Professional Documents
Culture Documents
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức
Markus Wolf
“…Khi một quốc gia là kẻ thù độc hại nhất của chính mình, có được một cơ quan tình
báo hải ngọai giỏi nhất thế giới cũng chẳng giúp nên trò trống gì, điều này các lãnh tụ
của Đông Đức đã khám phá ra khi chính quyền Cộng sản sụp đổ…”
http://ethongluan.org/component/content/article/411-ngi-khong-chan-dung-k-1-markus-
wolf.html
Lời toà soạn:
Chúng tôi xin gởi đến quý bạn, trong nhiều kỳ, toàn bộ bản dịch quyển « Man Without A
Face » của Markus Wolf, trùm gián điệp của Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Các hoạt động
gián điệp của ông rất là tinh vi và lan tỏa khắp thế giới, nhưng chung quy ông phục vụ
cho quyền lợi của Liên Xô nhiều hơn là cho đất nước ông. Ông Wolf tin vào hệ thống xã
hội chủ nghĩa và từ đó tin vào người anh cả Xô Viết đã cưu mang gia đình ông. Nhưng
khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ông đã không được người anh cả Liên Xô giúp đỡ, trái lại
chỉ muốn xua đuổi ông cho rảnh nợ. Bao nhiêu thông tin gom góp với bao nhiêu hy sinh
để cuối cùng chẳng giúp cho nước CHDC Đức tồn tại. Tất cả chỉ vì hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa đã hư hỏng từ trong nội tạng, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của toàn khối xã
hội chủ nghĩa Liên Bang Xô Viết và khối Đông Âu. Xin mời quý bạn theo dõi nhật ký
của Markus Wolf để thấy rõ nội tình và cách tổ chức tình báo của ông.
Markus Wolf: Người không chân dung
Hồi kí của trùm gián điệp Cộng Sản Đông Đức
Lời Mở Đầu
Trong vòng ba mươi bốn năm tôi đã giữ chức vụ giám đốc cơ quan tình báo hải ngoại của
Bộ Công An của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Ngay cả những kẻ thù gay gắt nhất của
tôi cũng công nhận đây có lẽ là cơ quan năng lực và hiệu dụng nhất lục địa châu Âu.
Chúng tôi thu thập nhiều bí mật chiến lược và kỹ thuật của những đội binh uy lực bày
binh bố trận để đánh chúng tôi và chuyển chúng,nhờ tay của tình báo Xô Viết, đến các bộ
tư lệnh của Hiệp Ước Warsaw tại Moscow. Có rất nhiều người nghĩ rằng tôi biết nhiều về
những bí mật của Cộng Hòa Liên Bang Đức hơn cả Thủ tướng tại Bonn. Thực ra, chúng
tôi cài đặt điệp viên trong văn phòng riêng của hai vị thủ tướng, trong số khoảng một
ngàn văn phòng mà chúng tôi đã xâm nhập vào trong tất cả mọi ngành của sinh hoạt
chính trị Tây Đức, kinh doanh và các lãnh vực khác của xã hội. Nhiều người trong số
những điệp viên này là công dân Tây Dức, họ phục vụ cho chúng tôi hoàn toàn vì lý
tưởng.
Tôi nhìn lại quãng đời cá nhân và nghề nghiệp của tôi như vòng cung lớn khởi sự từ cái
gọi là lý tưởng cao đẹp theo tiêu chuẩn khách quan. Chúng tôi, những người Đông Đức
theo đuổi xã hội chủ nghĩa, cố gắng xây dựng nên một loại xã hội trong đó những tội ác
của nước Đức cũ sẽ không bao giờ có cơ hội lập lại. Trên hết mọi sự, chúng tôi quyết tâm
không muốn chiến tranh tái diễn trên nước Đức.
Những tội lỗi và những sai lầm của chúng tôi cũng là những tội lỗi và sai lầm của tất cả
mọi cơ quan tình báo. Nếu chúng tôi có khuyết điểm, và chắc chắn chúng tôi có, đó là
những khuyết điểm của tính chất nghề nghiệp quá đam mê không được tôi luyện bởi
đường chỉ không viền của cuộc sống bình thường. Giống như hầu hết mọi người Đức,
chúng tôi tuân thủ kỷ luật đến độ sai lầm.Phương pháp của chúng tôi quá hữu hiệu nên
chúng tôi đã vô tình phá hỏng sự nghiệp của một nhà chính trị có tầm nhìn xa nhất của
nước Đức hiện đại, ông Willy Brandt. Việc sát nhập cơ quan tình báo vào trong Bộ Công
An có nghĩa là cơ quan này và tôi gánh trách nhiệm về những cuộc đàn áp trong nội bộ
nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức và hợp tác với bọn khủng bố quốc tế.
Thực không dễ kể chuyện về cuộc chiến tình báo từ khía cạnh của kẻ thua cuộc đứng ở
bên này Bức Màn Sắt để cho những người sông bên kia hiểu được trọn vẹn. Kể lại câu
chuyện của tôi về cuộc chiến độc nhất vô nhị thời Chiến Tranh Lạnh, tôi không có mục
đích van xin để được tha lỗi trong vị thế của một kẻ thua cuộc. Phía chúng tôi tranh đấu
chống lại sự hồi phục của chủ nghĩa phát-xít. Chúng tôi tranh đấu cho một mẫu mực xã
hội chủ nghĩa phối hợp với tự do, một mục tiêu cao cả nhưng đã hoàn toàn thất bại,
nhưng tôi vẫn tin là vẫn có thể thực hiện được. Tôi vẫn giữ nguyên niềm tin của tôi, mặc
dù ngày nay niềm tin này đã bị kiềm hãm vì thời gian và trải nghiệm. Nhưng tôi không
phải là kẻ đào ngũ, và hồi ký này không phải là một lời thú tội để xin được chuộc lại lỗi
lầm.
Từ khi tôi tiếp quản cơ quan tình báo hải ngoại Đông Đức vào những thập niên 1950 cho
đến khi hình ảnh của tôi bị lén chụp năm 1979 và bị một kẻ đào thoát nhận dạng, phương
Tây không hề biết mặt mũi của tôi ra sao. Họ gọi tôi là « người không chân dung », một
biệt hiệu đã hầu như biến những sinh hoạt điệp báo của chúng tôi và cuộc chiến tình báo
giữa Đông và Tây thành ra lãng mạn. Nhưng nó chẳng lãng mạn tí nào cả. Người người
đau khổ. Đời sống chật vật. Tha thứ hay nhân nhượng không có chỗ đứng trong cuộc
chiến giữa hai ý thức hệ. Cuộc chiến này đã bao trùm phần nửa thế kỷ của chúng ta và
một cách nghịch lý đã cho phép châu Âu có được một thời kỳ hòa bình lâu dài nhất kể từ
khi đế quốc La Mã sụp đổ. Đôi bên đều phạm những tội ác trong cuộc chiến toàn cầu này.
Giống như đa số những người trên thế giới, tôi cảm thấy hối hận.
Trong quyển hồi ký này, tôi cố gắng kể lại dưới nhãn quan của tôi toàn bộ những sự kiện
mà tôi được biết. Những độc giả, những nhà phê bình và các chuyên gia có thể xem xét
chúng, tin chúng và kiểm chứng chúng. Nhưng tôi phản bác những lời tố cáo của một vài
đông hương của tôi là tôi không có quyền kể lại và xem xét trong từng chi tiết những
thành công và những thất bại trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của tôi. Tại Đức đã có
những nỗ lực, bằng phương tiện tòa án hoặc phương tiện khác, nhằm đưa ra quyết định
chỉ có một phương hướng duy nhất giải thích lịch sử được phổ biến. Tôi không đi tìm
biện luận đạo đức để tự bào chữa và cũng không đi tìm tha thứ, nhưng sau một thời gian
tranh đấu khốc liệt đây là thời gian để cả đôi bên suy gẫm.
Bất cứ lịch sử nào đích thực có danh xưng là lịch sử không thể chỉ do kẻ thắng trận viết
ra.
Lời Tựa
(của Graig R. Whitney)
Khi một quốc gia là kẻ thù độc hại nhất của chính mình, có được một cơ quan tình báo
hải ngọai giỏi nhất thế giới cũng chẳng giúp nên trò trống gì, điều này các lãnh tụ của
Đông Đức đã khám phá ra khi chính quyền Cộng sản sụp đổ như một toà nhà bằng giấy
vào năm 1989. Sự trớ trêu này không thoát khỏi nhận xét của Markus Wolf, nhân vật đã
gầy dựng nên cơ quan tình báo Đông Đức và lãnh đạo trong vòng 34 năm với những
thành tích nổi bật. Đông Đức cần gián điệp, vì các cấp lãnh đạo Cộng Sản muốn được an
tâm trong những ngày đầu của cuộc Chiến Tranh Lạnh, vì vị thế vượt trội của nền kinh tế
Tây Đức, cộng với sức mạnh quân sự của khối Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO)
đe dọa chấn áp Đông Đức. Nhưng mặc dù họ có 4.000 nhân viên điệp báo, 109.000 điềm
chỉ viên làm việc cho Cơ Quan Công An Nhà Nước và cứ 105 công dân thì có một tên
điềm chỉ, cấp lãnh đạo Cộng sản không nhận ra cho đến khi quá trễ là chính những sai
lầm nội tại, những đường lối chỉ đạo hỏng tự căn bản của tất cả những hệ thống xây dựng
trên sự đàn áp và cưỡng ép, đã đánh đổ họ.
Vì những lý do cá nhân, ông Wolf đã tự ý xin về hưu năm 1986 và dọn đến ở một căn
phòng lầu 6 nhìn xuống con sông Spree, nơi trước đây là trung tâm của Đông Đức. Đây
là một địa điểm chọn lọc chiếu theo mô hình tổ chức của Cộng Sản, kế cận một nơi được
chế độ tân trang để nhắc nhở lại không khí tiền chiến của Bá-linh (Berlin); đường phố lót
gạch xanh cho bộ hành và những cửa quán của những nghệ nhân chen lẫn vào cao ốc với
màu sắc nước sáng nhạt nhằm gợi lên hình ảnh dĩ vãng thế kỷ thứ 18. Sau khi Bức Tường
Bá-linh sụp đổ năm 1989, những tờ báo lá cải gọi căn phòng của Wolf là căn phòng sang
trọng, kiểu mẫu mà các chủ nhân ông trong Cơ Quan An Ninh Quốc Gia – các vị « Stasi
» đáng sợ, như người Đức thường gọi họ như vậy – tự dành riêng, không một thường dân
Đông Đức nào có được. Báo chí thường hay nói quá đáng.
Có tất cả 99 bậc thang để lên lầu 6 và cao ốc này không có thang máy. Mặc dù ở vào
trung tuần 70, ông Wolf vẫn còn sức để leo những bậc thang này. Trên lối đi xập xệ đến
căn phòng, có kẻ nguệch ngọac viết « Stasi chó má » trên hộp thư nhôm của ông Wolf,
một hành vi có thể đưa vào tù tức khắc trong những ngày cai trị của Cộng Sản. Cách đó
vài căn, con của ông Wolf trong cuộc hôn nhân trước đây nay kiếm tiền túi trong một
quán bán pizza nằm dưới gầm cầu xe lửa của nhà ga Friedrichstrasse S-bahn, ranh giới
đầu tiên giữa Đông và Tây khi quan khách đến trong những ngày Chiến Tranh Lạnh. Ông
Wolf là một người đã tuột dốc từ trên cao.
Không như các đồng nghiệp Stasi của ông, ông Wolf không bao giờ dùng họat động tình
báo để làm giàu cho cá nhân mình. Bản thân ông Wolf có một sức quyến rũ mạnh, ông
cao 1 thước 83, người gọn ghẽ, đầu tóc màu xám, một khuông mặt cởi mở và thon dài,
đôi mắt nâu sâu sắc, bàn tay với ngón dài thon và thanh nhã của người trí thức. Giọng nói
Đức của ông lịch lãm và hùng hồn. Ông nói chuyện về Goethe và Brecht hoặc về Tolstoi
và Mayakovsky cùng một vẻ lưu loát. Để giết thời gian trong giai đọan ông bị ép buộc
lưu đày (lần thứ hai) tại Moscow sau khi nước Đức thống nhất vào năm 1990, ông tổng
hợp được quyển sách mang tựa đề Những Bí Quyết Nấu Nướng của nước Nga
(Geheimnisse der russischen Küche), một mớ thực đơn hấp dẫn để thực hiện món bò
Stroganoff, blini, piroshki với hình ảnh và những mẩu chuyện dí dỏm từ công tác điệp
báo.
Nhưng nhìn ông ngày hôm nay, người ta không thể cầm lòng tự hỏi ông sẽ đóng vai trò
nào nếu ông là người Tây Đức: có thể là một ông tướng hay là một bộ trưởng ngoại giao,
hay là giám đốc của một xí nghiệp lớn của Đức. Có lẽ ông sẽ thành công, cố nhiên là như
vậy, giàu có và hãnh diện, có thể ông sẽ thêm ít ký-lô ở bụng và có một chiếc Mercedès
trên lối đi vào nhà. Nhưng thay vì vậy, ông sống theo lối tiểu tư sản của cấp lãnh đạo
Cộng Sản Đông Đức, những khuôn mẫu tầm thường già nua mà ông vẫn trung thành
nhưng đồng thời cũng tự cảm thấy vượt lên trên trình độ trí thức của họ. Sống trong một
trong những môi trường khắc nghiệt và đàn áp chính trị mạnh bạo nhất tại Châu Âu, ông
đã thành công và sống sót nhờ trí tuệ, nhờ biết ứng dụng khả năng học hỏi và nét duyên
dáng thu hút để thuyết phục người Tây Âu phản bội quốc gia mình và phục vụ cho lý
tưởng Cộng Sản. Nhìn lại lý tưởng thảm não của Đông Đức, câu hỏi được đặt ra là: Làm
sao một người tài giỏi và thông minh như vậy lại có thể lãng phí tài sức cho một hệ thống
tồi tệ như vậy?
*
Một cách trớ trêu, cuộc đời của Markus Wolf khởi sự tại Tây Đức. Sinh năm 1923
tại Hechingen, một thành phố nhỏ tại Württemberg, phiá Tây Nam nước Đức, ông là con
trai đầu lòng của một bi kịch sĩ, một tác giả và một y sĩ đồng liệu tương pháp tên
Friedrich Wolf, một người Do-thái tôn thờ chủ nghĩa Mác. Giống như chồng, Else, bà mẹ
của ông Wolf, là một thành viên năng động của Đảng Cộng Sản Đức. Khi Quốc Xã lên
nắm chính quyền năm 1933 và gia đình Wolf bị liệt kê vào danh sách truy nã, ông bố của
Markus chạy trốn sang Pháp. Bà Else, Markus và em trai Konrad sau đó theo ông bố, và
năm 1934 cả già đinh tị nạn chính trị tạiMoscow.
Tại đây, trong vòng mười năm, hai cậu bé được uốn nắn theo kiểu mẫu giáo dục,
văn hóa và chính trị của Cộng Sản Nga. Konrad trở về Đức năm 1944 theo binh lính
trong Hồng Quân. Markus theo học ngành kỹ sư hàng không tại Nga và năm 1945, lúc 22
tuổi, được phái trở về Đức theo lệnh của Đảng Cộng Sản Đức để giúp xây dựng một đài
phát thanh tuyên truyền trong cảnh đổ nát của thành phố Bá-Linh.
Nhờ ăn nói lưu loát tiếng Nga và thấm nhuần tư tưởng cộng sản từ trong nôi, ông
Wolf giao hảo mật thiết với các cấp lãnh đạo Hồng Quân trong vùng chiếm đóng của Nga
tại Đông Đức và với các người Đức lưu vong và còn sống sót, được đưa lên hàng lãnh
đạo Cộng Hoà Dân Chủ Đức năm 1949. Cho dù có làm điều gì khác đi nữa, Stalin đã cứu
gia đình Wolf thoát nạn Tiêu Diệt (Holocaust) của Đức Quốc Xã. Sự kiện này cùng với
cảm giác say sưa trong quyền lực khởi sự từ lúc ông nhận lãnh trách nhiệm trong một
nước Cộng Sản đầu tiên trên mảnh đất Đức luôn luôn nặng cân hơn tất cả những gì
Markus Wolf sau này khám phá về bộ mặt đen tối và đàn áp của chế độ cộng sản.
Chẳng bao lâu các cấp chỉ huy nhận ra ông Wolf rất có tài. Họ gởi ông sangMoscow
với tư cách là nhà Ngọai Giao Đông Đức trong vòng vài năm và sau đó đưa ông về lại cơ
quan tình báo hải ngọai Đông Đức đang phôi thai, giao cho ông trách vụ lãnh đạo cơ
quan này năm 1952, khi ông chưa đầy 30 tuổi. Một năm sau, cơ quan này được sát nhập
vào Cơ Quan An Ninh Quốc Gia, biến ông Wolf thành một phó giám đốc hầu như độc
lập của cơ quan Stasi trong chức vụ giám đốc của HVA – Hauptverwaltung Aufklärung,
« Tổng Cục Tình Báo Trung Ương », và ông mang quân hàm đại tướng trong cơ quan
này.
Trong những ngày đầu bấp bênh của Đông Đức, có rất nhiều mối đe dọa từ ngoài
đến cần phải lưu tâm. Cộng Hoà Liên Bang Đức, về mặt diện tích to lớn nhất trong hai
quốc gia hậu duệ của Quốc Xã Đức, đơn phương tuyên bố xác định tính cách chính thống
lịch sử của họ và sẽ không thiết lập ngọai giao với bất cứ quốc gia nào công nhận người
anh em láng giềng Đông Đức. Dưới con mắt của Tây Âu, chẳng có gì đáng gọi là dân chủ
trong nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức, và phần đông những quốc gia dám chọc giận Tây
Đức bằng cách thiết lập ngọai giao với Đông Đức là những nước vệ tinh chư hầu của Xô-
viết hoặc là những nước đồng hội đồng sàn.
Trong những ngày đầu ngắn ngủi này, Bộ Trưởng phụ trách về an ninh quốc gia của
Đông Đức là Erich Mielke, một anh Cộng sản cáo già chuyên luồn lách thuộc thế hệ đàn
anh hơn ông Wolf 16 tuổi. Hai nhân vật này là hai mẫu người thật tương phản hiếm có.
Mielke sinh trưởng trong một gia đình thuộc giới lao động tại Bá-Linh năm 1907, trong
một môi trường cực kỳ khó nhọc, và đã gia nhập Đảng Cộng Sản năm 1930. Bị bỏ tù sau
khi ám sát hai cảnh sát viên Bá-Linh năm 1931, y đã đào thoát và trốn sangMoscow. Sáu
mươi hai năm sau, y bị kết án vì tội này theo những tang chứng mà y đã cất khóa kĩ lưỡng
trong tủ sắt Stasi của chính y. Trong suốt thời gian đứng đầu bộ máy công an mật vụ của
Cộng Hoà Dân Chủ Đức (GDR), Mielke, ám ảnh bởi mối đe dọa bị khuynh đảo ngay
trong nội bộ, đã biến Đông Đức thành một quốc gia công an hữu hiệu và tàn bạo nhất
Đông Âu.
Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, Mielke trở thành một đối tượng mà mọi người kinh
tởm. Cả ông Wolf cũng không có chút cảm tình nào đối với y. Ông mô tả Mielke là một
tên bạo chúa, một cấp lãnh đạo mà ông luôn phải đối đầu vật lộn trong những thủ tục
hành chánh để bảo vệ tính cách độc lập và tự trị của ngành điệp báo của ông.
Nhưng cùng lúc, Wolf phủ nhận trách nhiệm về những họat động của Stasi có dính líu ít
nhiều với điệp báo hải ngọai, chẳng hạn như những lệnh « bắn bỏ » được chỉ thị cho lính
biên phòng canh gác Bức Tường Bá-linh. Ông phủ nhận việc ra lệnh thủ tiêu các điệp
viên ngọai quốc. Ông phủ nhận mối quan hệ với Biệt Đoàn XXII của Stasi, biệt đoàn này
chứa chấp một thời gian ngắn bọn khủng bố và sử dụng bọn này như những thành phần
khuynh đảo Tây Âu.
Biệt đoàn XXII theo dõi rất sát những thành phần cực đoan như Đoàn Hồng Quân
(Red Army Faction) thô bạo của Tây Đức. Thành viên của Hồng Quân đã ám sát một
chục kỹ nghệ gia và các viên chức cao cấp vào những thập niên 70; Ilyich Ramirez
Sanchez, tên khủng bố quốc tế, mang bí danh là « Carlos »; và nhiều thành viên khác của
Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO). Cơ quan Stasi dùng những tên khủng bố này để
biến chúng thành những nhân tố khuynh đảo tại Tây Âu, cung cấp cơ sở lẩn trốn cho
chúng tại Đông Đức. Chính một đại tá của Stasi đã cung cấp hơn 22 ký chất nổ cực mạnh
cho tên phụ tá của Carlos tại Đức năm 1983 vào lúc trước ngày đánh bom lãnh sự Pháp
tại Tây Đức. Cũng như Wolf tường thuật lại trong quyển sách này, các sĩ quan của Stasi
trong Biệt Đoàn XXII biết rõ kế họach của các nhà ngọai giao Lybia đánh bom một hộp
đêm tại Tây Bá-Linh, nơi có đông đảo binh lính G.I. Mỹ thường lui tới. Bom nổ giết chết
bốn người và gây thương tích cho hơn 200 người năm 1986, một vài tháng trước khi
Wolf về hưu. Nhưng Đông Đức không hề can thiệp để ngăn chặn việc này.
*
Ngay từ lúc đầu vào những thập niên 1950, nhiệm vụ chính của Wolf là tìm hiểu những
gì các cấp lãnh đạo Tây Đức bàn tính về cái nước Đông Đức thật nhỏ bé này. Dưới sự
lãnh đạo của ông, Đông Bá-linh hầu như đạt đến điểm cao chưa ai đạt được trong trò chời
gián điệp với Tây Đức. Cơ quan của Wolf « lật ngược » các điệp viên Tây Đức, đưa họ
trở qua lại Bức Tường Bá-linh để làm điệp viên ngược lại cho Cộng Sản. Họ kết nạp các
thương gia và các luật gia thuộc lẫn phe tả và phe hữu và nhờ họ xâm nhập để biết được
những thông tin về đường lối kinh tế và chính trị của Tây Đức. Họ gởi đi những anh
chàng « Romeo », những chàng trai độc thân quyến rũ, để tán tỉnh những phụ nữ độc thân
đầy mặc cảm, những cô chỉ biết miệt mài với công việc làm thư ký cho các chính trị gia
Bonn. Cơ quan của Wolf đã dẫn dụ quá nhiều thành phần chiêu hồi về với chủ nghĩa
Cộng Sản nên đã trở thành một mối bận tâm. Những thành phần chiêu hồi này bao gồm
những viên chức trong ngành tình báo và phản gián của Tây Đức, có vấn đề rượu chè, lo
lắng về tài chánh hoặc có lòng ngờ vực về viễn tượng phục vụ suốt đới cho chính nghĩa
của liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo trên đất nước chia đôi của họ: « Probst », « Günter », «
Kohle », « Komtess », « Mauerer », và cuối cùng « Topaz » – tên thật là Rainer Rupp,
một gián điệp thượng thặng của Wolf nằm trong tổng tham mưu Liên Minh Bắc Đại Tây
Dương (NATO) tại Brussels, không hề bị phát hiện cho đến khi Chiến Tranh Lạnh chấm
dứt. (Sau khi mãn hạn tù tháng 12 năm 1998, Rupp được Đảng tân Cộng Sản Dân Chủ
Xã Hội Chủ Nghĩa, trong một buổi họp sơ bộ của họ tại Quốc Hội Đức mời làm tham
vấn, nhưng cuối cùng đã không dám mời vì bị đả kích dữ dội.)
*
Wolf cũng nếm mùi thất bại, một điều chắc chắn: Các cá nhân trốn chạy chủ nghĩa
cộng sản như Werner Stiller, đã đưa cho tình báo Tây Đức những tài liệu vi phim tương
đương với 20.000 trang giấy, cho phép Tây Đức phát hiện các điệp viện ẩn nấp và, một
cách ngẫu nhiên, bức hình đầu tiên của Wolf từ 30 năm nay, từ trước cho đến giờ trong
hồ sơ của họ vẫn là một « người không chân dung ». Nhưng những thất bại này không
đáng kể so với những thắng lợi của ông.
Cơ quan của Wolf gởi đi hàng chục những « con chuột chũi », nấp sâu trong lòng
của xã hội Tây Đức, suy tính rằng với thời gian và may mắn, một vài con chuột sẽ tìm
đường lên gần đỉnh cao của những chính đảng Tây Đức và sẽ cung cấp những tin tức có
giá trị liên quan đến kế họach điều động quân số của Tây Đức và, quan trọng hơn hết cho
mối quan hệ chiến lược của Đông Đức với Liên Bang Xô-viết, ý định quân sự và chiến
lược của Hoa kỳ trong trường hợp Chiến Tranh Lạnh trở nên nóng bỏng. Một trong
những con chuột nằm vùng là Günter Guillaume và bà vợ Christel, đã xâm nhập Tây Đức
vào giữa những thập niên 50 với bí danh là « Hansen » và « Heinze » để tìm đường đạt
đến cấp bậc cao của Đảng Dân Chủ Xã Hội tại Frankfurt. Họ đã thành công ngoài sức
tưởng tượng của Wolf khi Guillaume trở thành phụ tá cho Thủ Tướng Willy Brandt năm
1972.
Khi bị phát giác là gián điệp, Guillaume đã kéo ông Brandt ngã theo vào năm 1974.
Có thể nói đây là một thất bại nặng nề nhất mà Đông Đức tự gieo lấy cho chính mình
trước khi sụp đổ 15 năm sau. « Ostpolitik » (Chính Sách Đông Âu) của ông Brandt đã cải
thiện mối bang giao giữa các nước vốn kèn cựa với nhau. Chính quyền Bonn cuối cùng
ngưng không đánh phá phe Cộng Sản và bắt đầu có những trao đổi ngọai giao. Nhưng
lãnh tụ Cộng Sản Erich Honecker không tin Ostpolitik (Đông Sách) của Brandt, xết rằng
mối giao hảo giữa Tây Đức và Moscow đe dọa đến tính cách chính thống của Đông Đức.
Chính vì vậy tại Đông Bá-Linh, Wolf không bị khiển trách vì đã tác động đến việc ngã
đài của ông thủ tướng Tây Đức.
Danh sách liệt kê tất cả điệp viên của ông Wolf có thể đóng thành nhiều tập. Ông
Wolf chỉ nhận diện những ai đã chết hoặc đã bị bắt và đem xử. Mặc dù có được một hệ
thống rộng lớn nhân viên nằm vùng và điệp viên, ông Wolf đôi khi vẫn cảm thấy ấm ức
về kết quả của trò chơi gián điệp của ông. Các điệp viên của ông đã thực hiện được
những gì trên mô hình rộng lớn của các dữ kiện ? « Hầu hết tất cả những tài liệu mà Liên
Minh Bắc Đại Tây Dương sản xuất ra, đóng dấu « mật » và « tối mật », mà chúng tôi đã
bỏ bao nhiêu công sức để thu thập, truy xét cho kỳ cùng chẳng đáng dùng làm giấy chùi
đít », ông viết trong quyển nhật ký vào cuối năm 1974. Về phía Cộng sản ông cũng đánh
giá như vậy – hệ thống rộng lớn và to phù của nhóm thư lại sản xuất những núi giấy vô
dụng. Tại Moscow, tại Warsaw, tại Đông Bá-Linh, bộ máy tiếp tục xay nghiền, cố gắng
che chở, bảo vệ và lưu truyền một hệ thống không thể cứu vớt được nữa vì đã lầm tưởng
từ căn bản rằng hạnh phúc và phồn thịnh của con người có thể áp đặt lên đầu người dân
bởi bộ máy hành chánh quyền uy của Cộng Sản.
Ở cả hai bên tuyến ngăn cách ý thức hệ, nhóm thư lại mà John Le Carré mô tả là «
điệp lại » đào sâu vào lòng lãnh thổ địch, đưa những con chuột nằm vùng xâm nhập, âm
mưu và bàn định kế họach, nhưng rồi cuối cùng họ chẳng làm được gì nhiều để thay đổi
một cách cơ bản đời sống của người dân ở cả hai phía. Tại A-phú-hãn (Afghanistan), CIA
gây điêu đứng cho Hồng Quân Nga, cung cấp cho nhóm chiến sĩ hồi giáo mujahidin hỏa
pháo không-không Stinger, và cuối cùng đánh đuổi quân đội Nga ra khỏi nước. Nhưng
thay thế vào đó là một bọn cuồng tín độc tài Hồi giáo đàn áp còn kinh khủng hơn chế độ
Cộng Sản, và chẳng bao lâu ai cũng lo ngại các hỏa pháo Stinger lọt vào tay bọn khủng
bố cuồng tín. Tại Đông Âu, không phải CIA hoặc cơ quan tình báo Tây Đức, cơ quan
BND, đã làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và khối Hiệp Ước Warsaw, nhưng là do những
dồn nén và những mâu thuẫn nội tại về chính trị, kinh tế và xã hội của xã hội cộng sản.
Ông Wolf đã không chờ cho đến khi quá muộn để công khai phê bình những sai lầm
trong hệ thống Cộng Sản trong một hồi ký nói về tuổi trẻ và lý tưởng Cộng Sản xuất bản
tại Đông Đức chỉ cách vài tháng trước khi Bức Tường Bá-Linh sụp đổ năm 1989. Quyển
hồi ký Die Troika, tiếp nối công trình khởi sự bởi người em trai của ông Wolf, tên
Konrad, trước khi qua đời năm 1982, là một trong những cố gắng hiếm hoi tại Đông Đức
nhằm khảo sát, mặc dù là dè dặt, những lỗi lầm các cấp lãnh đạo Cộng Sản tại Moscow
và những nơi khác nhân danh chủ thuyết Stalin. Mặc dù trước đó Nikita Khrushchev
cũng đã làm, nhưng những lời chỉ trích như vậy chỉ xuất hiện tại Liên Bang Xô-viết sau
khi Mikhail Gorbachev nắm quyền lãnh đạo năm 1985 và đưa ra chính sách perestroika,
một cố gắng nhằm cải tổ chủ nghĩa cộng sản, nhưng thay vì vậy ông đã khai tử nó, đúng
như Khrushchev lo ngại vì cởi bỏ tất cả những hạn chế sẽ làm cho tan tành. Honecker
không phải đương đầu với tình trạng này tại Đông Đức và vì vậy sách của ông Wolf đã
tạo nên náo động.
Nhưng vị thế của ông Wolf vào lúc đó không được các đồng hương của ông đánh
giá đúng mức cho đến khi nhân dân Đông Đức rốt cuộc xuống đường vào mùa thu đó để
đòi hỏi tự do. Trong một bài diễn văn đọc tại Bá-Linh tháng 10 năm 1989, Gorbachev nói
rõ là hơn nửa triệu Hồng Quân đồn trú tại Đông Đức sẽ không dùng súng và xe tăng để
đàn áp họ. Diễn ván này đánh dấu ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Đức. Chẳng
bao lâu các cuộc biểu tình thoát vòng kiểm soát, càng lúc càng lớn tràn ngập Leipzig,
Dresden và Bá-linh, và khi ông Wolf xuất hiện và đề nghị đem khả năng để giúp cải tổ
guồng máy, quần chúng tẩy chay và ông phải rút lui. Người Đông Đức muốn được tự do
đi lại, muốn có Đức Mã, muốn những xe hơi Mercedes và BMW, và tất cả những tiện
nghi vật chất mà Tây Đức có, họ không muốn một cuộc cải cách hâm nóng chế độ cộng
sản. Kế họach thống nhất hai nước Đức đang trên đà tiến mà không sức nào có thể cản
nổi.
Ngày 3 tháng 10 năm 1990, Đông Đức không còn nữa, bị khóa chặt và chôn vùi
trong nước Cộng Hoà Liên Bang Đức. Nước Đức thống nhất có nhu cầu thanh toán
những món nợ với Markus Wolf. Khi đồng hồ gõ đúng 12 giờ đêm vào ngày đã mong đợi
từ lâu, ông Wolf biết rằng mình sẽ vào tù. Một cách bình tĩnh, ông bắt đầu quay điên
thọai gọi bạn bè trong cơ quan KGB để bàn tính kế họach xin tị nạn tai Moscow.
*
Không những chính quyền Tây Đức có những món nợ cần thanh toán với ông Wolf,
cả CIA cũng có nhiều ân oán với ông. Khoảng năm 1990, cơ quan tình báo của Hoa Kỳ
bị khủng hoảng trầm trọng. Liên Bang Xô-viết, kẻ thù chính và cũng là lẽ sống còn của
CIA, đang trên tiến trình giải thể. Nhưng khoảng một chục điệp viên Xô-viết mà CIA kết
nạp và nuôi dưỡng với bao nhiêu khó khăn đã bị lộ tẩy và bị hành quyết, do sự phản bội
của một công dân Hoa Kỳ. Hành vi phản bội này được phát giác khi Aldrich Ames bị bắt
4 năm sau, năm 1994. Năm 1990, CIA chỉ biết là có một người đang bán những bí mật
sâu kín nhất của họ và đã gây thiệt hại chí mạng. CIA lúc đó nghĩ rằng ông Wolf có thể
giúp họ tìm ra tên phản bội.
Ngày 22 tháng Năm, Gardner A. Hathaway, gần đây đã về hưu rời chức vụ phụ tá
giám đốc về phản gián, đến căn nhà bồi dưỡng của ông Wolf, một căn nhà gỗ nhỏ nấp
dưới những cây thông ở ngọai ô Đông Bắc Bá-Linh, tay cầm một bó hoa và một hộp xô-
cô-la để tặng bà vợ Andrea của ông Wolf. Hathaway đưa ra một đề nghị rất đặc biệt: Xin
giúp chúng tôi và chúng tôi đưa ông ra khỏi Đức để sang Hoa Kỳ trước khi họ đến bắt
ông vào tháng Mười.
Đưa tôi sang Hoa Kỳ trước đã và chúng ta sẽ nói chuyện tại đó, ông Wolf đáp lời đề
nghị, nhưng ông Hathaway nhấn mạnh: Không có thỏa thuận hợp tác thì không có vé
máy bay. Ông Wolf nhìn nhận rằng lời mời rất là hấp dẫn mặc dù ông chỉ ước định những
gì CIA muốn ông giúp đỡ. CIA đã có một danh sách ghi vào vi phim của tất cả những
nhân viên của ông, ông biết chắc chắn như vậy, vì danh sách này đã được bí mật thu thập
do các tay chiêu hồi hoặc tham lợi thuộc thành phần viên chức HVA cung cấp (CIA sau
này xác nhận là họ có những thông tin này nhưng vào năm 1999 họ từ chối trao lại danh
sách này cho chính quyền Đức khi chính quyền Đức chính thức yêu cầu). Nhưng có lẽ
CIA muốn biết thêm tin tức nằm ngoài danh sách này. Có lẽ họ cũng muốn học hỏi ông
Wolf về những phương thức hành động của Xô-viết với mục đích huy động nhân viên
phản gián tại Langley (trụ sở của tình báo CIA tại Hoa Kỳ) để truy tìm những nhân viên
của Moscow.
Khi ông quyết định không tiết lộ những gì ông biết, ông Wolf đã gây bực tức cho
Washington, và vì chính quyền Bonn đuổi sát bên nách, ông không còn lựa chọn con
đường nào khác là trốn chạy nước Đức một lần nữa, giống như cha của ông trước đây.
Ông vẫn còn những bàn tay giúp đỡ cao cấp tại Moscow, những người bạn như Vladimir
A. Kryuchkov, một người bạn Nga đồng nghiệp đã trở thành thủ lãnh của KGB. Sáu ngày
trước ngày 3 tháng 10, ông Wolf và bà Andrea, người vợ nhỏ hơn ông 13 tuổi, đào thoát
ra khỏi Đông Bá-Linh và trốn qua biên giới Áo, và một vài tuần sau tìm đường tẩu thoát
– dầu sao ông Wolf cũng biết khá rõ kỹ thuật này – sang Hungaria rồi sang Ukraine và
đến Nga.
Nhưng khung cảnh mà ông Wolf đã được biết tại Nga nay đang thay đổi một cách
mau chóng. Đối với Gorbachev, chià khóa cửa ngõ tương lại của Nga không phải là cơ
quan KGB nữa mà là mối giao hảo với nước Đức và vị Thủ tướng, ông Helmut Kohl.
Ông Wolf là biểu tượng của một quá khứ không đáng tin cậy, và khi bạn của ông Wolf,
Kryuchkov tham gia cuộc đảo chánh bất thành nhằm hạ bệ Gorbachev tháng 8 năm 1991,
ông Wolf biết rằng nước Nga sẽ không còn chấp chứa ông nữa. Một tháng sau, ông trở về
lại nước Đức.
Ông Wolf ra đầu thú tại biên giới Áo và lập tức bị bắt, sau đó được tại ngọai hậu tra
nhờ sự can thiệp của bạn bè và các cộng tác viên cũ tại Đông Bá-Linh. Ông rất ngạc
nhiên khi nghe Cộng Hoà Liên Bang Đức có ý định kết án ông về tội phản bội. Vì ông
chỉ huy một cơ quan gián điệp chống lại Cộng Hoà Liên Bang từ Bá-Linh và Bá-Linh bây
giờ đã trở thành trở lại thủ đô của nước Đức, các công tố viên không muốn kết án ông
Wolf với tư cách là một điệp viên ngọai quốc, nhưng buộc tội ông là một tên phản quốc.
Trường hợp của ông có vẻ đen tối. Klaus Kinkel, một cấp lãnh đạo cũ của cơ quan tình
báo Liên Bang Đức, đương giữ chức vụ Bộ Trưởng Tư Pháp của Đức và do một sự ngẫu
nhiện kỳ lạ, ông cũng sinh đẻ ở Hechingen.
Toà án xét xử ông Wolf nằm tại Düsseldorf, cũng cùng một phòng ốc trong một toà
nhà kiên cố, nơi mà trước đây gần 20 năm Günter Guillaume đã bị kết án, khởi sự vào
mùa xuân 1993 và kết thúc vào tháng 12 với bản án kết tội và án lệnh 6 năm tù ở. Phải
chờ cho đến giữa năm 1995, Toà Án Đức tương đương với Tối Cao Pháp Viện mới gác
lại bản án này và ghi nhận tính cách vô lý của nó. Toà án tối cao phán quyết Ông Wolf
không thể nào phạm tội phản bội khi ông ta lãnh đạo cơ quan điệp báo của Đông Đức,
bởi vì Đông Đức là một nước có chủ quyền mà lúc đó chính Tây Đức trong gần 20 năm
đã thừa nhận. Ngoài ra, chính bản thân ông Wolf không hề đặt chân lên đất Tây Đức để
làm công tác điệp báo. Ông không thể nào phạm tội phản bội không khác gì Yevgueny
Primakov lúc đó chuẩn bị lãnh đạo cơ quan KGB tại Moscow.
Các công tố viên lại tìm một lý cớ khác, kết tội ông Wolf lần nữa vào năm 1997 dựa
trên những tội hình nhẹ hơn – họ kết tội ông Wolf đã ra lệnh bắt cóc và đàn áp nhân dân
từ bên kia bên giới Đông Đức vào những thập niên 1950 và 1960, những tội trạng này
cũng phạm pháp chiếu theo luật pháp Đông Đức vào thời điểm đó. Tháng 5 năm 1997,
lần nữa tại Düsseldorf, ông Wolf bị kết tội với ba tội trạng như vậy và bị kết án hai năm
tù treo thay vì một năm tù ở. Vì thiếu tiền để trả chi phí toà án mỗi lúc một nhiều, ông
Wolf đã quyết định lên tiếng ghi nhận thắng lợi về mặt tinh thần và tiếp tục kháng án.
Nhưng chính quyền vẫn không buông tha ông. Tháng Giêng năm 1998, họ lại mở
phiên toà, yêu cầu ông Wolf làm chứng nhân trong vụ án của Gerhard Flämig, một luật
gia của Tây Đức bị cáo buộc làm gián điệp cho Đông Đức trong thời kỳ Chiến Tranh
Lạnh. Ông Wolf từ chối trả lời những câu hỏi then chốt và, nhờ gần đến ngày sinh nhật
75 tuổi của ông, đã bị bỏ tù ba ngày vì tội phỉ báng toà án. Đứa cháu trai 7 tuổi của ông
đã gởi cho ông bức hình vẽ bánh sinh nhật, trong đó có dán một cái dùi mài, làm như thể
ông có thể dùng nó để cưa chấn song để vượt ngục, nhưng các luật sư của ông Wolf đã
kháng án để bác bỏ tội phỉ báng. Ông Wolf lại được tự do lần nữa, nhưng tự do của ông
khiến cho các kẻ thù cũ của ông tại Đức phải nghiến răng vì họ quyết tâm muốn ông phải
tiết lộ khai báo.
*
Hoa kỳ, hoặc vì những lý do riêng của họ hoặc vì lời yêu cầu của chính phủ Đức
(Klaus Kinkel trở thành Bộ Trưởng Ngọai Giao của Đức năm 1992), cũng chơi cái trò đó
với Ông Wolf. Mặc dù Do-thái, từ trước đến nay vẫn e ngại những tên khủng bố tiềm
tàng, đã tiếp đón Ông Wolf năm 1996, Hoa kỳ đã từ chối không cho ông bước chân vào.
Khi các nhà xuất bản của ông Wolf mời ông sang Hoa Kỳ để giúp hoàn tất ấn bản đầu
tiên của quyển sách này, chính phủ Hoa Kỳ đã dùng những tình nghi liên lạc với khủng
bố của ông để viện cớ không cho ông đặt chân lên lãnh thổ của Hoa Kỳ.
Bức thư Ông Wolf nhận ngày 12 tháng Ba năm 1996 của Tổng Lãnh Sụ Hoa Kỳ tại
Bá-Linh tố cáo về tội phạm mà ngay cả chính quyền Tây Đức cũng không dám kết thành
tội :
Thưa ông Wolf,
Qua những trao đổi điện thọai ngày hôm qua, chúng tôi xác nhận Bộ Ngọai Giao
Hoa Kỳ từ chối không cho ông vào Hoa Kỳ quy chiếu đoạn 212(a), chương 3(B) về Luật
Di Trú và Quốc Tịch của Hoa kỳ.
Theo chương 3(b), các ngọai kiều đã tham dự vào những hành vi khủng bố bị khước
từ không được vào Hoa Kỳ. Chương 3(b) liệt kê những loại hành vi khủng bố, trong đó
có việc chuẩn bị và bàn định kế họach hành động khủng bố cũng như cung cấp những vật
liệu hỗ trợ cho những cá nhân thực hiện hay hoạch định những hành vi khủng bố.
Bộ An Ninh Quốc Gia của GDR (Cộng Hoà Dân Chủ Đức) tích cực khuyến khích
và cổ võ khủng bố quốc tế và khủng bố do quốc gia hỗ trợ. Với chức vụ Thứ Trưởng Bộ
An Ninh Quốc Gia của GDR và là cựu thủ lãnh của điệp báo hải ngọai thuộc Bộ An Ninh
Quốc Gia của GDR, ông nắm giữ một vị thế quyết định và tham gia trong việc ấn định
chính sách và những đối tượng của Bộ này. Vì vậy ông có trách nhiệm trong những hành
vi phát xuất từ chính sách đó.
Dựa trên căn bản này chúng tôi thẩm định ông đã tham dự trong những hành vi
khủng bố.
Vào thời điểm này, Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ nghĩ không thuận lợi cho yêu cầu Sở Di
Trú và Quốc Tịch cấp cho ông giấy phép đặc biệt để ông vào đất Hoa Kỳ.
Nay kính,
Glen C. Keiser
Lãnh Sự Hoa Kỳ
Trong một lá thư bằng tiếng Anh khống mấy lưu loát của ông, Ông Wolf một tuần lễ sau
đã yêu cầu ông Clinton can thiệp.
“Thưa Tổng Thống,
Tin tưởng nơi cá nhân Tổng Thống cũng như những lo ngại của tôi về những thủ tục
hành chánh thư lại đã khiên tôi phải viết thư đích danh đến ông để xin ông phê chuẩn cho
đơn xin nhập cảnh của tôi vào Hoa Kỳ.
Viếng thăm quốc gia của ông có một tầm quan trọng vượt lên trên những lý do viện dẫn
của Bộ Ngọai Giao để từ chối đơn xin nhập cảnh của tôi. Tôi có ý định gặp tạiNew York
(Nữu Ước) nhà xuất bản của tôi để hoàn tất ấn bản dứt khoát của bản biên tập tay của
quyển sách của tôi. Những lý do từ chối cấp hộ chiếu cho tôi có những hàm ý mà tôi nghĩ
là mâu thuẫn, không thế chấp nhận được. Lẽ cố nhiên, có những lý lẽ nhằm đánh giá và
duyệt xét quãng đường đời của tôi, những nẻo đường được đề cập đến trong quyển sách
sẽ do Random House xuất bản. Tôi phải trả lời những câu hỏi liên quan đến câu chuyện,
kể cả những câu hỏi gây đau đớn cho bản thân tôi.
Những quốc gia Âu Châu tự nhận mình xã hội chủ nghĩa, trong số này có Đông Đức, đã
thất bại và họ tự hào đã phục vụ cho một ảo vọng của nhân loại. Vào cuối cuộc đời của
tôi, tôi tự hỏi trong quyển sách sắp xuất bản đây, bắt đầu từ lúc nào và khởi sự từ đâu
chúng tôi đã sai lầm, bắt đầu từ thời điểm nào chúng tôi thấy những sai lầm nhưng đã qua
muộn và do đâu chúng tôi thành thủ phạm. Có rất nhiều câu hỏi được đặt ra. Vì vậy tôi
cũng không muốn mang gánh nặng bị gắn ép phạm tội. Lời tuyên bố trong quyết định của
Bộ Ngoại Giao cho rằng tôi dính líu đến những họat động khủng bố không có căn cơ và
không đúng sự thật. Ông có thể thấy điều này trong thơ kháng án đính kèm của tôi.
Có nhiều nét trong cuộc đời và trong đường lối chính trị của ông mang tính chất phá lệ
không khô cứng trong khuôn mẫu đã làm cho tôi thán phục như tôi đã thán phục Tổng
Thống John F. Kennedy và khuyến khích tôi bước một bước bất thường này. Đối với ông,
gánh nặng của những hàm ý vô căn cứ và võ đoán cũng không xa lạ gì. Tin tưởng vào
tinh thần công chính của ông, với lời cầu chúc tốt lành nhất cho ông, tôi luôn thành kính
nơi ông”.
Cho dù lá thư của Ông Wolf có giọng nịnh bợ họăc là một lối khiêu khích mỉa mai –
tổng thốngClinton đã có phán ứng gì đi nữa nếu ông có đọc qua – lá thư này chẳng giúp
ông Wolf đi đến đâu cả. Một năm sau, khi quyển sách xuất bản, phát ngôn nhân Bộ
Ngoại Giao Nicholas Burns nói ông Wolf vẫn không đuợc vào nước Mỹ. “Chúng tôi nghĩ
rằng không thể cấp hộ chiếu cho một người đã ra công sức suốt cuộc đời mình chống lại
một nước Đức tự do, nước Tây Đức, chống lại nhân dân Đức, và một người có tinh thần
bài Mỹ và âm mưu lật đổ chính quyền của chúng tôi và đỡ đầu những họat động khủng
bố đánh vào chúng tôi; tại sao chúng tôi phải cấp chiếu khán cho đương sự? Vì vậy
đương sự không vào đựoc đất Hoa Kỳ. Đương sự có thể viết những quyển sách bán chạy
nhất, nhưng đương sự không thể nào an hưởng cuộc đời trên đất nước Hoa Kỳ cho đến
mãn đời của đương sự, chúng tôi chẳng liên can gì nữa”, ông Burns tuyên bố trong một
cuộc họp báo của Bộ Ngoại Giao.
Khi được hỏi tại sao ông Wolf bị khước từ ở mọi địa điểm vào, trong khi đó những
người như Bộ Trưởng Ngọai giao Primakov và lãnh tụ Palestin Yasser Arafat bây giờ
được tiếp đón, ông Burns trả lời “Chúng tôi có mối liên hệ tốt với Yevgeny Primakov.
Ông là Bộ Trưởng Ngọai giao của một trong những nước bạn, một nước thân thiện với
Hoa Kỳ. Markus Wolf là một người Cộng Sản không biết cảnh tỉnh, vẫn chủ trương
khủng bố trên quy mô quốc gia chống lại Hoa kỳ. Đó là một sự khác biệt đáng kể”.
Cũng có một sự khác biệt khá lớn giữa việc kết tội chủ trương khủng bố và sự thật
tại sao chính quyền Hoa Kỳ không muốn cho Markus Wolf nhập cảnh Hoa Kỳ. Các viên
chức cao cấp Hoa Kỳ sau này thú nhận CIA tình nghi ông Wolf vẫn chưa nói hết những
gì ông biết. Mãi mấy năm sau khi Liên Bang Xô-viết tan rã, cơ quan CIA mới hồi phục
lại sau những tổn thất mà các tên phản bội làm việc cho KGB đã gây nên. CIA nghi ngờ
ông Wolf hoặc những đồng nghiệp cũ của Ông Wolf biết rõ những tên nội tuyến hiện vận
còn họat động. Họ muốn biết tên tuổi của những tên đó. Đầu năm 1998, đầu não của cơ
quan phản gián Đức, ông Volker Foertsch, bị điều tra vì tinh nghi ông họat động gián
điệp cho Nga. Cuộc điều tra không có kết quả vì thiếu bằng chứng.
Nếu chính quyền Hoa Kỳ mong đợi ông Wolf ra tay giúp họ, họ sẽ sớm thất vọng.
Tình báo thời Chiến Tranh Lạnh rất phức tạp và là một trò chơi tốn kém vô cùng, nó có
những lô-gích và những luật chơi của chính nó. Nguyên tắc căn bản là không để bị qua
mặt. Nhưng một khi bị qua mặt và lỡ rơi vào tay địch thủ, quý vị không nên bao giờ tiết
lộ những gì đối thủ đã biết rõ. Cả hai bên đã áp dụng luật chơi này trong thời Chiến
Tranh Lạnh và lặng lẽ duy trì hệ thống trao đổi điệp viên để tưởng thưởng những ai biết
kín miệng. Mặc dù sống trong sự điêu tàn của một thất bại chính trí lớn hơn, ông Wolf
vẫn tỏ ra hãnh diện một cách ngoan cố về những thành tích nghề nghiệp của ông. Ông sẽ
không bán danh dự để có một chuyến đi sang Hoa Kỳ. Vì vậy Yevgeny Primakov, bây
giờ là Thủ Tướng của Nga, lúc nào cũng được tiếp đón niềm nở, và ông Wolf sẽ luôn mãi
là một người bất hảo (persona non grata).
*
Vì nhiều lý do, đây không phải là một quyển sách “thành thật khai báo”. Ông Wolf
vẫn tiếp tục là một nhân vật gây nên nhiều tranh cãi, một phần vì ông cố bày tỏ cuộc đời
của ông không phải là một thất bại đáng ghê tởm, trong khi đó các kẻ thù trước đây của
ông cho rằng đúng là như vậy. Những điều không nói ra trong sách sẽ làm thất vọng
những độc giả mong muốn tìm thấy lời khai thú trong đó, nhưng những lời khai thú trong
nghề điệp báo thường là táng mạng, và ông Wolf là một con người cũng muốn thụ hưởng
cuộc đời. Đọc ông Wolf để có một thoáng nhìn khâm phục, chỉ một thoáng thôi, để đi sâu
vào tâm não đầy sức thu hút của một trong những bầc thầy điệp báo lớn của thời đại
chúng ta, một người mang nặng ấn dấu của cuộc Hỏa Diệt Do Thái do quốc xã Đức phát
động và sau đó là của cuộc phân tranh ý thức hệ thời Chiến Tranh Lạnh, một người đứng
bên kia trận tuyến đối đầu với phần đông độc giả. Có lẽ ông có quyền đem một ít bí mật
theo ông xuống mồ.
