà thơ trong quá trình viết “phải đổi
mới không ngừng” để phù hợp với hiện thực cuộc sống, tư tưởng, tâm lí cũng như
trình độ tiếp nhận của độc giả lúc bấy giờ. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một
minh chứng tiêu biểu, xác đáng. Từ thể loại tiểu thuyết chương hồi, tác giả đã
chuyển thành thể thơ lục bát và còn đưa nó lên tới đỉnh cao, trở thành mẫu mực về
thể loại. Trên cơ sở cốt truyện đó, tác giả không ngần ngại cắt bỏ khoảng 1/3 chi tiết
mà tác giả cho là làm ảnh hưởng đến mĩ quan người tiếp nhận, hoặc có tính chất kể
lể rườm rà, chỉ có tính chất văn xuôi, trong khi đó yêu cầu ở thơ phải có tính cô
đọng, phải gợi cho người đọc một chiều sâu liên tưởng, suy nghĩ. Nhân vật trong
55

Truyện Kiều cũng đã thay đổi. Nếu Thuý Kiều trong Kim Vân Kiều truyện gặp
nhiều trắc trở, làm điếm, rất ít khi trăn trở, suy nghĩ, đau buồn thì Nàng Kiều của
Nguyễn Du có dấu ấn khó phai mờ, nổi bật từ vẻ đẹp hình thể, nhất là có một phẩm
chất rất tốt đẹp, có đời sống nội tâm phong phú. Nàng là hiện thân của lòng vị tha,
đức hi sinh, chung thuỷ. Từ Hải trong nguyên tác là một tên giặc cỏ thì trong 
truyện Kiều của Nguyễn Du là đại diện cho công lí, chống lại ách áp bức cường
quyền. Chính Từ Hải đã đòi lại công bằng cho Kiều, giúp Thuý Kiều báo ân, báo
oán. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng thay đổi nhiều chi tiết cho phù hợp với
hoàn cảnh, tâm trạng như lúc chị em Thuý Kiều đi tảo mộ mùa xuân gặp Kim Trọng
sau đó trong nguyên tác chị em Kiều về trước nhưng trong truyện Kiều, Nguyễn Du
để cho Kim Trọng về trước. Vì vậy cuộc chia tay thêm lưu luyến, bịn rịn, hợp tình,
hợp cảnh:
                              Dưới cầu nước chảy trong veo
                            Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
       Cao Huy Đỉnh, Trần Đình Sử đã nêu các đặc trưng thi pháp truyện thơ như sau:
       1. Nhân vật đã được quan niệm rõ ràng về tên họ, quê quán…
       2. Có quan hệ xã hội rõ ràng và phức tạp hơn. Nhân vật nói là loại hình chứ
chưa phải là cá tính.
       3. Yếu tố tự sự tăng cường bằng nhiều biện pháp miêu tả cảnh vật, sinh hoạt xã
hội, hoạt động của con người.
       4. Yếu tố trữ tình cũng chiếm một liều lượng phong phú.
       5. Ngoài ra còn có các yếu tố kịch, đối thoại dài giữa các nhân vật.
       6. Các yếu tố phi cốt truyện: lời bình triết lí, trữ tình.
   Truyện Nôm là sản phẩm sáng tạo kết hợp các cốt truyện có sẵn với khả năng tự
sự của thơ lục bát. Nó sáng tác để kể nhưng cũng để xem. Ý thức sáng tác văn học
viết thể hiện rất rõ ngay đoạn mở đầu truyện Tống Trân- Cúc Hoa, một truyện mà
56

tính chất dân gian nổi lên rất đậm: “Nhân khi thong thả thư trai, Giở xem truyện cũ,
đặt bài quốc âm”. Người ta không kể chuyện “ thư trai” bao giờ” nhất là các ông
xẩm, người kể chuyện rong. Ở đây người viết giở xem truyện cũ” rồi đặt bài quốc
âm mới. “Quốc âm” là thuật ngữ chỉ văn học viết dân tộc.
       Truyện thơ Nôm đã thể hiện ý thức làm truyện rõ ràng, chứng tỏ tác giả dân
gian muốn làm văn học viết, ý thức làm văn tự. Truyện Nôm không dừng lại để kể
mà còn để xem, để ngâm và phải chép thành văn thì mới xong:
                Mạnh tay góp nhặt chuyện người
          Ghi vào một tập xem chơi cũng kỳ
                  (Tuyển phu ngộ phối tân truyện)
       Hay:
             Thừa nhân mượn bút chép ghi,
         Phong lưu gọi một truyền kì mà chơi
                                        (Từ Thức) 
           Chức năng của truyện thơ Nôm.
       Tái hiện hiên thực, qua cuộc đời và số phận của các nhân vật mà giúp cho độc
giả nắm bắt được bản chất của cuộc sống, thấu hiểu lẽ đời, tình đời, sự vùng lên của
ý thức cái tôi cá nhân.
       Đặng Thanh Lê với công trình: Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, đã khẳng
định truyện Nôm là “Phản ánh đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp”. Đặng Thanh
Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận trong công trình : Văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, truyện Nôm “trực tiếp miêu tả những gì liên quan chặt
chẽ đến cuộc sống con người trong một bối cảnh xã hội lịch sử cụ thể”.
       Ý kiến của Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong cuốn: Sơ
thảo lịch sử văn học Việt Nam viết: “Truyện Nôm ở thế kỉ XVIII chính là thể hiện ý
57

thức cá nhân đối kháng với đạo đức, lễ giáo phong kiến, cho nên sự phồn thịnh của
truyện Nôm chính là báo hiệu của ý thức cá nhân đã xuất hiện”.
       Tình yêu của Phạm Tải, Ngọc Hoa trong truyện thơ Phạm Tải Cúc Hoa cũng
gặp nhiều trắc trở, sóng gió nhưng cuối cùng cũng gặp nhau và nên duyên vợ
chồng. Ngọc Hoa thấy Phạm Tải thì yêu ngay “nhất kiến chung tình”, cha mẹ tán
thành theo ý con nhưng tiểu nhân phá hoại: điện Biền tạc tượng dâng vua. Vua đắm
đuối nữ sắc bất chấp đạo lí, tuyển Ngọc Hoa vào cung, đầu độc Phạm Tải. Ngọc
Hoa để tang rồi đoạn tang thì chết theo chồng. Đi kiện tại Diêm Vương, Thiên Tào
tra sổ, cho quỷ sứ bắt Trang Vương bỏ vạc dầu, cho Phạm Tải và Ngọc Hoa sống
lại, để Phạm Tải làm vua.
       Truyện Nôm Thạch Sanh, theo bản in miền Bắc có 1812 câu, ca ngợi nhân vật
Thạch Sanh hào hiệp, lương thiện, dũng cảm, đồng thời tố cáo tên Lí Thông gian ác,
thâm độc, cơ hội. Lí Thông có thể làm bất cứ chuyện gì bất chấp đạo lí, tình nghĩa.
Đây là lời lẽ đường mật mà hắn dụ Thạch Sanh đi canh miếu thần:
                          Lí Thông cười nói tưng bừng
                    Truyện trò bả lả ra chừng vui tươi
       Nỗi sợ hãi và âm mưu thâm độc được che đậy bởi hình thức bề ngoài: cười nói
tưng bừng. Bản chất đã được che dấu bởi hình thức bên ngoài khiến Thạch Sanh cả
tin đi ngay, không một chút do dự, dùng dằng. Rồi giọng nói ngọt ngào của hắn để
lừa phỉnh: “Miếu thần, em khá thẳng qua, Tuần xong em trở về nhà mà thôi”. Lời
hắn êm ái nghe như lời hát:
             Rằng anh có việc em thời giúp anh
                  Nhân nay có lệnh triều đình
         Đến phiên anh phải đi canh miếu thờ
                Để mà kiểm điểm xem qua
         Đĩa vàng chén ngọc bây giờ đủ không
58

                Để mà tâu với Cửu trùng


        Cho người yên dạ khỏi lòng hồ nghi
       ……
               Trót cất mẻ rượu công trình
        Anh đi sợ hỏng việc anh ở nhà.
        Khi thấy đầu trăn tinh, hắn liền trở mặt ngay:
       ….Tội ấy chém đầu chẳng chơi
                Xà tinh ấy của vua nuôi
           Để làm báu nước sao ngươi giết xằng…
       Rồi lấy đầu xà tinh tiến vua để hưởng vinh hoa phú quý. Thật trơ trẽn, bỉ ổi.
       Sơ kính tân trang của Phạm Thái cũng đã góp một tiếng nói: “đòi giải phóng
tình cảm, đòi cho con người được sống tự do, phóng khoáng, ngoài khuôn khổ của
lễ giáo phong kiến” [tr. 229].
       Là truyện thơ thuần tuý Việt Nam, có tính chất tự truyện, nên tác giả có điều
kiện vẽ ra một hiện thực Việt Nam. Đó là vấn đề tình yêu, hôn nhân của con người
bị tước đoạt, vùi dập. Trong tác phẩm, cả Phạm Kim và Quỳnh Thư (hiện thân của
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như), có mối tình rất đẹp, rất táo bạo, sôi nổi trong
việc giãi bày tình cảm. Phạm Kim đã sáng tác bài thơ nói thật lòng mình với người
yêu:
           Lửa ân dập mãi sao không tắt
           Bể ái khơi mà cũng chẳng vơi
       Quỳnh Thư cũng rất chân thành, phóng khoáng khác với thời “tam tòng tứ
đức”:
        Im ỉm màn sương đợi khách,
       Thêng thang cửa nguyệt chờ ai.
       Giai nhân tài tử mấy lăm người?
59

       Trạng tưởng tâm tình thêm rối…


       Tình yêu của họ thật đẹp, thật lãng mạn và sự chung thuỷ vẫn là tiêu chuẩn của
những tình yêu chân chính:
        Miễn rằng vàng đá lòng như một,
       Chớ thói trăng hoa nữa bẽ người.
       Tình yêu đối với đám thanh niên trong tác phẩm này không trừ một ai, nó là lẽ
tự nhiên trong đời sống.
       Tình yêu của hai người đã bị chà đạp, bị tan vở do tên viên đô đốc, hơn nữa thái
độ của đôi trai gái này còn hết sức yếu đuối. Phái Thái khi miêu tả viên đô đốc bằng
một giọng văn châm, sâu cay:
            Ông đô đốc chốn kinh kì,
       Nghe đồn Quỳnh Ngọc dung nghi khác vời.
            Sắm sanh tử tế lạ đời,
       Lọng xanh buông chỉ, võng mai ngáng ngà.
            Rỡ ràng bộ đẫy cẩm hoa,
       Xênh xang áo thắm, nhởn nha quần điều.
            Dáo ngù, gươm bạc dập dìu,
       Đôi khiêm đủng đỉnh, cặp hèo nghêng ngang.
           Luân thêu thắm vấn hoang mang,
        Phập phèo điếu thuốc, ngó càng đẹp trai
       Hắn là một viên quan của triều đình mà ăn mặc diêm dúa, trông đến lố lăng
kệch cỡm, nói năng thì thô lỗ, mở mồm ra là chửi mắng, quát tháo, còn hành động
của hắn cũng rất côn đồ.
       Bên cạnh về hiện thực: tình cảm của con người bị chà đạp thì trong tác phẩm
chúng ta còn thấy một bức tranh về xã hội chùa chiền lúc bấy giờ. Do chống lại Tây
Sơn nên tác giả phải sống lẩn lút ở các chùa chiền. Ở đây ông chứng kiến cuộc sống
60

thực ở chùa chiền và ông đã bóc trần không thương tiếc. Thật đáng buồn thay,
không một ông sư, bà vãi nào tu hành nghiêm chỉnh mà là bọn: “hết gạo lỡ tiền, Túi
thơ bầu rượu giả tiên dối đời”, hoặc là kẻ thất tình trốn đời. Có thể nói toàn một lũ
“nết quỷ dạ tinh, Miệng tuy bò tát mà tình dạ thoa”. Đó là những hình ảnh:
       Sư huynh chải chuốt vãi già đong đưa.
             Ra vào tiểu gái lẳng lơ,
       Long lanh mắt liếc, say sưa miệng cười.
            Ăn chơi sĩ, nữ xôn xao,
       Kẻ ra sơn đỗng người vào thuỷ cung.
            Chùa cầu tím mới não nùng,
        Sư dịu dàng dạng, tiểu phong phanh hình…
       Phạm Thái khó chịu và đã thốt lên:
         Ối nao ôi, khổ tu hành!
       Biết Tây phương có dạng hình này không.
       Nguyễn Du là con người chứng nhân: sống và trải nghiệm lịch sử. Sinh ra trong
một gia đình phong lưu, có truyền thống văn chương nhưng Nguyễn Du hầu như
không đón nhận về mặt giáo dục ở gia đình mà Nguyễn Du sớm trôi nổi, lăn lóc
trong trường đời. Sớm lăn lóc trong cuộc sống và sau lăn lóc trong cảm xúc cho nên
đã tạo cho Nguyễn Du một trường giao tiếp càng ngày càng rộng rãi. Từ đây,
Nguyễn Du nảy sinh khuynh hướng những ai trăn trở lăn lóc như mình, họ không
khác gì mình, mình không khác gì họ nên hướng về nổi khổ tạo ra vốn sống, vốn
kinh nghiệm cho người sáng tác.
       Một người sống, dành nhiều tình cảm cho đời, cho người chắc là người đa sầu
đa cảm. Hầu như Nguyễn Du đã trải qua nhiều mặt văn chương. Năm 21 tuổi ông
đã làm thơ, cho đến lúc viết xong Truyện Kiều, ông còn sáng tác và cuối cùng
Nguyễn Du đã chọn thể lục bát trong thể tài thuần tuý của dân tộc làm nên chuyện
61

để đời. Ông là người sống trải qua thời đại nhiều biến động. Bản thân ông cũng
không nhận ra đường đi cho mình.
       Trong truyện Kiều, Nguyễn Du chú ý đến lớp người đau khổ nhất là người phụ
nữ. Mở đầu ông viết:
                   Trăm năm, trăm cõi người ta,
        Chữ tài chữ mệnh, rỏ là ghét nhau.
                    Trải qua một cuộc bể dâu,
       Những điêu trông thấy mà đau đớn lòng.
                       Lạ gì bỉ sắc, tư phong,
        Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
       Trong phạm vi một cuộc đời (100 năm) ai cũng thấy hạnh phúc, cũng thấy đau
khổ. Con người trong một trăm năm ấy dễ thấy đau khổ, cũng chưa thấy hạnh phúc.
Ông đặt ra một vấn đề nhân sinh: không gian ở đây là cuộc sống “cõi người ta”-
chuyện đời người.
       Tư tưởng của Nguyễn Du rất hiện thực. Có cái gì rất nghiệt ngã bằng chữ tài,
chữ mệnh rõ là ghét nhau - như một quy luật thời gian của người và khả năng sống
giường như là mâu thuẫn với nhau. Mệnh bằng thời gian sống. Ba yếu tố của vũ trụ:
trời - đất - con người. Nguyễn Du coi như là một luật và trong đời người ai cũng sẽ
như vậy nhưng cách trình bày của Nguyễn Du lộ ra sự mỉa mai “ khéo là”, nhận
thức ra.
               Trải qua một cuộc bể dâu,
        Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
       Đã sống một cuộc đời, nếu ai từng trải, lăn lóc nhiều, gặp nhiều thay đổi, những
tai hoạ lớn thì dễ đồng cảm. Ai từng trải, mình từng chứng kiến thì mình càng đau
đớn (buồn, bất hạnh…). Ở đây cũng có ý khẳng định:
          Người mà đến thế thì thôi,
62

       Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.