Trọng Khiêm dịch
(Còn tiếp)
Hồi ký Markus Wolf – kỳ 2 (Markus Wolf)
“…Đất nước của tôi, nước Đông Đức, đã thất bại không đáp ứng được với danh xưng
Cộng Hoà Dân Chủ Đức, đang phải chấp nhận một cuộc hôn nhân cưỡng ép với anh
khổng lồ kinh tế Châu Âu, nước Tây Đức…”
Hồi Kỳ trùm gián điệp Đông Đức Markus Wolf
Mục Lục
Lời mở đầu
Lời tựa
Chương 1 Cuộc đấu giá
Chương 2 Thoát khỏi ác bóng Hitler
Chương 3 Học trò của Stalin
Chương 4 Cộng Hòa Dân Chủ Đức lớn mạnh và tôi lớn theo
Chương 5 Vừa học vừa làm
Chương 6 Khrushchev mở mắt cho chúng tôi
Chương 7 Giải pháp bê-tông
Chương 8 Làm gián điệp vì tình
Chương 9 Hình bóng của Thủ Tướng
Chương 10 Nọc độc của sự phản bội
Chương 11 Tình báo và Phản gián
Chương 12 « Những biện pháp tích cực »
Chương 13 Phong trào khủng bố và nước CHDCĐ
Chương 14 Trong lòng địch
Chương 15Cuba
Chương 16 Chấm dứt trật tự cũ
Chương 17 Lời kết
Chương 1
Cuộc Đấu Giá
Vào mùa hè năm 1990, hai nước Đức chuẩn bị thống nhất sau bốn mươi năm chia cách
và gây hấn khởi sự từ lúc trật tự hậu chiến do Đồng Minh chiến thắng đặt để vào năm
1945 và được duy trì do sự xung đột tiếp nối của các cường quốc. Công trình đời tôi,
cống hiến cho lý tưởng xã hội chủ nghiã, đang sụp đổ trước mắt tôi. Đất nước của tôi,
nước Đông Đức, đã thất bại không đáp ứng được với danh xưng Cộng Hoà Dân Chủ
Đức, đang phải chấp nhận một cuộc hôn nhân cưỡng ép với anh khổng lồ kinh tế Châu
Âu, nước Tây Đức. Tiến trình hình thành một nước Đức độc lập đang trên đường hoàn
tất, và dù tôi không rõ một nước Đức thống nhất có ý nghĩa gì đối với Châu Âu, tôi biết
chắc một điều: Tôi sẽ bị truy lùng.
Ngày thống nhất được ấn định vào ngày 3 tháng 10 năm 1990. Đi đến đâu tôi cũng
thấy đất nước của tôi và hệ thống đã gầy dựng nên nó đang trở thành vật phế thải. Những
kẻ tìm kiếm kỷ vật nhộn nhịp mua bán huy chương và đồng phục, những gì đã từng tạo
nên niềm hãnh diện cho những ai khoác mặc tại Đông Đức. Nhưng tâm hồn tôi lúc đó
không hề vui hoặc có một nỗi buồn man mác nào cả.
Mặc dù chúng tôi đều là người Đức, có cùng một ngôn ngữ và một nền văn hóa sâu
sắc hơn cả những chia cắt của hàng rào kẽm gai thời hậu chiến tại Châu Âu, tinh thần của
chúng tôi thuộc một loại tranh chấp đặc biệt. Đây không những là một cuộc chiến huynh
đệ tương tàn, giữa người Đức với người Đức. Đây là một cuộc đối đầu giữa nước Đức tư
bản với nước Đức cộng sản, nằm trong bối cảnh toàn diện nhằm thanh toán những di sản
của Mác và Lê-nin và những bất công thực hiện nhân danh chủ nghĩa xã hội. Đất nước tôi
là môt minh chứng hùng hồn nhất về sự chia rẽ giữa hai bên ý thức hệ sau Đệ Nhị Thế
Chiến. Sự chia cắt này chấm dứt với một tốc độ mà không một ai ngờ trước được, cả
Đông lẫn Tây.
Tôi vẫn luôn xác nhận công tác điều khiển cơ quan điệp báo mang một trách nhiệm
đặc biệt trong cuộc Chiến Tranh Lạnh. Trong một bài hát tôi giúp soạn tháo từ khuôn
mẫu Xô Viết để huy động tinh thần các tân binh, tôi đặt công tác của họ nằm trong
«Chiến Tuyến Vô Hình». Đây không phải là một lối nói cường điệu. Trong vòng 40 năm
sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, chúng tôi luôn tự đặt mình vào vị thế chiến đấu
chống lại các thế lực của tư bản chủ nghĩa đang bủa vây chúng tôi.
Trung tâm điểm của công tác chúng tôi là Bá Linh, nơi phân chia giữa hai hệ thống
ý hệ nằm trong trạng thái đông đặc. Các chiến lược gia và các chính trị gia ở cả hai bên
đều nghĩ nếu có xảy ra chiến tranh thứ ba, có lẽ Bá Linh là điểm phát xuất. Nhưng tiếp
theo sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh tháng 11 năm 1989 và cánh cửa Đông Đức mở
toang ra thế giới, nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức mau chóng tan biến và không còn là một
quốc gia nữa. Thực sự, tôi không thể nào mường tượng được công trình của đời tôi lại có
thể chôn vùi trong sự sụp đổ toàn diện của nước Đông Đức tôi đã từng phục vụ. Bốn năm
trước khi Bức Tường sụp đổ, vì cảm thấy ngột ngạt trong những cơ cấu hành chánh sơ
cứng quanh tôi, tôi về hưu và rút lui khỏi cơ quan để bắt đầu cầm viết; dưới sự lãnh đạo
trì trệ của một Erich Honecker đau yếu, tôi không thấy một triển vọng thay đổi nào phát
xuất từ bên trong. Nhưng chính tôi cũng bị hoàn toàn bất ngờ vì tốc độ suy sụp của quốc
gia này. Đối với rất nhiều người, màn kết khi đến không vui chút nào cả; có người kể cho
tôi nghe nỗi nhục nhã của họ.
Các nhân viên thuộc Cơ Quan Công An Đông Đức, một trong những cột trụ chính
của nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức, đã bị kết tội bởi giới truyền thông, giới chính trị và
tòa án, họ trở thành Kẻ Thù Công Cộng Số Một. Đây là một diễn biến không thể tránh
khỏi, ở vào chừng mực nào đó, đây là một diễn tiến đau đớn mà những nguời công dân
của một chế độ sụp đổ phải gánh chịu và đương đầu với thực tế của quá khứ.
Ngày 15 tháng Giêng 1990, đám đông giận dữ tràn vào tổng tham mưu của Bộ Công An
Nhà Nước trên con đường Normannestrasse và tìm thấy một kho hồ sơ to lớn mà bộ đã
lưu trữ dùng để rình rập các công dân mình. Tôi như đang sống trong một cái bẫy nghiệt
ngã đang xiết chặt lại. Tâm thần tôi lúc đó chỉ nghĩ đến rút lui và từ chức. Tôi biết tất cả
mọi hy vọng cải tổ nhà nước xã hội chủ nghĩa bây giờ đã tan tành (có một vài người nghĩ
rằng những năm tôi về hưu là để trở thành một nhà cải cách tương lai theo kiểu Mikhail
Gorbachev). Tôi cần một lối thoát tạm thời ra khỏi quốc gia nóng bỏng này.
Tôi hướng vềMoscow, thành phố của thời niên thiếu của tôi, nơi đã cho gia đình tôi
trú ẩn tránh nạn Hitler và nơi tôi luôn ghi đậm tâm tình. Trái ngược với suy luận bình
thường, cuộc trốn chạy của tôi không có một kế hoạch rõ rệt nào cả. Tôi đang viết hồi ký
về những biến cố năm 1989 và tôi cần thời gian và không gian để hoàn tất nó trong lặng
lẽ. Nhưng tôi biết việc thống nhất có nghĩa là tôi sẽ bị giam cầm; đã có trát lệnh bắt tôi tại
Tây Đức ngay trước ngày sụp đổ, tố cáo tôi về tội gián điệp và phản bội. Những con cá
mập đang bủa vây.
Cô em gái dị bào Lena Simonova cho tôi trú ngụ tại dacha và căn phòng nằm trong
căn phố nổi tiếng Nhà trên Bờ Đổ Bộ, nhà của các thành phần uư đãi thuộc giới ưu tú
củaMoscow kể từ những thập niên 1930. Mỗi lần tôi bước qua ngưỡng cửa đầy trang trí
của căn phố này, tôi không thể nào quên được hùng khí bừng lên trong lòng của thanh
niên Cộng Sản tại Moscow, nơi chúng tôi nương thân với cha mẹ chúng tôi để trốn chạy
Đệ Tam Đức Quốc (của Hitler). Bây giờ, nhìn xuống con Sông Moscow đông đặc vào
tháng Hai, tôi cảm thấy an toàn trở lại. Gió mùa đông giá buốt kích thích đầu óc suy nghĩ.
Tôi rảo bước thật lâu quanh đường phố chật hẹp của khu Arbat cũ, suy gẫm về cuộc đời
mình và những thăng trầm đã đưa đẩy tôi, một người sanh đẻ ở miền Nam nước Đức, đến
Moscow vào tuổi thiếu niên, đến nước Đức chia cắt vào tuổi trung niên, và bây giờ trở lại
Moscow lúc tuổi hưu dưỡng.
Mục đích khác của chuyến đi sangMoscow này của tôi nhằm xem những đồng minh
cũ trong KGB và điện Cẩm-linh có thể giúp đỡ tôi và các đồng nghiệp của tôi trong cộng
đồng điệp báo đến chừng mực nào, nay quốc gia của chúng tôi đã thực sự tan vỡ. Chẳng
có đồng chí anh emMoscow nào vồn vã hỗ trợ chúng tôi trong suốt mấy tháng căng thẳng
vừa qua. Giống như chúng tôi, họ cũng hoàn toàn bị bất ngờ khi biến cố xẩy đến. Tình
anh em muôn thuở vẫn thường được tán tụng năm này sang năm nọ nay trở thành một mớ
giẻ rách. Nơi trước đây các đường giây điện thọai ưu tiên vẫn suốt ngày reo giữaMoscow
và Đông Bá Linh theo những cấp độ khác nhau giữa hai đồng minh, nay chẳng còn trao
đổi gì nữa. Thư từ không ai đáp lại. Im lặng phủ kín.
Hộp thư tôi tràn ngập thư từ của các cựu sĩ quan trong cơ quan, cơ quan HVA
(Hauptverwaltung Aufklärung, « Tổng Cục Tình báo Trung Ương » – cơ quan điệp báo
hải ngọai), họ than phiền bị bỏ rơi và đơn độc gánh chịu cơn thịnh nộ của đồng hương,
nay tất cả những thái quá của Bộ Công An Nhà Nước đã được phơi bày. Quần chúng
phẫn nộ khi họ khám phá tầm kiểm soát rộng lớn của hệ thống công an trên khắp lãnh
thổ. Mặc dù công tác của tôi trong cơ quan HVA không bao giờ nhắm vào 17 triệu dân tại
Đông Đức mà mục tiêu chỉ nhắm tìm hiểu ý đồ của các quốc gia khác đối với khối Đông
Âu, tôi biết chẳng có mấy ai có chút tinh tế để phân biệt các ngành trong cơ quan Stasi
(tên tắt quần chúng thường đặc biệt dùng cho Ministerium für Staatssicherheit, mà cơ sở
chúng tôi cũng trực thuộc; một danh từ không một nhân viên nào trong ngành sử dụng và
chính tôi cũng tránh dùng)*. Tôi muốn biết bây giờ chúng tôi còn trông nhờ được gì với
tư cách nhân viên của một cơ quan trước đây đã từng là cơ quan điệp báo giỏi nhất khối
Xô Viết.
Khi tôi đến, tôi được tiếp đón như thường lệ ở ngọai ô phía Tây Nam Moscow tại
toà nhà lớn ở Yasenovo, trụ sở của Đại Tổng Cục KGB, trung tâm điều nghiên công tác
điệp báo quốc tế. Giám Đốc điệp báo hải ngọai Leonid Shebarshin và ban điều hành chào
đón tôi thật là niềm nở. Chúng tôi biết nhau từ chục năm nay. Họ đem Vodka và ân cần
thăm hỏi về điều kiện sinh sống của tôi tạiMoscow. Nhưng rồi sau đó cơ quan KGB xem
ra không còn khả năng giúp đỡ chúng tôi đuợc nữa, vì họ ở thế kẹt trong cuộc tranh giành
quyền lực, bùng nổ vào giai đọan cuối bấp bênh khi Gorbachev cầm quyền.
Vì trường hợp của tôi và số phận các sĩ quan, nhân viên và điệp viên trong ngành
điệp báo của Đông Đức quá sức tế nhị về mặt chính trị nên Tổng thống Gorbachev đích
thân giám định. Tôi biết những mối liên hệ của tôi với điện Cẩm-linh đều qua trung gian
của Valentin Falin, một Ủy Viên Trung Ương có uy tín và cố vấn ngọai giao cho
Gorbachev, một người tôi hiểu rõ qua những nỗ lực quan trọng trong việc thắt chặt liên
hệ Xô Viết và Đức. Việc can thiệp của Falin, một người được Tây Đức biết tiếng và kính
trọng, báo cho tôi biết tôi là một mối phiền toái chính trị tiềm tàng. Ông được giao nhiệm
vụ không mấy gì là đẹp giúp đỡ tôi nhưng không được quá lộ liều để làm phiền phía Tây.
Đây không phải lần đầu trong cuộc đời của tôi, tôi nằm trong vị thế phải trông nhờ
Bà Mẹ Nga cứu vớt tôi. Nhưng trái với những lời đồn đãi, tôi chẳng có liên hệ chính thức
nào với thượng tần lãnh đạoMoscow khi tôi rời cơ quan điệp báo hải ngọai năm 1986.
Giám đốc KGB tại Bá Linh, trước đó là Wassily T. Shumilov và sau đó là Gennadi
W.Titov, cả hai đều liên lạc mật thiêt với Erich Mielke, Bộ trưởng Bộ Công An nhà
nước, và tránh tiếp xúc với tôi. Có một vài người đồn đãi tôi cùng với ông Cộng Sản cải
cách Hans Modrow đang chuẩn bị đảo chánh Honecker. Nhưng mặc dù tôi đã cảnh báo
Falin và các đồng nghiệp khác tại Moscow chế độ Đông Bá Linh đang trên đà tan vỡ, tôi
không hề yêu cầu hoặc nhận trợ giúp để áp lực lên cơ cấu lãnh đạo sau khi Honecker bị
hạ bệ nhằm thúc đẩy một cuộc đảo chánh lật đổ ông ta ngay trong nội bộ Bộ Chính Trị.
Thực tế mà nói, tôi có thể đoan quyết lý do khiến cấp lãnh đạo Nga tránh liên lạc
với tôi sau khi tôi về hưu nằm ngoài lý do trung tín và phép xã giáo. Trong thời gian
ởMoscow, Falin và Sherbashin bàn luận rất cởi mở về những ưu tư của tôi đối với Đông
Đức, nhưng họ bị lôi cuốn vào các vấn đề của perestroika. Sau khi Bức Tường sụp, các
biến cố dồn dập với một tốc độ hầu như không một ai bắt kịp. Có lẽ đã quá trễ khi tôi viết
một lá thư cho Gorbachev vào ngày 22 tháng 10 năm 1990 và trình bày như sau :
Chúng tôi là bạn của quý vị. Chúng tôi đeo trên ngực rất nhiều huy chương của quý
quốc. Chúng tôi được tiếng đã đóng góp rất lớn cho an ninh của quý vị. Bây giờ, tôi thiết
nghĩ quý vị sẽ không từ chối giúp đỡ chúng tôi.
Bức thư tiếp tục yêu cầu lãnh tụ Xô Viết có thể nào xin ân xá cho tất cả những điệp
viên Đông Đức và lồng điều kiện này vào thỏa hiệp thống nhất nước Đức. Một bức thư
hồi âm của Vladimir Kryuchkov, giám đốc KGB, nói rằng Gorbachev đã phái Đại Sứ đến
Bonn để bàn thảo lời yêu cầu của tôi với Thủ Tướng Helmut Kohl. Thực ra ông Đại Sứ
được ông Horst Teltschick, Đổng lý Văn Phòng của ông Kohl, tiếp chuyện. Họ bàn thảo
về việc ân xá trong suốt mùa hè năm 1990 trước ngày Đồng Minh bàn đến việc thống
nhất nhưng họ không đạt đến một thỏa thuận nào cả. Kryuchkov nghĩ rằng Gorbachev sẽ
khơi động vấn đề này lại nhân cuộc họp thượng đỉnh tại Arys, miềnCaucasus, để hoàn tất
những chi tiết trong việc thống nhất. Lời hồi đáp không cỏ vẻ gì khả quan. Lần đầu tiên,
tôi bắt đầu nghi ngờ về lòng thành của Gorbachev. Có thể nào ông giao chúng tôi một
cách vô điều kiện cho chính quyền Tây Đức, kẻ thù trước đây của chúng tôi ?
Nhưng khi thỏa thuận việc thống nhất với Thủ Tướng Kohl tại Caucasus từ ngày 14
đến 16 tháng 7 năm 1990, Gorbachev hoàn toàn bỏ rơi chúng tôi. Vào những ngày cuối
của cuộc đàm phán, ông từ chối đưa ra bàn thảo lời yêu cầu miễn tố của chúng tôi. Lúc
bấy giờ mối quan tâm bức thiết của ông là trưng bày một hình ảnh đèp đẽ đối với Tây Âu
và gọn ghẽ quên đi trước đây ông cũng là một người Cộng Sản. Chính quyền Tây Đức
sẵn sàng bàn thảo vấn đề miễn tố cho những ai đã phục vụ cho Đông Đức, nhưng khi vấn
đề được đề cập nhanh chóng tại cuộc hội thảo, Gorbachev khoác tay và nói với Kohl là
người Đức nên tìm cách khôn khéo giải quyết vấn đề với nhau. Đây là lần phản bội tột
cùng của Xô Viết đối với những người bạn Đông Đức, những người đã từng làm việc hơn
40 năm nay để cung cố sức mạnh của Liên Bang Xô Viết tại châu Âu.
*
Trong khi các nhà đầu tư mua bán mặc cả các cơ sở kỹ nghệ và cơ quan của Đông
Đức, một cuộc đấu giá tuyệt mật khác khởi sự. Đó là cuộc đấu giá trên cá nhân tôi họăc
chính xác hơn trên những hiểu biết tình báo và họat động của tôi. Và giá treo đắt hơn hết
mọi thứ : tự do của tôi.
Cuộc đấu giá bắt đầu từ một phía hoàn toàn bất ngờ, các địch thủ trước đây tại Tây
Đức, cơ quan BfV (Bundesamt für Verfassungsschutz) Văn Phòng Liên Bang Bảo Vệ
Hiến Pháp, môt tổ chức tôi đã cài đặt các điệp viên và gián điệp nhị trùng xâm nhập vào
ngõ ngách thâm sâu của nó từ hàng chục năm nay.
Tháng 3 năm 1990, cuộc bầu cử đầu tiên sau năm 1945 diễn ra tại Đông Đức đưa
Đảng Dân Chủ Thiên Chúa lên cầm quyền, đuợc hỗ trợ mạnh mẽ bởi liên minh lãnh đạo
của Thủ Tướng Kohl tại Bonn. Đây là một chính phủ biết chăm lo; công tác chính là nâng
cao Đông Đức theo kịp đà thống nhất và đồng thời giảm thiểu những nội lọan. Ông Bộ
Trưởng Nội Vụ là một người ăn mặc gọn ghẽ, một anh chàng có vẻ năng động tên Peter-
Michael Diestel, xuất hiện từ một trong những đảng bảo thủ thành lập tại Đông Đức vào
những ngày đầu Đông Đúc sụp đổ.
Lúc này, Erich Mielke, từng là Bộ Trưởng Bộ Công An của nước Cộng Hoà Dân
Chủ Đức và là cấp trên trực tiếp của tôi trước khi tôi về hưu, đã bị bắt và áp lực trên các
nhân viên và sĩ quan cũ trong cơ quan của chúng tôi buộc họ phải tiết lộ những bí mật
mỗi ngày một gia tăng. Phản bội lan tràn và có những cuộc mặc cả giữa các nhân viên kỳ
cựu và chính quyền Tây Đức. Cuộc thương lượng thường xoay quanh vấn đề miễn truy tố
đổi lấy những bí mật của Đông Đức. Các sĩ quan tình báo lo sợ họ phải nằm tù vào những
ngày đầu của nước Đức thống nhất. Mỗi ngày tôi nhận điện thọai của các nhân viên tuyệt
vọng yêu cầu tôi can thiệp. Tôi được biết hai nhân viên cao cấp trong Bộ đã tự vẫn. Bern,
thằng con rể của tôi, chỉ huy một ban trong cơ quan HVA đặc trách về điệp báo nhắm vào
cơ quan phản gián của Tây Đức, gần đây cũng được đề nghĩ miến tố và hưởng nửa triệu
Đức Mã đổi lấy những hiểu biết về họat động điệp báo và những mục tiêu trước đây của
đương sự.
Đương sự bác bỏ lời đề nghị nhưng, vì tuyệt vọng bởi sự nghiệp đổ vỡ thình lình và
sụp đổ của một hệ thống mà đương sự đã từng tin tưởng với hết tâm can, rơi vào khủng
hoảng tinh thần và đã định tự sát. Giống như trường hợp của hàng chục người khác cuộc
đời dù đúng hay sai đã dính liền với hệ thống đổ nát này, đương sự cảm thấy hết thời và
vô dụng. Họ không được một trợ giúp tâm lý nào cả; tinh thần tự trọng và lòng tin vào
chủ nghĩa của họ qua một đêm sụp đổ cùng với Bức Tường Bá Linh.
Vào lúc này, Diestel gọi cho tôi tại dacha ở Prenden, gần Bá Linh, và mời tôi đến
gặp tại tư gia ông ta. Ngay từ lúc gặp gỡ đầu tiên tôi rõ biết ông ta làm việc theo lệnh của
Bộ Trưởng Nội Vụ Tây Đức, ông Wolfgang Schäuble. Nhưng khác với các chính trị gia
mới, ông ta không lấy gì làm vui thú nhìn sự bất hạnh của tôi. Trái lại, anh ta mong muốn
tạo nên một bầu không khí thân thiện giữa hai chúng tôi. Mặc dù có những khác biệt rất
lớn trong chính trường Đông Đức (và tôi chắc chắn bất đồng với lập trường cực kỳ Bảo
Thủ của ông Diestel) cùng chung một quá khứ giúp chúng tôi có được một chút tâm cảm.
« Chúng ta cùng nhau dùng một bữa ăn tối và bàn thảo về những tiến triển tới, nhé ?
» ông ta hỏi một cách nhẹ nhàng. Ông nói người phụ tá sẽ thu xếp mọi việc.
Một vài ngày sau, một chiếc xe BMW xanh lơ đến rước tôi, lọai phuơng tiện di
chuyển mới của những kẻ có thế lực, thay thế cho những chiếc Citroën và Volvos trước
đây vẫn được các lãnh tụ Cộng Sản ưa chuộng. Tôi có ý định vặn hỏi ai trong cấp lãnh
đạo trước đây được tài xế đưa rước cách đây vài tháng, nhưng tôi tế nhị không nói.
Tôi cảm thấy thú vị khi nhận ra những người hầu bữa ăn tối đều làm việc cho Bộ
Công An trước đây. Diestel nói : « Những gì tôi đề nghị với ông bây giờ là tuyệt mật ».
Ông giải thích chính quyền Tây Đức rất khổ sở trong cố gắng mổ xẻ tìm hiểu những họat
động tình báo rộng lớn và tinh vi của Đông Đức, điều nghiên những tài liệu do hệ thống
cộng sản để rơi lại trong lúc sụp đổ không kèn không trống. Người kế vị tôi khi tôi rời bỏ
nhiệm sở năm 1986 ông Werner Grossmann và môt sĩ quan cao cấp khác, ông Bernd
Fisher, đã được lệnh hướng dẫn các viên chức Tây Đức trong sồ lượng khổng lồ tài liệu
nhưng họ không theo dõi kịp danh sách những nhân viên điệp báo và điệp viên, và không
có một bảng tổng kết tương đối rõ rệt về những hiểu biết của họ. Ông Bộ Trưởng Nội Vụ
Schäuble rất nôn nóng, đoan chắc các nhân viên điều tra của ông đã thất bại trong việc
tìm hiểu toàn bộ công trình của chúng tôi.
« Ai là người có thể giải thích rõ cho họ ngoài tác giả đã xây dựng tất cả nền móng
này và điều khiển cho nó chạy như một cây kim đồng hồ? » Diestel thúc gịuc tôi đồng
thời châm nước vào ly của tôi. Ông không chỉ đơn thuần xin tôi một ơn huệ. Lẽ cố nhiên
là sẽ có phần thưởng : đuợc miễn truy tố về tội phản bội nhà nước Tây Đức. « Lên xe của
tôi », ông nói, « và đến văn phòng của Boeden với tôi [Gerhard Boeden lúc đó là giám
đốc cơ quan phản gián của Tây Đức, cơ quan BfV]. Nói cho chúng tôi biết khoảng 10 hay
12 tên điệp viên cao cấp tại Tây Đức và giúp đỡ chúng tôi nhận diện những tai hại mà
phía các ông đã làm, và chúng tôi sẽ dàn xếp để ông không bị truy tố. »
Boeden, ông ta nói tiếp, sẵn sàng bảo đảm cho tôi được tự do không có chuyện bẳt
bớ nếu tôi chấp nhận khai báo cho đương sự. Cuộc thảo luận đã được cẩn thận dàn xếp từ
trước, Boeden sẽ nhẫn nại chờ đón tôi cách đó vài dặm để xác minh cho lời mời của
Diestel. Chúng tôi cũng đề cập đến việc tôi cộng tác với cơ quan truy lùng khủng bố của
Tây Đức với những hiểu biết sâu rộng của tôi.
Bây giờ đến lượt tôi thương thuyết. Tôi nói tôi chân thành cảm tạ đề nghị miễn tố
nhưng tôi cũng có trách nhiệm với những thượng cấp và nhân viên của tôi trước đây.
Một đỗi sau Diestel cảm thấy chán ngán với cuộc dằng co này. « Ông Wolf » ông
nói, « Tôi thiết nghĩ ông biết rõ tất cả chúng ta sẽ vào tù không vì lý do này cũng vì lý do
khác. Vấn đề duy nhất là miếng ăn và điều kiện sẽ ra sao khi chúng ta vào trong đó. »
Ông có ý ám chỉ những ai như chúng tôi đã từng phục vụ cho Đông Đức bây giờ
chẳng còn chỗ đứng nào trong nước Đức mới. Trường hợp của tôi nhất định không thể
nào thoát tội phản quốc và chùi bò vài năm trong xà-lim.
Tôi sẽ là kẻ nói láo nếu tôi không nhìn nhận lời mời có sức quyến rũ mãnh liệt. Tôi
muốn được tự do. Nhưng tôi cũng hiểu rõ tự do của tôi sẽ nguy hại đến tự do của các
nhân viên nam nữ đã cống hiến cuộc đời của họ cho cơ quan của tôi và, đối với các nhân
viên làm việc bí mật tại Tây Đức, nguy cơ ngồi tù nhiều năm. Họ sẽ đánh giá tôi như thế
nào, người mà họ vẫn gọi là Ông Xếp, nếu tôi bán đứng họ lúc này? Tôi cám ơn Diestel
về bữa cơm tối thân mật nhưng tôi từ chối lời đề nghị.
« Tôi để cho kẻ khác phản bội » tôi nói.
« Sẽ không thiếu người ghi danh, » ông nói và đồng thời quay lưng ra đi. « Nếu
ông thay đổi ý kiến, sẽ luôn có xe sẵn chờ đưa ông cùng với tôi đến văn phòng của
Boeden.»
*
Quả không thiếu những người muốn mua chuộc tôi. Một lời mời khác phát xuất từ
một nơi mà tôi không thể ngờ dù là trong những ước vọng điên cuồng nhất của tôi, giúp
tôi thẳng tiến trên đường tìm tự do.
Ngày 28 tháng 5 năm 1990, hai người Mỹ đến trước cổng nhà tôi ở dưới quê. Họ tự
giới thiệu với một vẻ bình thản lạ lùng, họ đại diện cho cơ quan tình báo CIA và đưa một
bó hoa to và một hộp chô-cô-la cho vợ tôi. Không hiểu bó hoa đó để khen tặng hay để
đưa đám.
Người đàn ông cao niên, bộ mặt ốm và tóc hoa râm, mặc một bộ đồ đen xậm, áo sơ-
mi trắng toát ủi ngay ngắn và đeo cà-vạt sọc. Ông ta tự giới thiệu là Hathaway và người
ủy nhiệm của ông William Webster, lúc đó là Giám đốc của Cơ Quan Trung Ương Tình
Báo của Hoa kỳ và thừa lệnh ông ta đến đây. Ông nói tiếng Đức chính xác và gãy gọn.
« Một tên thư lại văn phòng » bà vợ Andrea tôi nói vậy, thì thầm nơi tai tôi khi
chúng tôi lui vào bếp để vợ đi kiếm bình bông, tôi đi kiếm thuốc lá và gạt tàn. Hathaway
là một trong những anh chàng cực đoan chống hút thuốc và yêu cầu tôi đừng mồi thuốc.
Tôi hỏi đùa đây có phải là một chiến dịch mới của CIA không và ông cười một cách xã
giao không có vẻ gì thực thà cho lắm.
Người tháp tùng, trẻ và béo mập hơn, vui vẻ tự giới thiệu là Charles và xưng là
Trưởng Ban của cơ quan tại Bá Linh, nhưng theo nhận xét của tôi đương sự có vóc dáng
của một tên cận vệ. Hắn nói và phản ứng rất ít trong lúc trò chuyện, dù là mãi sau tôi mới
biết y cũng am hiểu tiếng Đức. Andrea nghĩ đến những anh chàng Mỹ được thấy trên
phim truyền hình về chiến tranh ViệtNam.
Họ đã cẩn thận không dùng điện thoại để liên lạc với tôi, hiển nhiên họ cảnh giác
việc KGB và chính phủ Tây Đức đặt đường giây nghe lén. Họ năm lấy cơ hội một người
sưu tầm quân phục tại Hoa Kỳ để liên lạc với tôi, và hỏi tôi có sẵn quân phục Đông Đức
để bán không. Qua đường dây tiếp cận mới này giữa Đông và Tây, họ quyết định liên lạc
với tôi.
Từ khi Bức Tường sụp đổ, tôi cũng có cơ hội bằng phương tiện fax nhận thơ thăm
hỏi của một người trước đây họat động cho CIA tại Âu Châu; đương sự hầu như chẳng
bao giờ moi móc tôi một điều gì; lời lẽ của đương sự biểu hiện thái độ thán phục phong
cách của một địch thủ uy tín. Nhưng nay tôi tự hỏi đương sự có thể nằm trong kế họach
tiếp cận tôi.
Dù thế nào đi nữa, có người trong tổng tham mưu CIA đã tìm ra được tên và địa chỉ
của Eberhard Meier người phụ tá thân tín của tôi, và đã liên lạc với đương sự để dọ hỏi
xem tôi có muốn tiếp hai đối tác Mỹ không. Họ tỏ ra rất là chuyên nghiệp, không bao giờ
dùng điện thọai hoặc thơ từ để có thể bị tiếp thu, và luôn tìm những phương tiện khác để
gởi thông điệp đến tôi qua người phụ tá, không bao giờ trực tiếp. Tôi nói với anh phụ tá
mời họ đến biệt thư của tôi, một nơi gặp gỡ kín đáo hơn là căn phòng của tôi tại Bá Linh.
Tuy nhiên tôi vẫn ngẫm nghĩ không biết họ muốn gì. Đã 4 năm tôi rời cơ quan, tôi đâu
còn gì để bắt cóc tôi, họ đeo đuổi việc gì đây ?
Tôi không còn những phương tiện điệp báo như xưa nên tôi trở về với những
nguyên tắc thuở ban đầu và khôn khéo thu thanh cuộc họp mặt trong một máy ghi âm
giấu ở cạnh bàn. Bất cứ ai dù biết sơ sai kỹ thuật điệp báo cũng không bao giờ liên lạc
với một thế lực thù địch mà không ghi âm toàn bộ buổi họp để tự bảo vệ tránh sau này bị
nạn xăng-ta.
Hathaway bỏ ra cả nửa ngày trình bày nỗi thông cảm với những khó khăn của tôi
trong giờ phút thống nhất nước Đức và việc tất yếu tôi sẽ bị bắt giữ. Ông tâng bốc tôi cao
độ và tôi danh tiếng trở thành một trong những cấp lãnh đạo tình báo đứng đầu thế giới.
Tôi cảm nhận ông ấy biết rất nhiều về tôi và ông đang cố gắng lựa lọc những định
kiến của ông về tôi và chọn lựa những điều phù hợp với tình thế hiện tại. Thật ra, trong
phong cách của một nhân viên tình báo có bản lãnh, ông tiết lộ rất ít về cá nhân ông để có
được một tiết lộ quan trọng của người đối thọai. Ông nói ông đã từng họat động tại Bá
Linh vào những thập niên 1950 và theo dõi rất sát những năm đầu của tôi trong nghề. Tôi
ước đoán trong lúc đối thọai ông cũng đã từng lãnh đạo trụ sở CIA tạiMoscow.
« Ông là một người làm việc cần mẫn và thông minh, » Hathaway nói.
Đầu tiên là củ cà-rốt, tôi tự nhủ, sau đó là cây gậy. Chúng tôi uống hình như là một
biển cà-phê. Tôi hút thuốc và người khách của tôi bất bình ra mặt. Cuối cùng tôi không
chịu đựng được.
« Thưa hai ông », tôi nói, « tôi thiết nghĩ hai ông từ đường xa đến đây không phải
để ca ngợi cặp mắt tôi đẹp. Tôi đoan chắc hai ông cần tôi làm một chuyện gì đây ».
Cả hai đều phá lên cười, cảm thấy nhẹ nhọm, chiếc bánh rồi ra cũng được cắt
đôi.Giọng của Hathaway trầm xuống.
«Ông là một người Cộng Sản kiên định, chúng tôi biết điều này. Nhưng nếu ông cố
vấn và giúp chúng tôi, ông có thể làm việc chung với tôi. Không ai biết chuyện này cả.
Chúng tôi có thể dàn xếp, ông biết rõ. Chúng tôi có thể thực hiện được công việc này. »
Đầu óc của tôi bắt ngay những tín hiệu của ngôn ngự mật mã và chuyển sang một
tốc độ cao hơn. Đây là phái viên của chính phủ Hoa Kỳ, kẻ thù chính trong cuộc Chiến
Tranh Lạnh, đang chuẩn bị cung cấp cho tôi nơi tá túc để tránh sự phục thù của một đồng
minh trong Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO), nước Đức thống nhất.
«California, » ông tiếp tục nói bằng tiếng Đức trôi chảy, « là một địa điểm rất thoải
mái. Khí hậu tốt quanh năm. »
« Tây-bá-lợi-á cũng thoải mái lắm, » tôi nói đùa nhưng lại đau sót thấy cách nói
chuyện trong ngành tình báo thực tế đôi lúc cũng giống văn phong của tiêu thuyết gián
điệp.
Chúng tôi đều phá cười, nhờ vậy tôi được một khoảnh khắc suy nghĩ.
« Vấn đề là tôi không biết rõ Hoa kỳ. Tôi không mường tượng được cuộc sống của
tôi tại đó ».
Hathaway nói Webster muốn mời tôi đến tổng hành dinh của CIA
tạiLangley,Virginia, để bàn thảo. Ông tiếp tục : « Chúng tôi có thể cải trang hoặc sửa mặt
cho ông để ông có thể cảm thấy an toàn hơn».
Tôi phải cố gắng hết sức để không phi cười khi tôi nghĩ đến những năm đầu tập
tễnh học nghề gián điệp.
« Tôi mãn nguyện với hình thù nguyên vẹn của tôi », tôi trả lời.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 3 (Markus Wolf)
“…Nếu các ông còn muốn nói chuyện với tôi, hãy mời tôi sang Hoa Kỳ một cách chính
thức và chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm chỉnh, như nguời lớn. Tôi cần được biết đất nước
của quý ông để tôi có thể quyết định…”
Một lần nữa, người đối thọai với tôi cười gằn. Đương sự nói tiếp là một số tiền rất lớn sẽ
được trao cho tôi. Chúng tôi không đề cập đến những chi tiết, nhưng tôi biết một sĩ quan
của tôi phụ trách về điệp báo nhắm vào Hoa Kỳ, Jürgen Rogalla, đã được một trưởng ban
CIA tại Bá Linh hứa trao một triệu Mỹ kim để đương sự khai hết những gì đương sự biết,
nhưng anh ta đã từ chối. Chúng tôi xã giao bàn về những hậu quả của sự sụp đổ của chủ
nghĩa cộng sản và danh tiếng tốt của cơ quan do tôi chỉ huy.
« Lẽ cố nhiên, » ông nói « ông phải làm một việc gì đó cho chúng tôi ».
Lo ngại phải nhắc lại lời mời của chính quyền Đức trong việc khai tên các nhân
viên của tôi để bù lấy tự do, tôi trả lời tôi không sẵn sàng trao danh tánh của bất cứ nhân
viên nào của tôi.
« Chắc chắn sẽ có đền bù cho ông trong vấn đề này, lẽ cố nhiên là vậy » Hathaway
nói.
Câu này gây cho tôi một cảm giác khó chịu, có lẽ vì nó gợi lại phong cách của
chính tôi khi tôi dùng lối tâng bốc và kẻ cả để nói chuyện với nhân viên của tôi vào thời
vàng son của tôi. Cái đám người này là cái thá gì mà dám nói với tôi như vậy.
« Thưa quý ông », tôi trả lời, « Tôi có rất nhiều kinh nghiệm trong việc các ông
đang cố gắng làm hôm nay. Tôi biết rất rõ các ông nghĩ gì. Các ông đòi hỏi đối tác của
các ông rất nhiều nhưng đối tác của các ông không lấy gì làm vồn vã. Các ông phải biết
kiên nhẫn. Các ông phải bàn thảo rất nhiều chuyện và mổ xẻ kỹ lưỡng vấn đề trước khi đi
đến một quyết định chính thức ».
Đây là lối diễn tả khéo nhất những gì tôi suy nghĩ. Nhưng trong thâm tâm tôi chỉ
muốn nói toẹt với Hathaway là đương sự lầm to, đương sự nói chuyện với tôi như thể nói
chuyện với một nhân viên quèn mà đương sự có thể mua và bán dễ dàng. Tôi muốn nói
thẳng với đương sự làm việc như vậy không được, chúng ta phải nói chuyện một cách
nghiêm chỉnh trên cấp độ của hai người biết chuyện quá thành thạo.
« Nhưng ông phải giúp chúng tôi, » Hathaway nói.
«Có lẽ điều này đúng nếu tôi cầu cứu đến các ông » tôi nói, lần này không cần dấu
diếm sự bực tức của tôi, « Các ông có thể vặn hỏi tôi đóng góp được gì cho các ông.
Nhưng đàng này tôi không nộp mình cho các ông. Chính các ông đến đây mời gọi tôi ».
« Vâng, vâng, » Hathaway vội vã nói « đúng là chúng tôi đặc biệt đến Bá Linh để
nói chuyện với ông ».
« Luôn luôn có giới hạn trong những cuộc bàn thảo như vậy, » tôi nói « Giới hạn
của tôi là tôi không bao giờ phản bội bất cứ ai làm việc cho tôi. Không tên tuổi gì hết.
Nếu các ông còn muốn nói chuyện với tôi, hãy mời tôi sang Hoa Kỳ một cách chính thức
và chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm chỉnh, như nguời lớn. Tôi cần được biết đất nước của
quý ông để tôi có thể quyết định. ».
« Nhưng an ninh của ông ở đây không khả quan chút nào, » Hathaway phản bác,
nhắc nhở cho tôi biết nếu tôi ở lại Đức, chỉ còn một vài tuần nữa tôi sẽ bị bắt và điều này
tôi biết quá rõ.
« Nước Nga luôn chờ đón tôi », tôi đáp lại.
Khi nghe câu này, người đối thoại với tôi thình lình trỗi dậy, cảm nhận đương sự
đang đấu giá với một đối thủ uy thế khác.
« Chớ đi Moscow, » đương sự nói « Đời sống nơi đó cực lắm. Hãy nghĩ đến
Andrea. Hãy đến một nước mà mọi sự sẽ thoải mái cho ông, nơi đây ông có thể làm việc
và viết sách một cách yên tĩnh. Theo ý kiến cá nhân của tôi, điều này chỉ có thể thực hiện
được tại Hoa kỳ mà thôi ».
Viễn tượng về hưu sung túc và nằm phơi nắng tạiCalifornia hoặcFlorida hơn là nếm
mùi vị của nhà tù Đức đối với tôi thật là quyến rũ. Nhưng tôi vẫn cảm thấy bất an khi
nhìn thấy viễn tượng nộp mạng làm con tin cho CIA. Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu họ quyết
định siết chặt gọng kềm lên tôi ? Đoán chừng họ cũng ghi âm buổi nói chuyện, và họ có
thể hô hoán là tôi đã ngụy tạo cuộc họp nếu cuộc đàm phán bất thành. Tôi muốn có được
bảo đảm là họ thật tâm muốn tiến xa hơn nữa để tôi có thể tiếp tục nói chuyện ; vì vậy tôi
yêu cầu họ viết thư mời tôi sang Hoa Kỳ, qua trung gian của một cơ quan ngoại vi của
CIA.
Các vị khách của tôi không hài lòng với lời đề nghị của tôi, họ giải thích rằng họ
làm việc trong một khuôn khổ giới hạn số khách ngọai quốc được mời, khó vượt qua. Lẽ
cố nhiên họ lo ngại Tây Đức sẽ khám phá việc trao đổi này. Dù sao đi nữa, việc âm mưu
thu nhận một cán bộ cao cấp đã từng làm việc lâu năm cho kẻ thù như tôi được coi như
một phản bội lớn đối với các đồng minh tại Âu Châu và đặc biệt đối với Đức. Tôi đề nghị
họ tìm một nhà xuất bản hoặc một hãng phim gà nhà qua đó họ mời tôi với tư cách là tác
giả – một phương pháp hiệu nghiệm để ngụy trang một công tác. Đây chắc chắn là
phương pháp để dàn xếp một cuộc trao đổi tại khối Đông Âu, và tôi thiết nghĩ CIA có
thừa phương tiện để kiếm ra một tổ chức viết thư mời rồi sau đó biến thành thường trú tại
Hoa Kỳ nếu cuộc trao đổi thành công.
Bầu không khí chìm trong im lặng một lúc lâu, sau đó Hathaway lắc đầu. Nhưng rồi họ
bỏ lửng, tiếp tục nhấn mạnh tôi có thể có những đóng góp giá tri cho cơ quan CIA mà
không phản bội các nhân viên của tôi. Lần hồi tôi mới hiểu rõ họ không như chính phủ
Tây Đức, họ không ưu tiên chú ý đến những việc làm của tôi với tình báo Đông Đức,
nhưng chú ý đến những hiểu biết của tôi về KGB và cơ cấu của cơ quan tình báo Xô Viết.
« Thưa quý ông, » tôi nói, với hy vọng đưa cuộc thảo luận đi mau chóng vì tôi bắt
đầu ưu tư, « tôi không biết rõ quý vị thuộc ngành nào trong cơ quan, nhưng tôi có thể
đoán chừng. Có phải quý ông muốn tôi cung cấp một sự kiện rất đặc biệt cho quý ông, có
phải thế không ? »
Cuối cùng Hathaway nói toạc vấn đề.
« Ông Wolf, » ông nói nhỏ nhẹ, « chúng tôi đến đây vì chúng tôi biết ông có những
thông tin trong đường dây họat động có thể có ích cho chúng tôi trong một trường hợp
đặc biệt trầm trọng. Chúng tôi đang tìm một tên nằm vùng ngay trong cơ quan chúng tôi.
Y đã gây thiệt hại rất lớn cho chúng tôi. Đã xẩy ra nhiều chuyện không tốt cho chúng tôi
khoảng năm 1985. Không những tạiBonn mà còn tại những nơi khác nữa, những nơi mà
ông rất quen thuộc. Chúng tôi đã thiệt mạng vài người – có thể từ 30 đến 35, và từ 5 đến
6 thuộc thành phần cao cấp».
Ông có vẻ thông thạo Tình Báo Xô Viết và biết rõ ai chỉ huy ngành điệp vụ hải ngọai và
những công tác của ngành này. Điều này xác định nhận xét trước đây của tôi trong lúc
nói chuyện, ông là một nhân vật cao cấp trong tình báo Mỹ. Chúng tôi nói chuyện dè dặt
về những tên phản bội nổi tiếng của Xô Viết – Penkovsky, Gordievsky, Popov – những
người đã thay lòng đổi dạ giúp cho Hoa Kỳ theo kịp tình báo Xô Viết. Ông cảm phục
tướng Kireyev, một người bạn đồng nghiệp của tôi, đứng đầu phản gián hải ngọai
tạiMoscowvà tôi đã từng phối hợp với ông trong nhiều cộng tác chống lại CIA. Ông cũng
biết đôi chút về những cơ sở này và muốn quay cuộc thảo luận sang ông Felix Bloch, một
nhân viên ngoại giao Mỹ mà CIA tình nghi đã bịMoscowmóc nối, nhưng họ không đưa ra
tòa xét xử vì thiếu tang chứng. Tôi đoán chừng trung tâmLangleyđã rất khổ sở tìm kiếm
những mối giây liên lạc của tôi với KGB và họ hy vọng trong vấn đề này họ có thể biết
được danh tính của tên nằm vùng mà họ tìm kiếm.
Tôi không rõ việc này. Loại tin tức này được mấy ông Xô Viết bảo vệ rất chặt chẽ. Tôi
cũng không hề báo cho Xô Viết biết danh tính của những điệp viên nằm vùng cao cấp
cũng như nhân viên của tôi, mặc dù ngoài mặt chúng có cùng chung chí hướng anh em.
Cùng lắm chúng tôi nói nhẹ nhàng với nhau chúng tôi có « người ngồi » trong lòng của
địch thủ, và không thêm một chi tiết nào khác.
Qua lối tiếp cận khẩn khoản và những cố gắng dai dẳng của Hathaway để dẫn dụ tôi ngả
theo phiá Hoa Kỳ, rõ ràng là CIA đang ở trong trạng thái hoảng hốt vì bị xâm nhập. Họ
phải ngậm đắng nuốt cay để trình bày vấn đề của họ cho tôi. Hơn nữa, họ có thể gây hiềm
khích với đối tác Tây Đức khi họ tiếp xúc với tôi. Trong những trường hợp vô vọng như
vậy, ngay cả những gắn bó ý thức hệ cao độ nhất cũng vỡ tan.
Ngày 29 tháng 5 họ trở lại lần nữa, nhưng chúng tôi không đạt đến một thỏa hiệp nào để
chính thức mời tôi sang Hoa Kỳ. Hathaway nói ông sẽ báo cáo cho Webster và nếu tôi
muốn xúc tiến vấn đề này, tôi có thể liên lạc với ông. Họ thật sự hy vọng, với áp lực mỗi
ngày một kề cận tội bị bắt giam, tôi sẽ chấp thuận khép mình duới lọng che của họ, theo
những điều kiện họ muốn. Đến đây Charles nhập vào chuyện và nói với Andrea, mô tả
những vui thú tại Hoa Kỳ. Trước khi lên đường, họ trao cho tôi một số điện thoại miễn
phí của trung tâm Langley, và chúng tôi trao đổi mật tự để liên lạc mai sau. Tôi không
cung cấp và cũng không hứa bất cứ điều gì với họ. Tôi biết họ đang chơi trò chờ đợi và
tình trạng của tôi mỗi ngày bi thảm hơn.
Vào trung tuần tháng 8 lời mời của chính quyền Đức do Peter-Michael Diestel đứng ra
làm trung gian mất đi hoàn toàn hiệu lực. Tôi nhận thấy những lựa chọn của tôi không
còn bao nhiêu. Cơ quan CIA lẽ cố nhiên cũng tiên đoán như vậy, vì họ liên lạc với tôi lần
nữa cũng theo con đường cũ. Chúng tôi thu xếp một cuộc gặp gỡ khác tại dacha của tôi
và Hathaway một lần nữa nhắc nhở điều ông gọi một cách tế nhị « tình thế khó khăn »
của tôi. Webster, ông nói tiếp, vẫn tiếp tục từ chối gởi lời mời đích danh cá nhân tôi,
nhưng họ vẫn sẵn sàng mở cửa đón nhận tôi tại Hoa Kỳ với điều kiện tôi giúp họ săn lùng
tên điệp viên nằm vùng. Lần này Charles có vẻ họat bát hơn. Y giải thích nếu tôi quyết
định kêu gọi sự giúp đỡ của họ, tôi có thể phái Andrea đến trạm xe hỏa Bahnhof Zoo nằm
phía Tây của Bá Linh và gọi một số điện thọai miễn phí. Andrea tự giới thiệu là Gertrud
và nói « Tôi muốn nói chuyện với Gustav ». Cuộc đào thoát của tôi như vậy đã được tính
toán tại Bá Linh và một người tên Charles sẽ đảm nhiệm trường hợp của tôi.
Tôi đoán chừng từ đó mật hiệu Gertrud sẽ tự động chuyển sang Trung Tâm Langley và
đồng thời cho cả đầu giây CIA tại Bá Linh. Bốc tôi ra khỏi nước Đức không phải là một
chuyên khó, có lẽ bằng máy bay, tương tự như Xô Viết đã làm khi họ đưa vị lãnh tụ thất
sủng Erich Honecker ra khỏi Đông Đức trên một chiếc máy bay quân sự để đến Moscow.
Hồi tưởng năm 1945 ngồi trên một trong những chuyến bay đầu tiên trở về nước Đức
Cộng Sản từ Moscow sau khi Hitler sụp đổ, tôi suy gẫm tịnh huống trớ trêu của tôi chấm
dứt sự nghiệp 45 năm sau lại trốn bỏ Bá Linh dưới sự bảo trợ của Hoa kỳ.
Chúng tôi có thêm một lần họp nữa, lần này tại căn phòng trong thành phố của tôi, và
cuối tháng 9, nhưng không có một tiến triển nào trong lời mời của Hoa Kỳ.
Tới đây, Tòa Biện Lý Tây Đức trịnh trọng tuyên bố các sĩ quan cảnh sát đã bày binh bố
trận trước cửa nhà tôi vào đêm ngày 2 tháng 10 để bắt tôi. Tờ báo lá cải Bild-Zeitung đã
gởi một đại diện đến đề nghị trả chi phí tòa án bào chữa cho tôi bù lại họ được độc quyền
đăng tải về việc bắt giam tôi. Tôi nói với họ tôi sẽ nghĩ đến việc này. Đây là cả một trò hề
dàn cảnh mà tôi không muốn tham dự vào. Tôi nói với tờ Bild-Zeitung tôi không có ý
định rời bỏ nước Đức. Điều này hầu như là đúng, vì chắc chắn tôi có ý định rời bỏ nước
Đức một thời gian, nhưng tôi không biết phải đi nơi nào. Vì khi tôi từ chối trở thành một
tên phản bội theo mệnh lệnh củaBonn, tôi đã từ bỏ mọi lựa chọn để ở lại Đức để tránh
không phải ra tòa và cố nhiên vào tù.
Mãi sau này tôi khám phá ra tên tuổi của tay nằm vùng đã làm đau đầu CIA. Tên của y là
Aldrich Ames, tên phản bội tai hại nhất trong lịch sử gián điệp Hoa Kỳ. Ames đã lợi
dụng vị thế của mình trong trách vụ truy lùng những công tác phản gián của Xô Viết trên
khắp thế giới để bán cho Xô Viết tên tuổi các điệp viên của Hoa Kỳ, và đã hữu hiệu phá
vỡ mạng lưới tình báo của Hoa Kỳ tại Liên Bang Xô Viết từ bên trong. Hắn phục vụ
choMoscowtrong vòng 9 năm, cả dưới chế độ cộng sản và thời của BorisYeltsin, trong
chức vụ này và sau này trong ngành bài trừ ma túy. Qua cuộc buôn bán, hắn đã nhận 2,7
triệu Mỹ kim ; sự kiện này biến hắn trở thành tên nằm vùng đắt giá nhất trong lịch sử
điệp báo. Ông Gardner A. Hathaway, người khách từ Langley đến gặp tôi không chỉ là
một đặc phái viên của William Webster, nhưng, sau này tôi được biết, ông là Giám Đốc
ngành phản gián Hoa kỳ, về hưu vài tháng trước khi đến thăm tôi.
Gus Hathaway, một sĩ quan kỳ cựu của Nha Giám Đốc Điều hành Công tác của CIA,
nhận trách vụ được hơn một năm, ghi nhận một số tín hiệu càng ngày càng nhiều có một
tên phản bội ở cấp cao trong cơ quan. Ông là một trong những người hiếm hoi biết rõ
những tổn thất nặng nề của điệp báo Hoa Kỳ trong lòng Liên Bang Xô Viết – mười vụ
hành quyết và một chục bị kết án tù nặng – và ông am hiểu rất rõ sự hiện diện của tên
phản bội trong hàng ngũ đang làm xuất huyết tình báo Hoa Kỳ.
Tôi cũng tìm hiểu về Hathaway và có điều gì đó nơi ông làm cho tôi kính phục. Khi
tôi được biết ông ta vừa về hưu, tôi có phần tâm cảm với ông trong tư cách của một sĩ
quan tình báo về hưu. Giống như trường hợp của tôi, ông không có khả năng chấm dứt
cuộc đời sự nghiệp của ông và đơn sơ hưởng những năm còn lại để làm vườn, nghỉ mát,
và tận hưởng tất cả những thú vui gia đình mà chúng tôi mơ ước khi về hưu. Ông bị lôi
cuốn vào mớ bòng bong chết người mà ông đã bỏ những năm cuối làm việc để tìm cách
gỡ rối : Ai là kẻ phản bội liên tục ngay trong cơ quan của ông? Tôi liên tưởng đến ánh
mắt của ông khi chúng tôi đối diện nhau ông thú nhận sự thất bại của CIA trong những
lời ngắn ngủi và đứt đọan. Có lẽ ông đã hy sinh tự ái rất nhiều để đi sang Bá Linh cầu
cứu với kẻ thù trước đây. Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp và vì cá tính, ông bị ám ảnh
trong việc truy tìm tênAmes. Đơn vị truy lùng cũng được giữ bí mật ngay trong nội bộ
CIA. Đội truy lùng phần đông gồm những sĩ quan về hưu để bảo vệ bí mật và được gọi là
Toán Công Tác Đặc Biệt. Toán này có một nữ sĩ quan cao cấp trong ngành điều nghiên –
một sự kiện hiếm có trong CIA hoặc trong các cơ quan tình báo khác. Bà này đã tìm hiểu
trường hợp của một tên nằm vùng gốc Trung Hoa làm việc cho CIA trong vòng 30 năm
mà không hề bị phát giác và trường hợp của một đồng nghiệp đáng kính trong cơ quan
tình báo Xô Viết. Tôi khâm phục khả năng điều hành của Hathaway. Trong vị thế của
ông tôi sẽ hành sử đúng như ông đã hành sử và giữ số người trong đội càng ít càng tốt.
Dùng những sĩ quan đã về hưu là một phuơng thức hành sử càng khôn ngoan hơn nữa, vì
dùng những nhân viên làm việc trong Ban Điều Nghiên Xô-viêt của CIA sẽ có nguy cơ
báo động và ngay cả tuyển chọn tên nằm vùng. Phương sách hoạt động trong những
trường hợp này phải là : bủa lưới một cách nhẹ nhàng.
Cuối cùng cơ quan FBI, đối thủ của CIA, phát giác hành tung củaAmes. Tôi ngờ
những khó khăn Hathaway vấp phải là do thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu hiểu biết. Hơn
thế nữa, ông không phải là một người có nhiều sáng kiến và, theo lời của một vài đồng
nghiệp của ông, ông là người của bàn giấy. Nhưng tôi không trách lỗi ông đã thất bại
trong việc nhận dạng tên phản bội đã đánh phá tình báo Hoa Kỳ như con vi khuẩn độc hại
nằm trong ruột. Công việc bội bạc và mệt nhọc để truy lùng tên phản phé lúc nào cũng có
vẻ giản dị khi nhìn lại hơn là lúc đang lâm cuộc. Những điểm then chốt lúc nào cũng có
vẻ hiển nhiên – nhưng chỉ sau khi lùng bắt đuợc con mồi.
Tìm những điểm lạ trong phong cách của một tên nằm vùng là phương pháp đúng
đắn. Nhưng rất nhiều người trong bất cứ ngành nghề nào – chưa kể đến nghề điệp báo
đầy bức xúc – cũng có vấn đề rượu chè, tư cách hoặc vấn đề gia đình, họ cảm thấy không
được cấp trên đánh giá đúng mức hoặc cần tiền nhiều hơn mức thu nhập lương thiện của
họ. Các nhân viên trong ngành điệp báo do môi trường bưng kín họ sống hoặc làm việc
được khuyến khích cảm nhận những nguyên tắc áp dụng cho những người khác nhưng lại
không áp dụng cho họ. Các nhân viên CIA nỗ lực làm việc trong ngành phản gián Xô
Viết phải biết rõ tâm não của kẻ địch để rồi càng ngày càng dễ rơi vào lối suy nghĩ của
địch thủ và rồi, như trong trường hợp của Ames, những mối ràng buộc với quốc gia và cơ
quan của mình tự nhiên tan biến do những mặc cảm thua kém và ấm ức dồn nén.
Khi Xô Viết móc nối Ames vào năm 1985, đương sự đuợc điều khiển bởi Stanislav
Androsov, một nhân viên KGB thường trú ( sĩ quan KGB được chính thức bổ nhiệm) tại
Đại Sứ Quán Xô Viết tại Washington. Một năm sau Ivan Semyonovich Gromakov thay
thế Androsov. Tôi quen biết Gromakov từ năm 1960 khi ông làm giám đốc đơn vị KGB
tại Đức (Cục 4 của Đệ Nhất Tổng Cục). Tôi biết Gromakov nói được tiếng Đức, tôi
không rõ về khả năng tiếng Anh của ông, vì vậy tôi hơi ngạc nhiên nghe tin bổ nhiệm ông
tạiWashington. Người ông dáng dấp thấp béo và vui tính, mắt đeo gương. Ông có thói
quen khó chịu gầm thét làm người khác nhảy nhổm mỗi khi ông nâng ly chúc mừng sự
thành công của KGB. Tôi không hề được nghe ông nói về việc bắt con mồi lớn này, như
tôi có thể mường tượng nỗi vui sướng của ông, khi ông làm việc ngay trong lòng địch và
Ames rơi vào trong rọ của ông.
Khi câu chuyện phản bội của Ames được tiết lộ, tôi thật sửng sốt không ngờ hắn làm
việc không bị phát giác một thời gian khá lâu và phản gián Hoa Kỳ tỏ ra quá bất tài và
quá tuyệt vọng để buộc phải cầu cứu cấp lãnh đạo điệp báo của kẻ thù để tìm hắn.
Quý vị có thể lấy làm lạ vì tôi sẵn sàng nói chuyên với CIA. Dù sao đi nữa, tôi
không có ý định rời nước Đức và tôi đã chính thức tuyên bố tôi không có ý định di cư.
Tôi phản đối Tây Đức với tư cách kẻ chiến thắng Chiến Tranh Lạnh đòi áp đặt hình thức
pháp luật của họ lên tôi và các đồng nghiệp của tôi; đối với tôi đòi hỏi này mang sắc thái
một đòn trả thù. Lời mời của CIA lôi cuốn tôi chỉ vì nó cho phép tôi tam thời rời đất nước
tôi trong những ngày đầu thống nhất hai nước. Tôi biết trong những tuần lễ và tháng đầu
lòng hăm hở trả thù lên cao. Nếu có thể, tôi muốn tránh giải pháp lánh nạn sangMoscow,
vì sự biệt tích của tôi tạiMoscow là một tín hiệu không tốt cho mối liên lạc của tôi với
nước Đức mới, tạo nên lý cớ khuyến khích những người trong nước két án tôi. Tôi sẽ bị
tố cáo là trốn sangMoscow để đưa tên tuổi những điệp viên, lời đồn này đã được tung ra
khi tôi chạy sangMoscow ở hai tháng vào đầu năm 1990. Thực tế không phải như vậy.
Tôi quá nhiều lo lắng trong việc tìm cách tránh đỡ cho cá nhân tôi cũng như cho các nhân
viên cũ của tôi, các điệp viên và các người nằm vùng không bị truy tố để tôi có thời giờ
chơi trò nước đôi với Xô Viết.
Giả như CIA chuẩn bị đón nhận tôi sang Hoa Kỳ, có lẽ tôi sẽ đắn đo suy tính chấp
nhận lời mời này như một giải pháp tạm thời hữu lý. Nhưng tôi nghi ngại một khi thỏa
thuận xong xuôi và tôi bay sang Hoa Kỳ không có lời mời chính thức, CIA có thể phao
tin tôi xin đầu thú và ép tôi hợp tác với họ theo điều kiện của họ. Với phong cách hống
hách của một cơ quan tình báo lớn, CIA chắc mẩm tôi mong ước làm việc với họ nên tôi
sẵn sàng tự đặt vào một vị thế yếu kém, một trường hợp mà mọi người đào thoát khôn
ngoan đều muốn tránh – bị ép buộc phải thương luợng trên lãnh thổ của kẻ địch. Mặc dù
Hathaway đích thân sang Bá Linh ngày 26 tháng 9 và chúng tôi đã chuẩn bị hành lý, cuộc
thảo luận cuối cùng của chúng tôi cũng chỉ mệt nhọc quay luẩn quẩn không đi đến đâu
cả.
*
Điều mà không một ai có thể ngờ kể cả Hoa Kỳ, Nga vả Tây Đức, có một tay bí mật
khác nhảy vào đấu giá. Đó là Do-thái. Tôi là người Do thái, một điều không bình thường
trong giới lãnh đạo tình báo cao cấp của khối Xô Viết. Chính xác hơn, tôi có nửa phần
Do thái vì mẹ tôi là Gentile (người không theo đạo Do Thái). Nhưng cũng đủ thành người
Do thái để bị phân loại và bị bách hại theo luật pháp phân biệt chủng tộc Nuremberg
được ban bố năm 1936 , nếu gia đình của tôi bị Đức Quốc Xã bắt kịp khi chúng tôi trốn
chay sang Pháp rồi sau đó sang Nga. Chủ thuyết tôi theo đuổi một khi Chiến Tranh Lạnh
chấm dứt có thể biến tôi thành kẻ kình địch củaIsrael. Nhưng tôi luôn quan tâm theo dõi
tình hình Do thái, và gia đình tôi đã cho phép tôi thừa hưởng truyền thống Do thái, chưa
kể đến đức tin Do thái.
Mối liên lạc của tôi với Tel Aviv (thủ đô Do thái) đến rất trễ nếu không muốn nói là
bất ngờ, do sự xuất hiện của tôi nhân một buổi họp ngày 4 tháng11 năm 1989 tôi kêu gọi
cải cách trong chế độ Đông Đức. Tại đây tôi gặp một phụ nữ tên Irene Runge, người điều
khiển trung tâm Văn Hóa Do thái, thành lập tại Đông Bá Linh vào những thập niên 1980
sau hàng chục năm truyền thống Do thái bị đàn áp tại Đông Âu, do sự cấu kết giữa Cộng
Hòa Dân Chủ Đức với khối Ả-rập. Tôi trả lời cuộc phỏng vấn của Irene để đăng trên một
nhật báo Do thái, và tôi tham dự một cuộc họp của hội bà ta với tư cách là khách, sau đó
tôi không màng đến nữa.
Vào mùa hè năm1990, thình lình bà ấy gọi tôi để báo tin ông Rabbi Tsvi Weinman,
một vị lãnh đạo cao cấp của Chính Thống Giao tại Jerusalem, muốn làm quen với tôi.
Đúng hôm đó rơi vào ngày thứ sáu, có nghĩa là Ngày Sabbath Do thái sẽ khởi sự lúc mặt
trời lặn và vị này không thể nào gặp gỡ tôi tối nay được. Tôi điện thoại cho ông và chúng
tôi vui vẻ đùa cợt với nhau và đồng ý gặp nhau lần tới khi ông ghé Bá Linh. Không bao
lâu sau ông xuất hiện trở lại nói rằng lý do chính ông đến đây là để thăm trung tâm Văn
Hóa Do-thái. Tôi mời ông đến căn phòng của tôi. Ông đến rất đúng giờ hẹn. Ông trạc 50
tuổi, đội nón vành tròn đen và không có một dấu hiệu nào khác chứng tỏ ông là Do thái
chính thống giáo. Ông ân cần hỏi thăm tình trạng của tôi, ở vị trí của một người có bản
sắc Do thái và kinh nghiệm bách hại, trước tình thế sắp đương đầu với tòa án chính trị
của nước Đức. Ông khôn khéo tránh đề cập đến công việc trước đây của tôi, nhưng hỏi
tôi có muốn thăm viếng Israel không. Tôi liền suy nghĩ mục đích của ông Weinman
không lẽ chỉ vì vấn đề văn hóa. Liền sau đó tôi nhận được thư của một nhật báo Do-thái
tờ Yediot Abranoth mời tôi sang thăm viếngIsrael.
Tìm hiểu về Weinmann tôi được biết có lời đồn ông làm việc cho Mossad (tình báo
Do thái) hồi còn thanh niên. Ông đích thân phản bác chuyện này và nói ông đã phục vụ
trong quân đội nhưng không hề làm việc cho ngành tình báo. Chúng tôi thường xuyên
điện thoại cho nhau và trông chờ chuyến đi của tôi, và tôi hình dung bộ mặt thiểu não của
Bonn, Moscow và Washington khi họ thấy những hàng tựa lớn đăng tin sự xuất hiện
thình lình của tôi tại Israel. Tôi đoán chừng Mossad cũng muốn dò xét những hiểu biết
của tôi về những nhóm Palestine và hoạt động của họ, một điều mà tôi biết rất ít, nhưng
tôi quyết định bước qua cầu khi tôi đặt chân xuống Đất Thánh. Dù gì đi nữa, cuộc viếng
thăm này cho tôi một cơ hội mới để thoát ra khỏi nước Đức. Tôi không thể nào để cho
miếng mồi này vuột khỏi tay tôi.
Hai tuần trước ngày thống nhất nước Đức, tôi nhận cú điện thoại bất ngờ của
Weinmann. Ông có vẻ thất thần và hơi ngượng ngùng. Cuộc viếng thăm bị bãi bỏ. Tờ báo
không còn chú ý đến tôi, ông nói, vì sự xuất hiện của một quyển sách chỉ trích Mossad và
phương pháp làm việc của cơ quan này đã gây phẫn nộ trong quần chúng. Bây giờ không
đúng thời điểm để mời tôi sang. Tôi hiểu ngay là Do thái lạnh cẳng vào giờ phút chót,
chắc chắn họ e sợ tất cả những dịch vụ tôi cung cấp cho họ không bù lại những tai hại mà
tôi có thể gây nên cho mối giao hảo của họ với Tây Đức vì sự hiện diện của tôi tạiIsrael.
Cánh cửa hy vọng vừa hé mở đã bị đóng xầm lại. Nhưng Tel Aviv không cắt đứt hoàn
toan mối dây liên lạc với tôi. Sau cuộc điện đàm với Weinmann, tôi nhận được một cú
điện thọai khác từ tòa báo, hứa cấp cho tôi chiếu khán và vé máy bay vào một ngày khác.
Tôi dàn xếp để họ cất giữ cho tôi tạiVienna. Nhưng khi tôi kiểm soát lại một vài tuần sau,
tôi không nhận được gì cả. Nếu quả vé đó nằm tại đây thì nay nó không còn đó nữa.
Đến đây áp lực rất mãnh liệt, và tôi biết chính quyền Đức nông nón nhìn thấy tôi
đứng trước vành móng ngựa. Tôi trốn nơi nào đây? Và giá phải trả là bao nhiêu? Tôi
không còn lựa chọn nào đáng trông đợi nữa, và tôi không còn đủ thời giờ nữa.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 4 (Markus Wolf)
“…Chúng tôi cũng được huấn luyện kỹ lưỡng về kỹ thuật tuyên truyền. Trong một lớp
huấn luyện, một người được chỉ định để trình bày những lý luận của kẻ thù Quốc Xã đạt
đến mức thuyết phục tối đa, trong khi đó những người khác phản bác lại với những luận
cứ chống phát-xít…”
Thoát khỏi ác bóng Hitler
Cha tôi, Friedrich Wolf, sinh tạiRhinelandnăm 1888, xuất thân từ một gia đình Do thái
ngoan đạo. Buổi thiếu thời, bố mẹ muốn ông trở thành thầy cả Rabbi, nhưng ông kháng
cự và đòi học y khoa. Lòng tôn thờ chủ nghĩa Mác-xít đạt đến cao độ năm 1928, vào lúc
ông 40 tuổi, và ông thấm nhập chủ thuyết này qua những nẻo đường ngoằn ngoèo. Ông
không thuộc diện trí thức phải bắn bỏ lúc khởi sự Cách Mạng Tháng Mười năm 1917 tại
Nga. Xuất thân từ một gia đình tiểu tư sản Do thái – cha của ông là một thương gia – cha
tôi trôi nổi trong phong trào hiếu hòa và mộng tưởng, góp nhặt tư tưởng của Tolstoy,
Strindberg, Upton Sinclair, Nietzsche và Kropotkin, trước thời kỳ hãi hùng Thế Chiến
Thứ Nhất. Ông ta phục vụ trong quân đội của Kaiser (tước hiệu Đế Vương của nước Đức
từ 1871-1918) và bị trọng thương nhưng đồng thời ông cũng bị cấp sĩ quan Đức hất hủi
khinh thường, khiến ông trở nên cực đoan và bài bác tinh thần quốc gia. Thất vọng vì sự
thất bại của các nhà cách mạng Đức trong nỗ lực xây dựng một quốc gia công bằng và
bình đẳng vào năm 1918 và sau đó vào những năm đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa Đức, ông
chuyển hướng sang ôm ấp những lời hứa hẹn đem hài hòa xã hội và kinh tế do Mác và
Lê-nin đề xướng.
Nhưng gia đình chúng tôi luôn có khuynh hướng cực đoan. Cha tôi thường nói với tôi
giáo dục chính trị của ông bắt đầu lúc ông 5 tuổi, khi bà ông bế ông đi xem Kaiser kéo
màn khai trương pho tượng của Friedrich Wilhelm, một nhà lãnh đạo Đức vào thế kỷ thứ
19. Trong lúc quần chúng tung hô vị lãnh tụ và ngóng cổ để nhìn cho rõ pho tượng, bà
nâng cao thằng bé lên và nói thẳng thừng, « Fritzsche, đây không phải là tay anh hùng,
đây là một quan vua ham chuộng súng đạn đã ra lệnh bắn các công nhân ». Bà ám chỉ
cuộc tàn sát đẫm máu của Friedrich Wilhelm dẹp cuộc nổi loạn đòi tự do năm 1848 tại
Đức. Else, mẹ của tôi, cũng có đầu óc trái khoái. Trẻ hơn cha tôi 10 tuổi, có bộ tóc vàng
của miền Rhineland, mẹ tôi đã đoạn tuyệt với gia đình khi quyết định lấy một anh Do
thái.
Cả đến khi chết cha tôi vẫn còn để lại một hình ảnh nhiều mâu thuẫn. Tại trung tâm bùng
binh gọn ghẽ của thành phố nhỏ Neuwied, trên bờ sông Rhine về phía Nam của Bonn, có
treo một tấm bảng tưởng nhớ ghi sinh nhật của ông ngày 23 tháng 12 năm 1888. Gần đó
cũng có một con đường mang tên ông, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhật của ông. Việc
treo dựng tấm bảng này suýt nữa tạo nên một cuộc nội chiến nhỏ chưa từng thấy tại thành
phố Neuwied, vì cha tôi, ngoài danh tiếng quanh vùng là một y sĩ nhiều kinh nghiêm và
là một nhà biên sọan kịch, ông cũng là một người Cộng Sản năng nổ, một lọai anh hùng
địa phương ít được tưởng niệm tại những thành phố ấm cúng của nước Đức.
Sau ngày xụp đổ của Đông Bá Linh, tôi may mắn được thăm viếng trở lạiNeuwied. Tôi
có cảm giác ngỡ ngàng khi rảo bước trên những con đường thuộc nửa phần đất nước của
tôi, những con đường tôi quen thuộc rất nhiều mà tôi chỉ nhìn thấy rất ít. Suốt thời gian
Chiến Tranh Lạnh, tôi không hề liều bước trên đường phố Tây Đức. Những chuyến đi ra
ngoài khối Đông Âu trong những chục năm tôi làm giám đốc điệp báo Đông Đức chỉ nằm
trong dịch vụ những công tác cần thiết, thường để gặp gỡ các điệp viên vì vấn đề an ninh
ngăn cản họ di chuyển đến chúng tôi.
Tôi sinh đẻ tại Hechingen, một thị trấn nhỏ theo đạo Công giáo vùng nông thôn nằm phía
Nam nước Đức. Đó là ngày 19 tháng Giêng năm 1923, vào những năm lạm phát hoành
hành đến độ cha mẹ tôi cảm thấy an tâm mỗi khi cha tôi thu được y phí của các bệnh
nhân vùng nông thôn dưới dạng bơ và trứng. Chúng tôi là một gia đình năng động, khác
thường so với lối sống của phần đông dân cư trong vùng. Cuộc sống không thay đổi bao
nhiêu khi chúng tôi dọn đến ở Höllsteig, phiáNamnước Đức gần biên giới Thụy Sĩ.
Cha tôi là một tín đồ điên cuồng của thể dục thể lực, ông ưa chuộng nhào nặn thân hình
lực sĩ của ông đến mức toàn hảo. Ông cũng là người tiên phong chủ trương sống khỏa
thân. Vì vây trong gia đình có nhiều bức hình để lộ cha tôi, tôi và Konrad em trai nhỏ hơn
tôi gần ba tuổi trần truồng chồng chất lên nhau trong một tư thế thể thao uốn éo. Koni và
tôi nghĩ chuyện này bình thường, mặc dù các bạn học cùng lớp khúc khích cuời mỗi khi
chúng tôi đưa hình cho họ xem. Nhiều tấm hình như vậy được dùng làm mẫu cách trí và
in trên sách của cha tôi, một quyển sách bán rất chạy tựa Die Naturols Arzt und
Helfer(Dùng Thiên nhiên làm Thầy Thuốc và Thầy Trợ Giúp), một tiểu luận về đồng liệu
tương pháp ông viết khi chúng tôi ở Höllsteig, ông nói về mối tương quan giữa sức khỏe
và điều kiện sống và làm việc của mỗi cá nhân. Những phát kiến như vậy sau này trở
thành những hiểu biết thường thức ngày nay chúng ta gọi là y học phòng bệnh. Tuy
nhiên,vào thời đó, những điều này không được công nhận là chính thống, và cộng đoàn y
sĩ tỏ ra khó chịu với cha tôi, vì họ thấy công trình nghiên cứu của cha tôi về những
nguyên nhân bệnh tật sẽ dẫn đến một cuộc thảo luận rộng lớn hơn về xã hội và tình cảnh
của người nghèo, điều mà họ muổn tránh.
Nhưng quyển sách đạt thành công lớn trong quần chúng, bán được hàng ngàn bản, và trở
thành một loại thánh kinh về sức khỏe mọi người bình thường phải có. Sách này đã trở
thành một bài khoa học thường thức, và mấy năm về sau, nó thoát cao trào Đức Quốc Xã
cấm đoán sách của tác giả Do thái. Thành tựu tài chánh của quyển sách đã cho phép gia
đình chúng tôi dọn đến một căn nhà khang trang tạiStuttgart, một thành phố có truyền
thống yêu chuộng nghệ thuật từ thời các vị vương công cấp tiến cùng với quần thần với
tư tưởng phóng khoáng.
Mẹ tôi là người điềm đạm và hiền hậu nhưng không thiếu can đảm, cho dù phải chịu
đựng những lục soát thô bạo của Quốc Xã trong nhà hoặc của công an mật vụ Stalin.
Dưới triều đại khung bố của Stalin, đã có lần bà cho trú ẩn gia đình của một người bị tù,
một hành động có thể khiến bà vào tù hoặc tệ hơn nữa. Cũng vào thời kỳ gia đình chúng
tôi lưu ngụ tại Nga, khi nghe mẹ của Lena, em gái cùng cha khác mẹ của tôi, bị bắt tại
vùng Volga, mẹ tôi từ thủ đô tìm đuờng đến cứu giúp và đem Lena về ở với chúng tôi.
Chính mẹ chúng tôi nuôi dưỡng chúng tôi khi cha chúng tôi lâu ngày vắng mặt vì đi tình
tự hoặc vì hoạt động chính trị. Nhưng mặc dù vắng mặt cha chúng tôi vẫn đóng vai trò
quan trọng khi ông gởi thơ nhắn nhủ và dậy dỗ cách ăn ở để trở nên con người xã hội chủ
nghĩa đứng đắn và tự trọng. Lẽ tất nhiên ông là người có ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ
nhất vào thời niên thiếu của tôi. Mẹ chúng tôi phiền muộn rất nhiều vì những mối tình
của ông với những người đàn bà khác. Do sự kiện này, ông có đầy con cái, anh em và chị
em dị bào với tôi và Koni và chính con cháu của họ cũng rải rác hai bên bờ giới tuyến của
Cuộc Chiến Tranh Lạnh. Đến nay, tôi có họ hàng tại Đức, tại Nga, và tại Hoa Kỳ do kết
quả những mối duyên tình của ông.
Người ngoại cuộc nhăn mày vì những mối tình lãng du này, nhưng tôi và Koni chẳng
thèm để ý. Nó đã trở thành một phần thiếu thời của chúng tôi mỗi khi cha tôi tuyên bố
chúng tôi sẽ gặp gỡ một anh em hay chị em dị bào mới. Những đứa con khác mẹ này
được mẹ tôi đối xử như người trong gia đình với lòng rộng mở. Cuộc hôn nhân của họ
vẫn tồn tại vượt qua những mối tình kia và cha mẹ chúng tôi vẫn sống chung với nhau
cho đến khi ông qua đời tại Đông Đức năm 1953.
Tinh thần năng động của Friedrich thật đáng nể. Ông từ bỏ Đảng Dân Chủ Xã Hội Độc
Lập năm 1928, gia nhập Đảng Cộng Sản Đức, và ra ứng cử hội đồng xã Stuttgart với tư
cách đảng viên Cộng Sản; ông nhận được 20 phần trăm số phiếu. Vở kịch « Cyanide »
ủng hộ việc trụy thai năm 1929 đã đưa ông vào tù một thời gian ngắn ngủi và biến ông
thành phát ngôn nhân chính thức của cánh chính trị cực đoan. Năm 1931 ông vào tù lần
nữa, lần này ông bị tố cáo phá thai để tìm lợi nhuận. Sau khi ông và người biện hộ cho
ông, cả hai được tha bổng, hai người rời Đức để đi Liên Xô, và sau đó trở lại Đức cùng
năm.
Koni và tôi theo học trường các nhà cải cách giáo dục có tinh thần cấp tiến mạnh mẽ của
Đức vào thời đó và chúng tôi được khuyến khích tìm hiểu vùng nông thôn và phát biểu
một cách tự do. Cha mẹ chúng tôi bấy giờ cả hai đều là Cộng Sản; em trai Koni và tôi gia
nhập tổ chức thanh niên Cộng Sản, Thiếu Niên Tiền Phong, ngay khi chúng tôi còn ở
Đức. Chúng tôi thắt khăn quàng đỏ với niềm hãnh diện lớn và chăm chú nghe những câu
chuyện về Cách Mạng tại « Liên Bang Xô Viết vĩ đại ». Không khí trong gia đình đã có
ảnh hưởng quyết định trên suốt cuộc đời chúng tôi, trừ việc kiêng chay vì cha mẹ tôi chỉ
ăn thực vật. Chúng tôi thèm chảy dãi nhìn những miếng thịt nguội và nước tương Đức
trong hộp đựng thức ăn trưa của các bạn cùng trường, và thằng em trai tuyên bố « khi nào
em lớn, em sẽ ăn cả một con bò ». Nhưng ấn tượng sâu xa và lâu bền nhất họ để lại cho
chúng tôi là lòng yêu quí thiên nhiên và thể dục thể lực, và con đường chính trị cực tả
lồng trong những vở kịch của cha tôi phô bày cuộc đấu tranh của nông dân và công nhân
đuợc Đoàn Kịch Công Nhân Tây Nam lưu diễn. Tôi bắt đầu cảm thấy tôi là chiến sĩ chính
trị, quyên góp ủng hộ cho nhưng công nhân thép đình công, tham dự các chiến dịch, và
lắng nghe những biện luận mạnh mẽ của người lớn trong những ngày cuối trước khi
Hitler lên nắm chính quyền.
Với đầu óc non nớt của một cậu bé trong một gia đình bố mẹ Cộng Sản tại Đức, tôi cảm
nhận Stalin như một mẫu người khôn ngoan và xa cách, giống như một ông ảo thuật gia
giàu lòng nhân từ trong những câu chuyện thần tiên. Tôi thường mộng tưởng và tự hỏi
đời sống tại « Liên Bang Xô Viết vĩ đại » ra sao – trong hàng nhiều năm tôi vẫn nghĩ đó
là tên chính thức của một quốc gia – và kết luận đó là một nước trắng xóa, tuyết bao phủ
và đầy những người tốt lành dưới sự hướng dẫn của vị phù thủy tốt lành. Koni, em trai
tôi, có năng khiếu hơn tôi, đặt bút chuyển đổi ý tưởng ra hình, đã bỏ ra hàng giờ phóng vẽ
những bức họa của vị lãnh tụ vĩ đại dưới hình dạng vị anh hùng trong chuyện thần tiên.
Nhưng vào thơì điểm đó, tôi không trông mong gì tiếp cận được thực cảnh của Xô Viết.
Sau khi Quốc Xã lên nắm chính quyền năm 1933, đời sống của chúng tôi tại Đức trở nên
bất kham. Việc đốt cháy Quốc Hội Đức tại Bá Linh và lời cáo buộc gian trá đổ tội bọn
Cộng Sản có trách nhiệm trong vụ này đã gây nên một cuộc săn lùng các thành phần Tả
Phái. Cha tôi, cảm thấy lâm nguy vì vừa là Do Thái vừa là Cộng sản, bỏ trốn sang Áo.
Trong một trong những cuộc lục soát nhà cửa tiếp theo đó, tôi trả lời một cách trơ tráo
với một trong những tên áo nâu SS. Y đẩy ép tôi vào tường và hăm dọa đưa tôi « vào trại
Heuberg » nếu tôi không khai báo hành tung của cha tôi. Heuberg là trại tập trung đầu
tiên ở trong vùng, nơi các người đối lập chính trị bị giam giữ. Người lớn khi đề cập đến
nơi này họ chỉ thì thầm, và tôi bối rối không hiểu rõ những gì xảy ra trong đó; vào lúc
thiếu thời, tôi nhìn xung đột giữa hai bên Quốc Xã và Phe Tả như một lọai đụng độ giữa
hai băng đảng. Tôi biết những người mặc áo nâu, biểu lộ tính chất bộ lạc, khác rất xa với
gia đình chúng tôi; và tôi cảm thấy mình là một chiến sĩ trẻ sẵn sàng chiến đấu.
Vào thời điểm này, lần đầu tiên tôi ý thức được căn cước Do Thái của tôi. Tôi còn nhớ
sau một cuộc lục soát đặc biệt thô bạo, anh em chúng tôi rất đỗi phẫn nộ vì bọn côn đồ
nhảy xổ vào phòng chơi của anh em chúng tôi, hất vung vãi đồ chơi và sách vở quý báu
của chúng tôi, và mẹ tôi, lấy tất cả bình tĩnh để che giấu nỗi kinh hoàng trong lòng, đưa
chúng tôi đi xe đạp dạo qua cánh đồng tươi tốt vùng nông thôn Swabian để thăm Moritz
Meyer, cậu của cha tôi mà chúng tôi thân mật gọi là «Öhmchen.»
Dân thành phố nhỏ Hechingen coi Öhmchen là một người hơi kỳ dị. Sau thời gian làm
việc chăm chỉ, ông về hưu để sống với ngỗng trong rừng và có một chút ít danh tiếng nhờ
tài chữa bệnh thấn kỳ. Điều hầu như chắc chắn là ông đã ảnh hưởng đến cha tôi, khiến
cha tôi chuyển từ ngành y khoa thông thường sang ngành điều trị đồng vi phân kháng
tính và điều khoa dùng dược liệu thiên nhiên, và cha tôi hiến tặng quyển sách về cách
điều trị theo thiên nhiên của ông của cho ông cậu. Cuộc thăm viếng bằng xe đạp của
chúng tôi nhằm ngày lễ Vượt Qua (lời của dịch giả : lễ Vượt Qua là ngày lễ người Do
Thái kỷ niệm ngày Thượng Đế trừng phạt dân Ai-cập, giết những đứa bé đầu lòng của
người Ai-cập và «vượt qua» những nhà có con cái Do-thái. Để nhận biết nhà Do thái,
Thượng Đế nhắn dân Do Thái bôi máu cừu lên cửa nhà của họ. Dưới thời vua Ramsès Đệ
Nhị, dân Do Thái làm nô lệ cho Ai- Cập, và Môi-sen đã làm phép lạ rẽ đôi Biển Đỏ để
đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai-cập và tiến về miền đất hứa đi tìm tự do), vì vậy ông cậu
chỉ cho chúng tôi ăn bánh mì không men, không tạo hứng thú cho khẩu vị trẻ con của
chúng tôi, vì vậy để bù trừ thiệt thòi này, ông cậu kể cho chúng tôi nghe câu truyện trang
nghiêm và khích động lấy từ quyển Thánh Kinh Torah và giải thích ý nghĩa những ngày
lễ Do-thái.
Một vài tháng sau, mẹ tôi, em trai tôi và tôi được đem đi trốn sáng Thụy sĩ với sự trợ giúp
của các đảng viên Cộng Sản tại đây, đảng Cộng Sản lúc bấy giờ trở thành bất hợp pháp.
Từ đó chúng tôi chạy sang Pháp, tại đây chúng tôi chính thức được xem là « những người
ngoại quốc bất hảo » và được đem đi trốn trên hòn đảo nhỏ Bréhat ở Brittany; nơi đây
cha tôi gặp gỡ lại gia đình. Tại đây cha tôi biên sọan xong vở kịch Professor Mamlock,
một áng văn chương đầu tiên làm chứng cho cảnh bách hại dân Do Thái tại Đức. Trước
khi đem trình diễn lần đầu bằng tiếng Đức tại Zurich, vở kịch đã được diễn xuất tại các
nhà hát Do Thái tại Warsawa và Tel Aviv, và đã gạt hái những thành công rực rỡ khắp
nơi trên thế giới. Một phim dựa trên vở kịch đã được quay tại Liên Bang Xô Viết và mãi
sau này Koni em trai tôi quay lại lần thứ hai. Nhờ phim được trình chiếu tạiNew Yorkvào
năm 1939, tên tuổi cha tôi được biết đến tại Hoa kỳ.
Không bao lâu sau bọn Quốc Xã phản ứng vì sức thành công của vở kịch này, – lẽ đương
nhiên chưa bao giờ được trình diễn tại Đức đương lúc họ cầm quyền. Tất cả của cải của
chúng tôi bị tịch biên và tên của cha tôi được liệt kê trong danh sách những tác giả « có
bài viết tác hại và bất hảo ». Sau đó tất cả gia đình bị tước quyền công dân Đức và vào
khỏang năm 1937, không những tên tuổi của ông, mà tên tuổi mẹ tôi, tôi và em trai tôi
đều xuất hiện trong danh sách truy nã của Nhà Nước. Điều này khiến mấy đứa thiếu niên
chúng tôi cảm thấy mình đã thành người lớn. Nếu chỉ có một biến cố định hướng cuộc
đời chính trị của một người, đối với tôi đây chính là biến cố: bị liệt kê là kẻ tội phạm bởi
chính đất nước của mình.
Nếu chúng tôi không lẩn trốn sang Thụy-sĩ, có lẽ chúng tôi đã chia sẻ số phận của các
thân bằng quyến thuộc Do Thái mà sau này tên tuổi được luôn mãi ghi tạc trên Bia
Tưởng Niệm Yad Vashem tạiJerusalem. Tỉ dụ như ông cậu Öhmchen, ông đã không thoát
khỏi Họa Hỏa Diệt. Một tù binh Đức tạiMoscowkể lại cho tôi ông cậu đã bị bắt đi và đã
chết trong trại tập trung Mauthausen tại Áo. Ông được tám mươi tuổi khi ông chết.
Sáu mươi năm sau, dạo trên đường phố sạch bóng Hechingen, tôi tưởng nhớ đến ông cậu
và không khỏi rùng mình lạnh xương sống, một cảm giác chỉ có người Đức nhận biết khi
đương sự nhìn tận mặt những người đàn ông đối diện cùng lứa tuôi và trộm nghĩ họ hành
sử ra sao dưới thời Quốc Xã: Họ đã chứng kiến bao nhiêu việc và họ đã xóa bỏ bao nhiêu
ký ức tội lỗi? Có lẽ thành phố lớn dễ xóa nhòa dấu vết dĩ vang mau hơn các thị trấn nhỏ
tại Đức vì đầu óc tôi bất an khi suy nghĩ đến các đồng hương tôi khi tôi đến các thị trấn
nhỏ.
Đến đây Quốc Xã thu hồi trương mục của chúng tôi trong ngân hàng và tịch thu tài sản
của chúng tôi. Việc Liên Bang Xô Viết đón nhận chúng tôi là một cái phao cứu mạng cha
mẹ chúng tôi, Koni và tôi. Nhờ sự trợ giúp của Vsevolod Vishnevsky, bạn của cha tôi và
cũng là sọan giả bi kịch, cha tôi kiếm được một căn nhà nhỏ hai phòng tại Lộ Nizhny
Kizlovsky, một trong những con đường quanh co của thế kỷ 19 nằm trong trung tâm cổ
của Moscow, nấp đàng sau đại lộ chính, khu Arbat, nơi các nhà văn và trí thức yêu
chuộng. Vào tháng Ba năm 1934, mẹ tôi, em trai tôi và tôi theo ông đến đây.
Chúng tôi hội nhập từ từ với ngôn ngữ và văn hóa lạ lùng, e ngại lối hành sử mạnh bạo
của những đứa trẻ chơi cùng sân. «Nemets-perets, kolbassa, kislaya kapusta, » bọn chúng
hò hét: Bọn Đức – muối tiêu, tương, cải chua». Bọn chúng cũng chế diễu áo khoác ngắn
của chúng tôi và chúng tôi nài nỉ mẹ tôi cho chúng tôi cái dài hơn. Cuối cùng bà xiêu
lòng và thở dài: «Chúng bay trở thành người lớn sạch sẽ rồi đấy».
Chẳng bao lâu chúng tôi bị lôi cuốn bởi môi trường bao quanh. Trải qua thời niên thiếu
trong một làng xã Đức quốc, chúng tôi choáng ngộp vì cảnh sinh động của thành thị với
phong cách mạnh bạo và sắp sẵn. Thời kỳ này thiên hạ vẫn còn khạc nhổ vỏ hạt hướng
dương xuống đất và cỗ xe ngựa kéo vẫn còn cọc cạch trên đường phố Moscow vẫn là một
«ngôi làng lớn», một thành phố với lối sống của nông dân. Đầu tiên chúng tôi theo học
trường Đức Karl Liebknecht (một trường học cho con cái của những bố mẹ nói tiếng
Đức, lấy tên của một nhà lãnh tụ Xã Hội theo phong trào nổi dậy Spartacist tháng Giêng
năm 1919, bị ám sát sau đó không bao lâu), sau đó, chúng tôi vào trường Trung Học Nga.
Ở tuổi niên thiếu khó mà phân biệt chúng tôi với các bạn gốc bản xứ học cùng trường, vì
chúng tôi dùng ngôn ngữ đàm thọai Nga với giọng Nga. Chúng tôi có hai người bạn đặc
biệt, đó là George và Victor Fischer, hai người con trai của ký giả Hoa Kỳ Louis Fischer.
Chính họ đã gắn cho tôi biệt hiệu «Mischa»,và từ đó gắn chặt vào tên tôi. Em tôi, Koni, e
ngại bị ngồi chầu rìa lấy tên Nga thu ngắn là «Kolia».
Thành phốMoscowvào thập niên 30 trong ký ức của tôi luôn là thời tranh tối tranh sáng.
Thành phố thay đổi trước mắt chúng tôi. Bấy giờ tôi trở thành một thanh niên khá chững
chặc và không còn xem Stalin là ông ảo thuật gia nữa. Các cao ốc mới với nhiều tầng bắt
đầu xuất hiện quanh điện Cẩm-linh và số lượng xe cộ di chuyển bất thình lình gia tăng,
các xe sedan đen láy thay thế cho những xe ngựa kéo, làm như thể có ai vẫy một chiếc
đũa thần biến Moscow của qua khứ trở thành một phong cảnh vị lai. Các hầm xe điện
khang trang, với những bóng đèn kiểu Art Déco và cầu tháng máy thẳng giốc làm choáng
váng mặt mày, ồn ào sinh động, và chúng tôi bỏ cả một buổi trưa sau khi tan trường đi
xem những vòm trần,vang dội như ngôi nhà thờ lớn dưới hầm. Thảm cánh thiếu ăn thập
niên 20 chợt đến, nhưng mặc dù cảnh cao ốc mới mẻ, các bạn bè của gia đình chúng tôi,
phần đông là trí thức Nga, phải sống chật chội trong những căn phong nhỏ bé. Diễn hành
ngày 1 tháng Năm (Ngày Quốc Tế Lao Động) thật là ngọan mục. Những tin tức khích lệ
trong ngày đem lại cảnh rực rờ của thời đại, chẳng hạn như cảnh cứu thoát can truờng của
đội thám hiểm Chelyushkin khỏi băng đá trong vùng Biển Arctic sau khi họ chiếm đóng
Bắc Cực. Chúng tôi theo dõi những biến cố này với hứng thú của những đứa trẻ Tây Âu
xay mê đội bóng đá hoặc đội baseball của mình.
Với cùng một đam mê Koni và tôi, cả hai đều gia nhập Thanh Niên Tiền Phong Xô Viết
– một tố chức thiếu niên Cộng Sản tương đương với Hướng Đạo – và chúng tôi học
những bài hát chiến trận ca tụng đấu tranh giai cấp và Tổ Quốc. Là Thanh Niên Tiền
Phong, chúng tôi diễn hành trong ngày trọng đại Cách mạng tháng 11 tại Quảng Trường
Đỏ kỷ niệm Cách Mạng Xô Viết, hô to những khẩu hiệu vinh danh trước hình tượng nhỏ
bé mặc áo choàng đứng ở lan can phía trên mộ của Lê-nin.Chúng tôi nghỉ cuối tuần ở
ngọai ô nông thôn Moscow, đi lượm nhặt dâu và nấm bởi vì cha chúng tôi mặc dù sinh
sống tại thành phố nhất quyết bảo tồn lòng yêu mến thiên nhiên theo quan niệm sống của
ông. Tôi vẫn thèm những món ăn của Đức và thấy chương trình ăn uống Nga với món ăn
chính lúa mạch đen và thịt ba rọi cùng với sữa chua, thật là tẻ nhạt. Nhưng từ khi tôi bắt
đầu ưa thích các thức ăn đa dạng của Nga, và nếu buộc lòng nói, tôi giỏi nhất về món
nhồi Pelmini ở vùng Tây-Bá-Lợi-Á. Nhưng tôi chẳng bao giờ ưa thích món thịt ba rọi với
lúa mạch đen, có lẽ vì tôi tiêu thụ hàng tấn món này hồi thiếu thời.
Mùa hè tôi được phái vào trại Thanh Niên Tiền Phong và được phong chúc trưởng ban
lãnh đạo. Tôi viết thơ than phiền với cha tôi về kỷ luật quân đội dữ tợn và hèn hạ tại đây.
Tôi nhận trở lại một lá thơ đặc biệt lạc quan, khuyến khích tôi kháng cự lại chế độ kỷ luật
này bằng cách thành lập một ủy ban bao gồm những bạn đồng đội thiêu niên. « Hay nói
với họ Đồng Chí Sta-lin và Đảng không thể chấp nhận lãng phí này. Phẩm chất là quan
trọng. Bất cứ ở hoàn cảnh nào, với cương vị một Thanh Niên Tiền Phong và đặc biệt là
cấp lãnh đạo, con không nên cãi vã! Con và các trưởng nhóm khác phải đồng thanh lên
tiếng với ban quản trị trại… Con không có quyền nản chí ».
Liên Bang Xô Viết bây giờ là gia đình duy nhất của chúng tôi, và vào ngày sinh nhật tôi
tròn 16 tuổi, năm 1939, tôi nhận căn cước Xô Viết đầu tiên của tôi. Cha tôi viết cho tôi
từParis« Bây giờ con đã trở thành công dân thực thụ của Nhân dân Xô Viết », điều làm
cho tôi cảm thấy hãnh diện. Nhưng càng lớn lên, tôi ý thức được tinh thần mộng tưởng
lây lan của cha tôi không phải là sở trường của tôi. Bản tính tôi thực tiễn hơn cha tôi. Lẽ
cố nhiên, đây là một thời gian say đắm nhưng đồng thời cũng là thời kỳ thanh trừng;
những người đã từng được ca tụng là anh hùng Cách Mạng nay bị tố cáo một cách dã
man đã phạm tội và thường bị kết án tử hình hoặc bị giam tại các trại tù ở miền Bắc Cực.
Mạng lưới do NKVD – cơ quan công an mật vụ tiền thân của Sở Mật Vụ KGB – bủa ra
xiết chặt vòng vây các bạn di cư và những người thân thuộc. Tình trạng này khiến các
thanh niên chúng tôi bối rối, mù tịt và khó hiểu, vì chúng tôi được dậy dỗ trong truyền
thống tin tưởng Liên Bang Xô Viết là hải đăng của tiến bộ và tinh thần nhân bản.
Nhưng trẻ con rất bén nhạy trước những im lặng và tránh né, và chúng tôi thầm hiểu
chúng tôi không thể nào biết toàn bộ sự thật về môi trường quanh chúng tôi. Rất nhiều
giáo viên giảng dạy cho chúng tôi mất tích trong khoảng thời kỳ thanh trừng 1936-38.
Trường học đặc biệt dậy tiếng Đức cũng đóng cửa. Trẻ con chúng tôi để ý người lớn
không bao giờ nói đến những người « mất tích » trước mặt mọi người trong gia đình, và
chúng tôi tự động kiêng dè thói tục xã giao kỳ lạ này. Cho đến khi chúng tôi chạm trán
tính cách quy mô và kinh hoàng của những tội ác của Stalin và trách nhiệm của ông trong
những vụ này. Nhớ lại thuở trước, ông là lãnh tụ, là hình ảnh của một người cha, với
khuôn mặt chữ điền, với bộ râu ria, ánh mắt nhìn thẳng của một người có viễn kiến qua
những bức hình treo trong các lớp học của chúng tôi. Con người và công trình của ông
đứng trên mọi phê bình, đứng trên mọi nghi vấn. Năm 1937, khi guồng máy tàn sát bắt
đầu chạy với mức độ hữu hiệu khủng khiếp, một trong những người quen biết của gia
đình chúng tôi, Whilhelm Wloch, người đã liều lĩnh làm việc cho Comintern (Cộng Sản
Quốc Tế) trong bóng tối tại Đức và hải ngoại, bị bắt. Những lời cuối cùng ông nói với vợ
như sau: «Đồng chí Stalin không hề biết việc này».
Lẽ cố nhiên, cha mẹ chúng tôi che dấu chúng tôi những nỗi lo sợ về cảnh đổ máu này.
Trong tâm trí của họ, mặc dù họ có những mối nghi ngờ và thất vọng, Liên Bang Xô Viết
luôn là «nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên » mà họ đã hãnh diện báo cho chúng tôi biết sau
khi họ thăm viếng năm 1931.
Cha tôi, bây giờ tôi biết, lo sợ cho tính mạnh của ông mặc dù vợ và các con ông có quốc
tịch Xô Viết vì chúng tôi sống nơi này, ông sống phần lớn thời gian ở ngọai quốc và vì
vậy ông không có quốc tịch này. Tuy nhiên , ông vẫn có thể di chuyển với thông hành
Đức, dù là quốc tịch này của ông đã bị thu hồi. Ông cũng đã nộp đơn xin phép chính
quyền Xô Viết rờiMoscowđể đi Tây-Ban-Nha, tại đây ông muốn đem tài bác sĩ để phục
vụ cho Chiến Đòan Quốc Tế đánh lại chế độ Phát-xít của tướng Franco thời kỳ nội chiến
tại đây. Tây-Ban-Nha là một đấu trường quân đội Quốc Xã dùng để thử nghiệm tiềm
năng tiêu diệt của họ, họ thực tập để chuẩn bị tấn công sau này các thế lực yếu kém khác.
Khắp châu Âu, các chí nguyện quân thiên tả đổ xô vào để giúp cánh Cộng Hòa chống lại
nhóm quân đội nổi dậy của Tây-Ban-Nha. Đối với nhiều người tại Liên Bang Xô Viết,
tham dự chiến trận tại đây có nghĩa là rời khỏi Liên Bang Xô Viết và tránh xa không khí
đàn áp của những cuộc thanh trừng. Một chục năm sau, một người bạn tin cậy trong gia
đình kể cho tôi nghe cha tôi tìm cách để đi Tây-Ban-Nha: «Mình không lẽ ngồi đây mãi
để chúng đến bắt». Tiết lộ này khiến tôi đau lòng, mặc dù tôi đã trưởng thành, vì sự kiện
này cho tôi thấy cha mẹ chúng tôi che dấu rất nhiều phiền muộn và chuyện thầm kín
không cho trẻ con chúng tôi biết vào thập niên 1930, và không biết bao nhiêu sầu muộn
đã được cất giấu quanh chúng tôi trong đám bạn bè của chúng tôi tại Moscow.
Cha tôi chẳng bao giờ đi được Tây-Ban-Nha. Đơn xin chiếu khán cả năm không được trả
lời. Càng ngày càng nhiều bạn bè và người quen biết trong cộng đồng Đức bị mất tích và
cha mẹ chúng tôi không còn che dấu được mối lo âu. Có một hôm giữa đêm thình lình
chuông cửa reo, cha tôi thói thường bình tĩnh đã nhảy nhổm và phát cáu. Khi được biết
người khách lạ chỉ là ông láng giềng đến mượn một món vật gì đó, cha tôi bình tĩnh trở
lại, nhưng tay ông run bần bật đến nửa tiếng đồng hồ mới hết.
Có lẽ ông có người đỡ đầu che chở trong cấp lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đức lưu vong.
Tôi biết ông liên lạc với Whilhelm Pieck, một trong những khuôn mặt lớn vào thời đó và
Pieck kính trọng cha tôi. Hay có lẽ ông gặp may. Dù sao đi nữa, ông được phép rời
Moscow năm 1938 và đi sang Pháp; tại đây vào lúc khởi sự Đệ Nhị Thế Chiến ông bị bắt
giữ một cách oái oăm vì là kẻ thù ngọai lai mang thông hành Đức. Tệ hại hơn nữa, sau
khi Quốc Xã chiếm nước Pháp năm 1940, ông và các bạn cùng tù trong trại Le Vernet
phải được trao trả cho chính quyền Đức, có nghĩa là chắc chắn ông sẽ bị giết. Nhưng
cũng có thể nhờ vậy ông có cơ hội di cư sang Hoa Kỳ, nhưng trên đơn xin ông phải tuyên
bố ông không bao giờ là đảng viên Cộng Sản, điều ông từ chối vì tính ông trung thành.
Mẹ tôi ba năm trước đó đã hạch sách các cơ quan chính phủ tại Moscow, nơi ông tìm
cách bỏ đi, để cha tôi có được quốc tịch Xô Viết và hồi hương. Cuối cùng ông trở thành
công dân Xô Viết vào tháng 8 năm 1940.
Nhưng đến đây Hiệp Uớc Hitler – Stalin ký kết tháng Tám năm 1939 khiến cho đời sống
các di dân Đức tại Moscow khó khăn hơn bao giờ hết. Các cơ quan đã từng tiếp đón
chúng tôi như những nạn nhân của nhà nước ác độc Đức nay nhận lệnh không được khơi
động những cảm nghĩ xấu về Hitler. Đặc biệt đối với những gia đình như chúng tôi, đã
phải trốn chạy khỏi nước Đức để tránh họa Quốc Xã, thật là khó hiểu khi cấp lãnh đạo Xô
Viết lại có thể thỏa hiệp với họ. Vì chúng tôi là những thành phần năng động trong
Komsomol (Đoàn Thanh Niên Cộng Sản), chúng tôi được thông báo đó là cách duy nhất
của Stalin để tránh Liên Bang Xô Viết bị tấn công, và các cường quốc Tây Âu mong
muốn Nước Cộng Sản của chúng ta phải « xuất huyết cho tới chết » vì ngọn gươm của
Quốc Xã. Lối giải thích này có phần thuyết phục vào lúc đó, mặc dù chúng tôi cảm nhận
đối với cha mẹ chúng tôi đó là một xúc phạm khi Cộng Sản thỏa hiệp với tên độc tài mà
họ trốn chạy.