          Người đâu gặp gỡ làm chi,
       Trăm năm có biết duyên gì hay không?
       Tư tưởng thực, ai có sống, chứng kiến, từng trải, đều thấy cuộc đời đau khổ,
nhìn thấy cuộc đời tối tăm:
             Lạ gì bỉ sắc tư phong
         Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
       Trời ghen má hồng. Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cuộc sống này
đau khổ vì tài mệnh tương đố đày đoạ họ cho đến nơi, đến chốn. Cách viết của tác
giả đầy bực tức đồng thời cũng đứng cao trên hoàn cảnh.
         Tảo thơm lần dở trước đèn
       Nguyễn Du thấy rằng: “tài mệnh tương đố”. Phụ nữ vì tài mệnh tương đố mà
bất hạnh.  Lấy hiện thực mà chứng minh tài mệnh tương đố là tư tưởng dẫn khởi
của Nguyễn Du.
       Truyện Kiều có hai tư tưởng, hầu như tác phẩm nào cũng có một ít tư tưởng để
dẫn dắt nhân vật. Thuý Kiều là người hành động có tư tưởng. Thuý Kiều  đã có tư
tưởng từ đầu.
       Loại tư tưởng triết lí dẫn dắt nhân vật hành động đến cùng theo hướng: Chân -
Thiện - Mỹ, tìm đến cái đẹp. Thuý Kiều có tấm lòng thương người như thể thương
thân, cho nên trên đường đi, Kiều không nhìn thẳng cũng không nhìn trời, nàng
nhìn xuống chỗ nào lô nhô cao thấp - người nghĩ nấm mồ hoang vu (Khi Thuý
Kiều, Thuý Vân, Vương Quan đi tảo mộ vào mùa xuân):
                Sè sè nắm đất bên đường,
        Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa xanh.
       Cuộc đời Đạm Tiên “ hồng nhan bạc mệnh”.
                Sống làm vợ khắp người ta,
63

         Hại thay! thác xuống làm ma không chồng!


         Nàng thốt lên:
               Đau đớn thay, phận đàn bà!
        Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
       Kiều: Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
            Gọi là gặp gỡ giữa đường,
        Vân rằng: “Chị cũng nực cười,
        Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa!”
       Cho chị là vô duyên dễ sợ!
       Kiều quả quyết: 
        “Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
       Vương Quan phản đối:
         “Ở đây âm khí nặng nề,
        Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa.”
       Kiều đang thiu thiu ngủ gặp Đạm Tiên:
        “Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
       Thuý Kiều “ hội viên hội đoạn trường”. Trong 15 năm lưu lạc, Kiều cảm thấy
mình chịu kiếp đoạn trường.
        Kiều:
            Triều đâu nổi sóng đùng đùng,
       Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường.
       Bà Giác Duyên vớt Kiều:
                        Thuê năm ngư phụ hai người,
              Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông.
       Tấm lòng Nguyễn Du dành cho cuộc đời rất sâu nặng. Ông thấy bộ mặt rất
“hung hiểm” của xã hội phong kiến. Sống trong xã hội đó, người phụ nữ chịu nhiều
64

bất hạnh, oan ức. Truyện Kiều là một tiếng chuông gióng lên tố cáo xã hội chà đạp
tài hoa, đức hạnh. Nguyễn Du không chỉ đặt ra vấn đề lên án xã hội phong kiến mà
còn đề ra khả năng cho người ta dành lấy hạnh phúc. Ông đã xây dựng một mối tình
cho những người phụ nữ bất hạnh.
       Tác phẩm là lời tự tình về tình yêu hạnh phúc, chống lại trật tự xã hội thối nát.
Mối tình Kim - Kiều là mối tình hiện thực, bất chấp xã hội, thế lực đồng tiền…cuối
cùng vượt được về bến an toàn:
           Hoa tàn mà lại thêm tươi
       Nhưng mối tình đang diễn ra trong xã hội phong kiến như vậy nên tự nó cũng
tố cáo chính xã hội phong kiến đã phủ nhận quyền sống, quyền được yêu của đôi
lứa. Nguyễn Du mong mỏi những ai thương yêu nhau đều được hạnh phúc. Ông đã
xây dựng một mối tình trải qua bao gian truân, mối tình bạc mệnh. Ông xây dựng
một một loại nhân vật lịch lãm trong tình yêu nhưng cũng rất hồn nhiên trong trắng.
Qua từng chặng đời khác nhau nhưng cuối cùng vẫn chung thuỷ duy nhất ban đầu,
coi như sợi chỉ xuyên suốt trong tâm lí Thuý Kiều là Kim Trọng. Như thể hai con
người này chứng minh con người mình đúng. Mối tình Kim - Kiều đang lụi tàn.
Kim - Kiều là bạn. Nguyễn Du nghĩ rất tế nhị: mối tình tay ba không thể tồn tại.
Cuối cùng mối tình tàn lụi: hai người cùng đi hai ngả khác nhau. Từ đây không có
hạnh phúc tình yêu thật trong đôi lứa này nhưng nó trở thành lí tưởng.
       Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên cũng chịu ảnh hưởng
tư tưởng Nho giáo. Trong luận ngữ, Khổng Tử nhắc trên 60 lần “nhân nghĩa”. Đối
tượng phân hai loại: người quân tử là người thực hiện lí tưởng nhân nghĩa và kẻ tiểu
nhân. Nhân nghĩa phải quay trở lại phục vụ người quân tử chứ không phải vì dân.
Từ đó xuất hiện mệnh đề “trí quân trạch dân” : phò vua giúp dân. Trí quân mà
không trạch dân  gọi là ngu trung, thờ vua một cách mù quáng. Vừa trí quân vừa
trạch dân: công, tội lẫn lộn. Trường hợp quyền lợi vua - dân phù hợp là công, ngược
65

lại là tội. Lấy trạch dân làm gốc, coi trọng dân hơn vua tạo ra cái vĩ nhân của lịch
sử. Nguyễn Đình Chiểu lấy trạch dân làm gốc. Trong Nho giáo có các khái niệm:
trung, hiếu, tiết, nghĩa. Hiếu là đầu mối các quan hệ, trung là cứu cánh. Hiếu, tiết,
nghĩa không được mâu thuẫn với trung quân. Nếu mâu thuẫn thì hi sinh hiếu, tiết,
nghĩa. Trung vua - tôi: vua có trách nhiệm dẫn dắt bề tôi, bề tôi có trách nhiệm phục
vụ vua. Trong lí thuyết và thực tế có mâu thuẫn. Sở Vương trong truyện thơ Lục
Vân Tiên lúc đầu không phải là ông vua sáng suốt vì đã cống Kiều Nguyệt Nga cho
giặc Ô Qua. Cuối tác phẩm Sở Vương là một minh quân: tha tội cho Hớn Minh,
Kiều Nguyệt Nga. Vua từ xấu sang tốt. Cảm hứng trung tâm trong Lục Vân Tiên là
hiếu, tiết, nghĩa. Kiều Nguyệt Nga đã chống lại chữ trung. Khi Sở Vương bảo nàng
sang cống giặc Ô Qua, đi giữa đường nàng tự vẫn để giữ trọn chữ tiết-chống lại vua,
tạo ra sự rạn nứt chữ trung. Ở đây đã có sự điều hoà mâu thuẫn: Kim Liên cống thay
cho Kiều Nguyệt Nga. Đối với chữ hiếu, theo lí thuyết cha mẹ có trách nhiệm nuôi
dưỡng con cái, con cái phụng dưỡng cha mẹ lúc về già. Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy, nhấn mạnh cha mẹ tạo ra tinh thần, gia trưởng trong điều hoà các mối quan hệ.
Quan hệ giữa Lục Vân Tiên, Kiều Công và Kiều Nguyệt Nga. Sau khi cứu Nguyệt
Nga :
            Vân Tiên ghé lại bên đàng,
        Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
            Kêu rằng “Bớ đảng hung đồ,
        Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”.
       Vân Tiên không nhận tiền mà làm thơ tặng nàng, sau đó không hề nói chuyện
gia thất, quay lại với lí thuyết. Kiều Công để cho Kiều Nguyệt Nga toàn quyền
quyết định về chuyện gia đình. Quan hệ Lục Vân Tiên-Lục Ông. Chàng yêu thương
cha mẹ, cha mẹ cũng vậy, trở về đúng chữ hiếu. Đặt trên cơ sở tình thương là chính
là điểm tiến bộ trong cách nhìn của Nguyễn Đình Chiểu. Mối quan hệ chữ tiết: mối
66

quan hệ chồng - vợ. Nho giáo quan niệm: vợ chồng tương kính như tân - đối đãi
nhau như khách, chồng, vợ có trách nhiệm, thương yêu nhau. Vợ có trách nhiệm
giữ chữ tiết với chồng, con. Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga không có quan hệ ràng
buộc gì cả. Chữ tiết mang tính tự nguyện, diễn ra sau khi đánh cướp Phong Lai,
Nguyệt Nga quan tâm nhiều hơn. Nàng đi đâu cũng mang ảnh Lục Vân tiên. Bùi
Kiệm nhận ra ảnh Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga vẽ rất giống ảnh Lục Vân Tiên.
Chàng cũng rất coi trọng chữ tiết. Tác giả quan tâm đến lòng thành, đề cao chữ tiết:
tiết ân nghĩa, ân tình. Về chữ nghĩa, tác phẩm đã giải quyết tốt mối quan hệ trong lí
thuyết của nhà Nho. Trong tác phẩm, tác giả nhấn mạnh hai yếu tố: nghĩa bầu bạn,
nghĩa thuỷ chung. Chúng luôn xuất hiện trong tác phẩm thành hai tuyết đối lập
nhau. Quan hệ tiểu Đồng và Lục Vân tiên là quan hệ chủ- tớ. Trong tác phẩm không
hề có quan hệ đó mà chỉ có quan hệ bầu bạn, thuỷ chung. Nghe tin Lục Vân Tiên
chết, tiểu Đồng đã chè chòi giữ mả ba năm. Lục Vân Tiên sau khi sáng mắt, làm lễ
tế Tiểu đồng và gặp lại. Nghĩa thuỷ chung, Kiều Nguyệt Nga không có ràng buộc gì
nhưng trước sau vẫn chung thuỷ. Nàng đã khóc lóc thảm thiết khi nghe tin Vân Tiên
ốm và mất:
                                “Biết nhau chưa được mấy hồi,
                             Kẻ còn người mất trời ơi là trời.
                                    Thề xưa tạc dạ ghi lời,
                              Thương người quân tử biết đời nào phai.”
       Khi bị bắt đi cống giặc Ô Qua, nàng đã làm chay cho Vân Tiên, rồi đến thăm
Lục Ông, để lại tiền của giúp ông:
                            “Chẳng chi cũng gọi là dâu,
                    Muốn cho việc nước phải âu việc nhà.
                        Một ngày một bước một xa,
                    Của này để lại cho cha dưỡng già.”
67

       Điều này đối lập hoàn toàn với Võ Thể Loan. Một số lớn nhân vật thể hiện tư
tưởng nhân nghĩa: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Trực, Hớn Minh, Tiểu
Đồng, lão Bà…Lực lượng phù trợ: sóng thần đưa vào bờ, Phật bà, sơn quân. Hệ
thống nhân vật trong tác phẩm, đó là con người nhất phiến: một mặt là tốt, một mặt
là xấu, chưa có con người lưỡng phân như trong truyện Kiều: vừa tốt vừa xấu. Nhân
vật luôn được coi trọng ở hành động chứ không coi trọng tâm lí nhân vật. Nhân vật
của Nguyễn Đình Chiểu luôn luôn trên đường đi. Không gian địa lí (rừng, núi…)
không phải không gian hẹp. Trong tác phẩm, tác giả không chú trọng đến độc thoại
nội tâm mà chỉ chú ý đến đối thoại: màu sắc, hình ảnh ngôn ngữ. Màu sắc nói và kể
rất rõ nên gắn với văn học dân gian, gần với văn học dân gian. So với Nho giáo,
truyện thơ Lục Vân Tiên có tiến bộ về trung, hiếu, tiết, nghĩa. Tác phẩm này không
phải là truyện thơ cuối cùng mà là truyện thơ hay. Sau này có Nguyễn Bính…Sức
hấp dẫn của nó là có sự kết hợp giữa: truyện và thơ, vừa trữ tình vừa tự sự, đáp ứng
yêu cầu kể chuyện. Để chuyển từ văn học truyện thơ sang tác phẩm truyện đòi hỏi
có một thời gian dài, giai đoạn giao thoa văn học.
       Để chuyển tải được nội dung đó, các tác giả văn học trung đại thường sử dụng
các thể thơ: Đường luật, thể lục bát. Truyện thơ Nôm có cốt truyện và thể thơ. Cốt
truyện là phần nội dung có thể vay mượn hay lấy từ thực tế dân tộc. Thể thơ lục bát
là nghệ thuật rất dân tộc, thể thơ dân tộc. Theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Na trong
gần 150 truyện thơ Nôm thì chỉ có 3 truyện viết theo thể luật đường, chiếm tỉ lệ gần
2%. Đó là các truyện: Tô Công phụng sứ, Lâm tuyền kì ngộ và Vương Tường. Vì
thơ luật Đường có quy mô kết cấu và có quy định cấu trúc, nó không đủ khả năng
làm công cụ tự sự.
       Thơ lục bát là thể thuần tuý của dân tộc: câu đầu sáu tiếng, câu sau tám tiếng
khác thơ Đường. Tính chất thơ lục bát: vừa miêu tả cụ thể vừa miêu tả khái quát.
Miêu tả cụ thể là trực tiếp miêu tả sự vật, hiện tượng, thường chỉ miêu tả bề ngoài;
68

miêu tả khái quát dễ miêu tả bên trong. Miêu tả cụ thể sẽ dẫn đến miêu tả mâu thuẫn
khái quát, dẫn đến sự biểu hiện tinh thần, khác miêu tả cụ thể biểu hiện vật chất.
Chẳng hạn, miêu tả khái quát:
             Trăm năm, trong cõi người ta,
         Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
       Miêu tả cụ thể nhân vật Từ Hải:
              Râu hùm, hàm én, mày ngài,
        Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
       So sánh:
               Lặng nghe lời nói như ru
       Chiều xuân dễ khiến, nét thu ngại ngùng.
       Miêu tả trạng thái giữa Thuý Kiều và Kim Trọng: có một đôi mắt nhìn, có một
lỗ tai đang nghe. Mây thanh mắt trong như dáng mùa xuân và trong như gợn sóng
mùa xuân. Câu thơ có khả năng kể được chuyện rất thuận tiện cho việc xây dựng tự
sự.
       Câu thơ lục bát giàu vì nó có vần và vần này nhanh chóng biến thành nhịp  và
nhịp nhanh chóng biến thành điệu. Từ thể thơ này các tác giả văn học trung đại nghĩ
ngay đến tự sự và kể chuyện một cách khác người. Nguyễn Du không kể như tác
phẩm văn học trung Quốc. Thanh Tâm Tài Nhân kể theo tiểu thuyết chương hồi,
Nguyễn Du kể bằng văn vần. Nếu Thanh Tâm tài Nhân lưu ý đến từng đoạn cao
trào, kể chuyện ở hồi, ở mưu: sự việc - sự việc - sự việc; nhân vật - nhân vật - nhân
vật; hành động- hành động- hành động tạo ra những pha gay cấn cho người đọc
nhưng không sâu sắc thì Nguyễn Du lưu ý nhịp ở hoàn cảnh và ở những tâm trạng -
những cái bên trong sự việc: hoàn cảnh - hoản cảnh - hoàn cảnh; nhân vật - tâm
trạng - tâm trạng, không hấp dẫn nhưng sâu sắc. Nguyễn Du phải xây dựng một hệ
thống nhân vật sao cho gọn để dễ kể.
69

       Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nguyễn Du không cần kể một lúc nhiều nhân
vật mà đẩy hình ảnh người sắp kể vào tâm trí người đang kể như Thuý Kiều nhớ
Kim Trọng.
       Ông yêu thương, trân trọng, bênh vực  nhân vật chính diện tốt đẹp:  Thuý Kiều,
Kim Trọng, Từ Hải và cực lực phê phán tuyến phản diện: những nhân vật đối diện
hoàn toàn với những nhân vật chính diện gây ra đau khổ, phiền phức cho ba người:
Bọn Nha lại, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến…Ngoài ra còn có hệ
thống nhân vật lưỡng diện như Thúc Sinh, Hoạn Thư, những nhân vật rất thường
trong cuộc đời: Vương Bà, bà Giác Duyên, Thuý Vân, Vương Quan…Loại nhân vật
này rất thật. Bà mụ quản gia thấy Thuý Kiều đau khổ: dỗ dành. Vương Bà là người
mẹ mẫu mực, Thuý Kiều đi tảo mộ về khóc:
               Dạy rằng: “Mộng huyễn chắc đâu?
      “Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!”
Khi nghe tin con không lấy Mã Giám Sinh, bà rất đau đớn.
       Nguyễn Du có ý triển khai hai bút pháp nhân vật: bút pháp tự sự, giãi bày và
bút pháp phân tích tâm lí nhân vật - miêu tả cho ra tâm trạng của nhân vật. Nguyễn
Du hay sử dụng thủ pháp hô ứng: gọi - đáp. Hô ứng là thủ pháp lớn trong Truyện
Kiều. Chẳng hạn:
                                Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao!
                        “Hại nhân nhân hại sự nào tại ta?
       Mở đầu Truyện Kiều là hội đạp thanh, lễ tảo mộ, kết thúc là hội đoàn viên,
Thuý Kiều và Kim Trọng sống và tưởng niệm những kỉ niệm cuả mình. Khi bước
chân ra đi  là cuối xuân, khi ra cuối đoạn trường đã bước sang mùa thu nhằm để báo
đáp một vấn đề gì đấy: để hô- ứng hấp dẫn, miêu tả giữa cảnh và tình có mối quan
hệ. Tác giả sử dụng bút pháp “Tâm-Cảnh”:
                     Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
70

       Cảnh chia tay giữa Thúc Sinh và Thuý Kiều:


                         Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh
                         ….
                      “ Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!”
                                Vầng trăng ai xẻ làm đôi
                           Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
                            …
                                 Đêm thu gió lọt song đào,
                           Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời!
         
       Nguyễn Du chú ý làm sao cho những tính cách này chân thực. Truyện Kiều là
bút pháp hiện thực của Nguyễn Du.
       Nguyễn Du khi miêu tả chú ý hoàn cảnh điển hình. Mỗi nhân vật đều có số
phận. Mà số phận chính là con đường phải đi ở ngoài cuộc đời mà nó chịu sự chi
phối của mối quan hệ giữa tính cách của nhân vật và hoàn cảnh mà nhân vật đã
sống, hoàn cảnh thật. Sau khi Tú Bà tra tấn Kiều, Kiều cầm dao tự tử. Tú Bà làm
cho tội Kiều nặng hơn, cho ra lầu Ngưng Bích chờ ngày gả chồng nhưng là mưu
mẹo để Sở Khanh đến ve vãn, lừa lọc. Bởi:
         Tiền lưng đã sẵn việc gì chả xong
       …
              Trong tay đã sẵn đồng tiền
       Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì
       Tú Bà mua Kiều:
             Về đây nước trước bẻ hoa,
       Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
            Hẳn ba trăm lạng kém đâu
71

       Cũng đã vừa vốn, còn sau thì lời.


       Mụ Tú Bà:
              “Này này sự đã quả nhiên,
       “Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
              “Bảo rằng đi dạo lấy người,
          “Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
       Hay:
          Con kia đã bán cho ta
        Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
       Sở Khanh rủ Kiều đi trốn:
              Lấy trong ý tứ mà suy:
       “Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
       Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
               Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
       Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
              Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
       Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.
              Thịt da ai cũng là người,
       Lòng nào hồng rụng, thắm rời, chẳng đau.
       ….
       Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa.
       Tú Bà trả tiền Sở Khanh:
         “Có ba mươi lạng trao tay,
       Không dưng chi có chuyện này, trò kia!
       Tú Bà:
             
72

Mụ rằng: “Ai cũng như ai,


       “Người ta ai mất tiền hoài tới đây?
       Kiều phải:
              Biết bao bướm lả, ong lơi
       Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
       Hoạn Thư:
                     “Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
         “Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
                     “Làm cho, cho mệt, cho mê,
          “Làm cho đau đớn, ê chề, cho coi!
                “Trước cho bõ ghét những người,
          “Sau cho để một trò cười về sau!
       Bạc Sinh cháu Bạc Bà “cùng tổ bợm già”, bán Kiều cho lầu xanh:
        Bạc Sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
                Cũng nhà hành viện xưa nay,
        Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
                Xem người, định giá, vừa rồi,
        Mối hàng một, đã ra mười, thì buông.
       Thuý Kiều:
               Chém cha cái số hoa đào,
       Gỡ ra, rồi lại bước vào như chơi!
               Nghĩ đời mà ngán cho đời!
       Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen.
       Tác giả đã khắc sâu về hoàn cảnh để khẳng định tâm trạng. Nhân vật độc thoại
để thể hiện tâm trạng hoặc tác giả không để cho nhân vật độc thoại nhưng miêu tả
thiên nhiên để nói tràn vào tâm lí nhân vật rất sâu sắc, làm cho truyện này hoàn
73

chỉnh và có thể coi đây là cuốn tiểu thuyết tâm lí đầu tiên của Việt Nam. Tâm lí của
những người đang yêu nhau theo một cú pháp phân tích. Tâm lí điển hình và tính
cách cũng điển hình. Tác giả phân tích tận cùng, rốt ráo “ phép biện chứng tâm
hồn”. Nguyễn Du phân tích tâm lí tàn nhẫn (Phan Ngọc), tâm lí Thuý Kiều. Hoàn
cảnh nó kéo theo những tâm thế, tâm trạng của nhân vật, một nội tâm nhân vật để từ
đó nhân vật có một tâm thế để hành động. Truyện  Kiều “là cuốn bách khoa toàn thư
của ngàn tâm trạng” đầy đủ các tâm trạng: buồn, vui, hoàn cảnh sống, tâm lí nhân
vật phong phú, phức tạp. Đây gọi là phép chỉ ra những mặt rất lo gic, rất luận lí
trong tâm hồn nhân vật. Bức tranh tâm hồn nhân vật rất rõ.
        Ngôn ngữ trong truyện Kiều: thơ lục bát miêu tả đạt đến độ coi như miêu tả
mẫu mực:
                                 “Của tin, gọi một chút này làm ghi”.
               Thơ chữ Nôm:
                    Này chồng, này mẹ, này cha,
              Này là em ruột này là em dâu.
       Đạt được điều này là do Nguyễn Du sử dụng hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ bình
dân và ngôn ngữ bác học. Ngôn ngữ bình dân mang dáng dấp hiện thực bên ngoài.
Ngôn ngữ bác học mang dáng dấp văn chương mà trong đời sống lời nói phát sinh
ghi được qua câu văn có tính chất lời nói thường: khẩu ngữ. Đã văn chương thì phải
trau chuốt, phải tạo ra dáng “nghệ thuật”. Mộc mạc nhưng sắc sảo, bình thường mà
sang trọng, gọt rũa mà vẫn tự nhiên.
                  Chém cha cái số hoa đào
          …
       Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
       Thuý Kiều nói:
         Đã buồn cả ruột lại dơ cả đời.
74

       Sở Khanh:
       Dơ tường nghĩ cũng tìm đường rút lui.
       Từ ngồi, kinh nghiệm dân gian làm được, còn bác học thì khó, Nguyễn Du
miêu tả được. Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
       Hay, Thuý Kiều nói với Thuý Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Thuý Kiều
nói với Kim Trọng Kim Trọng:
                         “Biết thân đến bước lạc loài,
               “Nhị đào thà bẻ cho người chung tay!
                                “Vì ai ngăn đón gió đông,
                       “Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi.
                                “Trùng phùng dù hoạ có khi,
                  “Thân này thôi có còn gì mà mong!
       Từ ngôn ngữ đời sống, tác giả mở rộng vốn ngôn ngữ cho mình. Đó là các lối
nói trong ngôn ngữ bình dân: các thành ngữ, tục ngữ. Chúng ta thấy sử dụng thành
ngữ dễ hơn tục ngữ. Đó là các loại thành ngữ chiếm bốn từ: thành ngữ đời sống,
bình dân, văn chương. Thành ngữ bình dân rất nhiều. Chẳng hạn:  Ngựa xe như
nước, áo quần như nêm, một hội một thuyền, một giày một mỏng, hai mặt một lời,
mèo mả gà đồng, cá chậu chim lồng…Những thành ngữ bác học, để nguyên: bỉ sắc
tư phong, quốc sắc thiên hương… Thành ngữ dịch: Mưa Sở mây Tần, bóng chim
tăm cá, sắc nước hương trời… Hiệu quả: trập trùng những thành ngữ: thành ngữ
văn chương vừa bình dân: hồng điệp xích thằng : lá thắm chỉ hồng. Cách diễn đạt
bình thường nhưng sang trọng. Ông sử dụng lớp từ chỉ diễn đạt một trạng thái, theo
lối điệp ngữ. Ví dụ:
                Làm cho, cho mệt, cho mê,
        Làm cho đau đớn, ê chề, cho coi!
75

       Những từ: những, mà, thì, đã đành…có tính chất quan hệ từ, ý nghĩa không
nhiều:
                Đã đành nước chảy hoa trôi
        Vô duyên là phận hồng nhan sao đành.
       Nguyễn Du sử dụng một lớp nghĩa riêng của ông. Do cách viết, xuất phát từ
câu thơ lục bát: Nghĩ người ăn gió, nằm sương, xót thầm nghĩa là vất vả trên đường
trường: ăn uống trong gió, nằm trong sương. Người này đón nhận trong mình như
ăn như nằm. Hay :
            Biết bao bướm lả, ong lơi.
       Sự chịu đựng của con người trong cuộc khổ hơn.
       Thông thường khi sử dụng một lớp từ ngữ nào, Nguyễn Du cũng rất chú ý hoàn
cảnh mang nghĩa từ đó. Từ đó phải chỉ nghĩa trong hoàn cảnh đó. Nguyễn Du tạo ra
những trạng thái riêng biệt cho từ đó để tìm hiểu trạng thái của nhân vật đó. Thuý
Kiều gặp Kim Trọng trong đêm tái hợp:
               Nàng rằng: “Phận thiếp đã đành,
        “Có làm chi nữa, cái mình bỏ đi!
                     “Nghĩa chàng nghĩa cũ, tình ghi,
        “Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may.
       Cách gọi này gợi ra một trạng thái rất đằm thắm nhưng xót xa giữa Thuý Kiều
và Kim Trọng. Thuý Kiều nói:
            “ Khéo là giở nhuốc bày trò,
       “Còn tình đâu nữa, là thù đó thôi!
       Tình yêu quả tha thiết nhưng cũng cay đắng.
       Kim Trọng chấp nhận cho phép đổi thành tình bạn:
         Nghe lời sửa áo cài trâm,
       Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng
76

       Kim Trọng xứng đáng là người tình lí tưởng. Thuý Kiều rút lui là có danh dự.
Kim Trọng là người hiểu biết cao thượng. Thuý Kiều đàn một khúc đàn sau lời yêu
cầu của Kim Trọng:
          “Mấy lời tâm phúc ruột rà,
       Tương tri dường ấy, mới là tương tri!
       Tóm lại, tuy ra đời muộn hơn một số thể loại khác và chủ yếu được sáng tác
theo thể thơ dân tộc, thuần dân tộc nhưng truyện thơ vẫn có những đóng góp lớn về
mặt nội dung, tư tưởng cũng như phương diện nghệ thuật. Truyện Kiều của Nguyễn
Du là một minh chứng xác đáng, tiêu biểu nhất. Dung lượng phản ánh của truyện
thơ rất lớn: từ hiện thực cho đến đời sống tâm hồn, tình cảm. Ngôn ngữ tự sự sắc
cạnh, đạt đến độ mẫu mực, diễn đạt được nhiều khía cạnh cuộc sống, những vấn đề
nhân sinh cũng như những trạng thái “tế vi” trong tâm hồn nhân vật. Qua các truyện
thơ, người đọc thêm một lần thấu hiểu bản chất con người và cuộc đời. 
 
 
 
 
 
 
77

Chương 3
CHỨC  NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI TẢN VĂN
       3.1. Truyện truyền kì
       Truyện truyền kì là một thể loại được du nhập từ Trung Quốc. Tên gọi thể loại
truyền kì bắt nguồn từ tên một tác phẩm của Bùi Hình đời Đường. Truyện truyền kì
đời Đường kế thừa truyền thống của truyện chí quái thời Lục Triều. Nếu truyện Chí
Quái chủ yếu viết về thần linh quái đản; nặng về ghi chép những chuyện lưu truyền
trong dân gian thì truyện truyền kì chủ yếu viết về con người, nặng về hư cấu. Cho
đến nay ở nước ta khái niệm truyện truyền kì vẫn còn được hiểu theo những phạm
vi khác nhau. Có người cho rằng hầu hết truyện có thần linh ma quái là truyện
truyền kì. Có quan niệm khác coi trọng hư cấu của nhà văn. Quan niệm hợp lí nhất
của truyện truyền kì bắt đầu từ Thánh Tông di thảo và không phải toàn bộ các
truyện trong đó là truyện truyền kì mà chỉ có 12 đến 13 truyện.
       Truyện truyền kì Việt Nam hầu như được viết bằng chữ Hán. Các truyện truyền
kì: Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ,
Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm đánh dấu sự chín muồi của nghệ thuật tự sự
Việt Nam. Khác với truyện truyền kì Trung Quốc, nhân vật trong truyện truyền kì
Việt Nam nhất là trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục đều là những con
người rất bình thường. Đó là một thanh niên khảng khái đốt đền, một người con
quan khi gia đình sa sút đâm ra chơi bời… Các nhân vật quan, tướng, thần, ma đều
đều thể hiện khía cạnh của con người đời thường, đời tư như Hạng Vương, Dương
Thiên Tích. Các nhân vật nữ thì đau khổ chồng chất, bị xúc phạm thậm tệ về nhân
phẩm, danh dự, bị lệ thuộc, không có quyền quyết định hạnh phúc tương lai. Số
phận họ như cái bóng, họ chịu phận mỏng, bạc bẽo. Nét đặc sắc thứ hai trong truyện
truyền kì Việt Nam là nội dung truyện hoàn toàn là việc và người ở Việt Nam. Tính
chất hư cấu, biểu tượng nổi lên rất đậm, được Lê Quý Đôn gọi là “ngụ ngôn”.
78

Truyện truyền kì Việt Nam có cốt truyện hoàn chỉnh như những tác phẩm nghệ
thuật hoàn chỉnh, có thắt nút, phát triển và mở nút.
       Đặc điểm lớn nhất của truyện truyền kì là tính chất kì, tức là sự khác lạ của
hình tượng con người. Trung Quốc định nghĩa truyện truyền kì: “thuật kì kí dị”
(thuật lại điều kì lạ), “phi kì bất truyện”, không phải kì lạ là không phải truyện
truyền kì đích  thực hoặc truyện truyền kì là “ kì văn dị sự”, văn lạ việc lạ. Sử dụng
yếu tố siêu thực không phải là độc hữu của truyện truyền kì. Truyện cổ tích Tấm
Cám, cô Tấm từng biến đi biến lại nhiều lần: con chim vàng anh, cây thị… hay
Đạm Tiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du hiện về báo mộng cho nàng Kiều…
Sự khác biệt ở các thế loại khác, yếu tố kì tồn tại với tư cách thủ pháp nghệ thuật,
tức là lược bỏ nó thì nó vẫn tồn tại dù chất lượng nghệ thuật có bị ảnh hưởng. Ở
truyện truyền kì, yếu tố siêu thực là bản chất thẩm mỹ của thể loại nghĩa là không
có nó thì truyện không tồn tại. Kì ở truyện truyền kì biểu hiện: Xóa bỏ hay đảo lộn
những ước lệ của con người và văn học truyền thống. Người và loài vật có khả năng
biến hoá và chuyển hoá, người biến thành vật, vật biến thành người. Chẳng hạn, bà
vợ quan Hành Khiển, Nguỵ Nhược Chân, trong chuyện nghiệp oan của Đào thị
(Trích Truyền kì mạn lục-Nguyễn Dữ) vốn không có con nhưng vào một đêm, bà
chiêm bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó, bà có
mang và sinh ra hai người con trai đặt tên là Long Thức, Long Quý. Hai người này,
do Hàn Than và Vô Kỷ đầu thai. Hàn Than vốn “phải đi tu” để trốn chạy sự trả thù
của Nguỵ Nhược Chân, vợ quan Hành Khiển. Ở chốn tu hành, Hàn Than gặp vị “sư
bác” Vô Kỷ, “cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai
người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp mùa xuân, trận
mưa cửu hạn, chẳng còn để ý đến kinh kệ nữa”. Nhờ sư già Pháp Vân ra tay trừ diệt
nên “canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết…Hai cái thây
hoá thành hai con rắn vàng, lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả”. Đó là bản
79

chất của văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung, nó đem lại một bức tranh lạ về
thế giới và con người.
       Trong mỗi truyện truyền kì đều có yếu tố siêu thực. Đối lập với thực là hư. Đặc
điểm của truyện truyền kì là cái thực luôn được hư hoá và ngược lại. Cái siêu thực
ngày xưa gọi là hư. Thực được hư hoá như Vũ Thị Thiết trong Người con gái Nam
Xương của Nguyễn Dữ bị chồng nghi ngờ phải nhảy xuống sông ( thực ) thành hư:
sau đó nàng được rước đến thuỷ phủ mà người ta sống với nhau rất thân ái (hư hoá).
Còn hư được thực hoá, cuối truyện truyền kì thường có những chỉ dẫn về di tích
hoặc là hậu duệ hiện còn. Ngày nay vùng ấy còn di tích để người ta tin truyện này là
có thật. Hay truyện Thánh Gióng, trong Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên. Ông bà
nọ sinh được đứa con ba tuổi nhưng không biết nói (thực) thành hư: khi giặc Ân
xâm lược, đứa bé biết nói, ăn bao nhiêu cũng không no, lớn nhanh như thổi, biến
thành một tráng sĩ, cao hơn trượng, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, nhổ tre đánh giặc,
sau khi giặc thảm bại, tơi bời, chàng bay về trời. Cuối truyện, ngày nay còn đền thờ
ở làng Phù Đổng (làng Gióng), còn nhiều ao liên tiếp do ngựa Thánh Gióng đi qua.
       Đặc điểm hình thức của truyện truyền kì: truyện thường có sự pha trộn thể loại.
Thể loại chính văn xuôi pha trộn với văn vần (đoản thi hoặc phú hoặc văn tế).
Chẳng hạn, đây là thư của Lệ Nương gửi lại cho Phật Sinh trong Lệ Nương truyện
(Trích Truyền kì mạn lục-Nguyễn Dữ). Thiếp nghe:
       Trời có âm dương, đạo trời mới đủ,
       Người có chồng vợ, đạo người mới thành.
       Đôi ta vì đâu?
       Lỡ làng đến vậy!
       Tâm tình buổi trước, đã kết mối dây!
       Ly biệt ngày nay, bao khuây nguồn cảm.
       Bóng trước lầu đã rụng,
80

       Xuân trong viện đành giam.


       Những e, gương li loan bóng múa hững hờ,
       Đàn biệt hạc tiếng vang ai oán,
       Thành Xuân trời tối, liễu lả cành dưới ngọn đông phong,
       Ngòi ngự nước trôi, ruột đứt khúc bao người cung nữ.
       Luống những mạch sầu đợt đợt,
       Sóng lệ trùng trùng.
       Nguyền xưa tan nát nghĩ mà đau,
       Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng.
       Ước liễu thị mong gì hảo hỏi,
       Duyên Ngọc Tiêu đâu chắc tái sinh.
       Xin chàng trân trọng lấy mình,
       Liệu kết nhân duyên chốn khác.
       Đừng vì tình một buổi,
       Để lỡ kế trăm năm.
       Man mác nỗi lòng,
       Thủ khôn xiết tả.
       Chưa biết ý chàng,
       Trước xin bày tỏ.
       Cuối truyện thường có lời bình (văn nghị luận). Qua câu chuyện tình đẫm lệ
Phật Sinh-Lệ Nương, tác giả đưa ra lời bình thể hiện quan niệm, thái độ của mình.
       “Than ôi! Điều tiết ước gần với lẽ phải thì lời nói tất nên giữ đúng, nếu đối với
lẽ phải mà chưa được ổn thì sự giữ đúng không cần. Như chàng họ Lý kia, vì mối
ân tình giữ bền ước cũ, lưu li hoạn nạn, vẫn chẳng quên lời, tình thật đáng thương,
mà lẽ phải thì chưa được ổn. Bởi sao? Cảm tình mà đi tìm thì nên, liều chết mà đi
tìm thì không nên, liều chết để đi tìm đã không nên huống nữa lại thôi không lấy vợ,
81

để đứt dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không? Cho nên người quân tử phải
biết tòng quyền chứ không nên chấp nhất. Giữ điều nhỏ để mất điều lớn chẳng là gã
Lí Sinh này ư?
    Có sự pha trộn như vậy, không phải các tác giả truyện truyền kì lộn xộn, tâm lí có
vấn đề mà tác giả có ý thức thể hiện tài năng của mình “khoe tài”. Tâm lí nhân vật
phong phú, phức tạp hơn nên cần có nhiều phương diện để thể hiện. Cốt truyện đa
dạng và phức tạp hơn. Trong thư gửi người yêu, Lệ Nương đau xót, sầu não, day
dứt khôn nguôi.
        Luống những mạch sầu đợt đợt,
       Sóng lệ trùng trùng
       ….
       Man mác nỗi lòng.
       Chỉ cần chín âm tiết: những mạch sầu đợt đợt, Sóng lệ trùng trùng đã làm nổi
bật được tâm trạng, tấm lòng, sự trân trọng của nàng đối với mối tình của mình như
thế nào.
        Nỗi buồn nặng trĩu, tâm sự chồng chất nhưng nàng vẫn rất tỉnh táo, vẫn khuyên
người yêu:
             Xin chàng trân trọng lấy mình,
             Liệu kết nhân duyên chốn khác.
              Đừng vì tình một buổi,
              Để lỡ kế trăm năm.
       Lệ Nương quả nhân hậu, không ích kỉ, luôn mong cho người yêu được hạnh
phúc. Bởi nàng đã ý thức được thân phận của mình nói riêng, người phụ nữ trong xã
hội phong kiến nói chung như cái bóng (Chuyện người con gái Nam Xương), kiếp
ốc nhồi trong thơ Hồ Xuân Hương: “Bọn chúng ta vóc mềm tựa liễu, mệnh bạc như
vôi”. Thật đáng thương! Tư tưởng của Nguyễn Dữ rất hiện đại, thể hiện “văn hoá
82

yêu”, vì hoàn cảnh nghiệt ngã mà không lấy được nhau thì luôn mong cho người
yêu được hạnh phúc. Người yêu có nhân duyên mới, thực hiện nghĩa vụ của người
con trai trong xã hội phong kiến: lấy vợ sinh con đẻ cái thì nàng chắc chắn sẽ thanh
thản hơn, đỡ đau khổ phần nào. Ở lời nhận xét, tác giả viết: “không lấy vợ, để đứt
dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không?” của Phật Sinh, khâm phục ít đáng
trách nhiều vì “giữ điều nhỏ để mất điều lớn”.
       Từ các đặc điểm trên, chúng ta rút ra hai chức năng chính của truyện truyền kì:
       Thứ nhất là chức năng nhận thức. Truyện truyền kì dùng hình thức siêu thực
nhưng nhằm đạt đến nhận thức chân thực và sâu sắc về cuộc đời.
       Thứ hai, chính dùng hình thức ma quỷ mà truyện truyền kì có thể thực hiện
chức năng giáo hoá: tự nhiên, chân thực, sâu sắc. Điều này cũng phù hợp với yêu
cầu của Nho giáo: văn chương phải có thưởng, có phạt theo yêu cầu của người ta.
Chẳng hạn người cương trực như Tử Văn phải có thưởng. Qua đối đáp của Hồ Tông
Thốc với Hạng Vương trong Câu chuyện ở đền Hạng Vương (Trích truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ) :“Phàm xoay cái thế thiên hạ ở trí chứ không phải ở sức, thu
tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo…” thật sâu sắc, trọn vẹn. Nó vừa
chân lí vừa là đạo lí, có tính giáo dục cao nhất là đối với giai cấp thống trị phong
kiến.
       Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thánh Miện,
Hải Dương. Ông từng đi thi và có thể đã ra làm quan ( ? ). Chán ghét cảnh quan
trường nên ông đã về ở ẩn.
       Truyền kì mạn lục là tác phẩm của ông gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán
theo lối tản văn, văn biền ngẫu, vận văn. Tác phẩm được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ
chính và Nguyễn Thế Nghi bạn cùng thời với tác giả dịch ra chữ Nôm. Tất cả
truyện trong truyền kì mạn lục đều viết về những chuyện đã xảy ra mang yếu tố
83

hoang đường, li kì, kì ảo và qua đó hiện lên rất rõ bức tranh xã hội  hiện thực có
nhiều nét tương đồng với thực tiễn.
       Đây là đoạn đầu văn bản: Chuyện chức phận đền Tản Viên. “Ngô Tử Văn tên là
Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy,
thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người
cương trực. Trong làng có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô
sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có
viên Bách hộ, họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian.
Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền. Mọi
người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn vung tay không cần
gì cả”. Đoạn văn đã thể hiện được tính cương trực, dũng cảm, đấu tranh vì chính
nghĩa của Tử Văn. Tính cách đó được khắc hoạ rõ nét qua từng tình tiết, sự kiện.
Trước hết, tính cách của chàng được thể hiện qua lời của tác giả : “Chàng vốn
khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta
vẫn khen là một người cương trực”. Đặc biệt, hành động của chàng châm lửa đốt
ngôi đền thiêng: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm rửa sạch sẽ, khấn trời, rồi châm
lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn
vung tay không cần gì cả”. Phản ứng của Tử Văn trước cái xấu, thói ác, nhanh,
mạnh như thuốc súng. Hành động “ tắm gội sạch sẽ” trước khi đốt đền, “vung tay
không cần gì cả” sau khi đốt đền chứng tỏ chàng đã quyết đấu, quyết sống với kẻ
gian tà, dù đối thủ của Tử Văn là ai cũng phải kinh sợ. Khi đứng trước công đường,
khí phách của chàng càng được khẳng định. Chàng “kêu to”, ý thức về mình : “ Ngô
Soạn này là một kẻ ngay thẳng ở trần gian”. Lời của chàng nghe thật dõng dạc,
đường hoàng đầy tự tin làm sao! Chàng đã dũng cảm vạch mặt tên bại tướng gian tà
với lời lẽ rất: “cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Chàng chiến đấu đến
cùng vì lẽ phải. Kẻ thù của chàng “có vẻ sợ, quỳ xuống tâu” với Diêm Vương : “ –
84

Gã kia một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng
như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức
rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức
hiếu sinh”. Nhưng sự điêu trá của hắn cũng không giúp hắn thoát tội. Cuối cùng,
hắn bị “lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng…bỏ vào ngục Cửu U”.
       Cũng truyện này tác giả đã vạch trần không thương tiếc bộ mặt gian tà của
không ít kẻ đương quyền “quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược. Ngòi
bút của tác giả không chỉ lên án một số quan lại tham nhũng đương thời mà còn tố
cáo mạnh mẽ hiện thực xã hội với “rễ ác mọc lan, khó lòng lay động”. Chỉ với tám
âm tiết  nhưng nó có sức khái quát lớn, đi sâu vào bản chất xã hội đương thời, thì
thật là tài tình. Nguy hiểm hơn, gây ra sự bức xúc cho người dân lúc này là một bộ
phận quan lại “vì tham của đút” mà bênh vực cho kẻ gian tà.
       Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương là nạn nhân của chế độ
nam quyền độc đoán. Nàng “ tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, rất
mực hiếu thảo “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngon ngọt khôn khéo
khuyên lơn” mẹ chồng. Khi bà cụ mất thì “nàng hết sức thương xót, phàm việc ma
chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Đúng là một người vợ tốt, mẫu
mực, đảm đang, một nàng dâu không chê vào đâu được. Nàng không ham vinh hoa
phú quý “chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm”, chỉ mong hai chữ
“bình yên”! Ước mơ của nàng là có một gia đình vui vẻ, hạnh phúc thật giản dị
nhưng cũng không được. Người chồng của nàng là một gã ngu dốt, gia trưởng, đa
nghi, vũ phu, hay ghen, khi nghe đứa con nói đã “la um lên cho hả giận…lấy
chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và “đánh đuổi đi” khiến nàng phải
“gieo mình xuống sông mà chết”. Oan uổng quá, thương xót quá, bức xúc quá!
       Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương cũng là nạn nhân của xã hội phong kiến.
Nàng và Phật Sinh “cùng đi lại với nhau suồng sã, cùng nhau xướng hoạ thơ từ”.
85