Để hòa nhập vào môi trường mới của chúng tôi, Koni và tôi, chúng tôi tự Nga hóa chúng
tôi một cách mau chóng. Chúng tôi nói tiếng Nga suốt ngày tại trường học cùng với các
bạn học, chỉ nghe tiếng Đức khi tối về trong phòng chúng tôi. Tôi cảm thấy thích thú khi
các đứa trẻ khác kêu tôi Mischa, có nghĩa là người ta có thể nhận lầm tôi là người Nga.
Chúng tôi lên giường ngủ, tai nghe đài phát thanh giọng thét của Hitler tung hô vinh
quang của Đế quốc Đức.
Khi tôi kết thúc chương trình trung học, tôi bắt đầu học ngành kỹ sư hàng không. Nhưng
thình lình tình hình biến đổi khi Quân Đội Hitler tấn công Liên Bang Xô Viết với một
mãnh lực hung bao trong chiến dịch Barbarossa. Khi quân đội Đức tiến đến gần Moscow
năm 1941, gia đình các thành viên của Hội Đoàn Kết Văn Sĩ, trong đó có gia đình chúng
tôi, được di tản đến Alma-Ata, thủ đô của Kazakhstan, cách Moscow 4 ngàn dặm
( khoảng 640 cây số). Nỗi hãi hùng trong chuyến đi ba tuần lễ vượt qua vùng Ural vẫn
còn sống động trong ký ức của tôi. Chuyến xe hỏa của chúng tôi bò trên tuyến đường sắt,
và cứ một tiếng đồng hồ xe chúng tôi phải rẽ tránh sang một bên để chuyến xe hỏa đi
ngược chiều tiến về phía trận tuyến. Cha tôi chăm sóc bà Anna Akhmatova, thi sĩ nổi
tiếng của Nga, tiều tụy và đau yếu. Hai người chồng của bà đều mất tích trong cuộc thanh
lọc và một đứa con trai nằm trong trại tập trung. Tôi được phép lấy cho bà phần thức ăn
cấp dưỡng gồm bốn trăm gram bánh mì đen và một ít nước ấm. Linh hồn của văn học
Nga nằm hôn mê và mệt mỏi, nay chính quyền chính thức coi bà như « vô danh », nhưng
vẫn được giới trí thức thờ phụng như một thần tượng đúng lúc họ đi cùng một chuyến xe
hỏa của Hội Đoàn Kết Văn Sĩ.
Alma-Atalà một nơi hẻo lánh và lạnh lẽo, chúng tôi cách biệt thông tin vớiMoscow, đừng
nói chi đến thế giới. Phong cảnh đẹp, dân số chỉ gồm bốn ngàn người,Alma-Atabỗng
nhiên tràn ngập với một triệu dân tị nạn, và cuộc sống trở nên chen chúc và khổ cực. Năm
1942, Koni gia nhập Hồng Quân, nhưng vào lúc đó tôi được miễn vì ngành kỹ sư hàng
không là một công tác quan trong. Tôi vẫn đang ở tuổi lạc quan và nghĩ không một tai
họa nào có thể đổ lên đầu tôi, mặc dù xôn xao có tin quân đội Nga tổn thất nặng nề. Mặc
dù được miễn, tôi vẫn được huấn luyện quân sự, và vì tôi lớn nhất trong nhóm, tôi luôn
phải vác trên cái chân chạng ba đại liên nặng nề, nóng hơn một trăm độ Fahrenheit. Phần
lương thực của chúng tôi bớt đi chỉ còn năm trăm gram, và tôi có thể nói thật đó là lần
duy nhất trong đời tôi biết thế nào là đói. Nhưng có một vài trợ giúp và thay đổi nhờ giới
trí thức lưu đày Nga, đặc biệt là văn phòng quay phimMoscow. Buổi tối chúng tôi tìm
kiếm đến nhà đạo diễn đại tài Sergei Eisenstein, và ông đọc cho chúng tôi nghe những vở
đọan của phim Ivan The Terrible( Ivan Khủng Khiếp). Khi họ khởi sự quay phim, chúng
tôi đóng những vai phụ, nhận làm hiệp sĩ Đức xâm chiếm nhưng rồi bị đẩy lui. Nhờ có
tập luyện nhảy dù, tôi giữ những vai trò mạo hiểm, nhờ đó tiền lương tôi tăng gấp ba và
điều này giúp tôi trút bớt được gánh nặng buồn nản và thiếu thốn.
Đang học hành nửa chừng, tôi nhận được một điện tín bí mật, ký tên « EKKI Vilkov ».
Bốn chữ EKKI thay cho Executive Committee Communist International (Ủy Ban Điều
Hành Quốc Tế Cộng Sản) của tổ chức Comintern , và do cấp lãnh đạo ngành nhân sự và
cán bộ ký tên. Tôi được lệnh di chuyển đến Ufa trước tiên, thủ đô cộng hòa tự trị
Bashkiria, nơi Cộng Sản Quốc Tế (Comintern) và cấp lãnh đạo lưu vong của Đảng Cộng
Sản Đức được thuyên chuyển ra khỏi vòng vây Moscow.
Đảng quyết định gởi tôi đến trường Cộng Sản Quốc Tế, tại một ngôi làng nhỏ
Kushnarenkovo, cách Ufa 60 cây số, nơi các đảng viên Cộng Sản của các nước Âu Châu
bị chiếm đóng và nước Đại Hàn chuẩn bị giải phóng tổ quốc của họ và được huấn luyện
để đảm nhận trách nhiệm tương lai của họ. Tôi được dậy dỗ trong khuôn phép Thanh
Niên Cộng Sản nên tôi không thắc mắc về các quyết định, mặc dù tôi nuối tiếc giấc mơ
phác thảo họa đồ phi cơ Xô Viết bây giờ khó lòng thực hiện được. Ngoài những nuối tiếc
này, tôi đoan quyết cuộc đấu tranh chống Hitler quan trọng và vinh dự hơn việc học hành
của tôi.
Đời sống tại trường Quốc Tế Cộng Sản, một tổ chức có nhiệm vụ đẩy mạnh cách mạng
vô sản quốc tế, được tổ chức trong không khí bí mật, điều làm tôi tự cảm thấy rất trưởng
thành. Ấn dấu của Đảng ăn sâu vào tâm khảm của tôi nên khi Đảng đòi hỏi nơi chúng tôi
một việc gì, chúng tôi ngoan ngoan tuân thủ. Họ nói « Nhảy », chúng tôi trả lới « Cao đến
đâu?». Tính bí mật ngự trị tuyệt đối trong trường học. Người ta đạt cho chúng tôi những
bí danh – của tôi là Kurt Förster, theo tôi tên này nghe rất là hăng hái. Mặc dù tất cả
những thanh niên Đức biết nhau từMoscow, chúng tôi dùng những tên nay để gọi nhau –
một cách huấn luyện sơ khới trong phương pháp ngụy trang. Chúng tôi được huấn luyện
cách xử dụng tiểu liên, súng trường,và súng lục, chất nổ và lựu đạn, cách sử dụng « kỹ
thuật hoạch định mưu kế » trong các buổi họp và việc chuyển thông tin, căn bản trong
ngành điệp báo. Việc huấn luyện chính trị của chúng tôi đều nhắm vào thời gian thắng lợi
sau khi lật đổ Hitler. Chúng tôi quyết tâm thành lập một mặt trận chung bao gồm tất cả
các lực lượng chống phát-xít và dân chủ.
Chúng tôi cũng được huấn luyện kỹ lưỡng về kỹ thuật tuyên truyền. Trong một lớp huấn
luyện, một người được chỉ định để trình bày những lý luận của kẻ thù Quốc Xã đạt đến
mức thuyết phục tối đa, trong khi đó những người khác phản bác lại với những luận cứ
chống phát-xít. Tôi thích thú nhận thách đố đi sâu vào tư tưởng của kẻ thù và trình bày rất
rành mạch và với nhiều nhiệt huyết những lý luận ủng hộ Quốc Xã. Trong khi đó các học
viên chậm chạp hơn, có lẽ vì e ngại điểm sấu trong học bạ bi ghi nhận là thanh niên Cộng
Sản không kiên định, chỉ nhắc lại như con vẹt bài bản đã ghi giải thích sẵn không lấy gì
làm phấn khởi. Có một lần, các bạn học của tôi bị quở trách vì trả lời không đủ sâu sắc và
gẫy gọn chống lại những luận điệu của phát-xít, tôi nghĩ thế. Ông thầy chúng tôi la hét:
«Chúng bay làm nên trò trống gì nếu chúng bay phải lý luận với một tên Quốc Xã thực
sự? ». Tôi tranh đua thực sự trong những đấu trường ý thức hệ kỳ lạ này với Wolfgang
Leonhard; ông này vài năm sau, năm 1949, trốn chạy Đông Đức đế đi Nam Tư
(Yougoslavia) và trở nên một nhà nghiên cứu lỗi lạc về Liên Xô tại Đức và sau này tại
các đại học Harvard và Yale. Một trong những oan trái của đời tôi là khi Giáo Sư
Leonhard dùng tài biện luận ông đã mài dũa trong trường Quốc Tế Cộng Sản
(Comintern) để chống lại hệ thống Xô Viết, còn tôi, tôi vẫn tiếp dùng khả năng của mình
để bào chữa cho nó.
Tại trường Quốc Tế Cộng Sản, tôi gặp Emmi Stenzer, người vợ tương lai của tôi. Tôi
chưa bao giời gặp một người đàn bà nào đem hết tâm can vào công tác chính trị như vậy,
một công tác mà cô ta cống hiến cho người cha, ông Franz Stenzer, môt dân biểu Quốc
Hội bị Quốc Xã giết tại Dachau năm 1933. Cô có một người bạn trai người Tây-Ban-Nha
khi chúng tôi gặp nhau lần đầu, và chỉ sau khi chúng tôi rời trường Quốc Tế Cộng Sản và
gặp nhau lại tại Moscow, chúng tôi yêu nhau. Tôi thán phục tinh thần độc lập và ý chí
của cô sau bao nhiêu khó khăn thời niên thiếu. Cô đã trải cuộc đời trong cô nhi viên của
một thành phố kỹ nghệ thê lương của Ivanovo sau khi mẹ cô bị bắt tại Moscow vào
những thập niên 30 trong một cuộc bố ráp toàn diện các người ngọai quốc thường trú vì
tình nghi có họat động chống Xô Viết (mẹ cô sau này được thả ra).
Bertolt Brecht viết cho vợ Helene Weigel và nói đến tầm quan trọng của « sự vật
thứ ba » luôn luôn nằm giữa hai người – chia sẻ cùng một Hoài Bão – và trở nên một
thành phần sinh động của mối tình của họ. Thời buổi bây giờ, thiên hạ có thể chế diểu,
nhưng vào thời buổi tư tưởng chính trị có thể đưa đến cái chết hoặc tù tội, chúng trở
thành cơ cấu tình cảm và trí thức của đời người. Mặc dù tôi đã ly dị với Emmi sau gần ba
mươi năm ăn ở và đã tái giá hai lần, cô ta vẫn tiếp tục là bạn tri kỷ và giữ mối giây liên
kết tước đây với tất cả gia đình tôi qua việc quản thủ Thư Viện Friedrich Wolf tại Bá
Linh.
Ngày 16 tháng Năm, cuộc đời của tôi thay đổi bất chợt qua một khúc quanh khác. Chúng
tôi đến lớp học và thấy trên bảng ghi một thông báo giải thích vì « những sự khác biệt về
điều kiện giữa các nước nâng đỡ chế độ độc đoán Quốc Xã và các dân tộc yêu chuộng
hòa bình », Đảng Cộng Sản Quốc Tế và trường học cần phải giải tán. Lẽ cố nhiên có
những lý do chính trị nấp đàng sau. Giải tán Quốc Tế Cộng Sản là một thỏa hiệp giữa
Stalin và các nước Đồng Minh Tây Âu, vì các nước này xem Quốc Tế Cộng Sản là một
cơ quan xách động cách mạng trong nước của họ.Tôi cực kỳ may mắn vào thời điểm tôi
được tuyển dụng. Lớp tốt nghiệp trước tôi đã được thả dù vào nước Đức nhưng họ rơi
vào bẫy của phản gián Đệ Tam Quốc Xã, vì Quốc xã truyền đi những tần sóng phát thanh
đánh lừa các cơ quan trách nhiệm Xô Viết. Họ bị cơ quan Gestapo (Mật vụ của Đức
Quốc Xã) và cơ quan phản gián quân đội của Hitler bắt và đem tử hình. Hy sinh của họ
giúp cho đội xâm nhập của chúng tôi tránh chia sẻ cùng một số phận với họ. Chúng tôi
chuẩn bị một đội bảo trì máy móc ở trong một nhà nông trại và chúng tôi chuyển nhưng
kiện vật liệu lên trên bờ sôngBelaya.
Tuy nhiên chúng tôi không khỏi bỡ ngỡ vì quyết định này. Phải chăng các vị giáo sư của
chúng tôi nói rằng Quốc Tế Cộng Sản là muôn năm, là thành tố cao đẹp nhất của Đảng?
Nhưng toàn bộ huấn luyện nhằm mục đích dậy cho chúng tôi tuân lệnh không đặt vấn đề.
Chúng tôi được học tập để chấp nhận tất cả những gì Đảng ra lệnh là đúng, và chờ đợi
những mệnh lệnh mới.
Có lẽ vì tôi là con của một tác giả có tiếng, cấp lãnh đạo Đảng nhận xét tôi thích hợp
với nhiệm vụ thông báo và bình luận trên Đài Phát Thanh của Nhân Dân Đức (Deutsche
Volksender), tiếng nói của Đảng Cộng Sản Đức trên đài Moscow, vì vậy tôi trở về
Moscow. Tôi trở thành đảng viên chính thức lúc tôi hai mươi tuổi và tham dự các cuộc
hội họp trong khách sạn Hotel Lux cũ tại căn phòng của Wilhelm Piecke, sau này trở
thành tổng thống đầu tiên của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Chính tại đây, trong khách
sạn sau này trở thành trung tâm thanh lọc các đảng viên cộng sản ngọai quốc, tôi gặp lần
đầu các vị, như Walter Ulbricht và những người khác nữa, sau này sẽ quản lý đất nước
sau chiến tranh.
Emmi trong khi đó được gởi ra ngoài mặt trận để tuyên truyền tiêu cực qua máy vi âm
phát thanh bằng tiếng Đức trong chiến dịch chiến tranh tâm lý. Cô ta đi qua đi lại sát
chiến tuyến địch, la vang trong máy phóng thanh tuyên truyền chiến tranh đã chấm dứt và
kêu gọi binh lính Đức đầu hàng. Cô ta bị trọng thương tại Gomel, và vào ngày 24 tháng 9
năm 1944, ngại rằng chúng tôi sẽ chẳng còn bao giờ gặp mặt nhau nữa, chúng tôi làm
đám cưới. Tuy nhiên chúng tôi vẫn xa cách nhau trong những ngày tháng cuối của cuộc
chiến.
Ngày Mừng chiến thắng Đức Quốc Xã cuối cùng được cử hành vào tháng 5 và chúng tôi
không bao giờ quên nỗi vui mừng của cha mẹ chúng tôi và tôi hòa nhịp với đám
đôngMoscowhoan hỉ. Koni đã có mặt trên đất nước Đức và đã tham dự vào cuộc tiến
công sau cùng vào Bá Linh và được sáu huy chương khen thưởng vì lòng anh dũng. Em
tôi gởi thơ nói rằng nó đang chờ chúng tôi, và tôi bắt đầu đóng thùng tất cả tài sản của
thời niên thiếu Nga. Tại trường Quốc Tế Cộng sản, chúng tôi biết chúng tôi đang chuẩn
bị để trở về Đức sau khi Đồng Minh chiến thắng. Thời cơ này đã đến.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 5 (Markus Wolf)
“…Chúng tôi tiếp cận một số hồ sơ đảng viên Quốc Xã của Đệ Tam Đức Quốc và chúng
tôi dùng những hồ sơ này để thuyết phục những người Tây Đức đã xóa bỏ quá khứ cộng
tác với Quốc Xã về cộng tác với chúng tôi…”
Chương 3
Đệ tử của Stalin
Năm tôi mười một tuổi tôi rời nước Đức và đi Moscow và thêm mười một năm tôi
mới trở về Đức. Có người thường gọi đùa tôi có « nửa máu Nga », hàm ý có vẻ khen
nhưng đôi khi cũng soi bói, nhưng tôi không hề coi đó là một lời mắng nhiếc, việc bảo trợ
của người Nga là một yếu tố thiết yếu trong sự nghiệp của bản thân tôi. Các bạn đồng chí
Cộng Sản Đức biết cuộc đời niên thiếu của tôi được nhào nặn tại Liên Bang Xô Viết cùng
với tinh thần sâu xa của dân tộc Nga. Việc tiếp cận khắng khít với Liên Bang Xô Viết cho
phép tôi có một thẩm quyền hiểu biết mà tôi có thể dùng để áp đảo trong những cuộc
tranh luận.
Khi tôi trở lại thăm viếng Moscow sau này trong những chuyến công tác, tôi gỡ bỏ
mau chóng căn cước chính thức quốc tịch Đức của tôi để hòa nhập vào dáng dấp quen
thuộc của một người dân Moscow, lang thang trên đường phố và trò truyện với mọi
người một cách thân thuộc hơn cả đối với thành phố Bá Linh và người Bá Linh. Tôi tiến
đến căn nhà cũ của chúng tôi tại Đại Lộ Nizhny Kizlovsky, bây giờ có bảng ghi dấu
tưởng nhớ cha tôi và em tôi, và tôi thăm viếng rất nhiều bạn bè cũ tại khu phố Arbat. Tôi
sẽ cùng với ông bạn Alik, mất một chân vì chiến tranh và nay là Giáo Sư dạy tiếng Đức,
đi dạo ngang qua phố láng giềng cũ đến đường Gorky, bây giờ được gọi trở lại là
Tverskaya như hồi trước Cách Mạng. Khi còn là sinh viên, chúng tôi đứng xếp hàng cả
giờ để kiếm ghế ngồi tại Nhà Hát Nghệ Thuật Moscow xem tài nghệ diễn xuất của đại
kịch gia Tarasova trong vở Anna Karenina, hoặc xem Michoels, một ngôi sao sáng của
kịch trường Do Thái, nằm bên cạnh trường học chúng tôi.
Chúng tôi yêu thích văn học cổ điển Nga và các nhà văn hào Châu Âu thế kỷ thứ
mười chín – Heine, Balzac – cũng như Galsworthy, Roger Martin du Gard và cú pháp
chặt chẽ và mạnh mẽ của Hemingway. Khi chúng tôi có một buổi họp vào hè năm 1941,
chúng tôi chèo ghe đến dưới một vòm cầu hẻo lánh của Sông Moscow và ngâm những
câu thơ của Aleksandr Blok và Sergei Yesenin.
Mấy năm nay, mỗi khi tôi rời Moscow, tôi đau quặn lòng vì nhớ quê nhà, nhưng
khác với các bạn Đức của tôi đã định cư tại đây, tôi chẳng bao giờ muốn ở lại Moscow
cho đến mãn đời tôi. Nước Đức vẫn là Heimat (Tổ Quốc) của tôi, và đây là nơi tôi được
mời về để thi thố những gì Quốc Tế Cộng Sản đã đào luyện cho tôi và áp dụng kinh
nghiệm phát tuyến tôi đã học hỏi. Tôi tròn hai mươi ba tuổi và là một thanh niên khôn
ngoan và nhiều tham vong nhưng đầu óc vẫn còn khờ dại khi tôi trở về lại Đức đối diện
những thực tế tôi phải đương đầu. Việc huấn luyện chúng tôi đặt rất nặng trên nền tảng ý
thức hệ và chú tâm đến chiến dịch tẩy sạch những vùng lãnh thổ Quốc Xã bị đánh bại.
Chúng tôi không thể hình dung được sức chấn động nội tâm khi chúng tôi đối diện với
các người đồng hương sau khi thế giới của họ sụp đổ, một cuộc bại trận to lớn của một
quốc gia và màn kết thúc nhục nhã của tên độc tài đã làm cho họ say mê.
Chúng tôi, thanh niên Cộng Sản từ Moscow trở về, cảm nhận mình là những bó
đuốc chính trị soi sáng, minh chứng bằng chính gương sáng của chúng tôi cho thấy phe
Tả tốt lành hơn phe Hữu. Lệnh ban đầu chúng tôi nhận được là không áp đặt cơ cấu Cộng
Sản trên những vùng chiếm đóng của Xô Viết trên nước Đức, nhưng tạo nên một liên
minh rộng lớn chống phát-xít do chính chúng tôi thành lập. Đây không phải đơn thuần là
một chiến thuật mà đối với chúng tôi và tất cả các đảng viên Cộng Sản, đó là một nhu
cầu. Chúng tôi học hỏi kinh nghiệm từ Hitler làm thế nào để tiêu diệt cánh Tả. Stalin, trên
thực tế và thoạt tiên không hy vọng có cơ may xây dựng được một chính quyền theo kiểu
Xô Viết trên phần đất của Đức và muốn có những chọn lựa mở ngỏ với Đồng Minh Tây
Phương.
Chúng tôi trở về nước Đức tiếp cận thực tế tàn nhẫn và khó chịu hơn hẳn những gì
chúng tôi dự đoán. Em tôi, Koni, phản ánh sự kiện này mấy năm sau trong một bộ phim
diễn tả tâm trạng các thanh niên phải đối đầu với những cảnh tượng man rợ không bút
nào tả xiết, Tôi Tròn Mười Chín Tuổi. Em tôi tô đậm nét tương phản giữa hình ảnh tuổi
thơ của trang thiếu niên anh hùng với một xã hội hỗn loạn, trong đó các thị trưởng thành
phố vội vã thu cất lá cờ Quốc Xã – hoặc đôi khi chỉ cắt vòng tròn và chữ vạn đen ở trung
tâm lá cờ – khi Hồng Quân tiến đến gần.
Trong khi Koni, với trách nhiệm của một sĩ quan lãnh đạo của quân đội Xô Viết,
góp sức thiết lập nền tảng guồng máy hành chánh hậu Quốc Xã trong vùng chiếm đóng
của Liên Bang Xô Viết, tôi được lệnh đến Bá Linh tháp tùng bộ tham mưu Đảng. Ông
Walter Ulbricht, với đầu óc sắc bén và khuôn mặt râu rậm, hiện thân là lãnh tụ của Đảng
Cộng Sản Đức lưu vong, đã rời Moscow để đến Bá Linh hồi tháng 4 cùng với khuôn mặt
khả ái của Whilhelm Pieck và một nhóm nhỏ tiên phong của đảng. Phần còn lại trong
nhóm của chúng tôi bay về Đức một tháng sau, vào ngày 27 tháng Năm, trên chuyến phi
cơ quân sự Douglas DC-3 ; tất cả chúng tôi đều mặc quần áo dân sự mới cắt chỉ. Từ trên
không trung, chúng tôi nhìn xuống chỉ thấy những tàn phá của chiến tranh.
Đoàn chúng tôi rất là hỗn tạp – Cộng Sản cũ và tù binh Đức con cái của những đảng
viên cộng sản cũ. Không ai có một chút ý niệm gì về những gì sẽ diễn ra và chúng tôi nói
chuyện và bàn bạc về những gì chúng tôi có thể sẽ gặp. Chúng tôi cũng không biết rõ
Đảng Cộng Sản có được phép họat động tại Đức không . Không thấy ai đề cập đến ý thức
hệ để xây dựng một nước Đức mới. Công việc đầu tiên chúng tôi phải làm là một công
việc căn bản: tổ chức lại cuộc sống thường ngày để người Đức sinh sống.
Emmi cùng đi với tôi, lần đầu tiên chúng tôi sống chung với nhau như vợ chồng.
Đối với cả hai chúng tôi, hành trình trở về quê nhà vừa phấn khởi vừa đau đớn khi chúng
tôi nhìn thấy cảnh thảm não và tan nát của các thị xã và thành thị Đức. Chúng tôi cũng đã
thoáng nhìn cảnh tàn phá của Warsaw trên đường bay về Bá Linh. Nó hoàn toàn bị tàn
phá, khói nghi ngút bay lên từ những đống gạch vụn như thể trong nhà táng. Phi cơ của
chúng tôi là chiếc đầu tiên đáp xuống phi trường Tempelhof vừa mới mở lại; phi trường
này ba năm sau đã được dùng làm trạm liên lạc không vận của Đồng Minh khi Bá Linh bị
bế môn phong tỏa. Sự tàn phá của Bá Linh hầu như toàn diện không ai nghĩ có thể tái
thiết lại được.
Vì chúng tôi là những đứa con của Quốc Tế Cộng Sản, chúng tôi có tinh thần quả
quyết rất cao. Chúng tôi muốn gột rửa cho nhân dân vết nhơ quá khứ Quốc Xã và hết
lòng tin tưởng vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa chúng tôi được nuôi dưỡng để có thể rửa
sạch và tái tạo nước Đức. Tôi không ngờ việc hòa nhập sống chung với những người đã
từng tung hô Hitler và Goebbels khó khăn hơn tôi nghĩ. Phần đông hầu như không có khả
năng hoặc không muốn hiểu những gì Quốc Xã đã làm với sự trợ giúp của họ hoặc nhân
danh họ. Chẳng có mấy ai cảm thấy có tội hoặc có trách nhiệm với những gì đã xẩy ra.
Emmi có lần nghe trộm một nhóm phụ nữ bàn thảo về báo cáo tội ác chiến tranh của Đức
do đài phát thanh do tôi điều khiển loan truyền. Họ nói và dùng những ngôn ngữ của
nhóm quốc gia cực đoan Hitler mà họ đã nghe từ mười hai năm nay « Người Đức không
bao giờ làm một việc như vậy ».
Dưới nhãn quan của nhiều người Đức và của phần đông thế giới, chúng tôi trở lại từ
phía Đông mang theo với chúng tôi một chế độ độc tài khác. Nhưng chúng tôi không tự
xem chúng tôi là những người thay thế chế độ độc tài Nâu bằng một chế độ độc tài Đỏ,
như Tây Âu sau này vẫn nhìn chúng tôi. Chúng tôi người Cộng Sản Đức có lẽ là những
người ngoại quốc mù tịt nhất về những tội ác của Stalin, vì chúng tôi đã được Liên Bang
Xô Viết cứu khỏi cái chết hoặc tù tội tại Đức. Tất cả những mối nghi ngờ về những gì
đang xẩy ra bị che lấp bởi những biến cố dưới chế độ hung bạo của Hitler, và tôi không
thể nào nhìn thấy hệ thống xã hội chủ nghĩa là một chế độ độc đoán. Đối với tôi và đối
với thế hệ Cộng Sản chúng tôi, đó là một lực lượng giải phóng. Có thể phương pháp của
họ mạnh bạo, nhưng chúng tôi luôn luôn cảm thấy đó thực sự là một lực lượng lương
thiện và những cố gắng để thuyết phục tôi phải thay đổi suy nghĩ hầu như vô hiệu.
Nếp suy nghĩ này quyết định não trạng của chúng tôi trong suốt thời gian Chiến
Tranh Lạnh. Điều này có nghĩa mỗi lần chúng tôi nghe mô tả một hình ảnh không đẹp đẽ
của phía chúng tôi, câu hỏi xuất hiện đầu tiên trong đầu óc không phải là « Điều này có
đúng không?» mà là « Bọn họ đang tìm cách che đậy gì đây khi họ tố cáo chúng ta điều
này?». Một khi hệ thống phòng thủ trí não đã được hoàn chỉnh, ít lời chỉ trích nào có thể
làm suy xuyển nổi tinh thần chúng tôi.
Chúng tôi cũng còn ngây thơ. Tôi hy vọng sẽ có thêm nhiều người Đức, sau khi bị
chấn động vì bại trận, tỏ ra biết ơn được cởi bỏ ách của Hitler và ôm chầm đoàn quân Xô
Viết như đoàn quân giải phóng. Thực tế có phần hơi khác. Nơi cư xá tôi ở, tôi nghe trộm
các người láng giềng cãi cọ xem ai là người sẽ được dời đến những căn phòng rộng rãi và
thông thoáng nằm đối diện với căn phố chúng tôi, nơi đây một gia đình Quốc Xã bị trục
xuất. Sự sụp đổ của nước Đức, một cường quốc thế giới, đã không hủy diệt ước vọng của
người dân mong muốn có được « Lebensraum » (Không gian sinh tồn) * Lời dịch giả :
Thuyết « không gian sinh tồn » được Quốc Xã sử dụng để biện minh cho chính sách bành
trướng lãnh thổ của nước Đức.
Tôi cảm thấy đau xót vì vấn nạn này. Tôi tức điên tiết khi tôi nghe người khác kể lại gia
đình đòi căn phố này dựa trên chứng cớ họ không là đảng viên của Quốc Xã, nhưng thực
ra họ bị ghi trong sổ hộ tịch địa phượng là « những kẻ tố cáo », họ đã tố giác năm đảng
viên Công Sản cho chính quyền.
Làm sao tôi có thể ngu muội trước cảnh mỉa mai của lời kêu gọi của chúng tôi nhằm
thiết lập một trật tự nhân bản và yêu chuộng hòa bình? Tôi chỉ có thể trả lời là một phần
con người của tôi trải qua những năm tháng tại Liên Bang Xô Viết đã trở thành nửa Nga
và nhìn nhận phần nảo khát vọng trả thù vì những kinh hoàng mà Quốc Xã đã gieo rắc.
Tôi thiết nghĩ sau một cuộc tháo chạy tán lọan như vậy khát vọng trả thù sẽ lắng dịu và
sau đó chúng tôi có thể xây dựng mối liên hệ Đức Nga, không chút tham vọng chế ngự
lẫn nhau.
Một vài ngày sau khi chúng tôi đến, chúng tôi được lệnh trình diện Ulbricht từng
người một. Ngắn gọn, ông vạch rõ vai trò hành chánh của chúng tôi trong vùng kiểm soát
của Liên Bang Xô Viết. Tôi đuợc chuyển sang Đài Phát Thanh Bá Linh làm biên tập
viên; đây là một công thự đồ sộ tại Charlottenburg, nằm trong vùng kiểm soát của Anh
quốc, trước đây là Đài Phát Thanh của Josef Goebbels nay rơi vào tay của quân đội Xô
Viết. Lúc đầu tôi cự nự lệnh của Ulbricht, vì tôi được huấn luyện để trở thành kỹ sư hàng
không và tôi không biết gì nhiều về kỹ thuật sách động – mặc dù khi tôi còn nhỏ tôi
sống trong khung cảnh đó, nhưng đây là một chương tình huấn luyện để chống lại chủ
thuyết Quốc Xã. Khi tôi hỏi ông Ulbricht đến khi nào tôi được phép hoàn tất học vấn về
hàng không tạiMoscow, ông quát mắng « Anh thi hành công tác của anh đi. Chúng ta có
nhiều việc phải lo toan hơn là làm tàu bay ». Mặc dù lo sợ lúc ban đầu, nhưng khi tôi làm
phóng sự và bình giải chính sách ngoại giao (với bí danh là « Michael Storm ») tôi cảm
thấy công việc hấp dẫn. Nằm xa khu vực kiểm soát Xô Viết, ngay trong khu vực Anh
quốc, đài phát thanh của chúng tôi đúng là tiền đồn trong cuộc Chiến Tranh Lạnh bắt đầu
khởi sự. Khoảng cách giữa Bộ Tham Mưu Đảng tại Bá Linh với nơi chúng tôi làm việc
cho phép chúng tôi hoạt động có ít nhiều phần độc lập. Tôi có một tập nhỏ do Ulbricht
viết khi còn ở Moscow chỉ thị đường hướng của Đảng và nhấn mạnh công cuộc đấu tranh
chung chống phát-xít, nhưng, trong thuở ban đầu, đó là tất cả chỉ thị chính trị mà tôi nhận
được.
Đôi khi tôi đụng độ với Ulbricht. Trong một chương trình tôi điều khiển gọi là «
Diễn Đàn Dân Chủ », ông là phát ngôn viên của Đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa
(SED) ( hiện nay là Đảng Cộng Sản, được thành lập do sự phối hợp của đảng viên Cộng
Sản với đảng viên Dân Chủ Xã Hội trong vùng chiếm đóng của Xô Viết năm 1946).
Giọng the thé pha trộn với tiếng dân miền Saxon của ông tạo nên một cảm giác không lấy
gì làm thú vị cho thính giả. Với lòng cương trực nguy hiểm của tuổi niên thiếu, tôi đề
nghị ông nên để một xướng ngôn viên đọc bài của ông đồng thời ông nên trau dồi luyện
giọng. Ông tỏ ra khó chịu ra mặt. Thật là một chuyện lạ, sự nghiệp tôi vẫn thăng tiến tại
Bá Linh với một bước đầu thật là vụng về.
Chúng tôi cố gắng đưa đài phát thanh đến gần quần chúng một cách sống động
bằng cách trả lời những câu hỏi về những vấn đề xem như cấm kị chẳng hạn như số phận
của trăm ngàn tù binh Đức giam giữ tại Liên Bang Xô Viết, số phận của các công chức
nhỏ của Quốc Xã được xét xử như thế nào và biên giới mới thâu ngắn của nước Đức trên
dòng sông Oder và Neisse ; điều đáng ngạc nhiên, những đề tài này không cấm kị đối với
các sĩ quan Xô Viết giám sát đài phát thanh. Cuộc tranh đấu gay go của chúng tôi là
chống lại lệnh các sĩ quan Xô Viết phải phát thanh giờ này sang giờ khác những bài diễn
văn chán ngấy. Có một bài diễn văn hầu như dài vô tận đọc tại Liên Hiệp Quốc của bộ
trưởng ngọai giao Andrei Vishinsky, rêu rao những cọ sát trong môi tương quan giữa
Moscow và Đồng Minh phía Tây. Tuyên truyền loại này đưa đẩy thính giả vào tay của
đài phát thanh mới thành lập RIAS ( Radio in American Sector) đài phát thanh trong
vùng kiểm soát của Hoa Kỳ.
Cũng có những vấn đề khác nữa. Chúng tôi không được phép tự do thông tin về mối
tương quan giữa nhân dân Đức với quân đội chiếm đóng Xô Viết, cũng không được nói
về những vụ hãm hiếp và cướp bóc diễn ra cùng với bước tiến của Hồng Quân vào Bá
Linh. Chiến dịch đối xử bạo tàn đối với đám quần chúng bại trận, đặc biệt tại Đông Phổ
(East Prussia) không còn là một bí mật nữa. Như mọi người dân Đức, chúng tôi khiếp
đảm vì những tin này, và chúng tôi cảm nhận phương cách duy nhất để dân Nga và dân
Đức xích lại gần nhau là công khai nói về mọi tội ác chiến tranh. Cấp lãnh đạo Cộng Sản
Đức tỏ ra phẫn nộ vì cách hàng xử của đám quân tội lệ của Hồng Quân khiến cho việc
thu hút nhân tâm về phía chúng tôi càng trở nên khó khăn thêm. Chúng tôi cũng có ý kiến
của chúng tôi nhưng chúng tôi không thể phát biểu công khai, và các sĩ quan Xô Viết có
trình độ văn hóa cao hơn cũng âm thầm nhìn nhận những trò thô bạo như vậy không được
phép xảy ra. Nhưng chính ngay từ ngữ « Nga » đã được bộ máy tuyên truyền của Quốc
Xã liên tục sử dụng không ngừng nghỉ để khơi động lòng căm thù sơ đẳng, nay một lần
nữa được gán ghép với sự sợ hãi.
Là đảng viên của Đảng Cộng Sản Đức, chúng tôi không lên tiếng phản đối những
lối hành xử tàn ác này mà đáng lý ra chúng tôi phải lên tiếng vì hai lý do chính. Thứ nhất
một người Đức tỏ ra bất nhã khi chỉ trích người Nga về tính thô bạo, so với những tàn
phá của Quân đội Đức đã gieo trên đất của Liên Bang Xô Viết khi họ chiếm đóng. Trong
lòng chúng tôi, những người trốn chạy nước Đức của Hitler, có lẽ vẫn còn một chút hận
thù đối với chính những người dân đã chấp nhận trở thành công cụ của Đệ Tam Quốc
Đức (Third Reich). Lý do thứ hai đơn giản là chúng tôi gạt bỏ những mối nghi ngờ về
hành vi của quân đội Nga vì đề vấn đề ý thức hệ.
Có người hỏi tại sao tôi một thanh niên có giáo dục trong một gia đình có văn hóa
lại có thể gạt bỏ ra khỏi trí tuệ bao nhiêu những biến cố bất ổn định như vậy. Tôi cũng tò
mò muốn biết những nhận định này, nhưng những từ ngữ chỉ thoáng lướt qua trong đầu
óc của tôi, bởi vì chúng được gạn lọc bởi một màng lưới ý thức hệ. Vào thời kỳ đảo lộn
của thời hậu chiến, lòng thù hận mong muốn báo thù phá lẫn với lòng đố kị, nơi đâu cũng
có bất công cả, tuy nhiên chúng tôi chú tâm đến việc ngăn chặn không cho chủ thuyết
Quốc Xã tiêm nhiễm trở lại nước Đức. Thực vậy, phần đông các thính giả viết thư cho
chúng tôi đều quan tâm đến việc xóa bỏ những tàn dư của Quốc Xã hơn là số phần của
một vài người có thể bị thương tổn trong quá trình của sự việc.
Khi các viên chức chiếm đóng Xô Viết tổ chức bắt giam hàng lọat các cựu đảng
viên Quốc Xã và các thành phần chống đối Stalin, hàng ngàn đảng viên Dân Chủ Xã Hội
chống đối Quốc Xã cũng bị càn quét và một vài người bị đưa vào trại lao động, được
chính Quốc Xã một cách trớ trêu vừa mới xây dựng xong. Chúng tôi biết rất ít về những
sự kiện này, và những gì chúng tôi biết chúng tôi cho đó là trò tuyên truyền gian ác của
Tây phương. Ví dụ, tờ báo của Đảng Dân Chủ Xã Hội tại Tây Bá Linh, tờ Telegraph,
đăng một câu chuyện nói rằng tại một căn phòng của một ngôi nhà tôi ở, có người bị một
biệt đội cảnh sát K-5 thẩm vấn và tra tấn. Tôi công khai phủ nhận hoàn toàn điều này và
tố cáo tờ báo đã bịa đặt không những cảnh tra tấn mà ngay cả sự hiện hữu của biệt đội K-
5. Mãi sau này, khi tôi được bổ nhiệm làm việc tại Bộ An Ninh Nhà Nước, tôi mới khám
phá đội K-5 có thật và họ đã tra tấn những người tình nghi ngay dưới hầm căn nhà đó.
Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi bỏ qua, tôi cho là tiểu tiết hoặc tôi biện luận về
những giai đọan như vậy, và tôi chỉ biết nhắc nhở độc giả rằng tâm tính của tôi được
huấn luyện để chống chủ nghĩa phát-xít; chúng tôi cảm nhận đối với một địch thủ độc
đoán như vậy, hầu hết mọi phương tiện chống lại nó đều tốt. Trong tiến trình suy luận,
chịu ảnh hưởng của bài diễn văn bí mật Nikita Khrushchev đọc trước Đại Hội lần thứ Hai
Mươi của Đảng Cộng Sản năm 1953, trong đó ông tiết lộ những tội ác của Stalin cho các
đảng viên Cộng Sản ủng hộ Stalin và sau đó tiết lộ cho thế giới, tôi bắt đầu có những cảm
nhận khác. Nhưng vào lúc đó và trong hầu hết quãng đời của tôi, tôi tin tưởng chúng tôi,
những người Cộng Sản, đứng về phía canh tân và công bằng xã hôi. Điều này giúp châm
chế Moscow những kịch án thanh trừng, và bây giờ những bắt buộc của tình thế Chiến
Tranh Lạnh khiến cho chúng tôi bỏ qua những hành vi tấn công Đảng Dân Chủ Xã Hội
Đức, một đảng vẫn còn tồn tại sau Quốc Xã. Trong những trường hợp cá biệt, tôi xoay sở
trong phạm vi khả năng của tôi, nhưng tôi không gặp nhiều những trường hợp này. Có lẽ
tôi cảm thấy tôi miễn nhiễm với mốt số tiêu chuẩn đạo đức, một cảm nhận được hỗ trợ
bởi lòng tin rằng guồng máy Cộng Sản sẽ không bao giờ quật ngược lại tôi, vì tôi là một
đứa con của guồng máy. Tôi không bao giờ nghĩ tôi có thể là nạn nhân. Cả cha tôi cũng
vậy, và có lẽ đó là một lý do chúng tôi còn tồn tại. Cha tôi có lần đã viết cho Stalin năm
1945, than phiền ông không trở về được nước Đức trên danh nghĩa một người Do Thái,
và khi cao trào tố cáo « bọn bác sĩ mưu đồ » vào những năm cuối của Stalin nhằm tạo nên
cớ bài miệt Do Thái tại Liên Bang Xô Viết, cha tôi và tôi không ai đụng chạm đến. Cũng
như vào lúc tình trạng bất an toàn diện và mối đe dọa trước chiến tranh, trong sự hỗn loạn
sau chiến tranh, tôi không cảm thấy có nhiệm vụ làm suy yếu những người đứng cùng
phía với tôi để đấu tranh chống lại ác độc.
Lẽ cố nhiên tôi biết rất nhiếu về những tội ác kinh khủng vào thời Stalin ngay cả khi
chúng còn trong vòng dự mưu thực hiện. Người nào nói không biết gì cả là một thằng nói
láo. Có nhiều điều tôi nhìn lại tôi cảm thấy không hãnh diện chút nào. Có lúc tôi đề cập
đến vấn đề này với các cấp lãnh đạo Cộng Sản Đông Đức. Nhưng trong quá khứ cũng
như hiện tại, tôi không bao giờ đem tội ác của chế độ Cộng Sản lên bàn cân so sánh với
tội ác của Quốc Xã. Điều khiến tôi đoan chắc không thể nào cân bằng hai thể chế đó là
những sự kiện ghê rợn nổi bật trong những vụ xét xử tội ác chiến tranh của các cấp lãnh
đạo Quốc Xã tạiNuremberg.
*
Tháng Chín năm 1945, tôi được đài phát thanh phái đến tòa án xét xử tội ác chiến
tranhNuremberg để làm phóng sự. Chúng tôi chỉ được biết những sự kiện xẩy ra tại Quốc
Xã Đức qua bộ máy tuyên truyền của Xô Viết, chú trọng đến số phần của các đảng viên
Cộng Sản Đức. Chúng tôi cũng được biết một số chuyện do lời kể của chính gia đình
chúng tôi đến tai chúng tôi tại Moscow và từ những thư từ của cha tôi nói về những sự
kiện khai mào sau này mọi người được biết là Hỏa Diệt (Holocaust). Tuy nhiên mãi sau
này chúng tôi mới khám phá chiều sâu độc nhất vô nhị thảm cảnh tàn sát dân Do Thái
nằm trong căn gốc của chủ nghĩa Quốc Gia Xã Hội (Quốc Xã). Nhưng tại tòa án, tương
tự như trên bàn giải phẫu, bộ mặt thật của chủ nghĩa Quốc Xã được phơi bày rõ rệt và tất
cả thảm cảnh Hỏa Diệt dân Do Thái lần đầu tiên hiện ra trước mắt tôi.
Vì tôi là một người con của một gia đình Do Thái Cộng Sản, tôi rùng mình khi tôi
ngồi đối diện những khuôn mặt đại diện còn sống sót của thời kỳ Quốc Xã. Lang thang
trên nhưng đổ nát của thành phố Nuremberg, trước đây được xem là « hộp quý trang của
nước Đức » nhưng nay bị gắn liền với những luật pháp kỳ thị chủng tộc mà hàng triệu
dân Do Thái là nạn nhân, tôi bất chợt, lạnh lùng bừng tỉnh và nhận định chúng tôi đảng
viên Cộng Sản và các đối thủ khác của Hitler đã hoàn toàn thất bại trong việc ngăn ngừa
cảnh tàn sát này, và tôi nguyện thề không để tình trạng này tái diễn một lần nữa trên đất
nước Đức.
Chính vì lý do đó tôi thấy lòng căm phẫn của người Đức bại trận đối với quân đội
chiếm đóng Xô Viết khiến cho tôi tức giận thêm hơn. Tôi viết thư cho cha mẹ tôi một
cách ngây ngô cho rằng «lòng hảo tâm của Hồng Quân coi như quần chúng đương nhiên
được thụ hưởng mà quần chúng vẫn luôn than vãn. Hình như họ không nhìn thấy được
tầm mức thảm họa Hitler đem đến cho nước Đức. Họ không hiểu cơ may một trang sử
mới đang đến với họ».
*
Nước Đức chính thức chia ra làm hai thực thể chính trị sau cuộc cải cách tiền tệ
năm 1948 tại ba vùng chiếm đóng của Tây Âu đưa đến sự củng cố nước Cộng Hòa Đức
( Bundesrepublik) hay là Liên Bang Đức. Để trả lời, nước Công Hòa Dân Chủ Đức được
chính thức thành lập tháng 10 năm 1949 cùng với diễn hành đêm đuốc, diễn hành đông
đáo quần chúng và những bài ca ái quốc. Đối với một số thành viên Xã hội chủ nghĩa có
nhiều cảm tính, tất cả những cảnh này giống một cách khó chịu như hệt họat cảnh cũ của
chính quyền Quốc Xã. Nhưng tôi thấy đây là giây phút lịch sử của mối bang giao Đức
Nga. Không bao lâu tôi được Trung Uơng Đảng vời về và tôi được thông báo tôi là người
trách nhiệm giúp thắt chặt tình hữu nghị này. Ngày 1 tháng 11, tôi được lệnh trở
vềMoscow với chức vụ Tham Vụ cho Tòa Đại Sứ Đông Đức tại đây. Để nhận nhiệm vụ
này tôi phải từ bỏ quốc tịch Xô Viết của tôi và một lần nữa tôi chính thức trở thành người
Đức. Chúng tôi đến Moscow vào ngày 3 tháng 11 năm 1949.
Vẻ sang trong và tính khoan thái của ngành ngoại giao mở lòng chúng tôi sau
những ngày sống trong cảnh hoang tàn của Bá Linh, và chúng tôi an hưởng trọn vẹn đời
sống gia đình tạiMoscow. Đúng là một đời sống gia đình ấm cúng: Trong khi tôi làm
phóng viên tại Tòa Án Nuremberg năm 1946, đứa con đầu lòng của tôi, tốc vàng, mắt
xám, được đặt tên là Michael, ra đời, sau đó là em bé gái tên Tatjana, sinh năm 1949.
Emmi, không ưa thích vẻ bề ngoài của không khí trong Tòa Đại Sứ, được cơ hội chìm
đắm trong văn học Nga và khởi sự học trình lấy bằng tiến sĩ về Dostoyevsky.
Với tư cách đệ nhất tham vụ của Tòa Đại Sứ nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức, cuối
cùng tôi được gặp Stalin, một biến cố đáng ghi nhận đối với tôi mặc dù bao năm đã qua.
Nói chuyện với các bạn bè cùng thế hệ, tôi thấy Stalin vẫn đôi lúc xuất hiện trong giấc
mơ của chúng tôi, có lẽ do một thoáng hồi nhớ cảnh diễn hành quần chúng chúng tôi
chứng kiến tại Quảng Trường Đỏ, vào lúc đó nhiệt độ thờ phụng của quần chúng che lấp
tất cả những cảm giác khác, hoặc nhớ lại những hình ảnh và tượng đài của Stalin – đã
biến mất từ lâu khỏi thành phố Moscow – tất cả những điều này khiến cho chúng tôi có
cảm giác đang sống với một vị á thần.
Thực ra, cho dù tôi cố chú tâm với hiểu biết của con người trưởng thành để khách
quan đánh giá những tội ác của ông, khía cạnh gần như huyền bí trong tâm trạng của tôi
đối với Stalin không thể nào xóa nhòa được. Hình ảnh không thể xóa nhòa hoàn toàn này
có thể có ích cho tôi, vì điều này luôn nhắc nhở tôi hấp lực của kẻ độc tài vẫn quan trọng
và mạnh mẽ, vẫn tồn tại ngay cả sau khi những bất công y gây ra đã được phơi bày.
Ấn tượng sống động nhất trong cuộc đời nghề nghiệp của tôi tại Tòa Đại Sứ là buổi
tiếp tân khoản đại lãnh đạo Trung Quốc ông Mao Trạch Đông tại đại sảnh tròn của Khách
Sạn Metropol vào tháng Hai năm 1950. Tôi đang đứng lưng quay ra cửa ra vào, thình lình
tôi nghe tiếng xôn xao trong phòng. Quay trở ra, tôi thấy Josef Vissarionovich Stalin
đứng cách tôi vài thước. Ông mang bộ Litevka nổi tiếng với cổ áo may cao. Ông không
đeo một huy hiệu hoặc huy chương nào cả. Với vóc dáng thấp bé và tròn trịa lạ lùng, ông
có đầu hói bóng lưỡng. Những chi tiết này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của Vozhd,
« Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại », được nuôi dưỡng trên phim ảnh và trình diễn trên những bức
chân dung. Tôi choáng váng trước tiên vì thất vọng nhưng sau đó vì hãnh diện. «Thì ra
ông cũng như một người bình thường », tôi nghĩ. « Tất cả những câu chuyện để tôn vinh
cá nhân ông đã được thêu dệt nhưng ông không được biết đến » .
Với tư cách là Tham Vụ Ngọai Giao, tôi thay mặt cho Đại Sứ vào dịp này, ngồi đối
diện với nơi các cấp lãnh đạo của cả hai phái đoàn nâng chén chúc mừng nhau. Trong khi
Chu Ân Lai, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc và đồng nghiệp Xô Viết, ông
Andrei Vishinsky trò chuyện với nhau, Stalin mồi hết điếu thuốc nọ đến hết điếu thuốc
kia, điếu thuốc nặng mùi mang hiệu Herzegovina Flor (một lọai thuốc lá Nga dài đặc biệt
quấn giấy papyrosi mà ông ưa thích). Sau đó ông đọc nhiều bài diễn văn chào mừng theo
kiểu của ông. Trong một bài, ông ca ngợi tính khiêm nhường và tinh thần đoàn kết của
cấp lãnh đạo Trung Quốc. Rồi, với vẻ đầy hăm dọa, ông nâng chén chúc mừng nhân dân
Nam Tư (Yougoslavia), mà ông hy vọng một ngày gần đây lấy lại chỗ đứng của mình
trong gia đình các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Chỉ cách đó hai năm trước đây, Nam Tư đá
bị khai trừ đưa vào bóng tối do lệnh của Stalin, sau khi lãnh tụ Nam Tư đầy hấp lực Josip
Broz Tito đã từ chối khép mình theo phong hóa tôn vinh cá nhân lãnh tụ của điện Cẩm
Linh và yêu cầu được thêm phần tự trị nhiều hơn nữa trong việc cai quản quốc gia Balkan
đa chủng trong khi Moscow không muốn như vậy. Chúng tôi, tại các nước trung thành
với đường lối của Xô Viết, nhìn nước Nam Tư với lòng sợ hại và kinh ngạc lẫn lộn là
Tito đã cả gan thách thức ý nguyện của Stalin.
Chúng tôi nuốt từng lời của các vị lãnh đạo Xô Viết một cách kính cẩn. Đối với tôi,
cũng như đối với tất cả các quan khách có mặt trong buổi tiếp tân, Stalin và Mao không
phải là những người phàm tục. Họ là đền đài của lịch sử. Tôi không hề nghĩ đến viễn
tượng Trung Hoa – Xô Viết sẽ rạn nứt, nhưng tôi nhớ rõ một điều đáng chú ý họ Mao
không hề nói một câu nào suốt đêm đó. Tôi tự hỏi có phải đây là chỉ dâu tinh thần hội
nhập nổi tiếng của người Trung Hoa.