Tuy kì cưới xin chưa định nhưng hai tình gắn bó, chẳng khác chi vợ chồng vậy.
Niên hiệu Kiến Tân, năm Kỉ Mão (1399), đời Trần, cái vạ Trần Khát Chân, nàng bị
bắt vào trong cung, Phật Sinh rất thất vọng. Khi Sinh đương ngủ, chợt nghe tiếng
ấm ối, Sinh vùng dậy đẩy cửa ra xem thấy hơn trăm chiếc kiệu hoa rậm rịch đi qua,
có một bức thư bằng lụa cài vào ngưỡng cửa. Đó là bút tích của Lệ Nương. Sinh
đau thương bỏ cả ăn ngủ. Vì cớ hôn sự đã hỏng, chàng bèn xin ra ở ngoài miền
đông. Nặng tình với lệ Nương, chàng chưa nỡ lấy ai cả. Phật sinh từ biệt mẹ vào
Nam để tìm Lệ Nương. Nghe tướng giặc Lã Nghị bắt cướp mấy trăm phụ nữ hiện
đóng giữ ở phủ Thiên Trường trơ trọi, không có quân ứng viện, Sinh muốn nhờ thế
quân của vua đánh úp mà cướp lại Lệ Nương nhưng không thành. Lệ Nương cùng
mấy người tự tận. Lệ Nương nói: “Bọn chúng ta vốn mềm tựa liễu, mệnh bạc như
vôi, nước vỡ nhà tan, lưu ly đến đó. Nay nếu lại theo họ qua cửa ải, tức là đến nước
non quê người. Chẳng thà chết rấp ở ngoài lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang
làm cái cô hồn ở bên đất Bắc”. Nàng quả là “trinh thuần cương liệt”!... 
       Cấu trúc trong truyền kì mạn lục viết theo kết cấu thời gian. Cái gì xảy ra trước,
viết trước, cái gì xảy ra sau viết sau giống như cấu trúc của truyện cổ tích trong văn
học dân gian, nhưng ở truyện cổ tích văn học dân gian nghiêng về sự kiện còn
truyền kì mạn lục lại nghiêng về tâm trạng, tình cảm con người.
       Các câu chuyện trong Truyền kì mạn lục đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của
thế giới âm cung với những hồn ma, bóng quỷ, với những cảnh vật khác thường,
với những chuyện người chết đi, sống lại, từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm
về cõi trần, người chết trò chuyện với người sống, vật hoá thành người, người hoá
thành vật…Nhưng các câu chuyên lại có vẻ như “ người thực, việc thực” bởi cách
dẫn người, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán, cả thời gian, địa điểm xảy ra sự
việc. Hai yếu tố làm nên Truyền kì mạn lục nói riêng, truyện truyền kì nói chung.
Đó là, yếu tố kì ảo, một biện pháp nghệ thuật làm tăng tính hấp dẫn của câu chuyện
86

và yếu tố hiện thực làm tăng tính xác thực, làm cho câu chuyện có ý nghĩa xã hội
sâu sắc.
        Truyện truyền kì có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và kịch; giữa ngôn ngữ nhân
vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca.
       Đọc truyện Truyền kì mạn lục, chúng ta thấy bức tranh sinh động về xã hội
phong kiến suy loạn thế kỉ XVI. Nguyễn Dữ đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến
từ trên cao vua quan cho đến tầng lớp tri thức, kể cả nhà sư. Thứ hai trong truyện
đặt ra vấn đề hạnh phúc gia đình. Đó là các yếu tố bảo đảm cho hạnh phúc lứa đôi:
thuỷ chung, đức hi sinh, lòng yêu thương. Những yếu tố làm cho hạnh phúc gia
đình tan rã: sự nghi kị, ăn chơi sa đoạ, sự vũ phu. Tác phẩm đề cao vai trò yêu
đương và đề cao người phụ nữ. Tác giả thể hiện thái độ đồng tình với tình yêu nên
những trang viết về tình yêu theo chúng tôi là  những trang hay nhất trong Truyền kì
mạn lục. Điều đó chứng tỏ tác giả rất nhạy cảm và tinh tế trước vấn đề cuộc sống.
Tác phẩm này cũng phản ánh tâm trạng, tư tưởng Nguyễn Dữ. Tư tưởng chủ đạo
của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Khi ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội
là để cổ vũ thuần phong mĩ tục, xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến; phủ
định triều đại đương thời để khẳng định một vương triều lí tưởng trong tương lai;
lên án bọn bá giả để đề cao đạo “thuần vương’; phê phán bọn vua quan tàn bạo là để
ca ngợi thánh quân hiền thần. Ngoài ra, chúng ta thấy ông còn chịu ảnh hưởng tư
tưởng Đạo giáo, Phật giáo để nói lên quan niệm của mình như thuyết nhân quả, báo
ứng, nghiệp chướng; tư tưởng nhân dân, khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ để nói
lên đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, sự đối kháng giai cấp.
            Truyện truyện kì Việt Nam đã phản ánh khá toàn diện và sắc nét hiện thực
đời sống cũng như thế giới tinh thần của nhân dân ta ngày xưa. Sống trong xã hội,
con người “vui thì ít mà buồn đau thì nhiều”, cái ác hoành hành, nhân phẩm bị xúc
phạm nhất là người phụ nữ. Biết bao cuộc tình bị đổ vở, bao gia đình tan nát, bao
87

cái chết thương tâm xảy ra… bởi chế độ nam quyền độc đoán. Truyện truyền kì đã
giúp chúng ta nhận thức được những trang đen tối trong lịch sử dân tộc. Yếu tố kì
ảo, hoang đường làm nên nét đặc sắc của thể loại này. 
       3.2. Tiểu thuyết chương hồi
       Tiểu thuyết chương hồi là một thể loại được du nhập từ Trung Quốc. Không chỉ
có ở Việt Nam mà ở một số nước như Triều Tiên, Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng từ
các tiểu thuyết như: Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Hồng lâu mộng của
Tào Tuyết Cần…Văn học trung đại Việt Nam có bộ ba tiểu thuyết được viết bằng
tiếng Hán: Nam triều công nghiệp diễn chí gồm 30 hồi do Nguyễn Khoa Chiêm
soạn vào năm 22 đời chúa Minh Vương 1719, Tây Dương Gia Tô bí lục gồm 9
quyển của các tác giả Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường, Nguyễn Bá Am, Trần
Trình Hiến và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái gồm Ngô Thời Chí,
Ngô Thời Du và một số danh sĩ khác soạn.
       Tiểu thuyết chương hồi được viết bằng chữ Hán là một hiện tượng độc đáo của
văn học trung đại Việt Nam. Khác với các tác phẩm cùng thể loại của Triều Tiên,
Nhật Bản đề cập nhiều đến đề tài tình yêu thì các tiểu thuyết chương hồi Việt Nam
lại đề cập các đề tài liên quan đến lịch sử nhưng không phải là lịch sử quá khứ xa
xưa mà là lịch sử hiện tại. Do đó tính chính trị, tính lịch sử thể hiện rất cao.
       Chức năng chính của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam là đề cập đến những vấn
đề lịch sử, miêu tả các trạng thái xã hội và số phận bi kịch cá nhân.
       Lập trường tác giả Nguyễn Khoa Chiêm khi viết Việt Nam khai quốc chính
truyện (nguyên tác: Nam triều công nghiệp diễn chí), do Ngô Tất Tố đặt lại, đứng
về phía các chúa Nguyễn. Khi đọc tác phẩm này, chúng tôi thấy, tác giả chịu ảnh
hưởng từ tiểu thuyết của La Quán Trung: Tam Quốc chí diễn nghĩa. Chẳng hạn như
câu chuyện được kể theo trình tự thời gian nhưng ở tác giả Nguyễn Khoa Chiêm kể
cặn kẽ hơn. Ông chú ý tới ba yếu tố: niên hiệu, tuế thứ và can chi. Sau mỗi sự kiện
88

tác giả thường kết lại một bài thơ, bộc lộ thái độ của tác giả  như sau sự kiện Hàn
Tiến tử tử, Nguyễn Khoa Chiêm viết:
            Người đương thời có thơ than rằng:
                            Trung nghĩa lòng son chí chẳng dời
                             Nào hay tâm sự chẳng theo thời
                             Núi vôi trúng đạn người khôn đoái
                            Nhà trạm canh khuya luống ngậm cười
                           Năm trước xót ông buồn chưa dứt
                          Này rầy tưởng nhớ lệ khôn rơi
                          Mới hay phú quý là giấc mộng
                           Chẳng quản nên chăng chuyện ở đời.
       Cách giới thiệu nhân vật, miêu tả chiến tranh…cũng có những công thức hoặc
mô típ na ná giống với tác phẩm của La Quán Trung
       Là tiểu thuyết viết về cuộc chiến giữa các phe phái phong kiến để tranh giành
quyền lực. Tiểu thuyết này kể về các trận đánh, kể về binh pháp, về mưu mẹo để
tiêu diệt đối phương, củng cố địa vị của các chúa Nguyễn-chúa Trịnh trải ba đời:
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần. Hai mươi chương cuối
tập trung miêu tả cuộc chiến liên miên giữa chúa Trịnh Tráng và Nguyễn Phúc Tần
qua đời thì kết thúc. Trong cuộc chiến của Trịnh Tráng- Phúc Tần kéo dài trên 50
năm, đốc chiếu Chiêu Vũ đóng vai như Vũ Hầu, còn tiết chế Thuận Nghĩa là tướng
tài nhưng hẹp lượng như Chu Du. Cuối cùng Chiêu Vũ và Thuận nghĩa mâu thuẫn
làm lỡ thời cơ tiến ra Thăng Long, rút về cố thủ ở Phú Xuân. Ở đây, tác giả kể rất
nhiều phép dụng binh: phản gián, mĩ nhân kế, điệu hổ li sơn, nghi binh, lấy ít địch
nhiều… Khi Chiêu Vũ bị cô lập, bị bỏ rơi thì cho quân ca hát, nghi binh làm cho
địch không dám tiến. “Bị Thuận Nghĩa bỏ rơi, Chiêu Vũ kẹt vào thế cô, quân ít.
Trước sức tấn công của hơn 10 vạn quân Bắc Hà do Trịnh Căn chỉ huy, Chiêu Vũ
89

“bèn truyền lệnh cho quân sĩ cứ ở trong doanh trại vui vẻ ca hát, gõ trống gãy đàn.
Một mặt truyền mật lệnh sửa soạn rút quân. Bấy giờ bên quân Bắc, quận Phú Trịnh
Căn đã chia quân bao vây đồn Khu Độc. Nhưng dò xét chỉ nghe từ các trại trong
đồn vọng ra tiếng trống đàn, ca hát. Trịnh Căn ngờ rằng Chiêu Vũ lại có kế gì nên
không dám khua quân tiến vào”, Chiêu Vũ dùng kế phản gián làm cho nhiều tướng
Trịnh rơi đầu…
       Bên cạnh viết về các sự kiện lịch sử đầy biến động, nóng bỏng, tác phẩm này
còn nói về thảm cảnh xã hội và số phận bi kịch. Đó là thảm hoạ thiên nhiên, đời
sống nhân dân rơi vào tình cảnh “sống dở, chết dở”, người tốt, tài năng bị đố kị,
hãm hại, con người đối xử với nhau không hơn gì con vật… Đó là, vào năm 1617
“Mạc Phủ Long sai gian tế đốt cháy kinh thành Thăng Long…Tháng bảy trời bão
lớn, mưa xối như trút. Ở miền ven biển, nước mặn ập vào cuốn phăng ruộng bờ, nhà
cửa, trâu bò, gia súc bị kéo trôi ra biển. Lại ở xứ Sơn Tây nạn sâu keo cắn mất hết
lúa má hoa màu…Cả kinh thành và các nơi người chết đói đầy đường, kẻ sống sót
tìm đường khắp tây đông bôn tẩu để lo mạng sống…”. Phùng Khắc Khoan, Lưỡng
Quốc trạng nguyên bị kẻ xấu dèm pha khiến chúa Trịnh Tùng định chém. Sau đó
nhiều người can gián ông mới thoát chết, nhưng bị thích chữ vào mặt, đi đày ở chỗ
núi sâu. “Đào Duy Từ trí tuệ siêu việt, được tôn xưng là Gia Cát tiên sinh, nhưng vì
xuất thân ca xướng không được đi thi, đành nuốt hận” tìm đường vào đàng trong,
trên đường phải làm kẻ chăn trâu cho phú hộ để kiếm sống. Bình An Vương Trịnh
Tùng bị cha con Trịnh Đỗ cướp rước khỏi điện, đến xã Cầu Đơ (Hà Đông) thì ốm
chết, bị cha con Trịnh Đỗ vứt xác bên cầu…
       Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái gồm 17 hồi : ba hồi đầu kể
chuyện nhà chúa Trịnh suy tàn, kiêu binh nổi loạn; từ chương 4 đến chương 14, chủ
yếu miêu tả hoạt động của quân Tây sơn, chương 14 đại thắng quân Thanh, dẹp yên
bờ cõi.
90

       Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh toàn diện, sâu sắc bức tranh xã hội phong
kiến kéo dài trong nhiều thế kỉ, từ khi Trịnh Kiểm phụ chính giúp vua dẹp yên họ
Mạc và từ đó họ Trịnh đời đời kế tiếp tước vương. Việc tranh giành quyền bính,
khiến trong nội bộ giai cấp chia rẽ sâu sắc, anh em huynh đệ tương tàn, nồi da nấu
thịt, đầu rơi máu chảy. Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1740-1786), gây ra nhiều tội lỗi.
Vì vô cùng sủng ái  Đặng Thị Huệ mà mắc nhiều sai lầm dẫn đến hậu quả khôn
lường. Trịnh Sâm đã lấy tên mình lúc nhỏ là Cán để đặt tên cho con của Đặng Thị
Huệ. Chúa đã từng bắt thế tử Tông phải đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong
Trạch Các. Nghiêm trọng nhất là “truất Trịnh Tông làm con út, trọn đời giữ đạo làm
tôi”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc hoạ tính cách, bản chất của nhân vật
bằng những lời nhận xét sắc sảo, qua những hành động mà các nhân vật đó gây ra.
Đầu tiên là nhân vật Huy quận Công Hoàng Tố Lí ( Hoàng Đăng Bảo ). Là con
người rất cơ hội, đầy tính toán, có âm mưu thâm độc. Hắn từng quản số quân của
quận Việp, sau đó xin về triều. Hắn nghĩ rằng Thi Huệ tuy được chúa yêu nhưng
con trai thị Huệ còn nhỏ, trong khi thế tử Tông đã lớn nên hùa theo thị Huệ “e
không phải là kế lâu bền” và hắn đã lấy châu báu “100 lượng vàng và mười tấm
đoạn Nam Kinh” đút lót thế tử để xin nương tựa, lợi dụng nhưng thế tử không nhận.
Không lung lay được ý chí của thế tử Tông, hắn quyết hùa theo Đặng Thị Huệ và
âm thầm có chí phế lập. Và hắn đã có những hành động để lấy lòng ả như: dâng
ngôi nhà cũ của quận Vương cho Vương tử Cán  làm dinh thự. Huy mở dinh quận
trung Nhuệ kiêm lĩnh chức trấn thủ trấn sơn Nam. Việc lên ngôi Chúa cho Trịnh
Cán cũng do y sắp đặt rất chu toàn. Đặng Thị Huệ cũng là một kẻ đa mưu, đầy tham
vọng. Ỷ thế được chúa chiều nên thị đã nhiều phen làm mưa làm gió, kiêu căng. Thị
đã từng nắm” viên ngọc dạ quang của chúa ném xuống đất và bảo chúa quý của hơn
người. Khi đã có con trai là thế tử Cán, tuy bị bệnh “chứng cam” nhưng rất thông
minh, lanh lợi, thị càng được lướt làm càn. Thị cùng với quận Huy Hoàng Đăng
91

Bảo tìm kế, lập mưu, theo dõi ngầm hại thế tử Tông, củng cố phe phái nhưng lịch
sử không chiều theo ý thị, cuối cùng thị phải nhận kết cục thảm hại. Trịnh Tông
(sau đổi tên là Trịnh Khải) vì không được chúa tin tưởng, không muốn nhường ngôi
chúa cho nên cũng biết lo lắng, tính kế. Theo lệ cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ
đến 12 tuổi thì phải ra ở Đông Cung nhưng chúa lại bắt Tông ra ở tại nhà riêng của
quan a bảo Nguyễn Đĩnh. Khi Trịnh Tông mười lăm tuổi, Trịnh Cán ra đời, nỗi lo
đó càng lớn. Tông cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thấm Thọ, Vịnh
Vũ… bàn mưu tính kế đêm ngày, rồi nghe theo bọn tôi tớ sắm sửa binh khí, chiêu
mộ dũng sĩ, đồng thời báo cho hai trấn Tây, Bắc đem quân về phối hợp… Đặng
Mậu Lân, em trai Vương Phi Đặng thị Huệ cũng nổi tiếng tàn ác, dâm đãng, hống
hách, đầy những thành tích bất hảo. Mỗi lần đi ra ngoài thấy cô gái nào vừa ý là hắn
cho người quây rồi hiếp luôn, người nào không đồng ý thì hắn xẻo luôn đầu vú.
Chồng, cha mẹ họ mà hé răng tố cáo thì lập tức hắn cho người tới “vặn gãy răng”,
nhiều người bị đánh chết. Hắn còn “tuốt gươm chém chết ngay” người bảo vệ công
chúa. Người đời sợ y hơn sợ beo sói…
       Đám kiêu binh cậy thế có công trong việc phế truất con thứ là Trịnh Cán lập
Trịnh Tông mà ra sức làm càn. Chúng tham gia vào công việc triều chính “việc này
nên nên đế, việc kia nên đối”, “nhiều khi những việc vô lí họ cũng buộc triều đình
phải làm” . Hai viên quan là Nguyễn Khản và Dương Khuông em ruột Dương Thái
Phi không được đám kiêu binh phục nên họ đòi giết chết . Dương Phi sụt sùi khóc
xin vì tình máu mủ nên Dương Khuông được tha, còn Nguyễn Khản chạy thoát
thân, còn Triêm Vũ Hầu trốn trong phủ chúa sau cũng phải để cho đám kiêu binh trị
tội: “lấy đá, gạch đập vào đầu, lấy gươm đâm sau lưng”. Chúa hoàn toàn bất lực
phải dụ họ rồi lấy vàng bạc để đút lót, nhờ Nguyễn Thọ đứng ra dàn xếp với đám
kiêu binh. Sau này chúa thông đồng với bọn Nguyễn Quốc sư diệt trừ nội loạn mà
không thành. Khi quân Tây sơn đến đánh, chúa cùng đám tuỳ tùng nháo nhác chạy,
92

trông thật thảm hại, nhục nhã. Tông “ cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt
xuống ngồi núp trong chăn hòm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ”.
Cảnh Trịnh Tông cùng đám quần thần bỏ chạy thật thảm thương, thêm một lần nhục
nhã. Chúa Tông vì uất ức, sợ hãi nên đã lấy dao đâm vào cổ nhưng mọi người biết
hết sức can ngăn, sau đó chúa khăng khăng xin được uống nước lã và qua đời.
       Nguyễn Hữu Chỉnh cũng là một tay cơ hội, tài năng, tinh tường, tính toán như
thần, thông hiểu binh pháp. Khi có biến, hắn đã nhanh chóng thu xếp để cùng gia
quyến dong thuyền dông thẳng vô Nam xin nương nhờ nhà Nguyễn (Nguyễn Nhạc).
Để Nguyễn Nhạc tin tưởng, hắn đã kể đầu đuôi câu chuyện và sẵn sàng dâng vợ con
làm con tin. Khi người em rể vào theo mật chỉ của nhà chúa thu phục hắn nhưng
hắn không về mà còn giết luôn người thuyết khách đó. Hắn từng dõng dạc huênh
hoang trước mặt Nguyễn Bình, Quang Trung Nguyễn Huệ: “Người tài Bắc Hà chỉ
một Chỉnh này thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cả nước rỗng không, xin ngài chớ nghi
ngại!”. Nguyễn Bình lấy được thành Phú Xuân cũng như tiêu diệt nhanh nhà Trịnh,
phần thì do “thuận theo lẽ trời”, nước lụt rút cũng như gió nồm thổi mạnh nhưng
quan trọng nhất là có sự giúp đỡ đắc lực của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng cũng
Nguyễn Hữu Chỉnh không được anh em Tây sơn tin tưởng khi cho bàn việc rút
quân về phương Nam. Sau đó chính Chỉnh đã một thuyền chạy ra biển rất đơn độc
và đuổi kịp quân Tây sơn. Bằng tài năng, mưu mẹo mà hắn lập được nhiều chiến
công như tham mưu để Nguyễn Như Thái, Hoàng Viết Tuyến mang quân đi đánh
Tế…Chỉnh dần dần leo lên địa vị quyền lực, coi thường nhà vua, coi nhà vua như
đứa trẻ, chỉ e ngại Bắc bình Vương, Nguyễn Huệ và hắn đã âm mưu làm phản khi
thời cơ chín muồi. Do “xem việc hắn làm giống như ma quỷ, xét bụng hắn nghĩ, độc
hơn hùm beo” hay “Chỉnh là đứa phản phúc gian dối, không thể tin cậy” nên cuối
cùng Chỉnh đã bị Võ Văn Nhậm, con rể nhà Nguyễn, một vị tướng của Quang
Trung “bảo phanh thây Chỉnh, thả cho chó ăn”.
93

       Lê Duy Kỳ, Lê Chiêu Thống thì luồn cúi đê hèn, khi về đến kinh đô, hắn đã trả
thù người thân rất tàn nhẫn. Có ba người chú vua liên lạc với Tây Sơn, gả con gái
cho họ, liền bị vua “ngầm sai bắt đem chặt chân rồi vứt xuống cái giếng ở trong
cung”. Độc ác hơn, hắn còn cho mổ bụng cả một tôn nữ đang có mang, vì người con
gái này “đã lấy viên tướng Tây Sơn”. Ở Trung Quốc, Lê Chiêu Thông bị Khang An
lừa và hắn đã sống trong sự nhục nhã của một tên phản bội mất nước. Hắn nói:
“Chúng tôi không giữ được nước nhà, mau nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước
phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy có tiếc gì?”. Rồi
cả bọn chúng “gọt đầu, gióc tóc, thay đổi đồ mặc” như người Trung Quốc. Nhân
dân thì nhận xét về vị vua Lê Chiêu Thống: “Nước Nam ta, từ khi có đế, có vương
đến nay chưa thấy có một ông vua nào luồn cúi, đê hèn như thế”. Thật đắt, người
đọc rất hả hê trước vị vua bù nhìn này.
       Ngô Thì Nhậm là một quan văn có tài nhưng cũng là người rất am hiểu binh
pháp. Chính Nhậm đã cố vấn cho Ngô Văn Sở rút quân về nơi hiểm yếu để bảo toàn
lực lượng, tránh đối đầu trực diện với đại quân Sĩ Nghị. Ngô Thì Nhậm đã giúp đỡ
cho Quang Trung, Nguyễn Huệ soạn những giấy tờ quan trọng để giao thiệp với nhà
Thanh…
       Quang Trung, Nguyễn Huệ là một vị anh hùng, hào kiệt. Là người thông minh,
quyết đoán, quỷ quyệt, kiêu căng, lão luyện trong việc dùng binh. Quang Trung đã
lãnh đạo nông dân khởi nghĩa, làm cho đối phương vô khiếp sợ “hồn bay phách
lạc”. Uy thế của vua Quang Trung vô cùng lẫy lừng. Quang Trung cũng là người có
tầm nhìn xa trông rộng, mềm dẻo trong giao tiếp. Khi kéo quân ra Thăng Long để
đánh quân Thanh, trừng trị bọn cướp nước hại dân, Biết được chắc chắn quân địch
sẽ thua: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.
Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn
gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù.
94

Nếu thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào
mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao,
không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được
yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu, quân mạnh, thì ta có sợ gì
chúng?”. Quang Trung băng hà quá sớm, lúc 39 tuổi, cơ đồ, sự nghiệp Tây Sơn giao
cho con trai Quang Toản chưa có kinh nghiệm “thu phục lòng người” để xây dựng,
củng cố, bảo vệ giang sơn bờ cõi nên cuối cùng đất nước rơi vào tay Nguyễn Ánh.
       Để diễn đạt được nội dung phản ánh xã hội rộng lớn cũng như cục chính trị xã
hội đương thời, qua đó khái quát đặc điểm, số phận, tính cách của nhân vật, tiểu
thuyết chương hồi đã viết thành nhiều hồi, mỗi hồi kể một câu chuyện. Mỗi hồi có
một nhan đề riêng để người đọc tiện theo dõi. Kết thúc mỗi hồi thường có những
câu thơ vừa có tính chất tổng kết, vừa đưa những lời bình ngụ ý khen chê cũng như
thái độ của người viết trước các hiện tượng, sự kiện được diễn ra. Chẳng hạn trước
việc Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học, Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở
ngoài Tây thành, tác giả viết:
          Quạ, cáo tranh nhau không đáng ngại
         Cọp rồng đánh lộn cũng ghê thay.
       Để tạo sự hấp dẫn cũng như gây sự liền mạch cho độc giả, kết thúc mỗi hồi
thường có câu: “Muốn biết sự việc gì sẽ xảy ra, hồi sau phân giải”.
       Tuy nhiên, mỗi tác giả khi viết tác phẩm nào dù tuân theo đặc trưng thể loại thì
vẫn thể hiện cái cá tính riêng, không trộn lẫn. Hoàng Lê nhất thống chí là một ví dụ
khá điển hình. Do đặc trưng của loại tiểu thuyết này chủ yếu là kể về các sự kiện,
biến cố trong đời sống xã hội chính trị đương thời nhưng tác giả đã có sự kết hợp
giữa kể và tả, đi kèm là những lời bình đúng mực khiến cho độc giả vừa có cơ hội
nắm bắt được sự kiện, vừa có thời gian nghiền ngẫm vấn đề. Đây là đoạn văn miêu
tả cảnh bọn kiêu binh lập Trịnh Tông lên ngôi chúa:
95

       …Anh em quận Huy chết rồi, quân lính reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà
tả Xuyên phò thế tử Tông lên miếu đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm
chung quanh gào lên vui sướng:
       - Xin ngài cao thêm nữa để thiên hạ đều thấy được mặt rồng, cho thoả lòng vui
của mọi người!
       Trong lúc gấp vội không có kí sập, phạm dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc
làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng
bổng chiếc mâm lên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên
đầu. Cứ thế cứ lên lên xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng
phật. Mỗi lần thế tử được nhô cao lên, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một
chập. Những kẻ buôn bán ở phố phường đều tranh nhau kéo đến xem chúa, sân phủ
đông như họp chợ.
       Đoạn văn miêu tả sinh động nhưng rất khôi hài cảnh Trịnh Tông lên Ngôi chúa.
Đoạn văn kể lại một cách tự nhiên, chi tiết, căn kẽ. Từ thông tin rất đươc đồng tình :
Anh em quận Huy chết rồi đến việc thế tử Tông lên ngôi như thế nào. Ngôn ngữ
miêu tả pha chút hài hước: “Trong lúc gấp vội…y như người ta giỡn quả cầu hoặc
rước pho tượng Phật” khiến người ta nghĩ rằng đây không phải là việc Chúa đăng
quang mà là một trò hề trên sân khấu chính trị.
       Trong tác phẩm có hàng trăm nhân vật. Cái biệt tài của tác giả là tạo cho họ
một bộ mặt, tính cách sắc nét. Họ vừa mang đặc điểm chung của giai cấp thống trị
nhưng vừa có những nét cá biệt. Có được điều đó là nhờ tác giả vừa để cho nhân vật
bộc lộ, vừa kết hợp với sự nhận xét của các nhân vật trong tác phẩm kết hợp với lồi
bình của tác giả.
       Tiêu biểu nhất cho điều này là Nguyễn Hữu Chỉnh. Hắn là một người có tài,
cực kì lợi hại, nguy hiểm, là một kẻ cơ hội chủ nghĩa. Hắn từng đánh cắp của công
hàng trăm vạn và nhất định không xưng khi bị tra tấn để được vô tội và khiến quan
96

thầy hắn là Quận Huy không bị liên luỵ và dong thuyền chạy trốn vào Nam theo
Nguyễn Nhạc. Để tạo sự tin tưởng cho Nguyễn Nhạc, hắn đã kể đầu đuôi sự việc,
sau đó dâng cả vợ con để làm con tin. Hắn đã giết người thuyết khách mà chúa
Trịnh vào khuyên hắn về dù người đó là em rể. Sau đó nhờ ngoại binh, hắn đã rửa
thù thầy. Hắn thật tàn ác, bất nhân. Những động cơ hành động của hắn thể hiện mối
quan hệ logic giữa tư tưởng và hành động, chẳng hạn, hắn đang tay giết người em rể
làm thuyết khách, rõ ràng có động cơ mua chuộc lòng tin cậy của Nguyễn Nhạc rồi
từ đó mà tiến lên thực hiện cái mưu đồ cá nhân,  mưu đồ chính trị.
       Hoàng lê nhất thống chí là một trong những tiểu thuyết chương hồi văn xuôi
đầu tiên của Việt Nam. Hệ thống sự việc trở thành biến cố, qua biến cố thì xây dựng
được nhân vật lịch sử: hành động-hành động… Từ sự việc đến sự kiện đến biến cố,
nhân vật sẽ hành động. Tiểu thuyết này viết về đề tài lịch sử. Sự thật lịch sử rất
quan trọng. Viết theo thể tài, chí: nội dung là sự thật không hư cấu gì cả. Hình thức
này pha trộn, đan xen giữa hai thể: kí và tiểu thuyết. Kí: sự việc rất thật - hiện thực
lịch sử. Tiểu thuyết phải hư cấu. Đã là tác phẩm là kí phải là người thật việc thật.
Đã là tiểu thuyết: nhân vật này là loại hư cấu, sự việc có thêm thắt. Đã là tiểu
thuyết, nó thuộc về một loại rất lớn là loại tự sự, kí cũng là loại tự sự nhưng không
được xây dựng nhân vật, không được hư cấu.
       Thủ pháp nghệ thuật chung là thủ pháp miêu tả song song hay miêu tả đối lập
về hai phía của nhân vật gọi là phản chính đối lập: nhân vật phản động, cơ hội- nhân
vật chính nghĩa, hướng về lịch sử, có lòng tin đối với dân tộc.
       Miêu tả tâm lí. Tiểu thuyết chương hồi không thích miêu tả tâm lí, nhưng miêu
tả mưu mô, hành động hấp dẫn hơn. Họ miêu tả Tây Sơn là giặc…nên họ miêu tả
nhà Tây Sơn…Đây là hư cấu. Nguyễn Nhạc: đó là một ông lái buôn quê mùa và
hám lợi, chú ý những việc cỏn con, chân tình quá độ ít hiểu biết. Khi nhận một xâu
97