Không phải tất cả biến cố trong hai năm trong ngành ngọai giao đều để lại ấn tượng
mạnh mẽ trong trí óc của tôi. Trong một cuộc tiếp tân kỷ niệm hai năm thành lầp nước
Đông Đức, việc tranh chấp không liên quan gì đến vấn đề rạn nứt trong liên minh hoặc về
một quốc gia Cộng Sản phản động, nhưng lại liên quan đến y phục phải mặc hôm đó.
Như thuờng lệ, các nhân viên ngọai giao trẻ bàn luận với ông trưởng phái đoàn, vị này
muốn chúng tôi mặc y phục tiếp tân ban ngày áo đuôi tôm để đánh dấu vẻ trọng thể của
ngày lễ. Vì không có áo đuôi tôm, chúng tôi chọn y phục thượng khách. Cuối cùng chúng
tôi đi đến thỏa thuận mặc y phục thực khách mầu đậm với cà-vạt đen. Tuy nhiên vào thời
buổi đó chỉ có những nước xã hội chủ nghĩa công nhận Nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức,
và đa số, họ phủ nhận cà-vạt đen cho rằng đó là trang sức của bọn tiểu tư sản. Với tất cả
danh tiếng sau này của chúng tôi là nô bộc Cộng Sản ngoan ngoãn nghe lệnh, nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức rõ ràng vẫn mang ấn dấu của quá khứ Phổ trong những năm phôi thai.
Chúng tôi bối rối cực độ vì những người duy nhất tham dự mặc y phục như chúng tôi là
những người hầu bàn. Khi ông Nikolai Krutitsky, Giám Mục Chính Thống Giáo Kinh
Thành của tất cả tín đồ Nga, đứng dậy để từ giã và tôi xã giao tiễn ông đến phòng mắc ao,
ông lục lọi một lúc trong áo choàng nặng nể của ông để rồi móc ra ba rúp và trao cho tôi
một cách trịnh trọng để làm quà.
*
Tháng 8 năm 1951, tôi nhận văn thư khẩn cấp kêu tôi trở về Đông Bá Linh để gặp
Anton Ackermann – tên thật là Eugen Hanisch – Bộ Trưởng Ngoại Giao Đông Đức và
cũng là một chiến lược gia lãnh đạo trong Bộ Chính Trị. Ông chào đón tôi tại Bộ Ngoại
Giao ban sáng, thăm hỏi sức khỏe của tôi và dặn tôi sau bữa ăn trưa cùng ngày đến một
căn phòng nào đó trong dinh thự vĩ đại của Trung Ương Đảng. Tôi cảm thấy có gì bí mật
– cho đến khi đến nơi gạp gỡ để rồi cũng gặp lại Đồng Chí Ackermann ngồi đàng sau
một chiếc bàn khác, lần này trong chức vụ ủy viên Trung Ương Đảng. Cái trò vô lý này
bày ra là do Ackermann nhất quyết bảo mật và thực thi phân cách quyền hành giữa Đảng
và Nhà Nước, trên thực tệ tỏ ra kịch cỡm.
Ackermann đã được giao phó công tác thành lập một cơ quan tình báo chính trị, và tôi
được chỉ định để làm việc này, chia sẻ trách nhiệm để « soi sáng quốc gia tân lập ». Nói
trắng ra, tôi trở thành gián điệp. Đây một lần nữa là một mệnh lệnh, và theo thói thường
lúc đó, tôi chẳng thắc mắc gì hoặc thậm chí suy gẫm về quyết định này có ảnh hưởng gì
đến cuộc đời của tôi. Đảng đã cho tôi đi học trường Quốc Tế Cộng Sản. Đảng đã chỉ định
tôi đi đếnMoscowvà đến trạm vô tuyên truyền thanh tại Bá Linh. Đảng đã phái tôi đi
đếnMoscowđể làm nhân viên ngọai giao. Nếu Đảng nghĩ rằng tôi hữu ích trong ngành
tình báo, tôi cũng tuân lệnh. Tôi hãnh diện vì cấp lãnh đạo đã tin tưởng giao phó cho tôi
công tác mật. Tinh thần kỷ luật mù quáng là một điều khó hiểu nhất đối với các quan sát
viên Tây phương tìm hiểu hệ thống của chúng tôi, nhưng nếu không hiểu được mãnh lực
của Đảng trên tinh thần chúng tôi và phương pháp họ chỉ định công tác cho thế hệ Cộng
Sản chúng tôi, thì không thể nào hiểu nổi, chưa nói đến phán đoán về cuộc sống của
chúng tôi.
Ngày 16 tháng 8 năm 1951, tôi bắt đầu làm việc tại một cơ sở hoàn toàn mới Viện
Nghiên Cứu Khoa Học Kinh Tế, một tên ngụy trang cho cao ốc nơi làm việc của hệ thống
tình báo phôi thai của Đông Đức. Sự nghiệp mới của tôi bắt đầu với cuộc diện kiến với
Richard Stahlmann trên một chuyến xe Tatra li-mu-sin to lớn có tám xy-lanh, rất sang
trọng vào thời đó. Stahlman, mang trách vụ thiết lập công tác cho chúng tôi, là một nhà
cách mạng chuyên nghiệp và tôi kính phục tác phong đường bệ của ông. Tên thật của ông
là Artur Illner, nhưng vì ông công tác quá lâu trong thế giới bí mật Cộng Sản nên mọi
người, kể cả vợ ông, dùng bí danh của ông như tên thật của ông. Ông là thành viên của
Đảng Cộng Sản Đức từ năm 1918 và ông trở thành ủy viên trong « Hội đồng Quân Sự »
của Đảng năm 1923. Như mọi thành viên cựu trào, ông ít khi nói về quá khứ với quá
nhiều bí ẩn. Tuy nhiên ông chia sẻ với tôi những mẩu chuyện về những công tác của ông
tại Liên Bang Xô Viết, Anh quốc, Trung quốc, Tây-ban-nha, Pháp, Thụy Điển và Hoa
Kỳ. Ông nhận lãnh tước hiệu bất hủ « Richard Kháng Chiến Quân» trong cuộc nội chiến
tai Tây-ban-nha và ông là bạn thân tín của Goergy Dimitrov, đảng viên Cộng Sản Bulgari
bị Quốc Xã tố cáo âm mưu đốt tòa nhà Quốc Hội. Stalhmann đi cùng với Dimitrov khi
mật vụ Gestapo đến bắt Dimitrov, nhưng cả hai đều giữ bình tĩnh, mặc dù bị bắt và bị
hạch hỏi một cách thô bạo. Sau này nhắc đến Stalhmann, Dimitrov luôn gọi ông « con
ngựa tốt nhất trong chuồng », một tước hiệu giúp ông thăng tiến trong giới lãnh đạo Đông
Đức mới. Ông là người đầu tiên được tham khảo trong mọi vấn đề, và mỗi khi có trở ngại
trong việc thiết lập hệ thống tình báo, ông đến gặp Thủ Tướng Otto Grotewohl tại tư gia
và các vấn đề được nhanh chóng giải quyết. Thường các vấn đề liên quan đến tiền bạc và
nguồn tài trợ. Chúng tôi đói khát tiền bạc trong những năm đầu, và tiền mặt phải đợi đến
cả tháng để đi qua các cửa ngõ công quyền. Đôi khi Stalhmann đến gặp bộ trưởng tài
chánh và trở về với cặp sách tay chứa đầy ghi chú. Khi Czechoslovakia (Nam Tư) có nhã
ý tặng hai mươi bốn chiếc xe Tatra cho chính quyền Đông Đức, Stahlmann đã khéo léo
chuyển nửa số xe sang cơ quan còn nhỏ bé của chúng tôi, nhờ vậy khi chúng tôi hoạt
động ngoài phạm vi của cớ sở chật hẹp của chúng tôi, chúng tôi có thể di chuyển trong
một tư thế sang trọng. Stahlmann hiểu rõ những tiểu tiết này giúp nâng cao vị thế của cơ
quan đối với chính phủ, và những cơ quan nào cố gắng hoạt động trong vòng eo hẹp
thường gây chú ý hay bị cắt giảm ngân sách.
Lần đầu chúng tôi gặp gỡ tại Bohnsdorf, một ngoại ô phía Đông Nam Bá Linh.
Chẳng ai nhớ rõ ngày họp mặt, và chúng tôi cũng chẳng ghi sổ sách, vì vậy chúng tôi
chọn ngày 1 tháng 9 năm 1951 là ngày thành lập cơ quan tình báo. Ngay sau đó chúng tôi
dời cơ quan đến một ngôi trường cũ trong khu vực Pankow của Đông Bá Linh, sát cạnh
khu bảo vệ nơi các cấp lãnh đạo Đảng và nhà nước cư ngụ – một dấu hiệu chứng tỏ
chúng tôi được nể trọng.
Lúc ban đầu chúng tôi chỉ có tám người và bốn cố vấn Xô Viết, trong số đó có một
nhân viên điệp báo NKVD lão thành tự xưng mình là «Đồng chí Grauer». Andrei Grauer
đã từng là sĩ quan tình báo của Sứ Quan Liên Bang Xô Viết tạiStockholm. Ông giàu kinh
nghiệm họat động và chúng tôi chăm chú và thán phục nghe những thành tích phát hiện
điệp viên nằm vùng, xâm nhập cơ quan và các nhân viên anh dũng. Chúng tôi học hỏi nơi
ông cách xây dựng hạ tầng cơ sở tình báo, biết phân nhiệm và tìm đánh vào điểm yếu của
địch thủ. Than ôi, sự nghiệp của ông kết thúc một cách thảm não vài năm sau đó. Ông
càng lúc càng trở nên đố kỵ vì ông méo mó nghề nghiệp trong môi trường sinh họat thời
Liên Bang Xô Viết của Stalin. Ông và Ackermann, người lãnh đạo chính thức cơ quan
tình báo, trở thành những kẻ thù gay gắt, và Grauer luôn ám ảnh nghi ngờ Ackermann.
Một thời gian sau Grauer bị triệu hồi vềMoscow. Sau này tôi nghe các bạn trong ngành
tình báo Xô Viết xấu hộ thú nhận ông bị bệnh tâm thần bách hại cuồng, nhìn đâu cũng
thấy kẻ thù. Tinh thần cảnh giác cao độ của ông trước đây khiến ông trở nên một sĩ quan
tình báo tinh nhuệ nay đã lôi keo ông đi.
Trong nội bộ chính quyền và đảng, tên ngụy trang của cơ quan của chúng tôi là
Tổng Cục Nghiên Cứu Kinh Tế và Khoa Học (Hauptverwaltung für Wirtchafts-
Wissenschaftliche Forschung). Danh xưng này chẳng có gì là bí mật, vì ngay cụm từ
“tổng cục” nhắc nhở cho mọi người biết những biệt môn của Pervoye Glavnoye
Upravleniye, “Tổng Cục Số Một” của KGB, phụ trách về các công tác gián điệp. Năm
1956, cơ quan tình báo hải ngoại được đặt tên là Die Hauptverwaltung Aufklärung – gọi
tắt là HVA – có thể dịch là “Tổng Cục Tình Báo”.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 6 (Markus Wolf)
“…Đây là một loại áp lực tâm lý trên những người đàn ông và đàn bà đã gắn liền căn
cước và lòng tự trọng bản thân với tinh thần liên thuộc vào một nhóm cùng chung một lý
tưởng. Khi thình lình lòng tín nhiệm này không còn nữa, áp lực tâm lý trở nên gay gắt
hơn…”
Chương 3 (tiếp)
Đệ tử của Stalin
Các cố vấn Xô Viết của chúng tôi giữ một vai trò lớn, có thể nói là bao trùm. Lúc
đầu các cấp lãnh đạo ngành của chúng tôi soạn thảo tất cả kế hoạch dưới sự kiểm soát của
các cố vấn. Các vị này nhất mực theo phuơng pháp cực kỳ hành chánh của Xô Viết, làm
cho chúng tôi phải điên đầu. Ngoài việc sao chép các điều lệ và các giấy tờ khác bằng
tay, chúng tôi phải mất hàng giờ đóng chúng gọn ghẽ thành tập, một thủ tục du nhập của
công an mật vụ Nga Hoàng trước thời Cách Mạng. Không ai hiểu nguyên ủy của thủ tục
này, nhưng cũng chẳng có ai đặt câu hỏi thắc mắc.
Cơ cấu tổ chức của cơ quan chúng tôi phản ánh trung thực mẫu mực Xô Viết.
Những ngôn từ trong đường hướng chỉ đạo để lộ nét phiên dịch từ tiếng Nga và vạch rõ
những mục tiêu công tác tương lai của chúng tôi. Đó là thâu thập tình báo chính trị của
nước Tây Đức và Tây Bá Linh; tình báo khoa học và kỹ thuật trong lãnh vực vũ khí hạt
nhân và hệ thống phân phối, về năng lượng hạt nhân, hóa học, thiết kế điện lực và điện
tử, hàng không và vũ khí quy ước, và sau cùng nhưng không phải là cuối cùng, tinh báo
về các đồng minh Tây Âu và những tính toán của họ đối với nước Đức và Bá Linh.
Một chi nhánh nhỏ, độc lập của Tổng Cục Tình Báo, gọi là “phản gián” (Abwehr)
được thành lập để giám sát và xâm nhập các cơ quan tình báo Tây Âu; nhưng nó xung đột
trực tiếp với Bộ An Ninh Nhà Nước, vì bộ này cũng có một bộ phận giám sát tinh vi hơn.
Ngay cả khi chúng tôi sát nhập vào Bộ này năm 1953, cuộc xung đột vẫn tiếp diễn và
phản gián vẫn nằm dưới sự kiểm sóat trực tiếp của Bộ. Những cuộc chiến hành chánh này
khiến cho những tin tức bức thiết liên quan đến những công tác trong ngay nội bộ của
chúng tôi không đến tay chúng tôi, đặc biệt những năm sau này khi các nhân viên phản
gián bắt đầu làm việc với bọn khủng bố hải ngọai.
Người ta thường hỏi tại saoMoscow lại thành lập một cơ quan do người Đức chúng
tôi điểu khiển để tranh đua với họ. Nhưng Stalin nhận định chính xác nước Đức thời hậu
chiến sẽ là một khu vực các cơ quan Nga khó mà xâm nhập, và một cơ quan vững chắc
của chính quốc gia đó như trong trường hợp cơ quan Đông Đức trong khu vực của Xô
Viết sẽ tạo niềm hãnh diện cho chúng tôi và nhờ đó bảo vệ quyền lợi của Xô Viết. Thọat
tiên các cố vấn Xô Viết nhận tất cả tin tức chúng tôi có, ngay cả đến bí danh của các
nguồn tin và các đơn vị cá nhân, mặc dù chúng tôi bắt đầu bảo vệ nguồn tin và cung cấp
cho các sĩ quan liên lạc Xô Viết những tin tức chọn lọc.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là phụ tá điều nghiên cho Robert Korb, một bạn đồng
nghiệp cũ của tôi tại Radio Moscow. Korb hiểu biết sâu rộng về chính trị và thấu hiểu các
sự kiện, và trình độ hiểu biết của ông rất cao. Tôi học hỏi rất nhiều nơi ông về những vấn
đề không liên quan gì đến công tác của chúng tôi, ví dụ như Islam, lịch sử khúc mắc của
Israel và những xung đột tôn giáo tại bán lục địa Ấn Độ. Ông là một chuyên gia điều
nghiên sáng suốt; ông dậy cho tôi biết phân xét các bản báo cáo tại địa bàn công tác một
cách lãnh đạm, và chúng tôi sớm đi đến kết luận việc duyệt đọc kỹ lưỡng báo chí thường
đem lại kết quả hữu hiệu hơn là các báo cáo mật của điệp viên, và các chuyên viên điều
nghiên phải biết rút tỉa kết luận từ nhiều nguồn tin khác nhau để có thể thẩm định các
thông tin tình báo. Từ đó nhận định này luôn là hành trang cùng đi với tôi.
Korb, trong cung cách cũng như trong suy nghĩ cá biệt của ông, có thể gợi chú ý
của cử tọa với óc tinh tế và lời lẽ mỉa mại ông thường biểu lộ khi ông trình bày vấn đề
trước các bậc trưởng thượng. Vì tôi chia sẻ tính bất nể phục này nên chúng tôi có nhiều
điểm giống nhau. Mặc dù chúng tôi là những bày tôi trung kiên của nhà nước, chúng tôi
cố gắng giữ khoảng cách với tinh thần tận tụy quá đáng của các cấp lãnh đạo chính trị
trong việc truyền bá chủ nghĩa.
Cơ quan chúng tôi phát triển nhanh chóng và chúng tôi lại di chuyển từ khu Bá
Linh – Pankow đến một cao ốc lớn hơn trong khu vực Rolandufer tại trung tâm Đông Bá
Linh. Tôi sớm được thăng chức phụ tá giám đốc cơ quan tình báo hải ngọai vừa mới
thành lập bên cạnh ông Gustav Szinda , một người có hàng chục năm kinh nghiệm trong
các công tác mật tại Tây-ban-nha và các nơi khác cho tình báo Xô Viết.
Không may cho cả hai chúng tôi, ông Szinda và tôi không ai biết cách thức khởi sự
đối phó với tình báo Tây Đức ra sao; một cơ quan vừa được thành lập từ sự sụp đổ của
chế độ Quốc Xã không hề bị một thiết hại nào. Các cấp lãnh đạo tình báo phục vụ cho
Hitler nay làm việc với các chủ nhân mới tại một cái làng nhỏ, bao trùm nhiều bí mất của
vùngBavaria gọi là Pullach. Chúng tôi phải tìm kiếm tên của ngôi làng trên bản đồ khi tên
làng này xuất hiện trên báo chí. Đây là một thế giới xa lạ với chúng tôi và hầu như chúng
tôi không với tới được, mặc dù với thời gian, chúng tôi rất quen thuộc với lề lối làm việc
của họ.
Tôi được biết đến danh tính của Tướng Reinhard Gehlen, cấp lãnh đạo đấu tiên của
tình báo Tây Đức, trên trang nhất của tờ Daily Express tại Luân-đôn; tờ nay ghi rõ Tướng
Của Hitler làm Gián Điệp trở lại – lần này với Mỹ kim.
Sefton Delmer, một ký giả được biết có liên lạc với tình báo Anh, đã viết hàng
tựa này; vào thời kỳ chiến tranh, ông phụ trách phản gián Anh quốc tại đài phát thanh
Soldatensender Calais. Bản tin của Delmer gây phẫn nộ. Nó không những tiết lộ hệ thống
tình báo cũ của Quốc Xã vẫn còn nguyên vẹn, mà còn cho biết cơ quan tình báo mới của
Cộng Hòa Liên Bang chứa chấp nhiều cựu sĩ quan SS và chuyên viên an ninh quân đội đã
hoạt động dưới thời Hitler tại Pháp và nhiều nơi khác. Chính Gehlen đã từng chỉ huy đơn
vị điệp báo quân đội của Quốc Xã chống lại Hồng Quân. Nhờ Cơ Quan của Gehlen, sau
này được biết, Hoa kỳ tiếp cận với tất cả các đường dây hệ thống tình báo cũ của Quốc
Xã; Hoa Kỳ ra lệnh cho giới tình báo Tây Đức cũng giống như Nga ra lệnh cho khối
Đông Âu.
Cũng có tin đồn Tướng George S. Patton Jr. bao che cho một số sĩ quan cao cấp của
Đức. Tôi lo âu nhận thức mục tiêu để đạt đến một Châu Âu hòa bình toàn diện khó lòng
thành tựu. Dây khóa mõm đã được cài đặt ở cả hai phía. Viễn ảnh hòa bình với bao nhiêu
hy sinh vừa qua rất mong manh. Châu Âu bị chia cắt và đường chia cắt nằm ngay trên
nước Đức.
Thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer dốc toàn lực ủng hộ “chính sách mạnh” của
Hoa Kỳ và chiến lược đẩy lui chủ nghĩa công sản do John Foster Dulles đề xướng; người
em tên Allen Dulles chính là giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ (C.I.A.).
Liên Bang Xô Viết đã giúp các nước Tây Âu đặt được hòa bình; nay Hoa-thịnh-đốn đang
chuẩn bị huy động tất cả sức mạnh chính trị, tình báo, kinh tế và, nếu cần, sức mạnh quân
sự của Hoa kỳ và đồng minh để phản công. Gehlen nhận biết lần xung đột mới này là cơ
hội cho đương sự tạo ảnh hưởng trực tiếp lên đường hướng chính trị. Ông gặp gỡ
Adenauer trước khi Tây Đức thu hồi cơ quan tình báo khỏi tay CIA và ông được hỗ trợ
và có quyền lực rất lớn. Điều này có nghĩa ông kiểm soát và dùng những hồ sơ để đánh
các đối thủ chính trị trong nước, trong dó có đảng Dân Chủ Xã Hội đối lập với chính
quyền Dân Chủ Thiên Chúa Giáo tại Quốc Hội. Trong quân đội và các cơ quan hành
chánh Tây Đức, các bày tôi trung kiên của Đệ Tam Quốc Xã một lần nữa giữ những địa
vị then chốt, và các cựu sĩ quan Quốc Xã chỉ huy tổ chức của Gehlen.
Tên của Hans Globke, một trong những cố vấn thân tín của Adenauer và là đổng lý văn
phòng của Thủ Tướng, đồng nghĩa với phương thức xâm nhập này. Là một cựu viên chức
cao cấp trong Bộ Nội Vụ của Hitler, Globke là tác giả của bài bình luận nặng cân về luật
phân biệt chủng tộc Nuremberg nhằm hợp thức hóa việc phận biệt bằng võ lực và đưa
đến “Giải Pháp Cuối Cùng” của Quốc Xã. Globke làm đổng lý văn phòng cho Adenauer
trong vòng mười năm.
Trong bầu không khí xôi động này, thành phố Bá Linh vào thập niên 1950 thừa kế
Vienna trở nên trung tâm điệp báo Châu Âu. Có khoảng tám mươi cơ quan điệp báo cùng
với nhiều ngành khác và tổ chức ngụy trang họat động tại thủ đô này. Tại các văn phòng
ngụy trang của Hoa Kỳ và của Nga được che đậy qua bình phong đủ các thứ hãng, từ
công ty sửa ống nước và xuất khẩu mứt cho đến những viện hàn lâm và các cơ quan
nghiên cứu, có cả một đội ngũ sĩ quan chuyên kết nạp và điều khiển các điệp viên của
mình và những điệp viên này có thể di chuyển dễ dàng trong những khu vực Bá Linh và
cả hai phần của nước Đức vào những ngày trước khi Bức Tường, chia cắt thành phố và
đất nước Đức, được xây dựng vào năm 1961.
Đây cũng là lúc trước khi phép lạ kinh tế Tây Đức bắt đầu và do đó cũng là thời buổi
thiếu thốn và tan tác kinh tế. Hứa hẹn cung cấp thực phẩm hoặc được thăng tiến xã hội đã
khiến thiên hạ đi vào con đường điệp báo. Nhưng trong khi chính quyềnTây Đức có thể
dễ dàng trông cậy vào nguồn tài chánh, chúng tôi vẫn hoạt động trong cảnh nghèo nàn và
phải theo đuổi một lối tiếp cận có tính cách ý thức hệ hơn. Nhiểu điệp viên nằm vùng của
chúng tôi tại Tây Đức, đặc biệt trong môi trường chính trị và kỹ nghệ, không phải là
Cộng Sản nhưng họ làm việc cho chúng tôi vì họ muốn khuất phục tình trạng chia đôi
nước Đức và nghĩ rằng chính sách của các Đồng Minh Tây Âu đang củng cố nó. Sau này
chúng tôi mất một số điệp viên như vậy khi Bức Tường được xây và cho họ thấy biểu
tượng của nước Đức chia hai theo nghĩa đen đã được xây dựng bằng bê-tông.
Những chi tiết nhỏ nhặt trong việc xây dựng một cơ quan tình báo hoàn toàn mới chiếm
hầu hết thời gian của tôi. Tôi chú ý đến các nước phương Tây và tôi cố gắng làm quen
với những chuyển biến chính trị tại Hoa Kỳ và tại Tây Âu và tôi theo dõi sát những tiến
triển trong ngành tình báo hậu chiến.
Chúng tôi phải thu thập những nguồn tin mới tại các trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế
và khoa học kỹ thuật của phía bên kia. Điều này nói dễ hơn là làm, vì những đòi hỏi an
ninh trong chính guồng máy của chúng tôi, do tình báo Xô Viết áp đặt, rất là gắt gao. Cả
ngàn thí sinh được gửi gắm đến phải được sàn lọc để có được một nhúm nhỏ khả dĩ chấp
nhận được. Những ai có thân nhân ở Tây Âu đều bị loại bỏ, cũng như những người trải
qua những năm tháng chiến tranh làm người tị nạn hoặc là tù binh chiến tranh ở Tây Âu.
Trái ngược với những lời đồn đãi cho đến nay vẫn còn, chúng tôi không có ý dùng những
cựu đảng viên Quốc Xã trong bộ máy của chúng tôi và chúng tôi kiêu hãnh có đạo đức
hơn Tây Đức về mặt này.
Chúng tôi tiếp cận một số hồ sơ đảng viên Quốc Xã của Đệ Tam Đức Quốc và chúng tôi
dùng những hồ sơ này để thuyết phục những người Tây Đức đã xóa bỏ quá khứ cộng tác
với Quốc Xã về cộng tác với chúng tôi. Nhiều người khác tình nguyện làm việc cho
chúng tôi và họ cho đó là một loại đền bù tinh thần cho những tổn hại họ đã gây ra trong
quá khứ. Thoạt nhìn phong thái này có vẻ tử tế. Lý do thực sự là họ muốn được an toàn
và bảo vệ sự nghiệp mới của họ ở Tây Đức để tránh không bị chúng tôi lật tẩy sau này.
Theo ngôn từ Đức, chúng tôi gọi là Rückversicherung, có nghĩa nguyên văn là “tái bảo
hiểm” cho quá khứ. Nhờ Đảng Cộng Sản Tây Đức chúng tôi thừa hưởng được sự cộng
tác của một chính trị gia trong Đảng Dân Chủ Tự Do tên là Lothar Weihrauch ( au này
làm việc trong Bộ Xử Lý Các Vấn Đề Chung Nước Đức của Tây Đức), người này cung
cấp cho chúng tôi rất nhiều tin tức chính trị cho đến khi chúng tôi khám phá đương sự đã
phạm những tội ác chiến tranh khi đương sự giữ một chức vụ quan trọng vào thời kỳ Đức
chiếm đóng Ba Lan. Chúng tôi cắt đứt liên lạc với y. Chúng tôi cũng đã kết nạp một cựu
đảng viên Quốc Xã, trước đây là một đội viên xung kích, mang bí danh là Moritz. Người
này đã giúp chúng tôi trong cuộc đấu tranh chính trị chống lại sự thành lập của Cộng
Đồng Quốc Phòng Châu Âu (cuối cùng đã bị ngăn chặn vì tinh thần chủ nghĩa quốc gia
của nước Pháp chứ không phải vì cơ quan tình báo chúng tôi phá vỡ dự án thành lập).
Quá khứ là một vũ khĩ lợi hại trong ngành tình báo và cả hai bên không ngần gại dùng nó
để hăm dọa. Đúng vào lúc chúng tôi tìm phương kế để hạ bệ những chính trị gia hoặc
những khuôn mặt kỳ cựu có ý đánh phá chúng tôi bằng cách tiết lộ sự đồng lõa của họ
với Quốc Xã, một tổ chức chống Cộng tên là Ủy Ban Luật Sư Tự Do Tây Bá Linh do các
luật gia trốn chạy Đông Đức thành lập, cho xuất bản một quyển sách nhỏ ghi tên những
công chức Đông Đức đã tìm cách gia nhập đảng Quốc Xã. Nhưng vì phần đông các sĩ
quan tình báo cao cấp và cấp lãnh đạo chính trị của chúng tôi đều sống lưu vong hoặc ẩn
núp vào thời Đệ Tam Quốc, chúng tôi ở Đông Đức chúng tôi đã thắng trong chiến trận
tuyên truyền này.
Một vài thành phần Quốc Xã tìm cách chuyển hướng sang phía chúng tôi bằng cách che
dâu quá khứ. Không bao lâu sau khi tôi bắt tay vào việc, một nhân viên trẻ trong đội đến
gặp tôi và nói với tinh thần vô cùng hoang mang anh để ý thấy một người làm việc tại
ban thẩm vấn trên cánh tay có xâm huy hiệu SS. Ban thẩm vấn là ban thô bạo nhất ở
trong Bộ, và tôi không muốn mang tai tiếng vì có những tay côn đồ này làm việc tại đây.
Tôi mường tượng một kẻ nào đó ưa thích những việc làm như vậy ở chế độ trước lại cảm
thấy an nhiên tự tại ở đây. Chúng tôi lặng lẽ thuyên chuyển y khỏi vị trí này.
Những màn hăm dọa đang diễn ra là một trò bần thỉu và tác hại nhưng cả hai bên đều
dùng nó. Một vài thành phần Quốc Xã cũ ở Tây Đức giúp việc cho chúng tôi vì có lòng
hối cải, một vài kẻ khác vì tiền, hoặc để phòng bị không bị lộ là người cộng tác với chế
độ Quốc Xã. Xô Viết có nhiều cơ hội đẻ hăm dọa hơn vì họ nắm giữ những hồ sơ của
Quốc Xã, và sai khiến những người này chẳng hạn như cựu chiến binh SS Heinz Felfe, đã
từng giữ chức vụ Obersturmführer (* ldg : tương đương với cấp Trung Úy) trong tổ chức
tình báo Quốc Xã, Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (Reichssicherheitshauptamt), và làm việc
với Tổ Chức của Gehlen thời hậu chiến. Felfe đã trở thành gián điệp nhị trùng của Xô
Viết, tiết lộ tất cả những thành quả của cơ quan tình báo Tây Đức cho Moscow và đã gây
thiệt hại không thua những gián điệp nhị trùng có tầm cỡ như Kim Philby, George Blake
và Aldrich Ames.
*
Một trong những cơ hội đầu tiên của chúng tôi để xam nhập các cơ quan của Đồng Minh
là nhờ vào tình báo Đảng Cộng Sản ở Đức. Vào thế kỷ thứ mười chín phong trào Dân
Chủ Xã Hội Đức đã tổ chức những nhóm bí mật để đối phó với sự đàn áp của Kaiser.
Đảng Cộng Sản Đức (Kommunische Partei Deutsclands hoặc gọi tắt là KPD) đã được tôi
luyện bởi những đối xử hà khắc thô bạo của chính quyền (lịch sử khởi đầu của họ đã ghi
khắc việc tàn sát những đảng viên Spartacist Rosa Luxemburg và Karl Liebnecht), bắt
chước các đảng viên Dân Chủ Xã Hội bằng cách phát triển hệ thống tình báo riêng của
họ. Cơ cấu này đã tạo mối liên hệ chặt chẽ với cấp lãnh đạo của Comintern tạiMoscowvà
các cơ quan tình báo tại đây.
Đầu não đứng sau hệ thống tình báo của Đảng vào thế kỷ thứ hai mươi là Ernst Schneller,
bị ám sát năm 1944 do lệnh của Hitler, và Hans Kippenberger, mà sau này được biết là bị
giết năm 1937 do lệnh của Stalin. Hệ thống này, chuyên thu thập những tin tức khoa học
kỹ thuật và quân sự để chuyển cho Liên Bang Xô Viết, là nguồn cung cấp tin tức, vào
thời Hitler cầm quyền, cho hệ thống tình báo danh tiếng Rote Kapelle – dịch sang tiếng
Anh gọi là “Dàn Hòa Tấu Đỏ”.
Dàn Hòa Tấu Đỏ là một trong những tổ chức kháng chiến lớn nhất. Một vài thành viên
trong đó là Cộng Sản, và một phần ít ỏi là những nhân viên của các cơ quan tình báo Xô
Viết (NKVD và GRU, quân báo).
Tem thư kỷ niệm Ernst Sneller
năm 1960 ở nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức
Thử thách đầu tiên tôi phải đương đầu là kiểm nghiệm năng lực xây dựng một hệ thống
tình báo Cộng Sản mới. Tôi sớm biết hệ thống mới đặt trên con đường hệ thống cũ không
thể nào tin tưởng được. Đặc biệt người Anh đã khéo đánh tráo một số những đảng viên
cộng sản trước đây là những tù binh chiến tranh. Họ cũng đã vô cùng thành công trong
việc đánh tráo một vài người Cộng Sản di dân thời chiến cũng như nhiều điệp viên mới
trẻ của hệ thống tình báo mới thành lập này.
Một ví dụ điển hình để thấy hệ thống mới này đã bị lũng đoạn là trường hợp của Merkur,
tên thật là Hans Joachim Schlomm. Tôi được biết đến đương sự trong lúc kiểm soát trong
núi hồ sơ, phần đông chưa được đối chiếu, để tìm những đầu mối trong những cơ quan
tình báo của Tây phương. Tôi nghiên cứu những hồ sơ cho biết đương sự có liên hệ với
phản gián Tây Đức, được mệnh danh là Văn Phòng Bảo Vệ Hiến Pháp (Bundesamt für
Verfassungsschutz, BfV), đặt trụ sở tạiCologne. Đương sự cũng có nhiều mối liên hệ với
giới hoạt động chính trị tạiBonn. Những báo cáo của đương sự về cho Đảng gây ấn tượng
mạnh vì có nhiều chi tiết, đa dạng và sâu sắc, trong đó có cả những thông tin nội bộ của
các đảng phái chính trị trong quốc hội Tây Đức, những hồ sơ mật của bộ ngoại giao và
các bộ khác. Trên bề mặt, đương sự có vẻ như là một nguôn tin lý tưởng, vì vậy tôi phái
người đi tìm đương sự ở Schleswig –Holstein, theo như hồ sơ cho biết chỗ ở của đương
sự. Merkur nói rằng y đã kiên nhẫn chờ đợi cú điện thoại của chúng tôi và không chút
ngần ngại chấp nhận lời mời để đến Bá Linh. Đương sự là điệp viên đầu tiên của tôi.
Đương sự đến nhà an toàn đúng giờ hẹn tại một biệt thư ở ngoại ô Bá Linh. Dáng người
cao ốm, độ chạc ba mươi tuổi, đương sự có vẻ thích hợp với nghề nghiệp của mình, nghề
của một kỹ sư điện. Đương sự giải thích đương sự đã cộng tác với Đảng Cộng Sản khi
con là sinh viên ở đại học Hamburg, làm việc cho cơ quan tình báo của Đảng, và theo
lệnh đảng đã gia nhập tổ chức thanh niên cánh hữu, cuối cùng đến làm thư ký cho Bác Sĩ
Fritz Dorls tại Bonn. Rồi tôi hỏi đương sự khá lâu, nhưng có nhiều điều lạ; những câu trả
lời của y về những người y nói y quen biết không phụ hợp với những lời ghi trong hồ sơ.
Chúng tôi đưa y trở về Tây Bá Linh và mời y đến lại ngày hôm sau. Tôi lại dở xem
những hồ sơ của y.
Khi y trở lại, tôi đóng vai trò người trí thức và Szinda, kẻ thô bạo. “Đủ rồi, đồ khốn nạn”,
Szinda nói để báo hiệu là không còn đủ kiên nhẫn với anh điệp viên tiềm năng này. Khi
những mâu thuẫn trong những lời khai man của y bị lột trần, Merkur cuối cùng nhận là
đầu năm 1948 y đã được tình báo Anh cài vào tổ chức tình báo Cộng Sản, hiện nay y vẫn
tiếp tục làm việc cho họ và những hồ sơ y cung cấp là những hồ sơ do họ cài đặt.
Cuộc điều tra được giao phó cho Erich Mielke, người số hai làm việc tại Bộ Công An
(được thành lập vào ngày 8 tháng Hai năm 1950) và là cấp lãnh đạo tại đây, vốn nghi ngờ
cơ quan của chúng tôi vì ông nghĩ nó cạnh tranh với bộ của ông. Ông này là một tay
Stalin-nít kỳ cựu thô bạo và không mấy ưa thích Szinda từ những ngày còn là đồng chí
thời Nội Chiến Tây Ban Nha, và ông cũng chẳng ưa gì tôi. Mielke bắt giam Merkur vì tôi
gián điệp nhị trùng và đem ra xử án, kết quả là án lệnh chín năm tù ở.
Trường hợp của Merkur gây báo động không những ở Tây phương mà ngay cả trong cơ
quan của chúng tôi. Chúng tôi kết luận từ những cuộc thẩm vấn và lời khai của y là y biết
quá nhiều về tổ chức tình báo của Đảng Cộng Sản và những mối liên hệ của tổ chức này
với các tổ chức khác, nhiều hơn mức độ của điệp viên ngụy trang. Ở thời điểm này chúng
tôi nhận thức là chúng tôi phải kiểm tra lại tất cả mọi người trong các nhóm tình báo
Cộng Sản bí mật, mà tổng số lên đến từ bốn mươi đến năm mươi người. Giống như để
kết hợp những mẩu hình ghép, tôi bắt đầu hỏi những những sĩ quan giao liên và những
người chuyển thư đã được gởi sang Tây Đức từ nước CHDCĐ, để cho những mối nghi
ngờ không bị đánh điên đi cho chính các điệp viên. Những gì họ nói cho tôi biết về những
vi phạm nguyên tắc trong công tác bí mật làm cho tôi nghi ngờ có nguy cơ bị xâm nhập.
Do đó tôi ngồi vào bàn và bắt đầu vẽ một sơ đồ những mối liên lạc ngang và chéo trong
những hệ thống tình báo hiện có, nó giống như một màng nhện khổng lồ. Với kỹ năng
của một kỹ sư hàng không kinh nghiệm, tôi thảo cái mà tôi gọi là “màng nhện” trên một
trang giấy. Trên sơ đồ tôi liên kết tất cả các thư tín viên, các nhà an toàn, và những điều
tương tự. Tôi tô màu đỏ những điệp viên tình nghi là nhị trùng, màu xanh dương những
nguồn tin và màu xanh lá cây các điệp viên thường trú. Những đường vẽ và những ô
vuông cũng ghi dấu những trường hợp đáng nghi hoặc những mối liên lạc đáng nghi với
tổ chức địch. Đối với những người không hiểu biết, sơ đồ chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng
đối với tôi, nó bắt đầu làm rõ nét khả năng khai triển và đào xâu công tác của chúng tôi.
Có được một hình ảnh rõ rệt để tìm hiểu cơ quan này đã bị xâm nhập sâu đậm như thế
nào là một điều cần thiết.
Tôi cuối cùng kết luận là nếu các cơ quan tình báo Tây phương muốn, họ có thể tiêu diệt
toàn bộ hệ thống này. Trên mặt thực tế, họ chưa chắc đã khôn ngoan hoặc hữu hiệu như
vậy, nhưng nguy cơ vẫn còn đó, đặc biệt đối với đảng Cộng Sản nếu hệ thống tình báo cũ
bị cài ngược hoặc bị bại lộ. Vì vậy tôi quyết định tốt hơn hết là giải tán hệ thống này và
bỏ rơi những mối liên hệ với điệp viên Cộng Sản ở Tây Đức.
Sơ đồ màng nhện của tôi được cuộn lại và kẹp dưới nách, tôi xin hẹn gặp Walter
Ulbricht, là người phụ trách về tất cả các cơ quan tình báo vào lúc đó. Tôi nhấn mạnh về
tính cách bí mật tuyệt đối về những gì tôi báo cáo cho ông. Thay vì gọi tôi vào văn phòng
của ông, ông mời tôi đến nhà ông ở khu Pankow, nơi mà người Đông Đức không thích
mấy và họ gọi là “thành phố nhỏ”. Những căn phòng của nhà lãnh đạo cho thấy sở thích
của một anh thợ mộc chuyên nghệ ưa chuộng những đồ đạc rắn rỏi của giới trung lưu, có
trạm trổ.
Tôi trải sơ đồ lên trên bàn ăn của ông Ulbricht và trình bày những khám phá của tôi trong
từng chi tiết. Với sự đồng ý của Ackermann, tôi đã nói chuyện trước khi tôi đến đây, tôi
quyết định cắt đứt tất cả mối liên lạc với hệ thống tình báo Cộng Sản tại Tây Đức và loại
tất cả những điệp viên có ít nhiều dính líu đến nó. Sự kiên chính quyền Tây Đức đã chuẩn
bị đặt đảng Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật – cuối cùng việc này bị xét là vi hiến vào
năm 1956 – giữ một vai trò quan trọng trong những tính toán của chúng tôi. Ulbricht
chấp nhận lợi đề nghị của tôi, và từ đó trở đi Đảng Cộng Sản Quốc Gia Đức ở Tây Đức là
vùng cấm địa của cơ quan chúng tôi, cũng như tổ chức kế tục Đảng Cộng Sản Đức được
thành lập trở lại năm 1968 vào thời buổi tư do hơn.
Năm 1952 chúng tôi triệu hồi tất cả điệp viên về, ngay cả những người Cộng Sản trung
kiên nhất cũng bị cô lập trong một loại “giam biệt thự” và bị tra khảo gắt gao. Thiên hạ
thường hỏi chúng tôi dùng phương pháp gì trong những trường hợp như vậy. Đây là một
loại áp lực tâm lý trên những người đàn ông và đàn bà đã gắn liền căn cước và lòng tự
trọng bản thân với tinh thần liên thuộc vào một nhóm cùng chung một lý tưởng. Khi thình
lình lòng tín nhiệm này không còn nữa, áp lực tâm lý trở nên gay gắt hơn. Ở đây không
cần phải đe dọa hoặc trình lệnh để bắt họ. Nói chuyện với họ và coi họ như những kẻ tình
nghi và giám sát những lời khai của họ cũng đủ để cho chúng tôi biết là họ vô tội và
chúng tôi không thấy một điệp viên nhị trùng nào khác. Lẽ cố nhiên, vấn đề cài đặt họ lại
ở Tây Phương không được đặt ra. Họ được cảnh báo không nên tiết lộ những gì đã xảy
ra. Tất cả mọi người đều giữ lời hứa đưng như tư cách của những đồng chí tốt.
Có một vài người đã có chiến công hiển hách chống lại Quốc Xã. Một người đã từng ở
chung trại với cha tôi ở bên Pháp; chúng tôi cô lập đương sự trong một căn phòng trong
nhiều tuần và sau đó đánh tan mọi nghi ngờ đối với đương sự.
Năm 1956, sau khi Khrushchev đọc bài diễn văn bí mật trong Đại Hội Đảng lần thứ Hai
Mươi, chúng tôi phục hồi danh dự cho phần lớn những đồng chí đã bị triệu hồi này, trao
cho họ huy chương và huân chương. Bruno Haid, đã từng chiến đấu với kháng chiến
Pháp thời chiến và đã bị triệu hồi và phái đến một cơ xưởng tạiKarl-Marx-Stadtđể làm
một công chức nhỏ và sau đó được phong chức phó ủy viên công tố của nước CHDCĐ.
Ông tố cáo tôi đã dùng những phương pháp thô bạo gợi lại việc Lavrenti Beria, tổng giám
đốc mật vụ của Stalin, phá vỡ hệ thống của Đảng – điều tôi không làm – nhưng cuối
cùng, nếu không muốn nói là miễn cưỡng, ông chấp nhận quan điểm của tôi khi ông được
biết trường hợp của gián điệp nhị trùng Merkur.
Một vài nguôn tin “bảo tồn” của chúng tôi không bị triệu hội và sau đó được phục hoạt,
tuy nhiên vẫn phân cách hoàn toàn không hề liên hệ với những đường dây mới. Tại sao
chúng tôi làm việc này? Đơn giản thôi, chúng tôi khám phá việc xâm nhập không có sâu
đậm như chúng tôi lo sợ. Tây phương không có những phép lạ an ninh như chúng tôi.
(Còn tiếp)
ồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 7 (Markus Wolf)
“..chúng tôi tìm cách thích ứng lý tưởng của chúng tôi với những hành vi bẩn thỉu bởi vì
Hoa Kỳ và Đồng Minh Âu châu đang tìm cách phá hủy những nỗ lực xây dựng xã hội
chủ nghĩa của chúng tôi trên đất nước Đức…”
Chương 4
Cộng Hòa Dân Chủ Đức lớn mạnh và tôi lớn theo
Tháng Chạp năm 1952, tôi nhận được thơ của Walter Ulbricht, lãnh tụ Đông Đức, ra lệnh
vời tôi về cao ốc của Ủy Ban Trung Ương, nằm trên giao điểm nhộn nhịp đường
Lothringer Strasse (sau này trở thành Whilhelm Pieck Strasse) và đường Prenzlauer Allee
tại trung tâm của Đông Bá Linh, không xa quảng trường Alexanderplatz. Tại cổng ra vào
tôi nhận giấy phép thông hành, người canh gác cửa cẩn thận xem xét căn cước của tôi,
mặc dù vấn đề an ninh không chặt chẽ và cao ốc không đồ sộ như tại Bộ Tham Mưu sau
này được đặt tại Werderscher Markt. Mặc dù vậy, người ta cũng cảm nhận được sự lớn
mạnh của thành phần ưu tú nhưng sau này tự cô lập với quần chúng.
Tôi trình diện tại văn phòng chờ đời của Ulbricht. Ông đang họp, sau một thời gian ngắn
ông xuất hiện, ăn mặc gọn ghẽ với hàm râu dựng đứng. Ông mời tôi sang văn phòng kế
cận với văn phòng của vợ ông, bà Lotte, một cộng sự viên thân tín nhất. Tôi biết rõ bà khi
chúng tôi làm việc chung tại Đài Phát Thanh Nhân Dân Đức tạiMoscow. Bà ân cần chào
hỏi tôi. Ulbricht mời tôi ngồi và ra dấu cho bà vợ đi ra. Tôi đã gặp ông nhiều lần và ông
hay đùa bỡn, nhưng sau đó đi thẳng ngay vào vấn đề. Đó là phong cách của ông: Ngắn
gọn, theo cung cách thương gia, tập trung vào những nét chính và không bao giờ nhìn
thẳng người đối thọai. Thản nhiên, Ulbricht báo cho tôi biết Anton Ackermann, người
đứng đầu cơ quan tình báo hải ngọai từ khi thành lập, xin từ nhiệm vì lý do sức khỏe. Tôi
biết tình trạng sức khỏe của Ackermann không phải là lý do chính, nhưng Ulbricht bất tín
nhiệm Ackermann vì Ackermann nói đến “con đường xã hội chủ nghĩa Đức” riêng biệt,
khác với khuông mẫu Xô Viết. Ulbricht có khả năng đánh bật Ackermann vì Ackermann
bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, điều cấm kị trong môi trường thanh khiết Đông Đức
vào những thập niên 1950.
Ulbricht nói: “Chúng tôi nghĩ anh phải đứng ra quản lý cơ quan”. Danh từ “chúng tôi”
mang tính cách kẻ cả – hoặc, chính xác hơn, “chúng tôi” có nghĩa là cấp lãnh đạo Đảng.
Ông không hỏi tôi nghĩ thế nào về khả năng của tôi với chức vụ và cũng không muốn bàn
luận xa hơn nữa.
Tôi hầu như bị bất ngờ. Tôi chưa đầy ba mươi tuổi và tôi chẳng có một địa vị nổi bật nào
trong cơ cấu thứ bậc của Đảng. Tôi hỏi Ulbricht cơ quan tình báo hải ngọai báo cáo thế
nào cho cấp lãnh đạo đảng và ông trả lời tôi có trách nhiệm trực tiếp với ông.
Không đầy mười lăm phút sau, tôi đã bách bộ ngoài đường, đầu óc lùng bùng. Khi tôi trở
về văn phong của tôi, Richard Stahlman, xử lý thường vụ cơ quan từ lúc Ackermann từ
nhiệm, đang chờ đợi tôi. Tôi băn khoăn về thái độ của ông; một người có trọng lượng và
kinh nghiệm như ông ta không thể nào chuyển nhượng quyền lực cho một tên trẻ tuổi
mới tập tễnh một cách tầm thường như vậy được. Nhưng ông lại tươi cười một cách sảng
khoái khi ông mở tủ sắt kín và trao cho tôi một số hồ sơ bên trong; giấy tờ không bao giờ
là sở trường của ông và công việc hành chánh này sẽ là một phần quan trọng trong việc
làm của tôi. Ông lướt chìa khóa trên bàn về phía tôi và nói: “Tất cả những thứ này là của
anh. Chúc anh may mắn. Tôi sẽ có mặt khi anh cần đến tôi”. Lòng tôi đầy hãnh diện khi
tôi vội bước ra ngoài đi mua một bộ quần áo mới để khởi sự ngày đầu tiên ngồi vào bàn
làm việc to lớn.
Lý do họ tuyển chọn tôi chỉ sau mười sáu tháng làm việc tại cơ quan tình báo cho đến nay
tôi vẫn không rõ. Nhưng Công Hòa Liên Bang Dân Chủ mới chỉ được thành lập vào
tháng Mười năm 1949 và tất cả các quan chức phải học hỏi ngay trong khi làm việc.
Ackermann dường như đã đề nghị tôi làm người kế vị ông và tôi đoan chắc việc cất nhắc
của tôi liên quan mật thiết với những mối liên hệ của tôi vớiMoscow. Đôi khi tôi tự hỏi
tại sao tôi chấp nhận chức vụ này trong một cơ quan nằm trong một cơ cấu đàn áp. Trước
tiên, tôi nghĩ rằng cơ quan tình báo không phải là một bộ phận trong cơ cấu đàn áp. Và
việc từ chối không thể biện bạch được vì tinh thần trách nhiệm của tôi, vì kỷ luật của
Đảng và vì nhu cầu của chiến tranh lạnh.
Một trong những lời trách móc rất thường xuyên được đề cầp từ phía Tây về phong cách
của chúng tôi trong những thập niên 1950 là chúng tôi không thể nào đui mù không thấy
những gì đã xây ra trong thời gian thanh trừng tại Moscow vì chúng tôi đã thấy những
dấu hiệu trải qua những năm tháng kinh nghiệm tại đây. Điều này không đúng. Kinh
nghiêm sống tạiMoscowcủa chúng tôi lại có tác dụng trái ngược. Trong đầu óc chúng tôi
chúng tôi luôn có những bào chữa: Stalin phải tỏ chí phục thù vì ông đang chiến đấu
chống một kẻ thù man rợ. Chúng tôi không bao giờ chấp nhận quy mô dối tra dàn dựng
tại Liên Bang Xô Viết trong thập niên 1920 và 1930, vì vậy chúng tôi không nhận ra
những dối trá, những nửa sự thật và những đòn trả thù đi kèm theo nỗ lực của chúng tôi
để bảo toàn những thắng lợi chiến lược của Liên Bang Xô Viết tại Đông Đức.
Trái lại chúng tôi tìm cách thích ứng lý tưởng của chúng tôi với những hành vi bẩn thỉu
bởi vì Hoa Kỳ và Đồng Minh Âu châu đang tìm cách phá hủy những nỗ lực xây dựng xã
hội chủ nghĩa của chúng tôi trên đất nước Đức. Và tịnh huống viện cớ cứ tiếp tục như
vậy, cho đến khi chúng tôi thức tỉnh ra khỏi cơn mê năm 1989. Tôi vẫn phủ nhận thái độ
quyết đoán cho rằng chế độ chúng tôi hoàn toàn dựa trên sự Dối Trá, nhưng tôi phải công
nhận phần lớn nó được xây dựng trên những bào chữa.
Khi tôi đứng ra lãnh đạo cơ quan tình báo hải ngoại, Ulbricht trực tiếp kiểm soát trong
vòng nửa năm. Mùa Xuân năm 1953, cơ quan được đặt dưới quyền của Wilhelm Zaisser,
một ủy viên của Bộ Chính Trị và đồng thời lãnh đạo Bộ Công An Nhà Nước. Ông có một
quá khứ khiến mọi người Đông Đức phải kính phục. Trước Thế Chiến Thứ Hai, ông tổ
chức những công tác mật tại Trung Hoa và điều khiển Quân Đoàn 11 Quốc Tế tại Tây-
ban-nha. Ông Zaisser và tôi làm việc nhịp nhàng với nhau, có nghĩa là ông phó mặc hoàn
toàn công việc cho tôi. Ông chỉ dành cho tôi một tiếng đồng hồ mỗi tuần và thời gian qua
mau tôi không kịp trình bày những ưu tư của tôi. Là một sinh viên đam mê học thuyết
Mác-xít, ông thích bàn thảo về các vấn đề chuyển ngữ tuyển tập Lê-nin sang ấn bản mới
tiếng Đức, mà ông phụ trách in đăng hơn là nghe báo cáo của tôi. Những bản thảo thường
nằm đầy trên bàn của ông thay vì những báo cáo tình báo.
Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1953, quả bom đầu tiên trong nghề nghiệp của tôi nổ. Một
biến cố sau này mọi người được biết đến là vụ Vulkan (Vulkan, tiếng Đức có nghĩa là
“núi lửa”). Gotthold Kraus, làm việc trong đơn vị tình báo kinh tế của chúng tôi, trở
thành nhân viên đào thoát đầu tiên của chúng tôi. Tôi xem việc này như một thất bại cá
nhân lớn khiến cho tôi khám phá cơ quan chúng tôi còn kém cẩn mật. Hơn nữa, y ra đi
vào ngày nghỉ cuối tuần và sự vắng mặt của y không ai để ý trong vòng nhiều ngày. Cơ
quan phản giản Tây Đức có thời gian rộng rãi để khai thác những gì y biết về những điệp
viên Đông Đức trên lãnh thổ của họ và bắt họ trước khi chúng tôi biết họ gặp nguy, chưa
nói đến việc triệu hồi họ về. Franz Blücher, Phó Thủ Tướng Tây Đức, tuyên bố trong một
cuộc họp báo ba mươi lăm điệp viên đã bị bắt nhờ thông tin của Vulkan. Con số này thái
quá vì không một viên chức nào có thể biết danh tính của quá nhiều điệp viên họat động
trên đất địch. Hóa ra phản gián Tây Đức, quá hồ hởi vì lần đầu tiên đã bắt được một mẻ
lớn, quơ vào lưới một số thương gia vô tội buôn bán với Đông Đức nhưng họ chắc chắn
không phải là gián điệp.
Tuy nhiên chúng tôi phải trả giá đắt vì sự phản bội của Gotthold Kraus: ít nhất nửa chục
điệp viên họat động toàn thời bị bắt, trong đó có Andrew Thorndike, một nhà làm phim
tài liệu có tài mà chúng tôi mượn nghề nghiệp để làm bình phong cho những họat động
gián điệp của ông. Ông xuất thân từ giòng họ nổi tiếng thuộc hiệp hội buôn bán Hanse và
qua những mối liên hệ của ông chúng tôi tìm cách xâm nhập các câu-lạc-bộ có thế lực
chính trị và kinh tế vùngHamburg. Vào lúc đó ông không có mặt tại Tây Đức nhưng ông
ở Đông Đức, ông bị bắt vì một trò lừa thường tình: Phản gián Tây Đức gởi cho ông điện
tín báo bà cô bị đau ốm. Ông đi sang Tây Đức và ông bị bắt. May mắn cho ông, họ không
có bằng chứng về những họat động của ông và được thả ra. Ông về Đông Đức và sống
cuộc đời thanh bạch quay phim ở phía bên này biên giới. Zaisser khiển trách tôi một cách
nhẹ nhàng: “Mischa này, anh cần phải học hỏi nhiều hơn nữa”.
Vào những ngày tháng sau này chúng tôi ráo riết tổ chức lại toàn bộ công tác trên những
đường dây hữu hiệu hơn. Việc tìm kiếm những thí sinh thích ứng và đáng tin cậy xem ra
khó khăn và tốn kém. Điều tra về mức độ tín cẩn chính trị, những mối liên hệ cá nhân và
tính tình của họ đòi hỏi thời gian. Chúng tôi tìm kiếm những công dân trẻ, có động cơ
chính trị, có quyết tâm với xã hội chủ nghĩa và tin tưởng vào sứ mạng phục vụ đất nước
và chính nghĩa. Chúng tôi không quan tâm cho dù các thí sinh có họ hàng bên Tây Đức,
trái ngược với chính sách tuyển dụng các sĩ quan tại tổng tham mưu, họ bị loại trừ nếu họ
có họ hàng. Trên thực tế, họ hàng bên Tây Đức xem ra hữu dụng để giúp các điệp viên
không phải qua các trại tị nạn để vào Cộng Hòa Liên Bang Đức.
Mỗi một điệp viên được một người phụ trách công tác tương lai huấn luyện theo từng cá
nhân, và có thêm phần huấn luyện đặc biệt nếu đó là mục tiêu khoa học và kỹ thuật. Một
khi đã vào được Tây Đức, các điệp viên thường bắt đầu công tác qua một thời gian âm
thầm lao động tay chân để vượt qua hàng rao hành chánh và lập nghiệp tại Tây Đức. Vì
vậy chúng tôi lựa chọn những thí sinh có tay nghề sành sỏi hoặc có kinh nghiệm thực tiễn
trong ngành nghề. Hầu hết tất cả các sinh viên và khoa học gia mới tập tễnh di cư sang
Tây Đức vào những năm đầu đều kiếm được việc làm trong các công sở nghiên cứu họăc
các hãng mà chúng tôi để tâm đến – các cơ sở nghiên cứu hạt nhân của chính quyền liên
bang tại Jülich, Karlsruhe và Hamburg; viện Batelle Institute tại Frankfurt, được Hoa Kỳ
xây dựng; Siemens, hãng điện tử lớn nhất của Đức; hãng IBM Đức hoặc hãng hóa học
khổng lồ Đức BASF, Hoechst và Bayer. Vì chúng tôi dự kiến các nhà sản xuất vũ khí
truyền thống của Đức – sau cơn bão tố về việc quân sự hóa nước Đức lắng động – có thể
sẽ tiếp tục sản xuất những trang bị quân sự, nên chúng tôi cũng cài người vào các hãng
như Messerschmidt và Bölkow.
Có một vài điệp viên của chúng tôi đã len lỏi vào những cơ quan rất chặt chẽ về mật an
ninh bảo mật, một số khác nắm chức vụ quản lý với lương bổng rất cao. Chúng tôi cũng
khai thác các mối liên hệ chính thức và cá nhân giữa các khoa học gia của hai vùng nước
Đức. Vấn đề cũng đơn giản vì khuynh hướng lúc bấy giờ khiến cho họ cảm thấy bất an về
hiểm họa vũ khí hạt nhân, sinh trùng và hóa học. Những ai đã từng cực kỳ xúc động vì
những hệ lụy trong việc nghiên cứu vũ khí hạt nhân trong thời chiến, họ đặc biệt là những
đối tượng tốt của nhân viên chúng tôi.
*
Cái chết của Stalin vào tháng 3 năm 1953 là một chấn động lớn đối với khối chính trị
Cộng Sản, khởi sự cho một cuộc chiến tranh giành quyền lực tại điện Cẩm Linh và tạo
nên bất ổn trong giới lãnh đạo của các nước trong khối Đông Âu. Phản ứng của tôi, cũng
như phản ứng của mọi tín đồ của Stalin, là một nỗi buồn vô hạn pha lẫn với cảm giác hỗn
độn ngổn ngang. Chúng tôi sống quá lâu dưới sự hướng dẫn của Stalin nên cuộc sống sau
cái chết của ông khó mà mường tượng.
Ulbricht hy vọng vào thắng lợi của các lực lượng cứng rắn nhất trong các lực lượng cứng
rắn thân cận Stalin. Để có được sự hỗ trợ của thể chế mới, ông nhất nhất theo đuổi chính
sách “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là sưu thuế cao và trợ cấp xiết chặt,
khiến cho các xí nghiệp tầm cỡ nhỏ bị đình trệ và các xí nghiệp tự túc khánh tận. Các
nông trại và các hãng nông nghiệp phải điêu đứng vì phải thình lình theo chiều hướng
kinh tế xã hội chủ nghĩa toàn diện. Sinh họat tôn giáo của giáo hội Công giáo sau đó bị
đình chỉ.
Chính sách này gặp sức kháng cự mãnh liệt. Các nông dân và các nhà sản xuất nhỏ phản
ứng bằng cách làm việc không có hiệu năng hoặc, nếu họ thoát tội, chẳng làm gì cả.
Tháng Chạp năm 1952, Thủ Tướng Đông Đức, Otto Grotewohl, cảnh báo nguy cơ thiếu
hụt thực phẩm và những gia dụng cần thiết. Nhưng Ulbricht chẳng thèm để ý. Ông đánh
giá những kháng cự chống lại kế hoạch của ông qua lăng kính của chủ nghĩa Stalin chân
chính, theo đó cuộc đấu tranh giai cấp sẽ gia tăng cường độ và tốc độ khi những thay đổi
chuyển dứt khóat sang xã hội chủ nghĩa.
Vào mùa Xuân năm 1953, lệnh gia tăng chỉ tiêu 10 phần trăm trong sản xuất được ban
hành cho các nhà máy, công xưởng và công trường xây cất lớn, kèm theo giá cả tăng vọt
của các lọai thực phẩm căn bản. Không chịu đựng được gánh nặng của những biện pháp
bất công đặt để từ trên xuống, quần chúng bắt đầu than phiền công khai tại các hàng quán
và các cơ xưởng. Bốn tháng đầu năm 1953, hơn 120.000 người trốn chạy Đông Đức.
Điều này cũng xảy ra ba mươi sáu năm sau, năm 1989; trong cả hai trường hợp, giới lãnh
đạo quá sơ cứng để phản ứng trước cảnh đào thoát và không làm gì hơn ngoài việc oai
dũng trách móch. “Chúng ta sẽ trong sạch hơn khi bọn kẻ thù giai cấp ra đi”, Ulbricht
nghe đâu đã nhận định như vậy khi các công nhân cơ xưởng, các giáo viên, các kỹ sư, các
bác sĩ và các y tá gia nhập đoàn người ra đi.
Lo ngại cho sự bất ổn có thể dẫn đến sự xụp đổ hoàn toàn của quốc gia Đông Đức và bực
dọc vì sự cứng đầu của Ulbricht,Moscowcan thiệp. Lavrenti Beria, lúc đó đang tranh
giành quyền lực trong giới lãnh đạo sau cái chết của Stalin, đảm trách việc soạn thảo một
tài liệu nhan đề “Biện Pháp Để Cải Thiên Tình Trạng tại Nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức”.
Sự kiện điện Cẩm Linh thú nhận tình trạng này trong khối Đông Âu xét ra ngày nay là
một thú nhận đáng ngạc nhiên trước thời kỳ “glasnost” khá lâu.
Giống như những cậu học trò ngỗ nghịch, giới lãnh đạo của Bộ Chính Trị chúng tôi được
mời sangMoscowvà được lệnh phải đem ý kiến của Beria ra thực hành sớm chừng nào
hay chừng đó. Điều này có nghĩa là phải khuyến khích các xí nghiệp nhỏ, bỏ rơi kinh tế
điều khiển của Ulbricht và nới rộng những hạn chế hà khắc chẳng hạn như đối với những
«kẻ thù nội tại » của chủ nghĩa, trí thức tiến bộ và giáo hội Công Giáo. Mặc dù giới lãnh
đạo Đông Đức không lấy gì làm hứng thú, mục đích của Beria là nuôi béo Đông Đức để
bán cho Tây Đức hầu nước Đức có được quy chế trung lập họăc ngay cả quy chế phi
quân sự.
Từ những ngày đầu cho đến cuộc nổi dậy năm 1953 tại Đông Bá Linh, tôi nghỉ mát tại
Biển Baltic, đọc tiểu thuyết Hemingway và chơi đùa với các con. Đối với cấp lãnh đạo
của một cơ quan tình báo thú nhận điều này không lấy gì làm xây dựng cho lắm. Những
ngày nghỉ hiếm hoi này có được là nhờ sự can thiệp của Wilhelm Zaisser, cấp trên của
tôi. Ông gay gắt với tôi khi tôi thúc dục rất nhiều lần về tình trạng tài chánh nghèo nàn
của cơ quan tình báo hải ngoại.
“Mischa, có những điều quan trọng đang diễn ra ngay lúc này”, ông nói và rồi để xoa dịu
“Anh đã không lấy ngày nghỉ từ bao lâu rồi? Anh lái xe đến Nhà Nghỉ Mát Xanh, rồi
chúng mình sẽ tính”.
Thật là một vinh dự lớn cho tôi khi tôi được mời đến Nhà Nghỉ Mát Xanh tại Prerow, nơi
bồi dưỡng của Bộ An Ninh trên vùng biển Baltic. Tại đây, trong ngôi biệt thự dacha
khang trang của chính phủ, tôi được biết đến lời thú nhận hoảng hốt đầu tiên của Bộ
Chính Trị ngày 16 tháng 6. Đó là một bản thông báo trong đó cả Bộ Chính Trị lẫn chính
phủ chấp nhận sai lầm trầm trọng và tuyên bố thay đổi ngược lại tất cả những biện pháp
gia tăng sản xuất và giá cả thực phẩm. Đầu tư vào kỹ nghệ nặng bị cắt giảm, sản xuất sản
phẩm tiêu dùng gia tăng và các cơ sở tư nhân đã bị chính sách khắc nghiệt của Ulbricht
buộc phải đóng cửa nay được phép mở lại. Đây là một bước ngọăt chữ U của Ulbricht,
nhưng đã quá trễ.
Vào sáng ngày 17 tháng Sáu, Đài Phát Thanh Khu Vực Hoa Kỳ (Radio in the American
Sector – RIAS) thông báo các công nhân xây cất đang tiến từ đại lộ Stalinallee đến Dinh
Các Bộ (cũng là nơi trước đây Bộ Hàng Không của Hermann Goering tọa lạc thời Đức
Quốc Xã). Các công nhân đòi hủy bỏ những chỉ tiêu mới trong sản xuất kỹ nghệ và cải
thiện lương bổng và điều kiện làm việc. Tòa nhà được cảnh sát ngăn rào và tình thế rất là
căng thẳng. Các công nhân đình công mời gọi Ulbricht và Grotewohl. Fritz Selbmann, Bộ
trưởng Bộ Kỹ nghệ, xuất hiện để chấn an đám đông, nhưng vô hiệu quả.
Có những ý kiến khác nhau về mức độ can thiệp của cơ quan tình báo Tây Âu, nói cho
chính xác hơn các mặt trận Tây Đức hàng đầu do Hoa Kỳ hỡ trợ, vào việc xúi giục cuộc
nổi dậy này. Đã có những xâm nhập trong các xí nghiệp và cho những ai mong muốn sự
sụp đổ của Tây Đức, đưa đến thống nhất hai nước, theo diễn biến của những ngày này
đây là một cơ hội lớn. Nhưng ở đây lối quản lý kinh tế tồi dở của Đảng và tính chất lãnh
đạo đàn áp của Ulbricht đã khiến dẫn đến tình trạng này. Ulbricht sau đó cũng cố gắng
muốn xuất hiện, nhưng ông không đương đầu với đám biểu tình, lúc đó đang gào thét
“Đả đảo Spitzbart!” (Đả đảo Râu nhọn!), họ liên tưởng đến chòm râu cằm nhọn của ông,
trau truốt theo kiểu Lê-nin. Ông lựa cách xuất hiện tương đối an toàn hơn trong một cuộc
hội họp với các thành phần họat động để trả lời; tại đây phong cách cục mịch độc đoán
của ông biến mất, ông tỏ ra lập lững và thiếu tập trung.
Đến chiều tối, Đài Phát Thanh Vùng Hoa Kỳ đóng vai trò điều hợp các biến chuyển, kêu
gọi biểu tình và thông báo rõ thời điểm và địa điểm. Các hãng xưởng lần hồi gia nhập
cuộc đình công. Đoàn người biểu tình kéo nhau về công trường Postdamer Platz của Bá
Linh, nơi cả bốn vùng kiểm soát của Đồng Minh gặp nhau. Từ phía Tây, những nhóm
gào thét đòi lật đổ chế độ Cộng Sản cũng đang tiến đến CổngBrandenburg. Một giờ
chiều, quản trị viên Xô Viết của thành phố tuyên bố thiết quân luật và xe tăng di chuyển
vào thành.
Tôi quyết định trở về Bá Linh. Khi tôi đến gần thành phố Neustrelitz, khoảng giữa đường
từ bờ biển Baltic đến Bá Linh, xe của chúng tôi bị quân đội Xô Viết chặn tại một đọan
đường. Thẻ căn cước đặc biệt của tôi tỏ ra vô dụng. Mặc dù chúng tôi phản đối, chúng tôi
bị giam giữ với các “phần tử đáng nghi” trong một căn phòng của trạm kiểm soát. Tại
đây tôi rủa thầm vài tiếng đồng hồ và tự hỏi ai là người quản lý thực sự phần đất này của
nước Đức. Nhờ về kiến thức tiếng Nga, trong đó có cả những tiếng lóng nặng nề, cuối
cùng tôi được phép nói chuyện với cấp chỉ huy, tự giới thiệu mình một cách minh bạch
và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau đó tôi về đến nhà tại khu Pankow của Đông Bá Linh, khu vực thành phố nơi cấp lãnh
đạo ở. Các công nhân từ Bergmann-Borsig, một tập đoàn sản xuất các máy móc dụng cụ
lớn dùng cho kỹ nghệ nặng và vật liệu gia dụng, đi ngang trước nhà tôi và cha tôi thoát
hiểm trong đường tơ kẽ tóc, suýt bị đám đông đánh tại trung tâm thành phố. Ông chắc
chắn phần đông thành phần thanh niên biểu tình đến từ Tây Bá Linh và ông hồi tưởng
đến bọn áo nâu tràn đầy thành phố thời buổi ban đầu của Hitler. Bây giờ lối phát ngôn
này có thể bị đánh giá là kiểu tuyên truyền Cộng Sản, nhưng tưởng cũng không kém phần
quan trọng nhắc nhở những biến cố trên xảy ra chỉ có tám năm sau sự sụp đổ chủ nghĩa
Quốc Xã tại Đức, và là điều rất là thường tình khi người ta cảm nhận, mượn lời của
Bertolt Brecht, “con đĩ đã đẻ ra nó vẫn còn muốn động cỡn.”
Chúng tôi sửng sốt vì sức bạo động và lòng hận thù dâng cao xung quanh chúng tôi. Đối
với những ai như tôi sống trong lòng của xã hội mới này đây là một bừng tỉnh khó khăn
để nhận thức hệ thống chúng tôi hàng mến chuộng đã làm mất lòng dân. Số lượng chính
xác người chết không hề được biết rõ, nhưng tổng số lên đến khoảng 100 và 200 người.
Tôi thấy rõ ý niệm “chủ nghĩa phiêu lưu phát-xít” và “lật đổ phản cách mạng” phát xuất
từ cấp lãnh đạo chỉ dùng để làm dụng cụ tuyên truyền mà thôi. Điều này không làm cho
tinh thần tôi bị lay chuyển. Tôi thích thú mường tượng chúng tôi học hỏi được từ cuộc
nổi dạy và đem áp dụng những kinh nghiệm tốt của bài học này cho việc quản lý tương
lai nhà nước.
Với trách nhiệm giám đốc cơ quan tình báo hải ngọai, công việc của tôi là tìm kiếm
chứng liệu can thiệp của những lực lượng bên ngoài trong cuộc nổi dậy này. Tôi biết rõ,
ngay lúc đó, đây cũng là một tiểu sảo để cung cấp những biện minh cho giới lãnh đạo
trong lúc quân dội Xô Viết phơi bày sự bất lực của họ. Việc thâu thập bài vở trên nhật
báo và tuần báo, sách vở và những tài liệu khác phơi bày kế hoạch của Tây Đức và Hoa
kỳ nhằm xóa bỏ Cộng Hòa chúng tôi không phải là một điều khó; lúc đó có một khuynh
hướng hòa tấu chung trong mối bang giao quốc tế. Lý thuyết gia Hoa Kỳ James
Burnham, trong quyển sách nhan đề Defeating Soviet Imperialism (Đánh bại Chủ Nghĩa
Đế Quốc Xô Viết), đã hô hào dùng những phương pháp khuynh đảo trên lãnh thổ của
khối Đông Âu, kể cả việc dùng những “câu-lạc-bộ chui” để xúi giục, “phối hợp hành
động để lật đổ chính quyền Cộng Sản”, do các ông bạn được CIA trợ giúp tiên phong dẫn
đầu tại Tây Bá Linh, Đạo Quân Chống Phản Nhân Đạo (Kampfgruppe gegen
Unmenschlichkeit –KGU) và Ủy Ban Điều Tra của Các Luật Gia Tự Do
(Untersuchungousschuss Freitheitlicher Juristen – UFJ).
Chúng tôi khám phá, nhờ một điệp viên của chúng tôi trong phái bộ Quân Sự Mỹ, giám
đốc CIA, Allen Dulles và cô em gái, Eleanor Lansing Dulles, một viên chức của Bộ
Ngọai Giao Hoa Kỳ, đã có mặt tại Tây Đức một tuần trước khi xảy ra cuộc nổi loạn.
(Điệp viên, tên Bielke, là thông dịch viên cho đại diện địa phương của AFL-CIO tên là
Baker. Công tác của Baker là xâm nhập các tổ chức công đoàn thương mại của Cộng Hòa
Dân Chủ Đức.) Chúng tôi cũng bắt được điện tín của Walter Sullivan, phóng viên của tờ
New York Times tại Bá Linh, gởi cho trụ sở tạiManhattan, điện tín ghi: “Bất mãn sẽ
không bao giờ bộc lộ nếu không có đài Phát Thanh Hoa Kỳ RIAS. Từ 5 giờ sáng thứ Tư,
đài phát thanh tuyên truyền của Hoa kỳ tại Bá Linh phóng đi những chỉ thị chi tiết trên
toàn lãnh thổ nước Đức”.
Công việc của chúng tôi là thâu thập tin tức tình báo trong hậu trường của cuộc nổi dậy,
nhưng chúng tôi không rõ cấp lãnh đạo rút tiả kết luận nào từ những báo cáo này.
Ulbricht bất ngờ đặt nặng trong tâm lên một bản tin mà chúng tôi không mấy chú ý đến.
Vào tối ngày 16 tháng Sáu, tố chức công đoàn thương mại tại Tây Đức dự trù một cuộc
du thuyền trên tàu hơi và mời các đồng nghiệp còn rơi rớt lại trong các công đoàn Đông
Bá Linh. Nguồn tin của chúng tôi báo rằng lời mời không gởi qua bưu điện nhưng qua
điện thoại và các chữ “du ngọan trên thuyền hơi” đã được nhắc đi nhắc lại trong các lần
điện thọai. Ulbricht lập tức xem đây là những mật mã khơi động những biến cố ngày 17
tháng 6. Nhưng đây rõ ràng là một suy đoán thái quá.
Cuộc nổi dậy trớ trêu hơn nữa lại củng cố quyền lực của Ulbricht. Sau một cuộc nổi dậy
tầm cỡ lớn như vậy, cấp lãnh đạo Xô Viết không thể nào phiêu lưu tạo thêm bất ổn hất
chân ông ta và đằng nào cũng vậy Beria vừa mới bị thanh toán trong đợt khai trừ hậu
Stalin đầu tiên.
Zaisser và Rudolf Herrnstadt, chủ nhiệm tờ báo của Đảng Neues Deutschland, cả hai đều
ủng hộ một cuộc cải cách và Ulbricht nhờ vậy có cớ chính đáng đẩy hai đối thủ này đi.
Cả hai được thay thế bởi những người ủng hộ ông vô điều kiện. Ngay chính Ulbricht
cũng hành xử một cách thô bạo như Stalin để tiêu diệt những kẻ đối kháng.
Một bầu không khí bất ổn và bất tín nhiệm bao trùm khiến cuộc sống trở nên khó khăn
cùng khắp Đông Đức, và tôi cảm nhận điều này. Nhưng cái nhìn về thế giới và lòng thâm
tín của tôi không hề suy xuyển, một điều mà các độc giả Tây phương cảm thấy bí ẩn. Tại
sao, sau cuộc đổ máu trên đường phố và việc Ulbricht thanh lọc những phần tử mà chúng
tôi biết là tốt, chúng tôi không tìm cách lánh xa ông hoặc phê bình chỉ trích ông. Chiếu
theo tín thuyết và thực hành của tất cả các đảng Cộng Sản sau khi Lê-nin chết, bất cứ ai
công khai tấn công Tổng Bí Thư đương nhiệm, người đó phục vụ cho quyền lợi của kẻ
thù giai cấp. Đối với một người Cộng Sản, điều này tương đương với việc xúc phạm của
một tín đồ Công Giáo ngoan đạo.
Những người bị Ulbricht thanh trừng chấp nhận những cáo buộc một cách lặng lẽ. Việc
họ không phát biểu để tự bào chữa có lẽ chỉ có thể hiểu được bởi những ai đã từng trải
qua các cuộc thanh trừng của Stalin và hiểu rằng kỷ luật trong Đảng là sức mạnh keo sơn.
Những người này đã cống hiến cả cuộc đời của họ cho phong trào cách mạng và đối đầu
với Đảng sẽ là một đổ vỡ toàn diện. Họ giữ im lặng cũng vì một lý do khác: họ biết rằng
tình trạng đã trở nên vô vọng, nói điều gì đi nữa cũng chỉ làm cho tình hình tệ hại hơn
nữa.
Rudolf Herrnstadt và Wilhelm Zaisser là hai trong những nạn nhân trong tiến trình củng
cố quyền lực của Ulbricht. Trước thời chiến, Herrnstadt làm việc cho GRU (Glanoye
Razvedyvatelnoye Upravleniye) cơ quan tình báo quân đội Xô Viết và đã gầy dựng một
hệ thống tình báo tuyệt hảo tạiWarsaw. Hai điệp viên ông kết nạp Ilse Stöbe, người vợ
thứ nhất của ông, và Gerhard Kegel trong Tòa Đại Sứ Đức tạiMoscowđã cung cấp tin tức
tiên khởi về cuộc tấn công của Đức năm 1941. Có lẽ ông phiền lòng vì được biết những
công tác trước đây của ông hiện không còn nghĩa lý gì cả. Trường hợp của Herrnstadt
làm cho tôi xúc động mãnh liệt. Mặc dù ông là một viên chức không nổi tiếng, vào những
thập niên 1980, tôi thu xếp để ra lệnh phát hành một phim tài liệu cho các nhân viên trẻ
ghi lại thành tích tình báo của ông. Ít ra ông cũng được vinh dự trong giới tình báo, mặc
dù không chính thức.
Mãi sau này, tôi đọc được những giòng chữ Herrnstadt để lại trong khi ông làm việc tại
Thư Khố Trung Uơng Nhà Nước tại Merseburg. Ngay tại đây, một câu hỏi nhức nhối
luôn ám ảnh ông: “Tôi khôn ngoan hơn Đảng chăng?” Câu hỏi này dày vò ông mặc dù
ông là nạn nhân của sự bất công do Đảng đỡ đầu và ông thấy những hệ quả sơ cứng của
giáo điều của Đảng. Như Zaiser và Ackermann, ông giữ kín mối nghi ngờ trong lòng và
ghi những giòng suy tư này trên những trang giấy cho thế hệ mai sau; họ bị ràng buộc bởi
một im lặng đồng loã mà phần đông các đảng viên Cộng Sản thất sủng mắc phải. Họ kiên
định với nguyên tắc căn bản của một đảng viên Cộng Sản: Không bao giờ gây thịêt hại
cho Đảng.
Không một ai trong họ có thể sống được với tâm trạng hồ nghi nghĩ rằng họ cung cấp vũ
khí cho những kẻ đánh phá quyền lực mà chúng tôi nhọc nhằn chiếm được. Giới trí thức
còn phải mang thêm gănh nặng khác là phải phấn đấu để được lòng tín cẩn của một đảng
cống hiến cho sự toàn thắng của giới công nhân. Cha tôi, các văn sĩ và các triết gia
thường xuyên nuốt nhục phải hạ mình xuống trước những kẻ tra vấn hằn học trong những
buổi họp của Đảng. Tại Đông Bá Linh, danh từ “trí thức” nghe ra lạc lõng trong nội bộ
Đảng và Bộ Công An. Nhiều người đã cố gắng tự bào chữa để không bị tố cáo có “lối suy
nghĩ trưởng thượng” hoặc “thiếu khiêm nhường”, họ bày tỏ lòng phục tùng chấp nhận vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và phải ngậm họng trước những hành vi ngu xuẩn
nhân danh giai cấp. Đối với những ai không hiều rõ sức mạnh của não trạng này, tôi khó
mà giải thích làm sao tôi có thể giữ được niềm tin trong những tháng năm săp tới.
Việc cất chức Wilhelm Zaisser khỏi chức vụ Bộ Trưởng Bộ Công An đưa đến những hậu
quả vừa có tính cách cá nhân và cũng vừa có tính cách tổ chức đối với cơ quan chúng tôi.
Tôi vẫn giữ chức vụ của tôi và tôi được phong làm phụ tá cho Ernst Wollweber, vị giám
đốc mới của cơ quan. Vị này không màng đến những chi tiết công tác nhưng đặc biệt chú
trọng đến những tin tức chính trị mà chúng tôi thâu thập. Khi đề cập đến vấn đề này, ông
bước tới bước lui trên chiếc thảm đặt trong văn phòng của ông. Người ông nhỏ nhắn, tròn
trịa, miệng luôn ngậm điếu xì-gà đã tắt ngẩm. Ông không thể nào ngồi yên trước bàn một
khi ông bắt đầu bàn về những nhân vật, những mối liên lạc và những mâu thuẫn bên Tây
phương và khả năng ảnh hưởng của chúng đôi với chúng tôi.
Wollweber cũng chẳng khác biệt gì nhiều với Erich Mielke, người trách nhiệm về phản
gián và khử trừ gián điệp trong hàng ngũ chúng tôi. Mielke chống đối quyền kiểm soát
của tôi trên tình báo hải ngoại; ông tự xem là đối thủ của tôi và luôn tìm cách phá tôi,
không những lúc chúng tôi ngang hàng với nhau mà ngay cả khi ông trở thành cấp trên
của tôi sau này trong chức vụ Giám Đốc Bộ Công An. Ông thuộc đạo quân tiêu diệt của
Đảng Cộng Sản nhằm vào các băng đảng Quốc Xã năm 1930 và ông thẳng tay trừng trị
kẻ thù. Tuy nhiên, năm 1953, ông vẫn còn đang bối rối vì một quyết định Đảng xem xét
khả năng của ông do hệ lụy của cuộc nổi dậy năm 1953. Tôi được nâng quy chế, lên làm
một trong những phụ tá của Wollweber trước ông ta, điều mà ông vẫn còn hằn học cho
đến mãn đời của ông. Mấy năm sau, tôi được biết khi Wollweber bị cách chức, đại diện
của KGB tại Bá Linh, ông Yevgeni P.Pitovranov, và Đại Sứ Xô Viết tại Công Hoà Nhân
Dân Đức, ông Georgi M.Pushkin, ban thảo với Ulbricht để tìm kiếm người thay thế
Wollweber. Pitovranov nói :”Tại sao ông phải kiếm? Ông có người kế vị rồi – Wolf đấy”.
Nhưng Mielke được đề cử vào chức vụ này; ông là tai mắt của Ulbricht.
Mielke có một cá tính đầy uẩn khúc cho dù xét dưới khía cạnh đạo đức thông thường áp
dụng cho thế giới điệp viên. Ông đam mê thể thao thể lực. Ông có thói tật thu thập dữ
kiện không những về những người tình nghi đối lập mà ngay cả các bạn đồng nghiệp.
Ông cố moi tìm kiếm cho ra những tên phản bội trong giới lãnh đạo, ông hứa cho tôi
quyền cao chức trọng nếu tôi tìm được trong Trung Tâm Tài Liệu Hoa Kỳ tại Bá Linh,
nơi dự trữ tài liệu của Quốc Xã sau năm 1945, một loại bằng chứng cho thấy chính tri gia
Đông Đức cộng tác với Đệ Tam Cộng Hòa. Không có một sự kiện nào thoát sự chú ý của
ông, không có một chi tiết nhỏ nào không rơi vào hồ sơ đỏ mà ông cất kín trong tủ sắt
văn phong.
Có một lần tôi nhận báo cáo của một nhân viên sửng sốt trong cơ quan của tôi, anh thấy
Erich Honecker, sau này là lãnh tụ Đông Đức, nhưng lúc đó ông đứng đầu tổ chức Thanh
niên Đức Tự Do, rón rén qua các ngõ ngách đường phố sau khi ra lệnh cho tài xế về nghỉ
vào lúc trạng vạng tối. Đối với tôi điều này chứng tỏ là Honecker đang thăm viếng một
cô bạn gái vụng trộm, mặc dù lúc đó ông đã thành hôn với một cô bạn đồng nghiệp công
chức. Tôi đùa bỡn việc này với Mielke: “Này, chúng ta đâu cần giữ sự kiện này trong hồ
sơ”, và tôi làm ra vẻ vứt báo cáo đó đi. “Không, không”, ông giám đốc phản gián vội
vàng trả lời “Để tôi cất giữ nó. Mình phải cẩn thận không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau
này”Báo cáo này đóng góp thêm chi tiết về những thành tích không lấy gì làm đẹp đẽ của
ông Honecker vào trong hộp đỏ của Mielke, để rồi hàng chục năm sau này vào năm 1989
được phơi bày khi ông uỷ viên công tố tìm tòi trong văn phòng của Mielke.
Một khi đã khởi sự, các cuộc thanh trừng thật khó mà ngừng lại. Bốn năm sau,
Wollwever bị khai trừ do một thủ đoạn khác của Ulbricht và Mielke chiếm chức vụ Bộ
Trưởng Bộ Công An. Có lẽ Mielke vẫn giữ chức vụ đầu não công an nếu không có ngày
ra đi lố bịch vào năm 1989, khi ông rời bỏ nhiệm sở với lời từ biệt miễn cưỡng trước
quốc hội Đông Đức: “Tôi thương yêu hết mọi người”.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 8 (Markus Wolf)
“ …Chúng tôi đi xa hơn nữa cài đặt “những vết nhơ” trong lý lịch cá nhân của các điệp
viên trong hồ sơ các bộ để tăng cường độ khả tín nếu phản gián Tây Đức bằng phương
cách nào đó lấy được hồ sơ của họ…”
Chương 5
Vứa Học Vừa Làm
Nước Đức vào những năm đầu của thập niên 1950 là một mạng lưới khổng lồ của những
mối liện hệ công khai và ngấm ngầm, những nỗi nhục thầm kín và lòng trung thành giấu
kín ở cả hai phía Hữu và Tả. Không có gì là chắc chắn, không thể tin ai một cách tuyệt
đối, dễ lầm khi nhìn bề ngoài. Kết quả là một xúc cảm mãnh liệt và tính đa nghi, một bầu
không khí đã được Billy Wilder ghi nhận trong những bộ phim về cuộc sống trong vùng
Hoa Kỳ chiếm đóng – đặc biệt trong phim Foreign Affair – và được chính em tôi quay lại
trong những phim nói về những năm đầu trong vùng Nga chiếm đóng. Báo cáo chính
thức do người dân tự thẩm định chỉ là vỏ bề ngoài. “Cứ hai người trong nước là có một
người tham gia kháng chiến bí mật” cha tôi thuờng hay miả mai đùa cợt sau khi nghe
những báo cáo vô căn cứ của người dân Bá Linh về cách họ chống Hitler một cách ngấm
ngầm. “Nhưng rủi thay, họ chẳng bao giờ thấy người này”.
Cả hai nước Đức đều hô hào mục đích của họ là thống nhất đất nước. Chính tôi
cũng không tin điều này có thể thực hiện được trong tương lai gần vì những xung đột
quyền lợi của những thế lực chiến thắng đã chia cắt nước Đức thời hậu chiến. Ngay cả
tạiWashington và Luân-đôn, biến động tháng Sáu năm 1953 tại Đông Đức tạo thêm xác
quyết là chiến lược đẩy lui quyền lực của Xô Viết sẽ thành công. Hy vọng thống nhất sau
này tiêu tan dần vì áp lực chính trị, kinh tế và, chưa hẳn là tác động cuối, quân sự – việc
tái quân trang Tây Đức và việc Tây Đức gia nhập liên minh quân sự Tây phương là
những ưu tiên trong lịch trình của Tây Phương. Tuy nhiên cấp lãnh đạo của Cộng Hoà
Dân Chủ Đức vẫn tiếp tục bám víu vào khẩu hiệu thống nhất nước Đức, mặc dù quá
nhiều công dân của họ đã bỏ nước ra đi.
Mối ưu tư hàng đầu của giới cầm quyền là cuộc đấu tranh thiết lập một bộ mặt khác
biệt của phương Đông. Tình cảnh bấp bênh nội tại của “quốc gia Đức thứ hai” luôn đeo
đuổi trí não của họ. Điếu này buộc họ phải phát động việc tôn sùng lòng ái quốc đến độ
vô lý. Chúng tôi mặc quân phục, tôi có ít nhất năm bộ, đây là một thành tích đáng kể cho
một người không bao giờ phục vụ trong quân đội. Một trong những ý kiến kỳ quặc nhất
của Ulbricht áp dụng vào thời kỳ này là việc sử dụng biểu tượng quân sự – một cuộc
xoay chiều thấy rõ, vì chúng tôi chỉ trích việc dân Tây Đức vẫn tiếp tục truyền thống
quốc gia quân sự của quân đội Hitler. Nhạc quân sự truyền thống cũng được phục hồi và
công khai hoà tấu lần đầu tiên tại Đông Bá Linh tại Thế Vận Hội Thanh Niên khối Xô
Viết năm 1951. Như phần đông các đảng viên Cộng Sản đã được đào tạo để đánh giá
cách pha trộn quân sự với nhạc này chuẩn bị con đường đi đến chế độ Quốc Xã, tôi cảm
thấy khó chịu. Khi những bài quân nhạc trổ lên, tôi quay sang nhà văn Nga gốc Do thái
Ilya Ehrenburg, đứng bên cạnh tôi trên khán đài, và hỏi ông nghĩ thế nào về quang cảnh
này. Ông nhún vai theo kiểu cách nhẫn nhục của người Nga và nói: “Người Đức lúc nào
cũng thích diễn hành”.
*
Trong khi đó, cơ quan non nớt của chúng tôi cố gắng học hỏi xây dựng cơ sở với
phong cách ít phô trương hơn. Mặc dù vậy, không phải lúc nào cũng được êm thắm. Vào
những năm đầu việc quản lý cơ quan điệp báo mới luôn có khuynh hướng ngả theo luật
của Murphy (Lời dịch giả: Murphy’s Law: Điều gì mình nghĩ là hỏng nó sẽ hỏng) và môi
trường khoa học kỹ thuật tạo vô số cơ hội để lầm lẫn và tính toán sai lầm).
Trong những thập niên 1950, hàng ngàn công dân Nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức
tràn qua biên giới Tây Bá Linh và Tây Đức lúc đó hầu như mở ngỏ. Con số gia tăng
nhanh chóng sau cuộc nổi dậy tháng 6 năm 1953, và gần 500.000 người của một nước có
dân số 18 triệu người bỏ trốn trong vòng ba năm kế tiếp.
Điệp viên của chúng tôi trà trộn trong làn sóng người này không khó. Họ thường là
thanh niên, có lý tưởng Cộng Sản cao độ và họ đặt nền tảng cho nhiều thành công của
chúng tôi sau này. Mặc dù họ thường bị mời lên tra vấn tại các trại tị nạn một khi họ sang
phiá Tây, họ vẫn có cơ hội tốt để hoà nhập với đám đông mới đến nếu họ được trang bị
một lý lịch khả tín, chẳng hạn như ước muốn đoàn tụ với thân nhân bên Tây Đức. Chúng
tôi dùng nhiều lý cớ khác nhau: Một điệp viên có thể trình bày là y bị bắt tại trận man
khai quá khứ đảng viên Đảng Quốc Xã hoặc tố chức Waffen SS, hoặc y tỏ ý phê bình nét
xấu của những chính sách của chính phủ. Chúng tôi đi xa hơn nữa cài đặt “những vết
nhơ” trong lý lịch cá nhân của các điệp viên trong hồ sơ các bộ để tăng cường độ khả tín
nếu phản gián Tây Đức bằng phương cách nào đó lấy được hồ sơ của họ.
Chúng tôi tránh kết nạp vào cơ sở chúng tôi những người có thân nhân bên Tây Đức, vì
tôi nghĩ rằng những cơ quan tình báo Tây phương có thể dễ dàng xâm nhập cơ quan
chúng tôi – như chúng tôi đã xâm nhập họ – qua liên hệ và áp lực gia đình.
Mỗi một người chúng tôi gởi đi đều có một công tác nhất định và mỗi một điệp viên
được huấn luyện bởi một đội trách nhiệm về công tác này. Chúng tôi giới hạn việc huấn
luyện trong những nguyên tắc sơ đẳng về tình báo và phương cách thu thập những tin tức
mà chúng tôi muốn. Việc huấn luyện những điệp viên về những vấn đề và phương thức
không liên quan đến công tác của họ xét ra không cần thiết; trên một phương diện nào đó,
điều này có thể khiến cho công tác của họ nguy hiểm hơn vì công tác của họ sẽ trở nên
phức tạp hơn một cách không cần thiết. Trong một vài trường hợp chúng tôi triệu hồi
điệp viên từ Tây Đức và đưa họ trở về Đông Đức để huấn luyện bổ túc khi có thời cơ
thuận tiện.
Sự kiện chúng tôi gởi điệp viên sang Tây Đức, một nước có cùng ngôn ngữ và văn
hoá, rõ ràng là một điểm lợi. Quả nhiên, việc đưa người của Liên Bang Xô Viết xâm nhập
Hoa Kỳ và ngược lại là một việc khó khăn hơn nhiều. Khi cả hai nước Đức trưởng thành
theo hai chiều chương khác nhau, công tác xam nhập trở nên khó khăn hơn, và việc xây
cất Bức Tường Bá Linh hạn chế hẳn làn sóng di dân trong đó chúng tôi cài điệp viên.
Điều này có nghĩa là lý lịch ngụy tạo phải tinh vi hơn. Nhưng vào thời điểm này Tây Đức
vẫn lép vế hơn, vì việc di dân từ Tây sang Đông rất hiếm và bị quan sát kỹ lưỡng. Mặt
khác, Tây Đức không có nhu cầu gửi người đi: Họ có thể mua chuộc người trong đám
đông công dân bất mãn tại Đông Đức chúng tôi.
Để khắc phục những khó khăn hành chánh trong việc định cư tại Tây Đức, phần
đông điệp viên của chúng tôi thường bắt đầu công tác bằng cách trải qua một thời gian
lao động chân tay đơn sơ. Vì lý do này, chúng tôi thường chọn các thí sinh có tay nghề
khéo léo và có kính nghiệm thực tiễn trong một ngành nghề. Tuy nhiên, không phải ai
cũng đi qua nẻo đường này. Như đã đề cập trước đây, hầu hết các khoa học gia và sinh
viên ngành khoa học di cư vào thời đó đều kiếm đuợc việc tại các hãng hoặc cơ sở nghiên
cứu mà chúng tôi chú ý. Chúng tôi cũng thâu thập tin tức qua các mối liên lạc không
chính thức với các khoa học gia Tây Đức. Nhiều người cảm thấy bồn chồn về hiểm họa
hạt nhân, vũ khi sinh trùng và hoá học. Họ bị chấn động mạnh vì hai quả bom nguyên tử
thả xuốngHiroshima vàNagasaki, họ cung cấp cho các điệp viên chúng tôi rất nhiều cơ
hội và đề tài để bàn thảo.
Có một vài người của chúng tôi xâm nhập vào các khu vực có những nguyên tắc
bảo mật khắt khe . Những người khác vào được những vị trí lãnh đạo, lương bổng cao
trong các tổ chức xí nghiệp. Nhưng việc xâm nhập vào thâm cung của các trung tâm quân
sự và chính trị tạiBonn, nơi những quyết định lớn được thực hiện, khó hơn nhiều.
*
Sau những cuộc nổi dậy năm 1953, cuộc họp thượng đỉnh của các Bộ Trưởng Bộ Ngoại
Giao của phía Đông Minh năm sau đó là một mối quan tâm bức xúc nhất của chúng tôi.
Đây là lần đầu tiên một biến cố như vậy diễn ra trước ngưỡng cửa chúng tôi và tôi không
rõ tôi phải có những hoạt động tình báo nào. Như thường lệ, ông bạn Xô Viết yêu cầu
chúng tôi có một kế hoạch hành động chính xác. Trong tinh thần ước vọng hơn là trông
chờ, tôi cố gắng chuẩn bị một kế hoạch nhằm tạo nên nhu câu bức thiết để có được tin tức
phẩm chất cao từ các nhân viên của tôi.
Moscow phái một cố vấn đặc biệt đến để xem xét bản sơ đồ lớn nằm trên bàn của
tôi và, giống như một anh thợ phát giác một lỗ hở trong máy, y nói : “Lẽ cố nhiên, quý vị
cần có một “malina” trong thời gian công tác này”. Tôi đâm ra bối rối. Malina theo tiếng
Nga có nghĩa là “quả mâm xôi”, nhưng chắc chắn ông bạn KGB không nói về trái cây ăn
tráng miệng. Hóa ra đương sự dùng tiếng lóng để chỉ động chị em ta, nơi đây các nhân
viên của chúng tôi quyến rũ các viên chức lạc lối từ hội nghị ra trút bớt gánh nặng vào
nơi có chút xa hoa.
Việc này diễn ra hàng mấy năm trước khi tôi khai triển chiến lược sử dụng tình dục
trong nghề điệp báo, nhưng tôi không muốn để lộ cho ông bạn đồng nghiệp Nga biết là
tôi quá ngây ngô. Chúng tôi cấp tốc biến một căn nhà nhỏ mà chúng tôi đôi khi dùng ở
phía nam ngoại ô Đông Bá Linh thành vừa là nhà chứa và là trung tâm gài bẫy với đầy
dụng cụ nghe lén và máy quay phim có đèn hồng ngoại tuyến, giấu trong phòng ngủ có
ánh sáng thích hợp. Ngày nay những dụng cụ này tỏ vẻ rất thô sơ, chính vì vậy các nhiếp
ảnh viên phải luồn lách trong tủ quần áo nhỏ và đứng chờ cho đến khi đối tượng họ quan
sát ra đi.
Vấn đề kế tiếp là kiếm các giai nhân. Chúng tôi tiếp xúc một ông cảnh sát cao niên
đã từng chỉ huy đội tuần tra thuần phong mỹ tục tại Bá Linh.(Điều ngộ nghĩnh, việc kiểm
soát mãi dâm và hình ảnh khiêu dâm được cả hai bên Đông và Tây cùng thực hiện giữa
những năm 1945 và 1949). Ông đi mòn giầy cao su biết hết những nơi hành nghề của chị
em ta và những nơi họ trú ngụ vì nay cái nghề xưa nhất trái đất đã đi vào bóng tối trong
một xã hội mới trong sạch của chúng tôi. Nhưng không may, ông dẫn chúng tôi đến khu
Mulackstrasse, một khu từ xưa đến này luôn biểu tượng cho thị trường buôn bán da thịt
hạ cấp nhất Bá Linh. Cấp trên của tôi lúc đó, đã từng trải cuộc đời trong nghề điệp báo
mặc dù điềm nhiên trước những sự kiện này, điện thoại cho tôi với giọng nhăn nhó :
“Anh không thể nào đặt chân đến những nơi như vậy cho dù chỉ tốn một Đức Mã”.
Đi ngược lại với chủ thuyết, chúng tôi hành động theo bản năng của một xí nghiệp
tự do. Tại một quán bán sữa trên đại lộ Karl Marx chúng tôi kiếm ra được nhiều cô gái
hấp dẫn, mặc dù sống cuộc đời đáng kính ban ngày, chấp nhận sống một cuộc đời kém
trang trọng hơn về đêm nhân danh Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Kế hoạch dự tính gởi
một đám điệp viên của chúng tôi đến trung tâm báo chí tại Tây Bá Linh và các quán ăn,
quán rượu nằm xung quanh những nơi hội họp của các bộ trưởng ngoại giao. Họ có công
tác mời mọc các viên chức và cố vấn đến giải khát và, nếu tình hình có vẻ khả quan, đưa
họ đến tham gia một “nhóm nhỏ” tại căn “malina”, nơi đây bảo đảm có sự hiện diện của
phái nữ.
Sự việc diễn tiến êm xuôi. Nhưng vào giữa đêm, điện thoại của tôi reo vì xẩy ra một
“biến chuyển bất ngờ”. Bà Tám yêu cầu kiểm soát vệ sinh kỹ lưỡng và khám phá một
trong những cô nàng không lấy gì làm cảnh vẻ cho lắm. Cô ta có rận. Tôi ra lệnh rút cô ta
ra khỏi nhóm công tác.
Cuộc họp bắt đầu, đội công tác chúng tôi trông chờ hành động, nhưng không thấy
xuất hiện một anh bạn nào cả. Nhân viên tháp tùng năm nay hình như đạo đức một cách
bất thường, vì người duy nhất lọt bẫy, lại vào đêm cuối, là một ký giả Tây Đức. Nước và
thức ăn khai vị được trưng bày thịnh soạn, các giai nhân đứng vào vị trí của mình. Nhưng
trong lúc cao hứng, nhân viên trách nhiệm của chúng tôi đêm đó uống nhầm ly rượu chứa
thuốc cường dương dành cho khách. Để kết thúc đẹp, có chiếu phim khiêu dâm. Lẽ cố
nhiên những loại phim này bị cấm tại Đông Đức, nhưng cũng đuợc ông cựu cấp chỉ huy
đội tuần tra thuần phong trình chiếu mỗi khi có dịp cần đến. Trong khi người của chúng
tôi không phút nào rời đoạn phim, con mồi chúng tôi không hề chú ý một chút nào đến
màn ảnh hoặc các cô gái và rút lui vào trong bếp để nói chuyện gẫu với cô gia nhân.
Ngày hôm sau, anh ký giả là người duy nhất có đầu ốc tỉnh táo. Anh ta hiểu chò trơi
và nói sẵn sàng làm việc cho chúng tôi. Đây cũng là một loại chiến thắng, nhưng quá bất
xứng với công lao bỏ ra. Chúng tôi trả lương các cô chiêu đãi thất vọng và mời họ về với
chỉ thị họ triệt để không được bàn tán về vở kịch hỏng này.
Sau đó sự vụ này tiếp diễn một cách kỳ lạ. Khi chúng tôi gởi điệp viên đến gặp anh
ký giả, một người bạn đồng nghiệp đến thay anh ta, tên là Heinz Losecaat van Nouhuys,
tự nhân làm việc tờ tuần bán danh tiếng Tây Đức Der Spiegel. Hoặc giả họ tự dàn xếp
cuộc trao đổi hoặc việc này do phản gián Tây Đức tổ chức, tôi chẳng bao giờ đoán ra sự
thật. Nhưng ông van Nouhuys tỏ ra là một điệp có tinh thần cộng tác cao độ. Mặc dù tôi
nghi ngờ lời nói của ông cho rằng những tin tức của ông lấy từ các Bộ ra, tin tức ông
cung cấp cho chúng tôi năm này qua tháng nọ ăn khớp với những báo cáo khác. Sau đó
ông vào ban biên tập của tờ Quick. Tờ tuần báo cánh hữu rất phổ biến này chống Đông
Đức mãnh liệt, nhưng nơi đây ông vẫn tiếp tục làm việc cho chúng tôi.
Chúng tôi bắt đầu sử dụng hội chợ thương mại Leipzig để bắt liên lạc với giới
thương dân, và qua họ bắt mối liên hệ với các chính trị gia bảo thủ và các khuông mặt nổi
bật có lòng tin trong việc công tác với Đông Đức, họ bằng cách này hay cách nọ muốn
duy trì không cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ giữa hai mảnh nước Đức. Các giao ước
thương mại Đông Tây tại đây phải tuân thủ lệnh cấm vấn của phương Tây trên những mặt
hàng có tinh chiến lược, ví dụ như những vật liệu căn bản như ống thép. Những hạn chế
này khiến các thương gia phải lập nên những mối liên lạc đáng tin cậy và gian xếp các
giao dịch kinh doanh bất hợp pháp, và một bộ phận của Uỷ Ban Trung Ương Đảng phụ
trách về thượng lượng đút lót, cho dù sau này chúng tôi đảm nhiệm công việc này. Tôi
thường hay đi Leipzig đóng vai trò nghiêm trang của một viên chức cao cấp thương mại
hoặc một đại diện của Hội Đồng các Bộ Trưởng.