cá ở Nghệ An do những người dân chài tặng: mừng rỡ, cảm ơn…Ra Bắc Hà xin các
tiến sĩ đất Bắc Hà về, coi như mắm cá…
       Nguyễn Huệ đánh Trịnh trả ngôi cho nhà Lê. Ông muốn lấy vợ Bắc Hà,
Nguyễn Hữu Chỉnh nói ý đó với vua Lê Hiển Tông. Những nhân vật này hành động
trong cái guồng rất dữ dội làm cho họ suy nghĩ.
       Tư duy của nhân vật được bộc lộ rất rõ qua những lời nói hay những trăn trở
hành động của họ. Ý nghĩ của các tướng trong trận đánh không ai biết  chỉ Nguyễn
Huệ và những tướng thân cận biết. Tâm lí, mhững sự việc, hành động là hư cấu.
        Tiểu thuyết này viết đầy đủ hai mặt lịch sử: hài kịch, bi kịch. Hài kịch nắm về
phía phản diện, bi kịch nằm ở một lực lượng mới ra đời nhưng thất bại sau khi
Nguyễn Ánh lên phong trào Tây Sơn thất bại. Mưu đồ nhà Lê cuối cùng trở thành
một trò cười. Họ đã thay đổi quan điểm về chính thống, họ vui vẻ đưa đến, chôn cất
một chế độ đã sụp đổ.
       Tóm lại, đây là tác phẩm văn xuôi có những thành tựu về nội dung và nghệ
thuật rất rõ. Bức tranh lịch sử rất thật. Các tác giả không mang tiếng xuyên tạc lịch
sử. Miêu tả sự việc, sự kiện, ít miêu tả tâm lí nhân vật nhưng nó có vai trò quan
trọng, làm cho tiểu thuyết Việt Nam đi vào ngõ phân tích tâm lí nhân vật. Là một kí
sự pha tiểu thuyết nên thành công được là rất khó. Giữa sự thật và hư cấu là nó
không tác hại đến nhau-pha trộn giữa thể tài này với thể tài khác trong văn xuôi
Việt nam. Trong tác phẩm có hai tính chất: miêu tả bức tranh lịch sử đường hoàng,
trang trọng theo giọng sử thi; miêu tả bức tranh lịch sử theo giọng trào lộng, châm
biếm nên có hai giá trị: giá trị sử học và giá trị văn học. Tác phẩm mang đậm tính
chất hiện thực, có những tính cách điển hình như Nguyễn Huệ, nhất là Nguyễn Hữu
Chỉnh.
       Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại có dung lượng lớn, phản ánh
sâu sắc hiện thực cuộc sống, những vấn đề nóng bỏng của xã hội, cục diện chính trị,
98

các phe phái cũng như số phận của các cá nhân. Các tác giả đã giữ sự khách quan
cần thiết, tôn trọng lịch sử; có kế thừa truyền thống văn học Trung Hoa nhưng vẫn
thể hiện bản sắc riêng, độc đáo, phù hợp với con người Việt Nam; có hư cấu nhưng
không xuyên tạc lịch sử mà cốt yếu là để tăng tính chất nghệ thuật cho tác phẩm.
Tuy đời sống tâm lí của các nhân vật ít được chú trọng, mổ xẻ, đào sâu nhưng các
tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại đã mở ra cho các nhà văn hiện đại
hướng khai thác, khắc hoạ đời sống tâm hồn vốn dĩ rất phức tạp và phong phú, tiềm
ẩn nhiều điều thú vị. 
 3.3.  Kí
       Mặc dầu không có mặt trong Văn tuyển của Tiêu Thống, cũng không được Lưu
Hiệp nhắc tới trong Văn tâm điêu long nhưng thể loại văn học kí vẫn có vai trò, có
sự đóng góp  nhất định cho văn học nói chung, văn học trung đại Việt Nam trung
đại nói riêng.
       Kí xuất hiện nhiều từ đời Đường Trung Quốc. Kí dùng để ghi việc xen lời bình,
sau phát triển thêm mộ kí, phần kí, tháp kí…Ở Trung Quốc nổi lên với một số tác
phẩm: Yến hỉ đình kí của Bạch Cư Dị, Kí dật trong chu sử xa giá Nguyên lăng kí
của Thái Ung…
       Ở Việt Nam nổi lên với một số tác phẩm kí: Vũ Trung tuỳ bút của Phạm Đình
Hổ, Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác ...
        Kí trung đại Việt Nam gồm: tạp kí và kí sự.
       Tạp kí ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy. Trương Quốc Dụng viết: “Phàm đi
làm quan đến đâu, tai nghe mắt thấy, cũng là được các học giả chuyện trò, dưới các
chuyện thường trong thôn xóm, về cương vực nhà nước, các nhân vật, các sự vật
điều gì có thể tham khảo được thường ghi lên trên giấy”.
       Kí sự: chọn cuộc hành trình với những cuộc gặp gỡ làm việc, thù tạc.
99

       Từ những đặc điểm trên, chúng ta rút ra các đặc điểm về thể kí. Thứ nhất, kí
khác với truyện truyện kì, truyện vừa, tiểu thuyết sau này, kí có quan điểm thể loại
là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư cấu. Sự việc và con người
trong kí phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi. Đó là vì kí dựng lại những sự
thật đời sống cá biệt một cách sinh động, chứ không gây dựng các hình tượng mang
tính khái quát. Thứ hai, vì tôn trọng sự thật khách quan nên kí thường không có cốt
truyện hư cấu. Thứ ba, kí vẫn thể hiện rõ phong cách tài năng của người viết kí.
       Chức năng của kí trung đại: Ghi lại những điều tai nghe mắt thấy, chọn cuộc
hành trình với những cuộc gặp gỡ, thù tạc…qua đó giúp cho người đọc nhận thức,
hiểu biết cuộc sống, thực trạng xã hội, cũng như nhân cách, cá tính người viết kí.
       Kí có dung lượng ngắn vì tác giả chỉ “chớp” lấy những khoảng khắc bất chợt,
những ấn tượng sâu đậm về cảnh và con người cụ thể, những câu chuyện bất ngờ,
thú vị. Người trần thuật trong các tác phẩm kí trung đại: ngôi thứ nhất xưng “tôi”,
quan sát, ghi chép, tả, thuật lại câu chuyện. Để cho sinh động, khách quan, tác giả
còn thay đổi điểm nhìn trần thuật. Như ông Nho sinh Phạm Diên Bá kể với ta rằng:
mình đã ăn phải thịt người như thế nào…
       Nội dung mà các bài kí mang lại cho độc giả khá phong phú hoặc du tháp hoặc
lập bia, hoặc xây đình, hoặc chơi núi Phật Linh (Phạm Đình Hổ). Những việc dân
giã cũng được kí đề cập đến như chuyện viết chữ, uống chè. Đây là nét đẹp văn hoá
của cha ông ta. Phạm Đình Hổ tả việc Hoàng Huy Đỗ viết chữ: “Hễ cầm bút lên thì
rụt rè như không thể viết được, nhưng lúc đã đặt bút xuống giấy thì nét chữ tươi tắn,
có ý nhị của hoa đào đọng giọt mưa, lá dương phủ làn khói…”. Câu văn sinh động,
giàu hình ảnh thể hiện được cái tâm lí khi bắt đầu cầm bút. Còn việc uống chè, tác
giả viết: “Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió
mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách, mà ung
dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức, thì có thể tỉnh được mộng trần, sửa được lòng
100

tục”. Và cách uống trà ông viết: “Uống chè cốt ấm nước nho nhỏ, mỏng, khi pha
mới nổi hương vị. Và ấm thẳng thì nước không đọng, mặt đĩa phẳng thì khi đặt chén
không nghiêng, về lò xây mà lỗ thư thì than lửa không bốc nóng quá, lòng ấm siêu
lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi…”. Đoạn văn viết về đặc điểm chè
tàu, cách uống chè tàu, không gian uống trà, đặc biệt giá trị mà chè tàu đưa lại là nó
làm bừng tỉnh những ảo mộng, giúp con người thanh lọc tâm hồn, hoàn thiện nhân
cách, sống sao cho xứng đáng một con người. Câu văn cân đối hài hoà giữa các vế:
tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho hay buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong…
tạo cho người đọc cảm giác dễ chịu, lâng lâng. Tác giả quả là người am hiểu kĩ càng
từng chi tiết nhỏ về trà cũng như cách thưởng thức nó.
       Vũ Trung tuỳ bút hiểu theo nghĩa tuỳ theo ngọn bút viết trong khi mưa của
Phạm Đình Hổ, được Nguyễn Phương Chi nhận xét: dẫu nhìn nhận, suy nghĩ, chiêm
nghiệm của ông ở một vài chỗ còn có phần thiên lệch, bảo thủ; song nhìn chung tác
phẩm đã ghi lại được những hình ảnh chân thực của đoạn đường lịch sử với những
biến động xã hội, chính trị phức tạp…Cùng với Hoàng Lê nhất thống chí, Thượng
kinh kí sự, Vũ Trung tuỳ bút là thiên kí tiêu biểu xuất sắc của mảng văn xuôi giàu
tính hiện thực.
       Đây là văn bản: Chuyện cũ trong Phủ chúa Trịnh (Trích Vũ Trung tuỳ bút-
Phạm Đình Hổ)
       “Khoảng năm giáp Ngọ, Ất Mùi, trong nước vô sự, Trịnh Sâm thích chơi đèn
đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dục Thuý. Việc xây
dựng đền đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thuỵ Liên trên bờ
Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn,
mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.
101

       Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán
các thứ như ở của hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác
chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vào khúc nhạc.
       Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây
cảnh ở chốn trần gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả
cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây
cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng
nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khen đi
cho đều tay. Trong phủ, tuỳ chỗ, điểm xuyết bày vẻ hình núi non bộ trông như bốn
bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn
bể , hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp , vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giã biết đó
là triệu bất tường . Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài
doạ dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên
ngay hai chữ “ phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai
tay chân đem lính đến lấy phăng đi , rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng, để
doạ lấy tiền.”
       Lối sống của Trịng Sâm thật trác táng, xa hoa. Chỉ một chuyến đi chơi của hắn
mà tốn bao tiền của của nhân dân, huy đông bao nhiêu binh lính, nội thần. Hắn đã
đốc thúc quân lính vơ vét bao nhiêu của ngon vật lạ từ: “Bao nhiêu loài trân cầm dị
thú, cổ mọc quái thạch, chậu hoa cây cảnh…lấy cả cây đa to”. Trong phủ hắn bày
vẽ “hình núi non bộ trông như bốn bể đầu non”. Bọn hoạn quan cung giám lợi dụng
mà ra sức thu vén, cướp bóc, nhũng nhiễu nhân dân. Câu văn: “Việc xây dựng đền
đài cứ liên miên” đã khái quát được sự bóc lột tận xương, tận tuỷ của chúa Trịnh để
phục vụ cho cuộc sống tột cùng của sự xa hoa của y. Xã hội rối loạn. Người ăn
không hết, kẻ lần không ra, rất bất công!
102

       “Hồi loạn năm canh thân, Tân Dậu, tỉnh Hải Dương ta chịu hại về việc binh đao
đến 18 năm, ruộng đất hầu thành rừng rậm. Giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ đầy cả
ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn. Mỗi
một mẫu ruộng chỉ bán được một cái bánh nướng. Tổng Minh Luân ta có một bà cụ
goá mà giàu, người làng bầu cụ làm hậu thần. Vì tiền của bà cụ chất như núi, nên
tục gọi là bà hậu Núi”. Gặp năm mất mùa, nhà hết cả thóc ăn, bà mang năm bao bạc
đi đổi thóc không được, phải chết đói ở bên xóm chùa Bình Đê. Bấy giờ làng ta bỏ
hoang rậm rạp ngập mắt. Đến khi loạn lạc đã yên, người làng mới từ chốn kinh đô
lục tục kéo về, chặt tranh phá cỏ, đi tìm nhận lấy nền nhà cũ, thu nhặt những xương
tàn đem chôn. Nay ở phía Nam đầu làng vẫn còn một khu nghĩa trang, hằng năm cứ
đến rằm tháng bảy, người làng đem cỗ bàn ra cũng viếng.
       Các cụ nho làng ta ngày xưa, như ông Nho sinh Phạm Diên Bá, thường nói
chuyện với ta rằng: Đương lúc loạn lạc, ông đi đường về tỉnh đông, có vào nhà hàng
cơm bên đường, thấy mùi thịt rất tanh, trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như
hình bán nguyệt. Hỏi người hàng cơm thì họ nói đó là thịt lợn lòi. Khi ăn đến nửa
chừng, thấy có con rận chết trên mặt bát mới biết là thịt người, vội vàng trở ra móc
cổ thổ ra. Ôi! đời xưa bảo rằng “thú ăn thịt người” cũng chưa quá nỗi đến tệ như
thế”. (Vũ Trung Tuỳ bút- Phạm Đình Hổ)
       Khi đất nước có nạn binh đao thì đời sống người dân càng thêm cực khổ. Cạn
kiệt lương thảo, người dân phải đi bóc vỏ cây , bắt chuột để mà ăn. Một sự hoàn
toàn không tương xứng về giá trị: “Mỗi một mẫu ruộng chỉ bán được cái bánh
nướng”. Chi tiết Bà hậu Núi mang năm bao bạc đi đổi thóc không được phải phải
chết đói thật thảm thương, toát lên sự tố cáo mạnh mẽ. Chính các tập đoàn phong
kiến vì lợi ích riêng đã đẩy nhân dân vào tình trạng không đáng sống này. Đau xót
nhất, đáng sợ nhất, tệ bạc nhất, đáng lên án nhất là con người đối xử với nhau
103

không bằng con vật: người hàng cơm đã dùng thịt người để kinh doanh, làm thức ăn
cho người. Thật rùng rợn!
       Trong truyện Trộm cắp, tác giả kể rất chi tiết, tường tận, rốt ráo từ thời gian,
không gian, diễn tiến câu chuyện. Phường Diên Hưng (Hàng Ngang) và phường
Đồng Lạc (Hàng Đào) là nơi phố hàng áo, bán các thứ tơ lụa vóc nhiễu rất nhiều.
Phiên chợ là những ngày: mồng một, mồng sáu, mười một, mười bốn, rằm, hai mốt,
hai sáu, ba mươi. Vào những ngày đó, “những quân trộm cắp hay thừa cơ cướp giật,
có khi thò tay vào túi người ta móc lấy hết cả. Có khi chúng cố ý làm cho ồn ào, đổ
xô nhau mà chạy, để rồi, cắp bọc áo người ta, hoặc khuân đồ vật hàng hoá. Có khi
chúng huyên truyền là voi lồng ngựa sổ để các người chợ búa và người đi đường  xô
nhau chạy, hàng hoá đồ vật vứt bừa bãi. Lúc biết là chúng huyên truyền láo thì quân
kẻ cắp đã phỗng hết cả rồi”. Ấn tượng nhất, hấp dẫn nhất, đáng cười nhưng thật là
đau xót khi người đọc tiếp nhận được câu chuyện này. “Một hôm ở phường Đông
Các (Hàng Bạc) có một bà lão đi võng mành mành cánh sáo, đầy tớ lính hầu rậm
rịch, đến trước cửa một nhà hàng bạc, truyền thị tỳ dừng võng lại để hỏi mua mấy
chục nén bạc. Mà cả giá chưa xong, bà lão ngồi trên võng truyền vú giá hãy cầm
chục nén bạc đem về dinh, trình quan lớn xem qua, sẽ định giá. Chủ nhà hàng cũng
không ngờ gì. Một lát thị tỳ và lính hầu lẻn dần đi hết, hai tên lính khiêng võng
cũng cút mất”. Cách sắp xếp các câu chuyện của tác giả rất lo gic, hấp dẫn. Chuyện
nào hay hơn, độc đáo hơn thì để ra sau, kể cũng chi tiết hơn và kèm theo đó là thái
độ của tác giả. Chỉ cần Hai từ “cút mất” trong đoạn văn đó cũng nói lên được thái
độ bức xúc, khinh bỉ của tác giả trược nạn trộm cắp hoành hành đồng thời tố cáo
bọn quan lại để “dân đen mắc nạn này”. Qua các tác phẩm, tác giả đã bày tỏ cảm
xúc, thái độ quan niệm sống của mình trước cuộc đời, trước thế thái nhân tình. “Ôi!
đời xưa bảo rằng “thú ăn thịt người”cũng chưa quá nối đến tệ như thế”. Trong câu
chuyện Trộm cắp, tác giả viết: “Ấy, những lối ăn cắp lừa dối như thế rất nhiều,
104

không thể kể hết được. Cái tài giỏi của kẻ gian cũng lắm lối rất buồn cười, xem thế
đủ hiểu cái thịnh suy của đời thăng bình vậy”.
                           (Vũ Trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ)
         Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quý tộc, giỏi binh thư, võ nghệ.
Cũng giống như một số nhà Nho khác, trước thực trạng xã hội thối nát, cương
thường lỏng lẻo, ông cáo quan lánh đục tìm trong, với lí do là nuôi mẹ già. Ngày 12
tháng Giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh của chúa
Trịnh về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Cán. Trên đường đi từ
Hương Sơn, quê ông đến kinh thành chứng kiến nhiều cảnh, nhiều sự kiện với
những con người cụ thể nên thôi thúc ông viết tác phẩm Thượng kinh kí sự. Năm
1783, tập kí này được viết bằng chữ Hán hoàn thành. Tập kí sự gồm 15 mục: Lên
đường, Đến kinh thành, Chẩn bệnh thế tử, Dọn nhà, Hoạ thơ, Nhớ nhà, Gặp bạn
cũ, Tiễn bạn, Chữa bệnh tại kinh thành, Viếng chùa Trấn Quốc, Tái ngộ cổ nhân,
Thăm làng cũ, Thăm bệnh của chúa Trịnh Sâm, Chữa bệnh không thành, Về nhà.
       Đây là tác phẩm kí thành công, gây được tiếng vang lớn bởi giá trị hiện thực
cũng như thể hiện tài năng, đức độ của một thầy thuốc luôn: “Thiện tâm cốt ở cứu
người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu! Biết vui nghèo cũng hơn giàu.Làm ơn nào
phải mong câu trả ơn.” làm phương châm sống cho mình. Câu chuyện Gặp bạn cũ
đã chứng minh tài năng quan sát, sự nhạy cảm, nhân cách cũng như nghệ thuật viết
kí của ông đạt đến độ mẫu mực đến dường nào.
       Thứ nhất, chúng ta thấy ông là một người giàu tình, nặng nghĩa, đầy trách
nhiệm với người bệnh. Bệnh bà mẹ và cô em viên quan trấn Quảng Yên có tình
nghĩa sâu đậm với tác giả được tác giả chữa trị chu tất. Người cậu họ vợ tác giả rồi
viên quan lúc thiếu thời là “bạn tâm giao” cũng được tác giả tận tình cứu chữa.
“Đêm ấy, viên quan này nằm ngủ chung với tôi. Nửa vách đèn tàn và ba chén trà
đặc, cùng nhau luận cổ đàn kim, gà gáy mới nhắm mắt”. Chỉ ba cụm từ: viên quan
105

này nằm ngủ chung với tôi, cùng nhau luận cổ đàn kim, gà gáy mới nhắm mắt đã
cho độc giả thấy được tình cảm mênh mông, sâu thẳm, sự tri ân của hai người.
Người cậu ấy đã làm thơ tặng “tôi”, tác giả:
         Danh tiếng kinh kì nay đã khắp
        Lương phương thọ mãi để người nhờ.
       Lê Hữu Trác từng trả lời: “Kẻ làm thuốc phải lo tính mệnh người, bổn phận là
phải chịu khó nhọc, không từ nan điều gì, dám biếng nhác buông tuồng được sao!”
có ý nghĩa trong mọi thời đại. Bởi tác giả đã đặt tính mệnh con người lên hàng đầu.
Hơn nữa, con người làm nghề gì cũng vậy, nhất là nghề thuốc phải có cái Tâm; luôn
siêng năng, chấp nhận gian khó,có trách nhiệm và không ngừng học hỏi.
       Thứ hai, ông là người rất tinh tường nghề thuốc. Khi bắt mạch cho vợ Quận
hầu, ông biết ngay chắc chắn bà sẽ sinh con trai, mặc dầu bà ta mới có thai ba
tháng. Đây là lời tự thuật của tác giả khi bắt mạch cho một vị quan: “Tôi thấy sáu
đường mạch như tơ, hai đường mạch ở hai tay tựa như không có, tôi giật mình thốt
lên: Tiếc thay, ngài khó lòng mà hưởng được tuổi thọ.”. Ông cũng là người rất
khiêm tốn. Tôi thưa: “Kẻ ốm yếu ngu dại nơi quê mùa, biết sơ sài cái thuật nhỏ
mọn, sao đương nổi lời quá khen ấy.” Không chỉ giỏi y thuật mà ông cũng rất giỏi
văn thơ, thông hiểu chữ nghĩa, kiến thức kinh điển. Khi cảm xúc dâng trào hoặc tức
cảnh sinh tình hay trước những tâm sự u hoài, tác giả đều sáng tác thơ. Trước một
tên hầu vừa điếc, vừa câm: “Hắn vạch trên trán là nói nhà vua đó, trỏ tay vào miệng
là có chỉ triệu đó, tay vẫy là lại, chân nhảy là đi đó”, Lê Hữư Trác sáng tác ngay
một bài:
          Tạo vật sinh người vốn vẹn tuyền
          Anh này tính khí cớ sao thiên
         Khác chi Dự Nhưỡng toàn trung tiết
         Cũng tựa Hàn hầu chúc thọ niên
106

         Vạn dặm lôi đình chi đáng kể


         Trăm chiều thế sự cũng không sờn
         Mắt coi mọi việc không vương vấn
         Tay chỉ đầu nghiêng mỗi lệnh truyền.
        Viên tri huyện Cẩm Giang khi đọc thơ ông đã thốt lên: “Tài thơ lão sư mẫn
tiệp, người ta không theo kịp; tôi không dám múa rìu để mua cười.”.
       Thứ ba, ông là người chán ghét thời cuộc. Khi “luận cổ, đàn kim” với viên quan
mà vị quan này lúc thiếu thời là bạn tâm giao với tác giả. Chỉ một câu văn nhưng đã
khái quát được tấm lòng, tình cảm của tác giả đối với bạn cũng như tâm trạng của
một con người coi thường danh lợi, buồn thảm trước thói đời ô trọc : “Trông nhau
cầm lệ, chỉ những buồn thảm”.
       Bên cạnh một con người đầy nhân cách sống, coi trọng tình cảm, tình nghĩa
hơn của cải vật chất, người đọc còn thấy được một Hữu Trác đầy tài năng trong việc
viết kí. Lối viết của tác giả gọn mà chặt, kể rất chi tiết, kĩ càng, với thời gian cụ thể,
con người cụ thể. Chẳng hạn, tác giả giới thiệu “nguyên ông ấy là người họ vợ tôi,
tôi gọi bằng cậu, ở Hoài An, Nguyễn Xá, giữ chức tri phủ Tiên Hưng…”. Câu văn
giàu thông tin: Vừa chỉ ra mối quan hệ với tác giả, quê quán cũng như chức vụ.
Hoặc: “Chúng tôi kể lể với nhau cái tâm tình xa cách…Cười nói mãi tới lúc trời sắp
tối, ông ấy mới ra về…Thường nhật chúng tôi kính yêu nhau lắm”. Những câu văn
trên rất nhẹ nhàng, tự nhiên, phù hợp với giọng văn tự sự, vừa truyền nhận thức vừa
truyền tình cảm. Cách dùng từ của tác giả có sự “chưng cất”, dân giã mà sang trọng,
tự nhiên mà sâu sắc, không quê mùa, diễn đạt được tình cảm lai láng, dạt dào mà
hai người dành cho nhau.  Người đọc thấu cảm được là nhờ các cụm từ: “tâm tình
xa cách”, “cười nói mãi”, “kính yêu nhau”. Tác giả cũng đã kết hợp giữa kể và tả,
điểm xuyết nhằm làm nổi bật cái thần thái của đối tượng. Đây là “thần khí” của
người cậu họ: “Tuy đầu tóc đã một nửa bạc, răng đã rụng hết, nhưng thần khí còn
107

tráng kiện”. Câu văn đạt chuẩn mực về mặt ngữ pháp, theo mặt logic tương phản.
Tác giả đã làm nổi bật được sức mạnh tinh thần của người cậu. Thật tài tình! Và đây
là đoạn văn khi “tôi” đến nhà quan Tả Binh Sĩ Đoan, thân sinh ông Cẩm Giang.
“Các công tử con ông mời tôi đến nhà thuỷ tạ bên hồ, pha trà uống, cùng nhau nói
chuyện. Đây là cái hồ bằng phẳng, rộng ước chừng nghìn mẫu. Qua lại, thuỷ điểu
dỡn làn sóng nhẹ; nhảy nhót du ngủ tranh chiếc lá rơi. Giữa hồ sóng cỏ trước gió
dâng lên; bên hồ hoa sen thâu đêm vẫn nở. Trước hồ có đắp một con đê nhỏ hình
bán nguyệt. Phía trong đê đều trồng sen trắng, cạnh đê những cổ thụ rủ bóng mát,
những hoa quý phô sắc xinh. Trước sân vài gốc mai vàng nghiêng mình trên ghế đá;
ngoài song mấy khóm trúc xanh toả bóng bên án thư. Hạc nội đứng co ro một mình,
ý chừng sợ khí trời lạnh lẽo, trăm hoa như đối thoại, mắt coi thấy sáng tươi. Nói
chẳng hết được cái phong vị u nhàn”. Cách kể của tác giả rất lo gic, các sự việc
được sắp xếp mạch lạc như nó xảy ra. Đầu tiên là thông tin các công tử mời tôi đến,
rồi pha trà uống, sau đó cùng nhau nói chuyện. Tác giả đã phóng bút ghi lại, tả bao
quát, rồi cụ thể: “cái hồ bằng phẳng”, giữa hồ, trước hồ, bên hồ; một con đê, phía
trong đê, cạnh đê. Đặc biệt tác giả đã “nhập thân” vào sự vật để nói lên được cái
thần thái, tâm trạng của sự vật: Hạc nội đứng co ro một mình, ý chừng sợ khí trời
lạnh lẽo…Đoạn văn giàu tính nhạc, đã thể hiện tài quan sát, óc tưởng tượng phong
phú của tác giả và qua đó ta thấy được đời sống vương giả của một số quan lại “đã
về trí sĩ”. Để có được cơ ngơi này, cái phong vị u nhàn này là bao nhiêu tiền của mồ
hôi, công sức, xương máu của “dân đen”. Cách viết rất nhẹ nhàng nhưng đầy sức
nặng, gợi cho người đọc cái chiều sâu cảm xúc, sự liên tưởng sâu xa.
       Để các tác phẩm thuộc thể kí nói riêng, các tác phẩm cùng thể loại khác nói
chung “có đất sống”, trước hết nó phải mới và lạ từ nội dung cho đến hình thức thể
hiện. Người viết kí phải chọn những đề tài hấp dẫn, những vấn đề được nhiều người
quan tâm, có tính khái quát. Chi tiết cũng phải được lựa chọn, tránh chồng chéo,
108

rườm ra. Nó phải có sức chứa lớn về cảm xúc và chiều sâu tư tưởng. Chẳng hạn chi
tiết, bà Hậu núi mang năm bao bạc đi đổi thóc không được, phải chết đói trong Vũ
Trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ gợi cho người đọc nhiều tầng suy nghĩ về hiện
thực xã hội lúc đó, về tình người trong hoạn nạn như thế nào. Bên cạnh đó, nghệ
thuật viết kí cũng phải “mẫu mực”, sao cho hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Đó có thể
là cách sắp xếp các sự kiện, kết hợp giữa kể và tả, giữa ngôn ngữ tự sự và ngôn ngữ
trữ tình. Câu văn cũng phải phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh, vừa truyền nhận
thức, vừa truyền cảm xúc. Để có sức thuyết phục, tạo niềm tin cho độc giả tác giả kí
phải kể một cách chi tiết đến ngọn ngành từ thời gian đến không gian, diễn tiến xảy
ra câu chuyện…
        Tóm lại kí trung đại Việt Nam đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin
phong phú về phong cảnh, đời sống của con người Việt Nam trong xã hội phong
kiến nhất là giai đoạn vua Lê, chúa Trịnh và nhân cách người viết kí. Và qua đó,
người đọc cũng thấy tài năng, phẩm chất nghệ thuật của các tác giả kí trung đại…
          
      
109

KẾT LUẬN
       Văn học trung đại Việt Nam đã cung cấp cho người đọc nguồn tri thức vô tận
về hiên thực Việt Nam thời trung đại, nhất là thế giới tâm hồn, tính cách, văn hoá
dân tộc cũng như khả năng tư duy nghệ thuật của con người Việt Nam. Văn học
trung đại Việt Nam phát triển theo những nguyên tắc đặc thù của nó. Những vấn đề
nhân sinh mà các tác giả trung đại đặt ra không chỉ có ý  nghĩa nhất thời mà có ý
nghĩa muôn đời. Tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ trở thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử văn học dân tộc và trở thành truyền thống để cho các
tác giả về sau học hỏi, vận dụng, bởi nền văn học ấy đã “lưu giữ các giá trị tinh thần
và giá trị nghệ thuật” (GS.TS Trần Đình Sử)
       Phần lớn các thể loại văn học trung đại Việt Nam tuy có nguồn gốc từ Trung
Quốc nhưng nó vẫn có những nét riêng, có đóng góp riêng từ nội dung cho đến hình
thức nghệ thuật, có vai trò rất lớn trong việc “nhân đạo hoá con người”. Dù  thực
hiện chức năng tự sự hay chức năng trữ tình thì các thể loại được cha ông chúng ta
sử dụng vẫn thể hiện được bản lĩnh, truyền thống con người Việt Nam, văn hoá Việt
Nam, hiện thực Việt Nam.
       Mỗi một thể loại lại có phạm vi tiếp xúc, phản ánh riêng, có hình thức cho phù
hợp với đối tượng phản ánh. Mỗi tác giả khi sáng tác dù là ở thể loại nào thì vẫn có
những đóng góp nhất định cho lịch sử văn học nước nhà. Đóng góp lớn nhất ở thể
loại thơ Đường luật là Nguyễn Trãi với tập thơ Quốc âm thi tập; ở thể loại truyện
thơ là Nguyễn Du với Truyện Kiều; ở truyện truyền kì là Nguyễn Dữ với Truyền kì
mạn lục; ở tiểu thuyết chương hồi là Ngô gia Văn phái với tiểu thuyết: Hoàng lê
nhất thống chí; ở thể loại kí là Lê Hữu Trác với Thượng kinh kí sự.
       Các tác giả văn học Việt Nam hiện đại cũng cần học hỏi các tác giả văn học
trung đại Việt Nam trong việc khai thác đề tài, chọn chủ đề (tất nhiên hiện thực Việt
Nam ngày nay, ý thức hệ ngày nay khác hoàn toàn xưa), cách viết, lựa chọn ngôn
110

ngữ…, đặc biệt là nhân cách người cần bút, ý thức được hoạt động nghệ thuật là
sáng tạo ra cái đẹp mà cái đẹp thì có giá trị muôn đời.
Luận văn này góp phần hình thành cho độc giả kĩ năng, cách đọc tác phẩm văn
học trung đại theo đặc trưng thể loại của nó một cách khoa học, hiệu quả nhất. Từ
đặc trưng thể loại soi chiếu vào tác phẩm để thấy được tài năng, cá tính, chiều sâu
tư tưởng, tầm văn hoá, vốn sống của nhà văn.
       -
       

You might also like