Nhờ vậy tôi gặp Christian Steinrücke, người liên quan đến việc buôn bán thép tại Tây
Đức. Steinrücke giao hảo với các kỹ nghệ gia lớn như Otto Wolff von Amerongen, gia
đình ông quản trị một công ty thép tiên phong giao thương với Liên Bang Xô Viết vào
đầu những thập niên 1920 và giúp xây dựng đường xe hoả Mãn-châu. Một hôm ngồi ăn
tối với Steinrücke, tôi nói với ông tôi là một vị tướng trong Bộ Nội Vụ Đông Đức, và từ
đó chúng tôi tâm đầu ý hợp. Sáng hôm sau, tại một buổi họp kín của Liên đoàn Sắt và
Thép Tây Đức, ông giới thiệu tôi là đồng nghiệp của ông ta cho vị giám đốc, ông Ernst
Wolf Mommsen. Nhờ sự bảo trợ của Steinrücke, không một ai trong nhóm tinh anh kín
đáo này để ý đến sự hiện diện của tôi, nói gì đến chú ý đến tôi. Steinrücke có vợ thuộc gia
đình Wehrhahn, một trong những gia đình thế lực nhất của tư bản Đức. Anh của cô vợ là
rể của Adenauer – tai tôi rung động vui mừng khi tôi nghe điều này – và hơn thế nữa, chị
dâu của cô vợ là cháu của Hồng Y Frings, gương mặt kỳ cựu của giáo hội Công Giáo Tây
Đức.
Mối liên lạc của chúng tôi kéo dài nhiều năm. Để duy trì mối hữu nghị này, đôi khi
tôi mời Steinrücke đến dùng cơm tối với tôi và ngụy tạo một gia đình thứ hai. Tôi chọn
một biệt thự tại Rauchfangwerder và một cô xướng ngôn viên xinh xắn tại đài truyền hình
Đông Đức để làm vợ. Hình con cái của cô ta được treo trên tường mỗi khi Steinrücke ghé
thăm tôi. Khi vấn đề buôn bán vũ khí trở nên phức tạp hơn, những cuộc đối thoại với
đương sự càng lúc trở nên hữu ích, và đến khoảng giữa thập niên 1970 ông là cố vấn của
Lockheed Corporation với nhiều mối liên hệ với cấp lãnh đạo của Không Quân Tây Đức
và quan hệ với những sinh hoạt của Franz-Josef Strauss, lãnh tụ chính trị vùng Bavaria
đồng thời là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Tây Đức. Tôi chưa hề đề nghị hoặc mời ông làm
việc cho chúng tôi, mặc dù ông cũng đoán được vai trò nếu không muốn nói đến tên tuổi
đích thực của tôi. Mối liên lạc giữa chúng tôi bất đắc dĩ chấm dứt vì tôi cắt đứt do sự hiện
dịên của người bạn Steinrücke, bác sĩ Walter Bauer.
Bauer tỏ ra vẻ là một thương gia khiêm tốn buôn bán mỡ của Tây Đức để đổi lấy nỉ
của Đông Đức trong vùng Lausitz của Đông Đức. Điều này không phù hợp với tài sản
Bauer đương có. Mối nghi ngờ của chúng tôi không sai. Vào khoảng trước năm 1945,
ông giữ một chức vụ cao trong tổ hợp kỹ nghệ Flick, sở hữu tiền chiến của mỏ than phát
đạt của vùng Lausitz. Hình ảnh của một thương gia tầm thường và tồi tàn của ông phản
nghịch với bức hình chụp chúng tôi tìm thấy ông ta đứng cạnh Konrad Adenauer trong
một hội nghị công giáo. Chúng tôi tình nghi nhiệm vụ chính của ông là giúp chủ nhân của
ông có chân đứng tại Đông Đức nhân danh các kỹ nghệ gia lớn trông chờ ngày thống
nhất đất nước Đức. Theo đạo luật hình sự của chúng tôi, công tác của ông bị kết tội gián
điệp lẫn hoạt động phản động. Điều này cho tôi lý cớ để đưa Bauer vào tròng, tôi nghĩ
như vậy.
Tôi biết ông cũng là cộng sự viên thân cận với một người tên Hans Bern Gisevius, người
đã từng trong Đại Chiến Thế Giới Thứ Hai là giao liên giữa kháng chiến trung lưu Đức
và OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA. Trang bị với dữ liệu này, tôi
quyết định tấn công trực diện với Bauer. Chúng tôi gặp nhau tại Johannishof, khách sạn
dành cho khách của chính phủ tại Đông Bá Linh. Trái với hình ảnh của một công tác viên
nhã nhạn và phóng khoáng, Bauer là một người tròn trịa khoác một bộ quần áo cũ kỹ.
Steinrücke, có vẻ thích thú với vai trò trung gian mới này, cho y biết tôi là một viên
chức cao cấp trong Bộ Nội Vụ đặc trách về những vấn đề kinh tế. Chúng tôi nói chuyện
hàng tiếng đồng hồ và tôi dùng hết lá bài này sang lá bài khác nhưng không có kết quả.
Bauer luôn có câu giải đáp hoặc lời giải thích cho những gì y làm và y không tỏ vẻ lo sợ
hoặc do dự khi bị áp lực, kể cả lúc tôi báo cho y tôi biết những đường giây liên lạc của y
với Hoa Kỳ. Đây là lá bài tẩy của tôi nhưng tôi đã thất bại một cách thảm não.
Một thương gia chính tông hoá ra là một tay hoạt động điêu luyện, quá cứng rắn để
một sĩ quan trẻ háo thắng có thể áp đảo được. Ông cũng quen biết qua nhiều để chúng tôi
hăm dọa. Điều này dạy cho tôi một bài học quý giá, cho những nhân viên điệp vụ quá
cường điệu.
Ước đoán của tôi về Bauer được xác nhận ngay sau đó khi Steinrücke không xuất
hiện trong lần hẹn sau với tôi. Ông bị cơ quan tình báo Hoa Kỳ gắt gao thẩm vấn. Họ cho
ông biết tôi thực sự là ai và cảnh báo ông nên tránh tiếp tục liên lạc với tôi và Steinrücke
đã siêu lòng. Ông tiếp tục củng cố mối liên hệ với những khối áp lực sản xuất vũ khí của
Đức và Hoa Kỳ, điều khiến tôi trước đây thắc mắc về ông.
Vì cách hành xử hống hách của tôi đối với Bauer, tôi đã đánh mất đi một đường
giây liên lạc quý báu, lý ra vẫn còn có thể tiếp tục trên căn bản hiểu biết đắn đo. Với thời
gian chúng tôi hoàn chỉnh kỹ thuật nhằm thuyết phục thiên hạ làm việc cho chúng tôi và
ghi nhận việc ép các đối tượng có khả năng trở thành điệp viên ký khế ước trên giấy tờ là
một điều dại dột, thiếu khôn ngoan. Phần đông những kẻ vì một lý do nào đó muốn
thương lượng với cơ quan tình báo đối nghịch sẽ lẩn tránh vì không muốn cam kết một
cách chính thức, họ muốn ở một vị thế trung hoà. Tôi khuyên các sĩ quan của tôi : nếu các
anh nghĩ câu trả lời là không, các anh đừng đặt câu hỏi. Đừng ép uổng con người vào một
khuôn mẫu đã được các cơ chế hành chánh định trước. Hàng mấy năm nay chúng tôi cố
gắng rũ bỏ những ám ảnh hành chánh của các quan thầy Xô Viết. Điều này thích hợp với
chúng tôi.
Chúng tôi rất ham muốn xâm nhập đế chế kỹ nghệ Krupp và cố thu nạp Carl
Hundhausen, một thành viên của ban quản trị vừa có năng khiếu nghệ sĩ vừa hiểu biết
Đông Đức nhiều hơn các đồng nghiệp. Ông chỉ trích thái độ của chính quyềnBonn đối
với việc giao thương liên quốc Đức, nhưng sau đó ông nhận ra mối liên lạc với tôi vượt
quá mục tiêu tạo lợi nhuận cho nhóm Krupp.
Tại một hội nghị bàn về tính đồng nhất của nước Đức, chúng tôi gặp ông Heinrich
Wiedemann, một nhà hoạt động cho việc thống nhất của nước Đức và cũng là một người
bạn của Joseph Wirth, cựu thủ tướng của Cộng Hoà Weimar. Tôi rất thích thu khi nghe
Wiedemann nói rằng những diễn văn chống lại việc củng cố liên minh Washington –
Bonn vẫn chưa đủ và đương sự ngầm báo muốn chúng tôi đóng góp vốn liếng để thành
lập một cơ sở kinh doanh tại Bonn. Một bản giao kèo được soạn thảo bảo đảm cho chúng
tôi được thạm dự vào phần lợi nhuận của cơ sở. Đây là một phiêu lưu hiếm hoi của cơ
quan tình báo chúng tôi vào lãnh vực tư bản rủi ro; đồng thời với sự trợ giúp của chúng
tôi, Wiedemann mở Văn Phòng Hỗ Trợ Kinh Tế cho những người Có Lương Bổng Cố
Định, một nhóm áp lực có liên lạc với các bộ và nhân viên của họ. Qua ngã này, chúng
tôi tạo được liên lạc với Rudolf Kriele, một cơ quan tham mưu trong Phủ Thủ Tướng
Liên Bang đặc trách về chính sách quốc phòng và liên minh quân sự. Là một quan chức
có thế lực thường lui tới văn phòng lóp-bi của chúng tôi, Kriele chuốc rượuRhine và nói
chuyện tầm phào về những công việc nội bộ của các chính trị gia Đức.
Điều này kích thích tham vọng của chúng tôi. Chúng tôi dự tính khuếch trương văn
phòng để trở thành một nơi trú ngụ bất hợp pháp (một danh từ trong trao đổi tình báo để
chỉ định một công tác ngụy trang lâu dài), và sau này biến thành một điểm liên lạc vào
những thời điểm căng thẳng giữa Đông và Tây. Chúng tôi cung cấp cho điệp viên những
dụng cụ để thu thanh những cuộc đối thoại của những viên chức ghé thăm và nhận, chọn
lọc và chuyển thông tin về cho chúng tôi. Chúng tôi cũng tuyển dụng cô bạn gái của
Wiedemann, cấp trên của cô này làm việc tại Phủ Thủ Tướng, và chúng tôi đặt cho cô mã
danh là Iris. Nhưng có một vấn đề khó xử. Wiedemann, mặc dù có năng khiếu thuyết
phục, không phải là một thương gia đặc biệt giỏi, và chi phí điều hành văn phòng vượt
quá xa lợi tức thu vào, một sự kiện khó có thể che dấu thiên hạ lâu được. Chúng tôi làm
việc với tâm niệm là phản gián Tây Đức có khả năng tìm được hồ sơ thuế vụ và sẽ sớm tự
hỏi tiền từ đâu ra. Công tác kết thúc nhanh chóng hơn dự định của tôi khi một kẻ đào
thoát trốn bộ tổng tham mưu của chúng tôi sang Tây Đức, và chúng tôi bó buộc phải triệu
hồi điệp viên của chúng tôi vì mối nguy kẻ đào tẩu sẽ tiết lộ hành tung cho chính phủ
Bonn.
Giải an ủy là Iris, dù là niềm vui của chúng tôi bị suy giảm vì thượng cấp của cô
được chuyển từ Phủ Thủ Tướng sang Bộ Khoa Học và Giáo Dục. Tại đây trong vòng 10
năm, cô ta chuyển cho chúng tôi những chi tiết về những dự án nghiên cứu bén nhạy của
chính quyền và giúp chúng tôi lập kế hoạch do thám khoa học và kỹ thuật.
Trong thời gian văn phòng Wiedemann làm việc, một nữ khách đầy quyến rũ
tạiBonn cũng tỏ ra đầy hưa hẹn vào thập niên đầu 1950. Chúng tôi đã ước đoán tiềm năng
của cô ta khi chúng tôi biết đến tên Susanne Sievers trong khi duyệt xét danh sách các tù
bình Tây Đức bị giam giữ tại Đông Đức chờ ngày phóng thích do ân xá. Cô ấy bị cơ quan
phản gián của chúng tôi bắt trong một chuyến tham dự hội chợLeipzig năm 1951 và bị
kết án tám năm tù ở vì tội làm gián điệp. Hồ sơ ghi nghề nghiệp của cô là ký giả tự do,
điều này làm cho chúng tôi chú ý. Một đại tá dàn xếp một cuộc gặp gỡ trước khi cô ấy
biết sẽ được thả. Trong căn phòng thăm viếng, nhân viên của chúng tôi đứng trước một
người đàn bà cao, mảnh khảnh vào khoảng trung tuần ba mươi. Phong cách nghiêm trang
và tự tin toát ra từ bộ áo tù và cô vẫn tiếp tục bàn cãi việc giam giữ cô là một bất công, cô
không hề tìm ân huệ của những người bắt giam cô. Nhưng cô cũng nói đến những vấn đề
của nước Đức và chính sách thân Mỹ của Adenauer. Nhân viên chúng tôi dọ hỏi cô ấy có
muốn tiếp tục cuộc đối thoại trong một tình cảnh khác không. Sau đó cô được thả và họ
gặp nhau trên Cầu Warsaw tại Đông Bá Linh, tại đây hai bên thỏa thuận khi cô ấy về Tây
Đức, cô sẽ cung cấp tin tức cho chúng tôi. Chúng tôi đặt cho cô ấy bí danh làLydia.
Chúng tôi vui sướng khi Susanne chọn nơi cư ngụ tại một căn phòng ấm cúng tại
Bonn, tại đây cô mở văn phòng tiếp khách có sự gặp gỡ của những khuông mắt thế giá
bàn về chính trị và văn hóa. Chúng tôi nhận được những thông tin quý giá về các tổ chức
cực hữu của Tây Đức gọi là Cứu Nguy Tự Do (Rettet die Freiheit), dưới sự lãnh đạo của
chính trị gia Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Rainer Barzel. Tổ chức này có mối liên hệ với
các nước Đông Âu qua ngã người di dân và có liên minh với Otto van Hapsburg, một hậu
duệ của gia đình hoàng gia Áo-Hung rất năng động trong lãnh vực chính trị. Sau này
Barzel luôn ám ảnh chúng tôi khi ông đạt đến chức vụ chủ tịch của CDU (Đoàn Kết Dân
Chủ Thiên Chúa Giáo) và ứng cử chống lại Willy Brandt, cương quyết chống lại nỗ lực
của Brandt muốn Tây Âu chấp nhận liên hệ ngoại giao với Đông Đức.
Trước khi cô bị Đông Đức bắt, Susanne đã có một mối tình say đắm với Willy
Brandt khi ông là thị trưởng của Bá Linh. Ông đã viết một loạt thơ tình gởi cho cô, sau
này được các đối thủ của Brandt tiết lộ công khai trong một mùa bầu cử quốc hội năm
1961, trong đó có cả Franz-Josef Strauss. Chính nhờ những báo cáo của cô đã ép chúng
tôi phải suy nghĩ lại về hình ảnh rập khuôn mẫu về Strauss, mô tả đương sự như một kẻ
thù bất cộng đái thiên của chủ nghĩa xã hội, hình ảnh mà đương sự muốn trình cho quần
chúng. Cô nhận định Strauss là một người thực tiễn không đam mê. Khi cô tiết lộ Strauss
và Brandt có hẹn nhau để gặp gỡ tại căn phòng của cô, có tin đồn một liên minh lớn sẽ
đưa nhóm Dân Chủ Xã Hội vào chính quyền lần đầu tiên kể từ khi Đệ nhị thế chiến bùng
nổ. Brandt xác nhận những cuộc đàm đạo này trong hồi ký của ông nhưng không đề cập
đến khung cảnh và mối liên hệ của ông với Susanne.
Tôi thường hay tự hỏi điều gì đã khiến người đàn bà này quay ra thích thú với
những cuộc gặp gỡ mưu đồ tại Bá Linh và báo cáo về những tổ chức và cá nhân có quan
điểm chính trị gần gũi với cô hơn là chúng tôi, đặc biệt sau khi cô chịu cảnh tù đày vì
những tội mà tôi cho là ngụy tạo. Cô chắc chắn biết rõ cô đang tiếp xúc với ai. Nếu cô là
một gián điệp nhị trùng, chắc chắn cô sẽ hỏi một số chuyện về công tác của chúng tôi,
nhưng cô không bao giờ đặt vấn đề. Cô chỉ nhận những bù trừ cho những chi phí của cô,
ngoài ra không có gì khác. Để có cớ sang Bá Linh, cô tạo dựng ra một người bạn gái sinh
sống tại phía Tây thành phố.
Mối giây liên lạc với nguồn cung cấp cực kỳ quý giá này thình lình bị cắt đứt vì
Bức Tường Bá Linh được xây năm 1961. Cô là một trong nhiều nguồn cung cấp bên Tây
Đức ngưng làm việc với chúng tôi kể từ đó. Nhưng tôi tin rằng Susanne đóng góp hơn thế
nữa ; có những chỉ dấu cho thấy cô bắt đầu làm việc với tình báo Tây Đức. Cô biệt tích
với Fred Sagner, một đại tá của quân đội Tây Đức người đầu tiên thong báo cho cô về tổ
chức Cứu Nguy Tự Do, để đi Viễn Đông, tại đây y được bổ nhiệm vào các tòa đại sứ của
Cộng Hòa Liên Bang Đức với chức vụ tham tán quân sự. Đến năm 1968, cô làm việc cho
hệ thống tình báo dưới sự kiểm soát của một viên chức Tây Đức tên Hans Langemann,
một đường giây của CIA để kiểm soát nhân viên tại Âu Châu và Viễn Đông.
Sau này Susanne Sievers – đã có lần là một Lydia trợ giúp chúng tôi – trở thành
trưởng khối Tình Báo Tây Đức (Bundesnach-richtendienst- BND) tại Hồng Kông với bí
số 150, điều khiển các phó trạm tại Đông-kinh (Tokyo), Manila, Jakarta và Singapore. Hồ
sơ của tình báo Tây Đức mà chúng tôi xem được vào những thập niên 1970 ghi cô đã
nhận một tài khoản 96.000 Đức Mã, như vậy vai trò của cô chắc chắn phải quan trong.
Khi Klaus Kinkel trở thành trùm điệp báo Tây Đức năm 1968, công việc đầu tiên của ông
là quét sạch những điệp viên giả hiệu và chấm dứt những cơ cấu tổ chức vô lối do Gehlen
để lại, lúc bây giờ vẫn là tiêu chuẩn, mặc dù đã có hai người khác lãnh đạo BND sau
Gehlen. Susanne Sievers rời cơ quan và nghe nói đã nhận 300.000 Đức Mã để không tiết
lộ việc BND nhúng tay vào chính trị nội bộ. Tôi không còn tin gì về cô, và cho đến nay
cô là một khuôn mặt mà lòng trung thành và ý nghĩa hành động vẫn còn là một bí ẩn đối
với tôi.
*
Bị tổn thương vì lỗi lầm của tôi trong vụ Steinrücke, tôi nhận thức bí quyết để xâm nhập
chính trị Cộng Hòa Liên Bang nằm trong tính đa dạng của các nguồn tin và cách vận
dụng chúng một cách liên lỉ một khi đường dây đã được móc nối. Về phía cánh hữu,
chúng tôi đã xây dựng đường giây liên lạc với Günter Gereke, một người Đức ái quốc,
một dân biểu tiền chiến đã bị bỏ tù vì chông đối Hitler và sau này gia nhập nhóm âm mưu
ám sát Hitler năm 1944. Về mọi mặt Gereke là một mẫu mực của nhóm bảo thủ kiên
quyết những rồi cuối cùng hợp tác với chúng tôi. Nhiều người không chịu đựng được
Adenauer, phản bác ý niệm của ông nhằm bảo toàn sự tái sinh của nước Đức phải trông
cậy vào bà đỡ người Mỹ. Gereke phản đối bằng cách gặp gỡ Ulbricht công khai và bị trục
xuất khỏi đảng của Adenauer. Chúng tôi bám vào ông vì ông là một nguồn tin quý giá
trong giới Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, mà ông báo cáo một cách tường tận.
Khi có tin tiết lộ phụ tá của Giereke là một điệp viên của tình báo Anh quốc, đối với
Gereke rõ ràng là chính phủ Bonn hầu như chắc chắn đang lập hồ sơ để đánh phá ông,
đồng thời cũng hy vọng hạ uy tín tất cả các đối thủ của chính sách phò Mỹ cho họ là
những điệp viên cộng sản. Chúng tôi quyết định hành động nhanh và báo cho Gereke di
chuyển sang Bá Linh. Đây là điều ông không hề nghĩ đến trong vị thế xã hội của ông,
nhưng vào thời buổi này chúng tôi có phần bốp chát và ông không còn lựa chọn nào
khác. Dù sao danh tiếng của ông đã chấm dứt tại Tây Đức khi Adenauer quyết định biến
ông thành một thí dụ điển hình.
Chúng tôi đưa ông ra trước cuộc họp báo tại Đông Bá Linh và ông giải thích lý do muốn
giữ liên lạc như một người Đức yêu nước. Đây là một thắng lợi tuyên truyền đối với
chúng tôi, khiến cho cấp lãnh đạo của chúng tôi phải thích thú. Quá thích thú đến độ
khiến cho họ có một mối thèm khát bệnh hoạn xui khiến kẻ khác đào thoát ngoạn mục,
không thèm để ý đến sự kiện một điệp viên tốt tại chỗ thường đáng giá hơn một chục
người đào thoát. Tôi từng có một nguồn tin, bí danh là Timm, một dân biểu CDU, tên
thậy là Karlfranz Schmidt-Wittmack. Là một thành viên của ủy ban cho Vấn đề An Ninh
châu Âu và đứng đầu ủy ban bảo vệ của ngành thanh niên CDU, đương sự được các thế
lực kỹ nghệ đỡ đầu và trên đường công danh đi đến đỉnh cao của đảng. Tôi trở về sau lần
nghỉ hè năm 1954 và thấy giấy báo của Wollweber nói rằng Schmidt-Wittmack phải được
rút về Đông Đức. Tôi phát cáu khi nghĩ một người cung cấp tài liệu cho chúng tôi ghi rõ
những chi tiết để Bonn gia nhập NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) lại có thể bị hy
sinh cho một cuộc họp báo, và tôi biết đương sự sẽ miễn cường từ bỏ sự nghiệp thăng
tiến để chốn chạy sang Đông Đức. Nhưng thẩm quyền không thuộc về tôi. Mắc dù cơ
quan tình báo có bản năng bén nhạy đến đâu đi nữa, họ luôn luôn là con cờ của chính
quyền mà nó phục vụ.
Tôi nghĩ tôi phải đích thân báo cho Schmidt-Wittmack. Những biện luận chính trị tôi cố
bày vẽ không thuyết phục được đương sự tí nào: đương sự không muốn trở thành một
con tốt trong cỗ xe quay không ngừng của bộ máy tuyên truyền. Tôi không còn lựa chọn
nào khác là nói dối và báo rằng phản gián Tây Đức đang theo dõi y và cơ may duy nhất
để tránh tù tội là trốn sang Đông Đức. Đương sự quyết định cùng lúc với sự thỏa thuận
của vợ y. Chúng tôi ước định , mặc dù cô vợ quen thuộc với công tác của y cho Đông
Đức, cô ấy chẳng vui sướng gì khi nghĩ đến việc phải rời về đó. Chúng tôi thuyết phục
đương sự viết cho cô vợ trước khi đương sự trở vềHamburgđể thu xếp đồ đặc, và thư tín
đi trước, cho cô vợ có thời gian tiêu thụ tin chấn động này. Buộc phải lựa chọn giữa một
ông chồng bị thất sủng ở tù hoặc khởi đầu một cuộc sống mới nơi một căn nhà sinh sắn
gần bờ hồ ở Đông Đức, cô vợ chọn giải pháp thứ hai.
Ngày 26 tháng Tám năm 1954, Schmidt-Wittmack xuất hiện trong một cuộc họp báo tại
Đông Bá Linh. Đương sự tiết lộ Adenauer đã giấu những thông tin quan trọng về ý định
của ông trong chính sách đối ngoại và an ninh. Như mọi trường hợp tương tự, chúng tôi
bồi thêm cho tấn tuồng này bằng cách tiết lộ thông tin ngoại lệ từ những nguồn khác –
trong trường hợp này là tình báo quân sự Liên Xô – để tố cáo rằng chính quyền Bonn, trái
với những tuyên bố công khai, đã hoạch định thiết lập một đội quân với hai mươi bốn sư
đoàn.
Schmidt-Wittmack được giao phó nhiệm vụ chủ tịch thương mại ngoại vụ, nhưng tôi luôn
tiếc quyết định triệu hồi ông về và đôi khi tự hỏi chúng tôi đã hy sinh một ông bộ trưởng
tương lai chỉ vì muốn nằm trên trang nhất của báo chí. Gereke trở thành một công chức
trong đảng Dân Chủ Quốc gia, một đảng tại Đông Đức đại diện cho cựu chiến binh, nghệ
nhân và tiểu thương. Đây không phải là một phương cách đặc biệt hữu ích cho thân già
của Gereke sống qua những ngày tháng còn lại.
Người đào thoát ngoạn mục nhất của những năm đó đến với chúng tôi lại không do chúng
tôi chủ sự và đương sự cũng chẳng phải là một trong những nguồn cung cấp tin của
chúng tôi. Trái lại nghề nghiệp của đương sự là phát hiện và phơi bày các điệp viên của
chúng tôi, người đó tên là Otto John, trưởng khối phản gián Tây Đức (Văn Phòng Bảo Vệ
Hiến Pháp). Thời buổi bây giờ khó mà hình dung được cảm giác việc này gây nên lúc các
câu chuyện cá nhân và lòng trung thành buổi ấy của tất cả người Đức vẫn bị kẻ thù trước
đó nghi ngờ và phe tả vẫn còn uy tín.
Là một người chống đối Quốc Xã, John biệt tăm khỏi Tây Bá Linh sau một buổi lễ kỷ
niệm năm thứ mười ngày lật đổ thất bại chống lại Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944.
Người ta thấy ông lần cuối tại Tây Đức đi cùng với một người quen thuộc, Bác sĩ
Wolfgang Wohlgemuth, một chuyên gia về sản phụ và cuối cùng xuất hiện ngày 21 tháng
7 năm 1954 tại căn cứ quân sự Xô Viết tại Karlshorst ở ngoại ô Bá Linh. Hiển nhiên cả
hai người đã di chuyển vào Đông Bá Linh trên xe của Wohlgemuth.
Tiếp theo đó Tây Đức bấn loạn, họ giải thích trường hợp này là một cuộc bắt cóc gây hấn
do tình báo Cộng Sản tổ chức. Nhưng với một thời điểm trùng hợp khôi hài, đúng lúc
phát ngôn nhân của chính phủ Bonn tuyên bố John không tự ý rời bỏ Liên Bang Đức, ông
trưởng khối tình báo tuyên bố trên đài phát thanh Đông Đức là ông tự ý rời bỏ vì
Adenauer đã trở thành dụng cụ của Mỹ, « vì nhu cầu chiến tranh đánh lại binh sĩ Đông
Đức… vui mừng đón tiếp những ai chưa rút tỉa bài học từ đại họa qua và chờ đợi giây
phút để phục hận năm 1945 » . Khi ông đồng thời tuyên bố nhóm Quốc Xã khống chế hệ
thống tình báo của Tây Đức, lời của ông rất nặng ký.
Nhưng cũng như mọi biến cố vào lúc cao điểm Chiến Tranh Lạnh, biến cố này không
hoàn toàn diễn biến như người ta tưởng. Đây là lần đầu tiên sự thật mà tôi biết được về sự
việc kỳ dị này.
Mấu chốt nằm ở kinh nghiệm của John trong thời chiến, khi ông trở thành người tin cậy
của nhóm kháng chiến nhỏ nằm trong cơ quan phản gián của Quốc Xã nhằm âm mưu giết
Hitler. Ông được giới thiệu với Claus Schenk Graf von Stauffenberg, sĩ quan đã tổ chức
bất thành cuộc ám sát, và có nhiệm vụ ước định xem Đông Minh chấp nhận đề nghị hòa
bình của nhóm âm mưu nếu họ khử trừ được Hitler. John, lúc đó làm việc tại thủ đô
Madrid trung lập cho một hãng máy bay thương mại của Đức, hãng Lufthansa, có bắt liên
lạc với Tòa Đại Sứ Mỹ và đặc biệt với tùy viên quân sự đại tá William Hohenthal, vị này
có đường giây liên lạc ở cấp độ tối cao trong bộ tham mưu của Eisenhower. John cũng có
gởi thư tín để xin Luân Đôn hỗ trợ qua tòa đại sứ Anh tạiLisbon.
Mấy năm sau, John cho tôi biết ông nghĩ là bức điện của ông đã bị Kim Philby ngăn
chặn, vào lúc đó ở đỉnh cao quyền lực trong vai trò điệp viên KGB nằm trong lòng tình
báo Anh. Cấp lãnh đạo Nga chống đối quyết liệt mọi thương thuyết giữa phe đối lập
Hitler tại Đức và Đồng Minh, vì họ lo sợ có một cuộc đảo chánh bảo thủ đánh tan tất cả
và kết hợp lại để chống lại Nga. « Những tài liệu tôi chuyển cho Philby có lẽ đã biến mất
trong đống hồ sơ của ông » John kể cho tôi nghe mãi sau khi Philby chết. « Tôi nghĩ rằng
chúng tôi chẳng bao giờ đến Luân Đôn .»
Khi âm mưu thất bại và các kẻ âm mưu bị truy lùng và ám sát không nương tay, John tìm
cách trốn sang Anh qua ngãMadridvàLisbon. Ký giả Sefton Delmer bao che cho ông và
giao cho ông công việc của ngành ước tính trong hệ thống thông tấn. Sau thế chiến, John
trình bằng chứng cho tình báo Anh đương sự rất quen thuộc với những vụ án của các
Thống Tướng von Brauchitsch, von Rundstedt và von Manstein. Với quá trình như vậy,
không có gì đáng ngạc nhiên khi ông được bổ nhiệm đứng đầu cơ quan phản gián Tây
Đức, đặt trụ sở tạiColognetrong vùng chiếm đóng của Anh.
John không phải là một đồng minh khách quan của cựu quốc xã Reinhard Gehlen, người
đã được Hoa Kỳ đặt vào chức vụ cai quản tình báo hải ngoại, kể cả các viên chức Quốc
Xã vây quanh Adenauer và ngay cả chính Adenauer cũng không ưa Gehlen vì giống như
phần đông cánh thủ cựu Tây Đức họ nhận xét âm mưu của nhóm Stauffenberg mang tính
chất phiêu lưu. John muốn được bổ nhiệm trong ngành ngoại giao mới hình thành,
nhưng, sau này ông cho tôi biết, ông không muốn gây dựng sự nghiệp trong ngành này
bởi vì toàn bộ tham mưu vẫn là một nhóm ngoại giao trước đây làm việc với bộ trưởng
ngoại giao Quốc Xã, Joachim von Ribbentrop. Bồi thêm nhục mạ vào phần thương tổn,
phó chủ tịch của cơ quan Gehlen, Olaf Radtke, được thuyên chuyển sang ngành phản
giản, mục đích rõ ràng để kiểm soát John. Người ta không lấy làm ngac nhiên là vào năm
1954 ông cảm thấy thất vọng và lần xuất hiện của ông bên Đông Đức vào một ngày đẹp
trời tháng Bảy được xem là một cảnh đào thoát.
Sự thật hoàn toàn trái ngược và kỳ quặc hơn nhiều. John không hề có ý định đào thoát.
Bác sĩ Wohlgemuth là một điệp viên của Nga Xô, ông quyết định lợi dụng tinh thần sa
sút của anh bạn để lừa y sang Đông Đức. Các bạn đồng nghiệp Xô Viết của tôi thề rằng
họ không khuyến khích ông làm việc này, nhưng tôi có thể mường tượng Wohlgemuth
nói với sĩ quan điều hợp: « Tôi có thể đưa Otto John về cho anh ». Và sĩ quan điệp báo
Xô Viết lòng phân vân trả lời: « Được, chúng tôi tin anh nếu chúng tôi thấy đương sự ở
đây ».
Tuy nhiên, điều chắc chắn là nguồn tin kiểm chứng độc lập thấy John lần cuối là trên xe
của Wohlgemuth khi cả hai người băng qua biên giới Đông Bá Linh vào lúc nửa đêm.
Tôi đoán chừng John hoặc là đã say khượt hoặc đã bị ông bạn đánh thuốc. Cả hai người
được thấy chệnh choạng đi qua các một dãy các hộp đêm, uống rượu để tưởng nhớ các
bạn hữu chết trong lúc kháng chiến. Khi người lữ hành bất đắc dĩ thức giấc, vỡ lẽ mình
nằm trong khu quân đội Xô Viết tại Karlshorst, một ác mộng đối với một người đã từng
là trưởng khối phản gián của Tây Đức. Tôi nghĩ rằng họ cũng kinh ngạc về sự xuất hiện
của John trong tay họ cũng như chính John vì họ gọi tướng Yevgeni P. Pitovranov,
trưởng trạm KGB tại Bá Linh, và một người tên Turgarinov, đại diện cho Ủy Ban Thông
Tin của Bộ Ngoại Giao dưới quyền của W.M.Molotov, để quyết định phương cách tốt
nhất để khai thác John. John biết là số phần mình bấp bênh tột độ và, coi như đương sự là
một tù binh thực thụ tại Karlshorst, Nga Xô nắm sinh mệnh của y trong tay. Đương sự sẽ
vào tù khi trở về quê quán và sự nghiệp của đương sự coi như chấm dứt.
Sau khi đương sự xuất hiện công khai và cơn chấn động đã chìm lặng tạiCologne, Nga
Xô như thường lệ vứt đồ phế thải lại cho chúng tôi. John tỏ ra cực kỳ lạc lõng, vì vậy ưu
tư đầu tiên của chúng tôi là tạo cho John một nhóm bạn để hỗ trợ . Chúng tôi để cho John
bắt liên lạc với Hermann Henselmann, kiến trúc sư trưởng của thành phố Đông Bá Linh
và Wilhelm Girnus, một người tôi quen biết vào thời tôi làm việc cho Đài phát thanh Bá
Linh, đồng thời chia sẻ một số bạn bè cũ chống Quốc Xã của John. Bộ An Ninh Quốc
Gia phái cận vệ để bảo vệ John không cho tình báo Tây Âu bắt cóc, nhưng họ làm việc
bất cẩn. Mười bảy tháng sau khi xuât hiện bên Đông Đức, John biến mất, không kèn
không trống, rời một cuộc họp mặt tại Đại Học Humboldt, Đông Bá Linh để nói chuyện
với một ký giả Đan Mạch tên Bonde-Henrickson. Cả hai người lên xe của Henrickson và
vội vã đi về hương Tây qua cửa ngõ Brandenburg.
Chuyện xảy ra năm 1955. Ba mươi bảy năm sau, tháng Tư năm 1992, tôi ngồi với một
ông John tám mươi ba tuổi trong một quán ăn, nhìn sang cạnh Đại Học Humboldt nơi
ông đã trốn chạy trở về Tây Đức. Ông vẫn còn hậm hực khi ông trở về Tây Đức, ông bị
kết án bốn năm tù ở vì tội phản bội tổ quốc. Ông ta chỉ bị mười tám tháng, điều này cho
thấy chính phủ Tây Đức không quả quyêt về tội trạng của ông. Về vấn đề « đào thoát »
sang Đông Đức, ông kể cho tôi rằng « Tôi bất tỉnh và tôi thức dạy tại Karlshorst. Tôi
không hề có ý định sang Đông Đức ». Ông nói ông không bao giờ cảm nhận Đông Đức là
nhà của ông và ông quyết định một cách giản dị sau một năm ông quá chán ngán, ông tìm
cách liên lạc với ai đó để giúp ông trốn thoát.
Khi mọi việc đã xong, những kẻ đào thoát nổi danh không có một giá trị chiến lược nào.
Đúng vậy, Adenauer vì lời tiết lộ của một kẻ đào thoát bắt buộc phải công nhận ông
thương thảo để tái võ trang nước Đức. Và ảnh hưởng vương vất của cánh cựu Quốc Xã
tại Bonn cũng đã được tiết lộ trong một trạng huống đầy kịch tích nên đối tượng vẫn trỗi
dậy trong tiến trình chính trị và vẫn lưu lại. Nhưng Tây Đức rồi ra cũng gia nhập khối
NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương). Chúng tôi đã không thành công trong mục tiêu
ngăn chặn họ gia nhập liên minh Tây Âu, ngay cả trì hoãn cũng không được.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 9 (Markus Wolf)
“…Bất cứ một chấp nhận cải cách nào đều xem như họ chấp nhận thất bại, và tự động
biến thành chiến thắng của Tây phương. Đây là vòng tà ác mà tôi bị lôi cuốn vào trong,
liên tục năm này qua năm nọ…”
Chương 6
Khrushchev mở mắt cho chúng tôi
Như mọi người sống trong thế giới Cộng Sản, tôi không có khả năng từ bỏ lòng kính
phục đối với Stalin và chủ nghĩa Stalin trong hàng nhiều năm. Động cơ xúc tác khiến cho
tôi tỉnh ngộ là diễn văn bí mật nhưng lại công khai nhất thế giới của Nikita Khrushchev
tại Hội Nghị Thứ Hai Mươi của Đảng Cộng Sản tạiMoscowtháng Hai năm 1956. Nguồn
gốc đích xác của trình tự lâu dài và đau đớn của việc tôi cắt đứt với chủ nghĩa Stalin rất
khó xác định; những nhen nhúm nghi ngờ thấm nhập hàng rào phòng thủ ý thức hệ của
tôi trong không khí ái ngại của Đông Đức trong những những thập niên đầu 1950 có lẽ là
khởi đầu. Nhưng biến cố làm lay động thế giới quan mà tôi đã dầy công nuôi dưỡng cùng
với rất đông các đảng viên Cộng sản vào thế hệ của tôi chính là diễn văn của Khrushchev,
trong đó ông tiết lộ những tội ác của Stalin. Sau sự cố đó, mặc dù chúng tôi vẫn còn tự
xưng là những đảng viên trung kiên nhưng chúng tôi không thể nào tuyên bố chúng tôi vô
tội được.
Nikita Khruschev
Cho đến mãi tháng Hai năm 1956, chân dung của Stalin vẫn treo phía trên bàn làm việc
của tôi, tay đang mồi ống điếu, gợi nên hình ảnh của một cha già dân tộc đầy lòng ưu ái.
Một ngày trong tháng đó, báo chí Tây phương đến từng sấp dày như thương lệ. Tôi luôn
luôn đọc The New York Times và ấn bản Paris của tờ International Herald Tribune để
ước định khuynh hướng của người Mỹ. Tôi cũng đọc một số tờ báo và tuần báo Tây Đức,
kể cả tờ lá cải Bild-Zeitung, mặc dù nó có tính cách thỏa mãn thị hiếu quần chúng, đôi
khi nó có những tin tức cục bộ và tình báo chính xác hơn những đối thủ sang giá hơn nó.
Tôi cũng đọc The Times của Luân-đôn và tờ Le Monde. Việc đọc toàn bộ báo chí này là
một đặc quyền trong công tác của tôi. Báo chí Tây phương bị cấm bên Đông Âu, lấy cớ
không xác thực là chúng hàm chứa những luận điệu gây loạn chống thế giới Cộng Sản,
nhưng lý do thực sự là Bộ Chính trị biết trong tận đáy lòng thâm kín của họ những bài
tường thuật về cuộc sống đàng sau bức Màn Sắt trong rất nhiều chi tiết quá sát với sự
thực khiến cho họ không thể an tam.
Tại Đại Hội Đảng, Khrushchev cuối cùng đã thắng trong cuộc tranh giành quyền
lực phức tạp và đẫm máu sau cái chết của Stalin, tố giác kẻ độc tài, tiết lộ rằng trong số
139 thành viên và ứng cử viên đắc cử vào Trung Ương Đảng năm 1934 tại Đại Hội lần
thứ Bảy của Đảng Cộng Sản Liên Xô, 98 người đã bị bắt giam và xử bắn. Trong số 1936
đại biểu tại Đại Hội mà bậc cha mẹ chúng tôi long trọng báo cho thiếu niên chúng tôi lễ
tiến cử, quá nửa đã bị kết tội phản cách mạng và rất ít người sống sót. Khrushchev kết
luận cuộc đàn áp tàn bạo của Stalin đã vi phạm tất cả những quy chế chính thống cách
mạng.
Đây là một ngôn ngữ mà người cộng sản chúng tôi, vì quen với lối tẩy rửa tinh thần
chao đao dù nhỏ nhặt đến đâu trong tổ chức, chưa bao giờ gặp. Bây giờ cái thây xác của
hệ thống này đã được phơi bày công khai qua một cuộc mổ xẻ tận tình, chúng tôi cảm
nhận ngôn ngữ tố cáo Stalin của Khrushchev có vẻ mơ hồ và thiên kiến. Nhưng vào lúc
đó, chẳng khác gì chúng tôi bị một nhát búa trên đầu. Khi tôi đọc xong bản diễn văn trên
báo chí Tây phương, phản ứng đầu tiên của tôi là đem bức chân dung của Stalin treo trên
tường xuống và đá nó vào một góc. Tôi không thể nói rằng những gì tôi vừa đọc gây chấn
động cực kỳ nơi bản thân – vì tôi biết quá nhiều qua những kinh nghiệm cá nhân của tôi
trong cuộc sống ở Liên Xô – nhưng từ đó xuất phát nỗi đau khi tôi nhìn xuống vực thẳm
hiển hiện những tội ác của ông. Cảm giác giống như chỉ một thoáng những sợ hãi kinh
hoàng nhất về chế độ mà chúng tôi gắn liền cuộc sống đã trở thành sự thật.
Thấm nhập qua Đông Âu qua ngã truyền thông của Tây phương và qua rỉ tai, diễn
văn nảy lửa của Khrushchev đã làm leo thang những mối bất bình tại Ba Lan và Hungary.
Cuộc nổi dạy của Hungary vào tháng Mười và tháng Mười Một là kết quả trực tiếp của
những lồi tố cáo của Khrushchev. Lãnh tụ cải cách của Hungary là Imre Nagy, người tôi
quen biết tại Moscow từ năm 1943 đến năm 1945 khi ông lãnh đạo đài phát thanh
Hungary lưu vong trong khi tôi là đặc phái viên của Đài Phát Thanh Nhân Dân Đức.
Chúng tôi cùng đi một chuyến xe buýt để về nhà khi phiên làm chấm dứt. Nagy, với bộ
râu mép đặc thù của người Hung và khuôn mặt tròn, luôn luôn tỏ ra điềm đạm và vui tính
và dễ kết bạn trong nhóm lưu vong quá khích. Bấy giờ tôi tin chắc ông với sự thỏa thuận
của cấp lãnh đạo Moscow sẽ tìm ra phương cách để tái lập lại ổn định tại Budapest. Xe
tăng rút ra khởi Budapest sau những ngày đầu nổi dạy và Nagy hứa sẽ có cởi mở tự do.
Imre Nagy
Nhưng những lời lẽ đó không đủ thuyết phục và cũng đã quá trễ. Các cuộc phản đối
và đổ máu vẫn tiếp diễn và xe tăng của Liên Xô trở lại ngày 4 tháng Mười Một. Xô Viết
luôn gọi trên đường giây khẩn cấp của tôi và câu hỏi luôn đặt ra: NATO sẽ phản ứng ra
sao? Tôi cũng chẳng lấy gì làm tự tin lắm. Một mặt có rất nhiều chỉ dấu cho thấy NATO
đang chuẩn bị những công tác bí mật chống Liên Xô. Mặt khác, có những tín hiệu từ các
nguồn tin của chúng tôi cho chúng tôi biết Tây phương tự kềm chế vì sợ leo thang. Tôi
đánh liều và điện báo choMoscow: “ NATO sẽ không can thiệp”.
Nếu tôi ước định sai – và tôi không lấy gì làm chắc chắn – sự nghiệp của tôi có lẽ đã
chấm dứt, cho dù đây là điều cùng cực. Nhưng tôi đá có lý, và Nagy trở thành con vật tế
của Liên-Xô. Họ hứa không truy tố Nagy và những người Hung khác tại tòa Đại sứ Nam-
Tư, nhưng họ nuốt lời hứa. Họ bắt cóc ông đưa ông ra khỏi tòa đại sứ Nam Tư, đưa ông
sang Roumany, và hạ sát ông sau một màn tòa án bí mật lố bịch; đây là một lập lại
phương pháp tồi tệ nhất của đường lối Stalin. Sau này, lãnh đạo của tình báo hải ngoại
Hungary, Sandor Rajnai, tâm sự với tôi là ông bị dày vò tội lỗi vì vai trò cá nhân của ông
ta trong việc thẩm vấn Nagy. Ông nói « Mischa, việc như thế này không bao giờ nên tái
diễn nữa ».
Hungary với hình ảnh tàn sát và hủy hoại là một bài học đắng cay cho tất cả anh em
chúng tôi. Việc này có thể nhất thời cho phép nhóm giáo điều của Moscow gắn nhãn hiệu
phản cách mạng cho thành phần cải cách, nhưng đối với những người Cộng sản biết suy
nghĩ, tính cách phức tạp của cuộc nổi dạy khó nắm bắt vì những thông điệp trộn lẫn trong
đó. Những câu hỏi khuôn mẫu cũ kiểu Lê-nin trở lại trong tâm não của tôi: Chúng ta có
nên hy sinh quyền lực mà chúng ta đã khổ nhọc chiếm được? Tự do cho ai và chống lại
ai?
Chúng tôi có một cuộc họp tại Bộ An ninh Quốc gia vào tháng Ba năm 1956 để bàn
thảo về ý nghĩa của Đại HộiMoscow. Ernst Wollweber lúc đó vẫn còn tại chức, nhờ vậy
chúng tôi tránh được những loại hội họp kiểu Mielke, người kế vị của ông. Đối với
Mielke ý niệm thảo luận có nghĩa là đương sự nói hàng tiếng đồng hồ và sau đó giải tán
phiên họp. Tôi lên tiếng và chào mừng phương cách các đồng nghiệp Xô Viết tiếp cận
với quá khứ và bày tỏ lòng nhẹ nhõm bớt được gánh nặng nghi ngờ đã gây hoang mang
nơi tôi hàng mấy năm nay. Mielke tỏ vẻ kinh hoàng. Y nói « Tôi chưa bao giờ đau khổ
phải gánh chịu một gánh nặng nào. Tôi không hiểu đồng chí Wolf muốn ám chỉ điều gì ».
Y tiếp tục nói y không hề biết có một cuộc đàn áp nào tại Liên Bang Xô Viết và thòng
một câu để tỏ ra biết điều là Đông Đức cũng chẳng xảy ra việc này.
Lẽ cố nhiên nước chúng tôi không thể tránh khỏi một vài hệ quả của không khí đầm
ấm này. Tám mươi tám tù nhân Đức bị tòa án quân sự Xô Viết kết án được trả tự dọ và
thêm vào trước đó bảy trăm tội nhân được thả khỏi tù. Trong nội bộ Đảng, những biện
pháp kỷ luật đối với Anton Ackermann, Franz Dahlem, Hans Jendretzky và nhiều ủy viên
trong Trung Ương Đảng khác bị thất sủng (từ năm 1953) được bãi bỏ. Những kế hoạch
cải cách thình lình lại được lôi ra khỏi ngăn cất hồ sơ của các vị công chức. Ngay trong
Trung Ương Đảng, đã có những bàn thảo tìm kiếm cách xây dựng một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một sự việc chỉ có thể xảy ra với một hình thức dân
chủ nào đó. Tôi phục vụ trong một ủy ban nghiên cứu hỗn hợp trong đó có những chuyên
viên về kinh tế, điều hành ngân hàng, chính trị, quân sự và các cơ quan an ninh. Kinh tế
không phải là bộ môn sở trường của tôi, nhưng tôi chăm chú nghe. Tôi cảm thấy, về mặt
tri thức, sẵn sàng chấp nhận cách phân bố về tài sản tư hữu nhiều hơn và sâu sắc đặt vấn
đề tương quan giữa tự do ngôn luận và giáo điều của nhà nước tuân theo những huấn thị
của Đảng.
Nhưng Ulricht vẫn muốn tiếp tục đóng kín. Đúng hai tháng sau Đại Hội Đảng tại
Moscow, Bộ Chính Trị Đông Đức bỏ phiếu chống lại tất những bàn luận về những sai
lầm, để tránh cung cấp đạn dược cho kẻ thù. Kỷ luật được tái lập qua những khẩu hiệu vô
lý như « khắc phục những sai trái trên con đường tiến tới của chúng ta ». Tôi là một trong
những người trong Đảng, đã có lần hy vong có những động lực mới, lại một lần nữa khép
mình tuân phục trước kỷ luật toàn năng. Tuy nhiên, Đại Hội lần Thứ Hai Mươi của Đảng
là bước đầu của một hành trình dài tiên tới điều mà sau này chúng tôi được biết đến là
perestroika và glasnost, khởi đầu của một vòng cung mà đoạn kết sẽ được mô tả vào năm
1989.
Phần tôi, tôi cũng phải trải qua con đường gồ ghề cho đến lúc tôi chấp nhận những ý kiến
mới và bỏ lại đàng sau cơ quan tình báo và những nét sơ cứng trong suy nghĩ của tôi.
*
Những bùng nổ về địa lý chính trị năm 1956 càng sói mòn mọi hy vọng thay đổi. Những
sự cố tại Poznan – nơi, trước khi xảy ra vụ Khrushchev tiết lộ, một cuộc đình công của
công nhân Ba Lan đã bị chính quyền Ba Lan đàn áp đẫm máu – cuộc nổi dạy tại Hungary
và cuộc khủng hoảng kinh đào Suez, tất cả những dữ kiện này khiến cho chúng tôi phải
suy nghĩ trở lại theo chiều hướng Chiến Tranh Lạnh. Theo quan điểm của chúng tôi, tất
cả những gì chúng tôi chứng kiến là các đồng minh của hai siêu cường rất có kỷ luật khi
họ cố gắng thực thi chính sách độc lập – Hungary do Moscow, và Anh và Pháp do
Washington. Thế giới được chia thành hai khối và chúng tôi biết chúng tôi thuộc khối
nào.
Tôi tự hỏi nếu tôi cầm quyền tôi có hành động khác không. Tôi hy vong là có,
những tôi không dám đoan chắc. Khi tôi nói chuyện với Yuri Andropov vào thập niên
1980 về những vấn đề cải cách – đề tài đề cập đến liên quan đến Ba Lan, không phải là
Đức, nhưng vấn đề tương tự cho cả hai – tôi hỏi ông đảng viên Cộng sản tiến bộ này tại
sao ông có quá ít ảnh hưởng lên trên những vấn đề này. « Đồng chí Wolf, » ông đáp lại, «
khi bất cứ ai trở thành tổng bí thư, các anh có khoảng một năm để gây ảnh hưởng lên
đương sự. Nhưng khi những người vây quanh đương sự nói rằng đương sự là thiên hạ đệ
nhất và hoan hô từng cử chỉ của đương sự, và lúc đó đã quá trễ. » Andropov kể đến
Nicolae Ceaucescu ở Romania, vào những năm đầu có vẻ như đi con đường độc lập với
Moscow để rồi mau chóng trở thành một kẻ độc tài.
Tôi nghe văng vẳng những chỉ trích cho rằng tôi phải chờ đến hai mươi năm để đem
ra áp dụng những điều tôi suy nghĩ. Nhưng sự thể nó đã như vậy. Tất cả căn bản suy tư
của tôi về Chiến Tranh Lạnh là phương Tây và hệ thống xã hội của nó không trình bày
một phương hướng khác khả dĩ chấp nhận được. Vào thời điểm này và nhiều năm về sau,
tôi không dự tính một bước đi nào hết, ngay cả trong đường hướng tư duy, để giúp cho
đất nước của tôi và của các quốc gia khác trong khối Warsaw tiếp cận hệ thống tư bản.
Tôi vẫn tin tưởng bất di bất dịch là hệ thống chủ nghĩa xã hội, cho dù nó có những thất
bại hãi hùng, biểu trưng một khuông mẫu có tiềm năng tốt đẹp hơn cho nhân loại hơn là
phương Tây. Vào lúc thời điểm quyết định, cho dù tôi có bao nhiêu mối nghi ngờ về cách
thực hiện của đảng Cộng Sản, tôi tin rằng chúng tôi không nhượng bộ trước ảnh hưởng
của Tây phương. Tôi có viết trong đoạn mở đầu dài và khắc khoải của quyển nhật ký của
tôi viết năm 1968 :
Cơ cấu quyền lực trong thời kỳ quá độ đã triển khai con đường tiến tới Xã hội chủ
nghĩa đích thực, nó có những luật lệ riêng biệt và có sức sống độc lập. Chúng được điều
khiển bởi những yếu tố chủ quan và quyền lợi.
Những cơ cấu này, những bộ máy này và những công chức này có thể đôi khi lạm
dụng quyền hành đối với quần chúng theo những đường hướng chẳng phụ hợp tí nào với
Cách Mạng.
Sự pha trộn giữa lòng trung tín nồng nhiệt và mối nghi ngờ ray rứt thấm nhập trí
não của các đảng viên Cộng sản có trí tuệ. Nhưng cơn cám dỗ lúc nào cũng trực sẵn để
chôn vùi những câu hỏi bất an và thay vào đó tập trung vào những thắng lợi kỹ thuật và
khoa học do hệ thống của chúng tôi lập nên và ảnh hưởng cân tanh của nó đối với các xã
hội chậm tiến như Nga và Trung Hoa. Tất cả mọi thứ khác đều cho đóng băng cho đến
khi chủ nghĩa xã hội trở nên ổn định hơn. Những thay đổi không thể xảy ra vào thời đó vì
sự kiện này nằm trong bản chất của chính hệ thống và mối căng thẳng của tình hình quốc
tế. Bất cứ một chấp nhận cải cách nào đều xem như họ chấp nhận thất bại, và tự động
biến thành chiến thắng của Tây phương. Đây là vòng tà ác mà tôi bị lôi cuốn vào trong,
liên tục năm này qua năm nọ.
*
Sau những cuộc nổi dạy năm 1956, mối ưu tư chính của Khrushchev là làm dịu bớt
các xung đột và căng thẳng trong khối Đông Âu để có thể tập trung vào các kế hoạch
kinh tế đầy tham vọng của ông tại quê nhà. Một loạt những thống kê và diễn văn lạc quan
của ông được các bạn đồng nghiệp đón nhận với một chút hài hước, nhưng ông thực sự
tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của ông, đất nước không những bắt kịp nhưng vượt trội
sự phồn thịnh của Hoa Kỳ. Điều này đã được các cố vấn của Ulbricht chuyển ngữ một
cách kính cẩn nhưng vụng về là « vượt lên trên mà không cần bắt kịp » (überholen ohne
einzuholen), một câu mà ngài tổng bí thư của chúng tôi lập đi lập lại nhiều lần cho đến
khi có người bạo dạn báo cho ông biết đây là một nghich lý.
Cũng đã có một số người cười thầm về lòng say mê của Khrushchev đối với ngũ
cốc, ông tin tưởng đây là vũ khí bí mật để giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm của đất
nước rộng lớn của ông ta. Trong dịp viếng thăm đầu tiên Đông Đức năm 1957 Mielke và
tôi đưa ông đến cánh đồng sản xuất ngu cốc to lớn nhất của cộng hòa trong
vùngMagdeburg. Tại đây ông gặp gỡ các kỹ sư nông nghiệp giúp soi sáng và làm vừa
lòng ông. Ông cẩn thận ghi lại tất cả các phương thức và sau này tôi nghe ông gây khốn
khổ cho các công chức của ông, mắng mỏ họ vì không bắt kịp được ngay cả mức sản xuất
của Cộng Hòa Dân Chủ Đức.
Phong cách thô kệch của Khrushchev và những diễn văn giông dài của ông khiến
cho một số người bực bội khi ông trở về nước, nhưng tại Đông Đức, nơi chúng tôi phải
chịu trận nghe lười gỗ của Ulbricht, tính chất hồn nhiên của Khrushchev đã gây một ấn
tượng mạnh. Ông được tiếng tốt nhất trong giới lãnh đạo Xô Viết cho đến khi Gorbachev
lên cầm quyền, nhưng không như Gorbachev, ông là một người bình dị với một bản chất
bẩm sinh thấu hiểu được tâm tư của người dân bình thường. Ông có thể nói hàng giờ về
quê mẹ Kalinovka của ông với đầy lòng hãnh diện, đồng thời tỏ ra thái độ chê bai rõ rệt
phong cách ngoại giao mượt mà.
Tôi còn nhớ một sự việc sau buổi tiếp tân tiễn đưa tại Đông Đức để kết thúc chuyến
viếng thăm nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức của Khrushchev. Đoàn tùy tùng thân cận được
sắp xếp tiếp tân tại những căn phòng của Đại sứ Liên Xô tại tòa đại sứ để cất chén tiễn
đưa lần cuối. Anastas Mikoyan, ông chủ tich niên trưởng của Xô Viết Tối Cao đột nhiên
buồn ngủ sau một vài ly và không muốn di chuyển sang lâu đài Niederschönhausen trong
vùng ngoại ô Pankow, nơi nghỉ ngơi chính thức của các thượng khách, nhưng lại thích
ngủ một đêm tại tòa Đại sứ. Ulbricht tỏ vẻ phiền lòng vì ông đã sắp xếp trên con đường
từ Niederschönhausen đến phi trường hàng dãy người Đông Đức trung thành vãy chào từ
giã các quan khách.
Một cuộc bàn cãi tiếp diễn sau đó, cho đến lúc Khrushchev can thiệp « Anastas này,
không thể nào biện luận với Ulbricht được đâu. Người Đức họ cực kỳ chi ly ». Ulbricht
giận tím gan nhưng không nói lời nào.
Ngày hôm sau, trên đường đi đến phi trường sau một đêm bắt buộc phải ngủ tại lâu
đài, Mikoyan tỏ vẻ khó chịu. Ông phàn nàn quyết định của chủ nhà buộc ông phải đương
đầu lần cuối với đám đông ngoan ngoãn đứng xếp ngay hàng đón tiếp trên đường đi, rồi
ông ngủ gục trên xe. Khrushchev quay sang sang tôi và điềm đạm nói: « Trở về cơ xưởng
của chúng tôi tại Kalinovka, có lần chúng tôi có một nghệ nhân người Đức tên Müller.
Một hôm hè anh đưa vị hôn thê của anh từ bên Đức sang. Anh ta rất lấy làm hãnh diện
anh ta không hề đụng đến cô ta cho đến khi hai người chính thức lấy nhau trước luật
pháp. Chuyện này đến tai những anh em trong cơ xưởng và một người bạn của tôi tên
Vaska chụp ngay cơ hội. Y phục vụ cô nàng suốt một mùa hè. Đồng chí Wolf thấy
không, tính chi ly của người Đức không phải lúc nào cũng tốt đâu ».
Lẽ cố nhiên Khrushchev có thể là một người thô kệch, khả năng trí tuệ giới hạn và
kinh nghiệm yếu kém của ông về các quốc gia khác trên thế giới đã khiến cho ông không
thấy được những thiếu sót của chính đất nước ông. Ông cũng không có khả năng thấu
hiểu những hậu quả sâu rộng của bài diễn văn mật của ông, rốt cuộc điều này chứng tỏ
ông vẫn còn gắn chặt với hệ thống cũ và phương cách tư duy của nó. Nhưng ông là một
chính trị gia quả cảm, không phải là một anh thư lại và ông tin tưởng một cách cuồng
nhiệt vào ý thức hệ của ông, đến độ ông thường hy sinh những ưu đãi ngoại giao để chỉ
thỏa mãn lối biện giải.
*
Khoảng năm 1956, sự xung đột giữa các siêu cường đã trở nên cảnh tượng mà
Bertolt Brecht mô tả Ba Mươi năm Chiến tranh trong vở tuồng Người Mẹ Anh Dũng
(Mother Courage): Nó xác định đúng tình hình lúc bấy giờ. Cả hai bên, kỹ nghệ súng
ống, các chính trị gia và các cơ quan tình báo sống thoải mái nhờ lối làm ăn thịnh vượng
này.
Vào một buổi sáng sớm cuối tháng Tư năm 1956, người trông nhà đánh thức tôi dạy
với một câu chào hỏi bất thường: « Ông bộ trưởng đang chờ ông ở cửa vườn nhà ». Tôi
có lòng cảnh giác tức khắc. Nhìn qua kẽ màn, tôi thấy một chiếc xe Volkwagen nhỏ cũ kỹ
đậu ở dưới. Tôi đâm nghi ngờ thêm bội phần, vì đây không phải là phương tiên một bộ
trưởng của nhà nước Đông Đức di chuyển. Cực kỳ thắc mắc, tôi chụp khẩu súng lục đã
lên đạn tôi để trên tủ giường ngủ, bỏ vào trong túi áo ngủ, tôi bước xuống cầu thang, đến
trước cửa nhà.
Trước mặt tôi, bóng dáng Wollweber đứng sừng sững, với mẩu xì-gà trên môi. Ra
dấu về phía chiếc xe, tôi hỏi mọi sự đều bình thường chứ. Ông giải thích ông bị đánh thức
vì một cú điện thoại khẩn cấp của Xô Viết và để tiết kiệm thời gian, ông đã mượn chiếc
xe của người hàng xóm thay vì chờ các cận vệ và tài xế của ông . Ông quở trách tôi: «
Nhanh lên đi Mischa, anh không thể tưởng tượng những gì họ mới khám phá ».
Chúng tôi lạch cạch đi qua các đường phố vắng vẻ đến phi trường Schönefeld. Phiá
sau Alt-Glienecke, khoảng bốn trăm thước cách biên giới khu vực Hoa Kỳ và ngay sát
tường một nghĩa trang, chúng tôi thấy một nhóm bóng dáng hiện trong ánh sáng màu xám
ban mai. Một nửa là binh lính Xô Viết, đang hì hục đào. Những người khác đứng nhìn,
tôi biết họ là những cấp chỉ huy cao cấp của tình báo quân sự Moscow tại Bá-linh. Một
đường hầm gián điệp vừa được khám phá.
Binh lính đã đào được một đường khá sâu và chúng tôi tiếp tục quan sát, sững sờ
khi thấy họ bước lên đó và đâm thọc vào một sườn sắt hình tròn nằm trong đất cứng.
Trong đó là một cánh cửa sắt. Ổ khóa chảy nhão ra dưới sức nóng của ngọn lửa hàn và họ
đẩy bật tung cánh cửa trước mắt chúng tôi. Một cách lạng lẽ, các anh lính dò mìn và gỡ
bom đi xuống để kiếm soát khoảng không gian trống vắng xem có bị gài mìn không. Họ
không thấy gì cả. Người lính gác mời chúng tôi bước vào trong.
Tôi đứng trong một căn phòng rộng lớn bằng một căn phòng đọc sách. Có hai chiếc
ghế và một cái bàn nhỏ ở giữa. Dọc theo tường là từng bó giây cáp, phân chia rõ rệt. Mỗi
một bó đều có bộ phận khuếch đại gắn liền trước khi chạy trở lại bó cáp chính ở phía bên
kia. Tín hiệu được đón bắt, được khuếch đại và tán phát đến một căn lều đặc biệt được
xây dựng cách đó năm trăm thước tại Tây Bá Linh. Đây là một đài nghe lén nguy trang
tài tình.
Sau này tôi mới biết những chi tiết về tính chất tối tân của con đường hầm nhờ các
đồng nghiệp Xô Viết. Người Mỹ đã khám phá dưới luống đất này đường giây cáp điện
thoại chính thời tiền chiến nối liền với miền Nam nay trở thành Đông Bá Linh. Nó gồm
luôn trong đó đướng giây gọi là Ve-Che (do danh từ viết tắt « tầng số cao » Vysokaya
chastota) nối liền Moscow với tổng tham mưu quân sự Xô Viết tại Wünsdorf, phía Nam
Bá Linh.
Không cần phải giàu tưởng tượng để biết đây là mộng ước của một điệp viên.
Người Mỹ có thể đón bắt những cuộc đối thoại về việc thu mua vũ khí, khan hiếm, những
sai sót kỹ thuật và bí danh về kỹ thuật vũ khí vừa mới khai triển giữa Bộ Quốc Phòng tại
Moscow và căn cứ Đông Bá Linh tại Karlshorst, căn cứ lớn nhất Đông Âu. Họ cũng có
thể nghe lén những kế hoạch công tác và những cuộc thảo luận về những khó khăn triền
miên về tài khoản của quân độ Xô Viết.
Người Nga họ tin tưởng mãnh liệt vào hệ thống bảo toàn an ninh đường dây liên lạc
Ve-Che của họ. Họ đã khai triển một kỹ thuật mới bơm hơi nén vào các trong các đường
dây nhỏ nằm trong cáp. Nó ghi nhận mọi biến động trong mạch điện đi qua đường dây –
điều này xảy ra mỗi khi một bộ phận nghe lén, dù cao siêu đến mấy, được gài đặt lên
trên.
Là đứa con của thời Stalin tại Nga, tôi không bao giờ tin có một đường dây không
thể nghe lén và cho đến nay tôi vẫn không tin. ( Mức độ người Nga tin tưởng vào đường
dây đặc biệt của họ ngay cả khi đã khám phá đường hầm kể trên được biểu lộ cho tôi thấy
đến mãi mấy năm sau này, khi, trong một cuộc viếng thăm đồng nghiệp KGB tại Bá
Linh, họ vui vẻ chià điện thoại cho tôi để nói chuyện với Yuri Andropov, lúc bấy giờ là
giám đốc KGB tại Moscow.)
Cơ quan tình báo Anh và Hoa kỳ trước tiên xây dựng một cái chòi sát biên giới bên
phiá Tây để đánh cắp những trao đổi một cách an toàn. Họ thiết lập một cái nắp vòng
cung để cho giống hình thù của một trạm tiên đoán thời tiết, đánh lạc hướng ở phía trên
để không ai để ý sinh hoạt thực sự dưới hầm để thu thập mọi nguồn cung cấp tín hiệu của
làn sóng vô tuyến.
Để tránh bị phát giác gây dao động trên cường độ vào lúc đường dây bị đón bắt, các
kỹ sư Anh đã thiết kế một máy khuếch đại nhỏ cho mỗi một đường dây của hàng trăm
đường dây điện thoại nằm trong ba bó cáp lớn. Đây là một kỳ công kỹ thuật và tôi đoán
chừng nếu không có sự giúp đỡ của KGB, chúng tôi không dễ gì đơn phương tìm ra
đường hầm này.
Chúng tôi lần mò đường hầm trong bóng tối và im lắng, chúng tôi chỉ có ánh sáng
của bóng đèn tay hướng dẫn. Tôi bắt gặp một mẩu bià cứng trắng và roi đèn để xem. Nơi
đây, dưới lòng đất, qua lằn ranh chia cắt hai hệ thống và hai ý thức hệ, một nhân viên tình
báo có đầu óc hài hước cao độ đã đặt một cuộn kém gai nhỏ và một miếng bià cứng trên
đó ghi bằng mực đen « Quý vị bước sang khu vực của Hoa Kỳ ». Tôi, một trong những
kẻ thù bất công đái thiên của CIA, đến đây để chia sẻ trò khôi hải của một anh nhân viên
tình báo Hoa Kỳ! Lần đầu tiên trong suốt buổi sáng bất hủ này, tôi tự véo mình để đoan
chắc tôi không nằm mơ.
Lẽ cố nhiên, có một điểm sơ sót trong công trình thiết lập kỳ công kỹ thuật này mà
ngay cả một chuyên viên kỹ thuật tài giỏi nhất cũng không có thể sửa chữa: Liên Xô biết
sự hiện hữu con đường hầm này ngay từ đầu, nhờ anh gián điệp nhị trùng Anh, George
Blake. Nhưng, trong khi họ bảo toàn những trao đổi bằng những phương tiện này, họ
không hề cho chúng tôi biết bất cứ chuyện gì, để mặc cho chúng tôi không phòng bị và lộ
trần. Đức tính tồi tệ này không nằm ngoài bản tính của Liên Xô. Đối với họ, tình báo
thông thường chỉ đi một chiều.
Tôi đã ngờ từ lâu có một điệp viên Anh cao cấp làm việc cho Liên Xô tại Tây Bá
Linh. Liên Xô đương nhiên tuyệt đối bí mật về điều này, nhưng một trong những ông
tướng của họ không kìm hãm nổi tính khoe khoang cho tôi biết ông đang điều khiển một
công tác lớn trong lòng nước Anh. Nhưng Liên Xô muốn để cho Hoa Kỳ hoàn tất công
trình vĩ đại này để có thể ước định trình độ kỹ thuật của họ. Hoa Kỳ rơi vào bẫy. Tình
báo Xô Viết quan sát công tác cài đặt trong khoảng một năm và sau đó công khai tiết lộ
bí mật.
Sau đó Blake bị bắt và vào tù năm 1961, để rồi ngoạn mục vượt ngục trốn khỏi
Luân Đôn sang Liên bang Xô Viết năm năm sau. Ngay sau khi ông đã định cư
tạiMoscow và lập một gia đình mới, Nga Xô vẫn ngần ngại cho phép ông di chuyển. Cuối
cùng họ chấp nhận lời thình cầu của ông để ông đi nghỉ hè và cho phép ông đi cùng với
người canh gác đến một trong những nơi nghỉ mát của bộ chúng tôi tại đảo Usedom trên
biển Baltic. Blake đến thăm viếng Đông Bá Linh tất cả bốn lần, luôn luôn có hộ vệ KGB
theo sau. Tôi mời ông phát biểu trước nhóm điệp viện đang được huấn luyện về những
cuộc phiêu lưu của ông với hy vọng sẽ tạo tinh thần nhập thuộc và truyền thống trong
cộng đồng tình báo Cộng sản.
Đến lượt thăm viếng lần thứ ba, những người tháp tùng Blake có vẻ nới lỏng và cho
phép người vợ Nga đi theo ông. Ông cũng xin gặp gỡ riêng với tôi. Chúng tôi cùng lứa
tuổi với nhau và chúng tôi nhanh chóng kết thân với nhau. Tôi có ấn tượng đặc biệt với
thói quen hạ xưng của người Anh của ông. Trong khi vợ ông đi phố, vui hưởng sự phồn
thịnh của các cửa hàng quốc doanh Đông Đức sau những ngày tháng thiếu thốn tại Nga,
chúng tôi ngồi trò chuyện tại một quán trọ. Ông rất giỏi về ngôn ngữ, ông thông thao
tiếng Ả-rập, tiếng Pháp và tiếng Hòa Lan, ngay bây giờ ông cũng nói lưu loát tiếng Đức
và tiếng Nga, mặc dù ông có giọng nói của một người Anh lịch lãm có lẽ đã thấm nhập
khi ông học Đại Học Cambridge.
Blake cho tôi biết ý kiến về đường hầm nguyên ủy phát xuất từ phía Anh. Sau khi
ông từ Triều Tiên trở về, tại đây ông giữ chức phó trạm trưởng Cơ Quan Tình Báo Anh
trong vùng. Blake cũng đã giữ chức vụ tương tự tại Vienna. Kế hoạch đào hầm khởi xuất
từ tổng tham mưu Quân Cảnh Anh qua đường Simmeringstrasse tại Vienna đến phái bộ
quân sự Xô Viết gặp trở ngại kỹ thuật nhưng có vẻ là một tiến trình khả quan. Vì ông
tham dự trong dự án đó, ông được kêu gọi tham khảo với Hoa Kỳ về đường hầm Bá Linh.
Sau khi Blake ra khỏi tù và đào thoát sang Moscow, chúng tôi lại gặp nhau một lần
nữa, lúc đó tôi cùng đi với em Koni tôi, đến để trình chiếu ra mắt cuộn phim « Mama,
I’m alive ! »(Mẹ ơi, con còn sống !). Chuyện kể về các tù binh Đức tại Nga. Hôm đó là
một buổi tối êm ả, chúng tôi nói về phim sách của Nga. Ngay cả với tư cách một cựu điệp
viên, ông kín đáo hơn thương lệ khi chúng tôi đề cập đến những chi tiết gút mắc về
thương trường. Ông nói tình bằng hữu với Kim Philby tại Moscow hỗ trợ cho ông vô kể.
Tôi ngạc nhiên khi Blake tỏ ra rất đau khổ vì mang tiếng là một điệp viên bẩn thỉu và
mong thiên hạ coi ông ta là một người có lý tưởng. Mặc dù ông dấn thân cho chính nghĩa
Xô Viết, tôi có cảm tưởng ông từ chối chấp nhận trên thực tế ông là kẻ phản bội đối với
đất nước của ông và chính nước ông nhìn ông như kẻ phản bội. Có lẽ ông kém thông
minh hơn Philby, một người mà tôi cũng quen biết và thán phục vô cùng. Cả hai đều có
vẻ nhẹ nhõm khi có người để nói chuyện và người này thấu hiểu sự dấn thân của họ cho
hệ thống xã hội chủ nghĩa đồng thời chia sẻ cái nhìn phê phán trên tiến trình tại Moscow.
Đi trước Gorbachev, họ cũng tin tưởng cuộc thay đổi sẽ diễn ra từ bên trong.
Kim Philby
Mặc dù Philby và Blake cả hai đều có chức vụ thích hợp với hiểu biết của họ,
nhưng cuộc sống của những điệp viên về vườn sau một cuộc sống náo động tại Tây
phương không thể nào dễ dàng, đặc biệt trong một nước đang vật lộn với nhiều mâu
thuẫn như Liên Bang Xô Viết. Philby có bản tính cởi mở hơn Blake, tự tin, mềm mỏng và
thoải mái trong giao tiếp. Ông cũng có đến Đông Bá Linh nhiều lần để nghỉ hè và thụ
hưởng những đêm dài nói chuyện với bạn bè và đồng chí cũ, nhâm nhi vài chung rượu.
Nhưng sau một vài năm sống tại Moscow, cái nhìn của ông về Liên Bang Xô Viết trở nên
khô khan hơn. Ông có lần than phiền với tôi về nền kinh tế khốn khó và hố ngăn cách
giữa người lãnh đạo và nhân dân. Tôi luôn cảm thấy thú vị vì người Anh nghĩ mình là
người đầu tiên khám phá ra những sự thật hiển nhiên như sản phậm tiêu thụ khan hiếm và
hành chánh luộm thuộm. Philby không có nhiều cơ hội để nói chuyện với giới trí thức tại
Moscow, nhưng tôi không đồng ý với những thông tin của Tây phương cho rằng ông
sống khốn khổ tại Moscow. Sự thật là ông không còn lựa chọn nào khác, nhưng Philby có
khả năng xoay xở giỏi hơn các điệp viên khác.
Tôi có cảm nghĩ rằng KGB thu xếp cho họ đi nghi hè tại các nước như Đông Đức
và Hungary, nơi đây mức sống trung bình cao hơn tại Nga và đó là phương cách để
những người như Philby và Blake xả xú-báp. KGB lo sợ những thành tích danh giá Tây
phương này sẽ trở về xứ sở và giáng một đòn nặng cho bộ máy tuyên truyền của điện
Cẩm Linh và những chuyện tẩu thoát không có gì là khó khăn. Philby cho tôi biết tình
báo Anh tìm cách đề nghị nhiều phương thức để mời ông trở về Anh.
Philby yêu chuộng cảnh đồng quê Đông Đức và khi ông đến thăm, chúng tôi bàn về
nhiều vấn đề – sách vở, tư tưởng, và ngay cả nấu nướng; chúng tôi cùng làm bánh
Pelmeni để chúng tôi so tài về cách làm món này, vì cách chọn lựa gia vị mang tính cách
cá nhân cao độ. Có một lần viếng thăm, ông đưa cho tôi một ấn bản về hồi ký của ông với
lời đề tặng: « Gởi tặng đồng chí Thiếu Tướng Wolf, với lòng kính phục và biết ơn đã
được tiếp đón nồng hậu tại DDR, Kim Philby ». Đây là ấn bản Tây Đức và ông chua
thêm trong phần tái bút: « Bản dịch FRG (Cộng Hòa Liên Bang Đức) chưa được hoàn
hảo. K.P. » Có lẽ ông nghĩ cần phải lịch sự đánh Tây Đức khi gởi tặng một món quà cho
cấp lãnh đạo của tình báo hải ngoại Đông Đức. Cho dù thế nào đi nữa, phần phụ chú này
làm cho tôi cảm thấy thú vị về kiểu cách tỉ mỉ của Philby.
Philby và Blake có thứ hạng trong những khuôn mặt nổi tiếng trong lịch sử tình
báo. Những thành quả nghề nghiệp của họ rất lớn, bất kể khuynh hướng chính trị của họ.
Đặc biệt buồn cho số phận của Blake vì ông mất tổ quốc không những một lần, khi ông
rời bỏ nước Anh, nhưng đến hai lần khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ và ông bị bỏ rơi, sống
một cuộc đời lầm lũi trên mảnh đất của một tổ quốc vay mượn đã từ bỏ lý tưởng của ông.
Philby, đã từng tham dự những biến cố lớn của thế kỷ, khởi sự với Cuộc Nội Chiến Tây
Ban Nha, có lẽ là người may mắn nhất vì đã chết đúng lúc. Tôi không bận tâm việc
Philby là một tên phản bội đối với đất nước của ông, vì những gì ông làm là do quyết
đoán của ông. Ông đoan quyết ngay từ thuở ban đầu Liên Bang Xô Viết là quốc gia biểu
hiện rõ rệt nhất lý tưởng chống phát-xít của ông. Nếu quý vị có quyết tâm trong cuộc đời,
quý vị đi theo con đường quý vị đã tự vạch sẵn và không đi lệch hướng – cho dù quý vị
có thể bắt gặp những điều kinh khủng trên đường đi. Lẽ cố nhiên, đường đi của mỗi
người mỗi khác và thứ tự ưu tiên cũng khác. Có những người như Arthur Koestler, đã
quyết định theo lý tưởng công bằng và bình đẳng của Cộng sản và sau đó quay lưng đi vì
những thái quá trong chế độ Xô Viết. Điều này cũng xảy ra cho người bạn cũ của tôi
Wolfgang Leonhard. Đã có lần tôi không hiểu được họ, nhưng tôi có nói chuyện với
Leonhard và tôi nghĩ rằng bây giờ chúng tôi đã hiểu nhau.
*
Nhờ quy chế hóa các luật lệ trong Chiến Tranh Lạnh, điệp viên không còn xuất hiện
như là những nhân tố ác độc của phía bên kia nhưng đúng hơn là những món vật – đôi
khi là con cờ – trong một cuộc chơi giữa Đông và Tây. Họ thường được giam giữ bởi cơ
quan tình báo đối nghich, sau khi bị bắt, chứ không bị xử bắn, mặc dù đôi lúc việc hành
quyết cũng xảy ra, rất thường khi một chính trị gia muốn gởi một thông điệp cho dân
nước mình hoặc cho phía bên kia. Sự thay đổi này khiến cho tôi nhận biết những cuộc
trao đổi có thể trở thành một phần quan trọng trong kho vũ khí tình báo của chúng tôi.
Tôi khởi sự xem xét tỉ mỉ phiá chúng tôi giam giữ những ai để có thể trao đổi với nhân
viên chúng tôi bị bắt giam bên Tây Đức.
Tai Đức, lề lối này đã trờ thành thủ tục nhờ các dịch vụ của Wolfgang Vogel, luật
sư Đông Bá Linh đai diện cho quyền lợi quốc tế của Cộng Hòa Nhân Dân Đức (GDR), và
Jürgen Stange, đối tác bên Tây Đức. Ngày tháng trôi qua, việc thu xếp trao đổi qua bức
Bức Tường Sắt trở nên dễ dàng hơn. Vogel làm ăn khá phát đạt nhờ làm trung gian giữa
hai cường quốc kình địch.
Cuộc trao đổi quốc tế quan trọng đầu tiên giữa Tây và Đông liên quan đến Francis
Gary Powers, phi công của chiếc phi cơ thám thính bị bắn hạ năm 1960 trên không phận
của Liên Xô.
Tòa Án Liên Xô xét xử Francis Gary Powers tháng 8, năm 1960
Việc này tạo bối rối chính trị lớn cho Tổng thống Eisenhower và sự cố tai hại này phá vỡ
cuộc họp thượng đỉnh với Khrushchev tại Paris. Tôi kinh qua một cảm giác ngại ngùng
khi tham dự phiên tòa xét xử Powers trong Đại Sảnh của Công Đoàn Thương Mại tại
Moscow, nơi đây những màn xét xử của Stalin đã diễn ra vào thập niên 1930. Lúc đó tôi
đang ở phố bận việc khác và quyết định đi xem. Tôi ngồi trên hàng ghế cứng dưới một
trần nhà màu lợt thật êm ả đối trọi với không khí lúc bấy giờ, trên bàn bày những chân
đèn lóng lánh thích hợp cho một phòng khiêu vũ hơn là một tòa án.
Đây là lấn đầu tiên kể từ khi Stalin chết, tòa án xét xử một gián điệp được công khai
mở rộng và thiên hạ bàn tán về việc xét xử Powers suốt mùa hè tại Moscow. Thường dân
Moscow đi vòng dinh tòa án, tò mò tìm kiếm anh Mỹ đã bị bắn hạ trên không phận Xô
Viết. Các bạn đồng nghiệp KGB rỉ tai rằng chính ông tổng thư ký sẽ đứng ra xác quyết
bản án và phán quyết.
Powers xuất hiện trong chiếc lồng tù, vẻ hơi bối rối vì những mệnh lệnh tòa án được
phát biểu bằng tiếng Nga. Anh có một khuông mặt dịu dàng và thơ trẻ và có thói quen
nhíu mày thật mạnh khi anh không hiểu một câu hỏi. Phong cách nhã nhạn và phần nào
ngây ngô khiến tôi có chút cảm tình với anh ta, mặc dù anh ta làm việc cho phía bên kia.
Nhờ qua một thông dịch viên mặt lạnh lùng, anh trả lời suông sẻ và chi tiết những câu hỏi
của công tố viên, anh xác nhận nội dung của nhiệm vụ công tác của anh và anh phục vụ
cho ai. « Đồ điên » tôi thầm tự nhủ.
Rồi ra, chính sự ngây ngô của Powers và sự cộng tác với Liên Xô đã giúp các
cường quốc đơn giản hóa lần trao đổi gián điệp quan trọng đầu tiên. Powers chỉ bị kết án
mười năm tù ở, và các bạn của tôi trong KGB giải thích bản án khoan hồng này là một tín
hiệu của Moscow cho Washington biết rằng họ sẵn sàng trao đổi điệp viên.
Phia bên kia Đại Tây Dương, đại tá KGB Rudolf Ivanovich Abel bị giam trong tù
của Liên Bang tại Atlanta. Con của một công nhân sinh sống tại Saint Petersburg, giòng
dõi Đức, vui vẻ chọn theo chủ nghia bolshevik và gặp Lênin nhiều lần, Abel (tên thật là
William Fischer) đã được KGB lén lút cài đặt vào Hoa Kỳ năm 1947, tại đây ông đội lốt
một nhiếp ảnh gia và họa sĩ tên Emil Goldfus. Từ căn nhà này tại Brooklyn ông điều
khiển một chuỗi điệp viên có chân trong chính quyền, cơ sở thương mại và cơ mật quân
sự trước khi ông bị bắt năm 1956 và sau đó bị kết an ba mươi năm tù ở. Vogel làm trung
gian thu xếp trao đổi Powers với Abel vào tháng 10 năm 1962.
Mấy năm sau, Abel đến Đông Bá Linh để thuyết trình cơ quan của tôi về những
kinh nghiệm của ông. KGB đã phong quân hàm đại tướng và giao cho ông nhiệm vụ lãnh
đạo hệ thống Anh-Mỹ. Ông cũng dạy các tân binh của tôi và tôi thu xếp nhiều lần gặp gỡ
với các sĩ quan cao cấp của tôi để vinh dự đón tiếp ông . Ông là người vui tính khi ông
gặp đúng đối tượng và sau khi nâng ly chúc mừng thành công trong công tác gián điệp
của mọi người, chúng tôi bàn về kịch trường của những thập niên 1920 và 1930, và luôn
cả các vở kịch của cha tôi. Abel là một người của thời Phục Hưng sống trong một thời đại
tân tiến, rất ham thích môn hóa học và vật lý và đặc biệt say mê Albert Einstein. Những
bức họa của ông – ông dùng tạiBrooklyn để làm bình phong che dấu hoạt động gián điệp
của ông – tương đối đẹp. Tôi vẫn lưu giữ một vài phác họa nhỏ ông tặng tôi làm kỷ niệm.
Sau khi ông chết vào năm 1971, bà vợ góa của ông phải áp lực mạnh với Xô Viết để ghi
tên thật của ông dưới tên KGB của ông trên bia mộ. Họ không bỏ nổi thói quen giữ bí
mật, ngay cả khi một trong những điệp viên xuất sắc của họ đã chết và được chôn.
Một dấu hiệu khác về tạp quán gay gắt của Chiến Tranh lạnh xuất hiện sau cuộc gặp
gỡ thượng đỉnh giữa Khrushchev và Tổng thống Kennedy tại Vienna năm 1961. Tôi được
biết cuộc xung đột trở nên trầm trọng tột độ khi Khrushchev trở về nước tuyên bố với
quân đội và nâng cao vai trò của Tây Bá Linh. Do hai nguồn tin của chúng tôi – một tại
tư lệnh quân sự Anh tại Bá Linh và một tại tổng tham mưu NATO (Liên minh Bắc Đại
Tây Dương), chúng tôi biết những chuẩn bị nóng bỏng của phiá Hoa Kỳ để phản ứng
chống lại trong trường hợp Moscow ra lệnh phong tỏa Bá Linh lần thứ hai. Khi tôi đọc
những tài liệu lưu trữ được sắp xếp lại như một lắp lại những mẩu hình ghép rời rạc từ
một mớ vi phim, tôi nhận thấy chỉ lỡ một bước kém khôn ngoan của cả hai phía là có thể
đưa đến chiến tranh. Và nó sẽ khởi sự tại đây, tại Bá Linh.
Một tổ chức tối mật của Hoa Kỳ gọi là Live Oak (Cây Sồi Sống) đã được thành lập
năm 1958 bởi ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, và đặt dưới quyền chỉ huy của
Tướng Lauris Norstad, chỉ huy trưởng khối NATO, cốt để phá vỡ việc phong tỏa Bá Linh
lần thứ hai. Một hôm có người trình cho tôi một tài liệu do Norstad ký tên ghi rõ những
phần thiết yếu trong « Ước định Sơ khởi về Ý đồ của Xô Viết ». Tài liệu này, tôi có được
qua một nguồn tin tại tổng tham mưu Anh tại Đức, vẫn còn được xem là mật tại Hoa Kỳ
mặt dù được viết cách đây 40 năm. Nếu việc hạch sách ở mức độ thấp cách loại xe của
quân đội di chuyền qua hành lang một trăm dặm nối liên Bá Linh với Tây Đức có chiều
hướng leo thang, kế hoạch của Live Oak đề nghị phái một đoàn quân xa để mở đường
vào phía Tây Bá Linh và thử phản ứng của Xô Viết. Tài liệu tiếp tục đề nghị những giải
pháp quân sự rộng lớn hơn. Trước hết là một tiểu đoàn gồm có binh lính Hoa Kỳ, Anh và
Pháp đi vào hành lang này. Rồi vào giai đoạn cuối của mức độ đọ sức, một sư đoàn gồm
có quân đội của ba nước đi vào hành lang để khẳng định quyền được vào thành phố Bá
Linh. Chỉ có quân đội Hoa Kỳ, Anh và Pháp gia nhập trong công tác này, vì họ là những
người duy nhất có quyền gởi quân đôi qua Đông Đức đế đến vùng chiếm đóng phía Tây
của Bá Linh.
Tôi không dễ hoảng sợ, nhưng kế hoạch Live Oak làm cho tôi lạnh xương sống.
Các nguồn tin tại Moscow cho tôi biết Khrushchev nói không ngừng về Bá Linh. Ông
cũng có nói với Đại sứ Hoa Kỳ Llewellin Thompson là giải quyết vấn đề Bá Linh là một
vấn đề « uy tín cá nhân » của ông và ông đã « chờ đợi khá lâu » để tiến hành. Vì biết rõ
lòng tự ái cố chấp của Khruschev nên tôi đâm ra lo ngại hơn. Các cường quốc thường gây
chiến với nhau chỉ vì muốn bảo vệ cái uy tín mong manh của các cấp lãnh đạo.
Điều mà tôi không biết vào lúc đó, có một chống đối mãnh liệt kế hoạch Live Oak
trong nội bộ của NATO. Mấy năm sau, cơ quan tình báo CIA giải mật tài liệu cho biết
trưởng khối quốc phòng Anh, Thống đốc Lord Mountbatten, đã hạch hỏi Kennedy về kế
hoạch này:
Điều gì sẽ xảy ra cho sư đoàn nằm trên xa lộ? Nga sẽ cho nổ một chiếc cầu đàng
trước, một chiếc cầu đàng sau và lúc đó họ bán vé chỗ ngồi để thiên hạ đến xem và cười
vào mặt. Nếu đây là một trò cười, một tiểu đoàn sẽ là một thảm kịch. Phải trải một mặt
trận dài 30 dặm để tiến tới và có thể họ xem đây là một cuộc xâm chiếm Đông Đức và
đưa đến một cuộc chiến toàn diện.
Tôi càm thấy nhẹ nhõm khi nghe thấy con ngựa chiến già của Anh đã tỏ ra hiểu biết hơn
về tính cách phiêu lưu của kế hoạch Live Oak. Bộ tham mưu của Live Oak mãi đến năm
1987 mới được NATO xác nhận, khi họ đeo huy hiệu SHAPE (Supreme Headquarters,
Allied Powers Europe, Tổng Tham Mưu Tối cao, Lực Lượng Đồng Minh Châu Âu) trên
quân phục của họ, giống như những đội khác của NATO. Tổ chức này vẫn chưa giải tán
ngay cả sau khi nước Đức đã thống nhất. May mắn thay, tầm quan trọng của cơ quan này
trong chiến lược của Hoa Kỳ đã giảm đi sau khi Khrushchev quyết định không phát động
chiến tranh cho một vấn đề riêng biệt của nước Đức. Ngược lại ông tìm kiếm một giải
pháp khác và giải pháp này là đúc một bức tường bằng bê-tông.
(Còn tiếp)
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức – kỳ 10 (Markus Wolf)
“…tôi nghe một bà già nguyền rủa bằng tiếng địa phương của Bá Linh ‘chúng phóng
được vệ tinh Sputnik, nhưng ngay giữa mùa hè chúng ta không có một cọng rau tươi. Đấy
là xã hội chủ nghĩa’…”
Chương 7
Giải pháp bê-tông
Khi Chiến tranh Lạnh được nhắc đến như là một trong những xung đột của những đế
quốc lớn, và nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức đã trở thành một lời ghi chú nhỏ trong các
sách lịch sử, đất nước của tôi có lẽ sẽ được ghi nhớ là một nước đã dựng một bức tường
để giữ chính công dân của mình không cho họ đào thoát. Hình ảnh của Bức Tường Bá
Linh không những chia cắt một thành phố lớn mà cả hai ý thức hệ và hai khối quân sự
tranh đua nhau vì tương lai của nhân loại, bức tường luôn mãi là biểu tượng hùng hồn
nhất của sự chia rẽ hậu chiến của châu Âu và của sự tàn bạo và vô nghĩa của chính cuộc
Chiến Tranh Lạnh.
Đối với tôi, một người đã sống và làm việc đàng sau bức tường sau khi nó được dựng vào
ngày 13 tháng 8 năm 1961 và cống hiến sức lức cho nền an ninh và sự phát triển của hệ
thống đã xây dựng nên nó, Bức Tường luôn luôn là biểu tượng của sức mạnh và sự yếu
kém. Chỉ có một hệ thống với sự tin tưởng mãnh liệt vào hệ tư tưởng chỉ đạo mới có thể
thu xếp để chia cắt một thành phố và tạo nên một biên giới gần kề giữa hai phần của một
nước. Và chỉ có một hệ thống yếu kém và hư hỏng từ căn bản như hệ thống của chúng tôi
mới phải làm như vậy trước tiên.
Vì vậy tôi biết trong thâm tâm, nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức đã đến ngày tàn khi, vào
đêm ngày 9 tháng 11 năm 1989, tôi bật máy truyền hình và nghe tin các công dân
CHDCĐ được phép đi lại qua biên giới và thấy đám người đầu tiên đổ dồn về ngã biên
giới thình lình được mỏ ngỏ. Một nước như nước chúng tôi, mà sự sống còn lệ thuộc
hoàn toàn vào sự ổn định nội bộ, không thể nào tồn tại với biến cố chấn động này. Làm
thể như thực tại đã ngưng động. Bàng hoàng, tôi ngồi với vợ tôi nhìn hình ảnh người
Đông và Tây Đức ôm chầm lấy nhau trên vùng đất vô chủ (no man’s land) tại biên giới
Bá Linh. Có vài người đi dép ngủ, làm như họ mộng du trong một đêm quyết định cho
định mệnh của nước Đức và của châu Âu trong những năm tới.
Lẽ cố nhiên biên giới chưa bao giờ đóng cửa hoàn toàn. Nó được mở ngỏ cho những du
khách Đông Đức thi hành công vụ. Họ là những người đã được rà soát và thích hợp với
vai trò « cán bộ du lịch ». Điều này có nghĩa là họ đáng tin cậy về mặt chính trị, họ không
có thân nhân ở Tây Đức. Kể từ khi có sự nới lỏng những hạn chế vào thập niên 1970, vào
lúc mối giây liên lạc giữa hai nước Đức đã cải thiện, các người về hưu được phép du lịch
dựa trên lý luận, tuy là lô-gíc nhưng không thiếu phần cay độc, nếu họ ở lại Tây Đức họ
không phương hại đến nền kinh tế của Đông Đức và ngay cả việc từ bỏ tiền hưu trí. Và
đương nhiên, các điệp viên của tôi làm việc tại chỗ và các tiếp liên trao đổi thư tín cho
những nguồn cung cấp được phép du lịch sang Tây Đức với lý lịch giả.
Những ai có phép đi ra ngước ngoài rất được quần chúng thèm muốn; cơn sốt du lịch lên
cao trong một quốc gia không có khách du lịch. Tôi đã du lịch không vì thú vị bản thân
như phần đông các sinh viên trung lưu Hoa Kỳ. Mặc dù tôi có mọi đặc quyền, tôi chưa
bao giờ viếng thăm Viện Bảo Tàng Prado, Viện Bảo Tàng Anh Quốc, hoặc Viện Le
Louvre. Tất cả chúng tôi sống một cuộc đời thu hẹp, mặc dù cuộc sống của tôi ít hẹp hòi
hơn vì công tác gián điệp đưa tôi đến Đông Châu Phi, các vùng hoang dã của Tây-bá-lợi-
á, những bờ biển Hắc Hải, những cánh rừng Thuỵ Điển và sự dịu dàng của vùng nhiệt đới
Cuba. Vì được ưu đãi nên tôi có một một căn phòng sinh sắn, một chiếc xe hơi và một tài
xế, và được những ngày nghỉ thoải mái qua lời mời của các cơ quan tình báo khác trong
khối Đông Âu. Những biệt đãi này luôn liên hệ đến công việc và trách vụ của tôi; xét ra
cuối cùng thế giới rộng mở bên ngoài nhưng đối với tôi cũng như khép kín.
Mặc dù bọn chúng tôi không hưởng được sự thoải mái và tinh thần độc lập của một công
dân tương đối khá giả của Tây Âu, tôi hoàn toàn cách biệt với những công việc cực nhọc
chi phối một công dân thường ở nước tôi. Chúng tôi thụ hưởng từ nhóm Xô Viết hệ thống
đặc quyền của giai cấp Nomenklatura. Sự việc khởi sự vào năm 1945, khi các công chức,
các khoa học gia và những kẻ hữu dụng cho lý tưởng Cộng Sản nhận được một số ít phụ
trội về lương thực, mà chúng tôi gọi là payoks, mượn từ tiếng Nga để chỉ phần chia lương
thực. Sau đó thành thói quen, như mọi sự việc, và trở thành một định chế dưới danh nghĩa
một phân cục gọi là « an ninh cá nhân » và đã đương nhiên trở thành một đội ngũ năm
ngàn người. Rồi những đặc quyền của chúng tôi được hợp thức hoá trong hệ thống liên
lạc với Bộ Thương Mại Hải Ngoại, để đảm bảo các đầy tớ tối cao của quốc gia không bị
thu hẹp trong mớ sản phẩm thường là hạng nhì của chính quốc gia mình. Tất cả đều được
phân chia tuyệt đối theo thứ bậc. Có những cửa hàng đặc biệt dành những món hàng của
phương Tây để cung cấp cho Bộ Chính Trị. Sau khi họ đã chọn lựa, phần còn lại được
giao cho chúng tôi ở trong những cơ quan tình báo và tại đây các bộ khác và cơ quan
thương mại khác nhận phần của mình. Cuộc sống thật là đơn giản và thoải mái cuộc
sống. Tôi quá yếu đuối để từ chối những đặc quyền này, và những năm sau tôi thú nhận
điều này khi sinh viên hỏi tôi. Họ hài lòng với câu trả lời của tôi, vì họ hiểu những yếu
đuối của con người trước những đặc quyền như vậy. Lẽ cố nhiện, nếu tôi không được
sủng ái, những thứ này biến mất chỉ trong một đêm.
Ngoài những món ưu ái này và những nơi dừng chân đặc biệt, tôi sống một cuộc đời bàn
giấy, kẻ thi hành lệnh của những chủ nhân ông chính trị của tôi. Đầu tiên chúng tôi làm
việc về đêm – giờ làm việc của Stalin – giống hệt các thượng tầng cơ sở của giới thư lại
Xô Viết. Sau khi Stalin chết, Mielke làm việc suốt ngày, bắt đầu từ 7 giờ sáng và thường
kết thúc vào 10 giờ đêm, tuy nhiên sau này tôi nghĩ ông ta cố làm vẻ như ở trong văn
phòng nhưng ông ta không ở. Tôi thường thèm muốn sự độc lập của những người làm
việc trong cơ quan của tôi. Họ có thể đi công tác một cách thong dong và tự mình quyết
định lấy giờ làm việc của họ, nhưng ngày làm việc của tôi dính liền với thời khoá biểu
của cấp trên của tôi.
Tôi thức giấc vào lúc 6g30 sáng hoặc 7 giờ và tập thể dục cho cái lưng – tôi có vấn đề khi
con nhỏ – và đến sở làm việc lúc 8g15 sáng. Trước tiên, tôi có tài xế và một thư kí và sau
này hai thư kí và một người phụ tá đặc biệt, tiếng Đức gọi là người chỉ định. Các nhân
viên trong văn phòng riêng của tôi rất gần gũi với tôi và hiếm khi thay đổi; người thứ ký
chính của tôi bắt đầu làm việc với tôi năm 1954, vào năm thứ ba tôi làm Giám đốc Tình
Báo Hải Ngoại, và ở lại đó ba mươi ba năm cho đến khi tôi về hưu.
Tôi khởi sự ngày làm việc của tôi với những giấy tờ quan trọng, những báo cáo từ các
chủ nhiệm ngành và đôi khi từ các điệp viên. Vào mười năm cuối, giấy tờ trở nên quá
nặng nề và tôi phải trông cậy bản tóm tắt của ban nghiên cứu trong đó gồm có những hồ
sơ mật, tóm lược về những sự cố thường nhật và tài liệu của các thông tấn xã.
Cơ quan HVA được chia vào khoảng hai mươi ban, trong đó có cả những nhóm riêng biệt
để giám sát các điệp viên và những thông tin tại các Bộ, các đảng phái chính trị, các công
đoàn, các giáo phái và các định chế khác của Tây Đức; tình báo quân sự, Hoa Kỳ,
Mexico và phần còn lại của thế giới; Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) và các tổng
tham mưu của Công Đồng Châu Âu tại Brussels; phản gián; phản thông tin; thông tin
khoa học và kinh tế của Tây Đức; ban gian điệp kỹ thuật chuyên về các hạ tầng cơ sở kỹ
nghệ, những dụng cụ điện tử và khoa học, và hàng không học và không gian vũ trụ học;
các sứ quán, các biên giới, huấn luyện và dịch thuật, và một ban để điều nghiên và đánh
giá những thông tin thô vẹn đổ về từ các ban khác.
Cứ bốn hoặc ba ngày tôi họp với các phụ tá của tôi và với giám đốc của mỗi ban dưới sự
điều khiển trực tiếp của tôi để thảo luận về những tiến triển của công tác và những dự án
quan trọng. Tôi phải đọc tất cả những báo cáo gởi lên ban lãnh đạo. Mielke không cắt xén
những báo cáo của tôi, nhưng giữ lại một vài bản không đưa cho Honecker, nói rằng « Họ
không lấy gì làm thích thú lắm đọc những thứ này ». Tôi thường ăn trưa với các phụ tá
của tôi cùng với thư ký của Đảng tại sân của văn phòng bộ trên đường
Normannenstrasse , quận Lichtenberg. Chúng tôi trao đổi tin tức và những mẩu chuyện,
nhưng ngay trong nơi kín đáo nhất của bộ chúng nói đến điệp viên của chúng tôi và ngay
cả «người thường trú hợp pháp » trong toà Đại Sứ của chúng tôi, chúng tôi đều dùng bí
danh để không tiết lộ danh tánh thật của họ và như vậy gây nguy hiểm cho họ nhiều hơn.
Phạm vi to lớn của công việc này rất là nhàm chán. Tình báo chỉ là việc buôn bán bình
thường để sàng lọc mớ thông tin hỗn độn và tìm ra một viên đá quý hoặc một sợi giây
liên lạc đáng giá, vì vậy tôi thay đổi lề thói hằng ngày của tôi bằng cách điều khiển mười
hoặc mười hai điệp viên do tôi điều động trực tiếp. Theo như tôi được biết, tôi là một
giám đốc duy nhất trong tất cả các cơ quan tình báo trên thế giới làm điều này. Việc này
cho phép tôi đi ra ngoài và đôi khi gặp gỡ họ tại các nhà an toàn ở ngoại ô Bá Linh hoặc
– điều mà tôi ưa thích – tại Dresden và các nơi khác, nơi không có nhiều người phía Tây
để có thể chạm mặt với điệp viên đến đây.
Những tập quán này đương nhiên bị gián đoạn vì những sự việc bất ngờ, đặc biệt là việc
bắt giữ những điệp viên của chúng tôi tại hải ngoại. Thông thường những tin tức mới nhất
do báo chí loan tải, họ ít khi cho biết tên tuổi chính xác của điệp viên, vì vậy chúng tôi
phải đoán mò có phải là điệp viên của chúng tôi hay là ai khác. Đôi khi tôi phải đến gặp
giám đốc ban để đón nhận tin không tốt, đặc biệt nếu đó là một hành vi đào thoát. Chúng
tôi phải tự huấn luyện nhắm mắt làm ngơ những mất mát này qua từng giai đoạn và cố
gắng không loan truyền sự hoảng hốt; nỗi lo sợ đã quá đủ khi ông bộ trưởng đòi hỏi lời
giải thích.
Thay vì khiển trách, điều quan trong hơn là tìm kiếm hoặc xét xem ai khác có thể bị đe
doạ vì việc bắt giữ hoặc đào tẩu. Chúng tôi phải thông tin vô tuyến nhanh chóng cho điệp
viên của chúng tôi bằng mật hiệu, nhưng vì điệp viên không phải lúc nào cũng bật máy
vô tuyến để nghe mỗi ngày, chúng tôi có thể dùng điện thoại để trực tiếp báo động cho họ
bằng mật hiệu. Nếu trong tường hợp điệp viên của chúng tôi là một doanh nhân, lời báo
động có thể là « Cuộc gặp gỡ tới của chúng ta được rời sang ngày khác ». Chúng tôi tránh
những chỉ dấu quá lộ liễu như « Bà cô ở Dresden bị bệnh nặng ». Chúng tôi có một số tín
hiệu, chẳng hạn như đinh đóng trên thân cây hoặc dấu thập trên một họp thơ mà điệp viên
đi qua mỗi ngày để anh ta kiểm chứng, nhưng không phải tất cả các điệp viên đều dùng
cách này.
Trong thời gian mười năm cuối trong nghề, tôi thường làm việc đến 9 giờ tối, sáu ngày
một tuần lễ, chỉ có Chủ Nhật là ngày nghỉ. Cuộc sống xã hội của tôi rất ít, mặc dù tôi cố
gắng đi xem kịch hoặc dàn hoà tấu ít nhất hai lần trong một tháng. Những thăm viếng
trao đổi với các cơ quan tình báo tại các nước bạn, hoặc phái đoàn của họ đến thăm viếng
Bá Linh, cho chúng tôi những cơ hội hiếm có mà chúng tôi vui vẻ đón nhận để đi thăm
viếng các viện bảo tàng và nhà hát. Vào những ngày cuối tuần, tôi tìm cách về dacha của
tôi trong một ngôi làng nhỏ Prenden, cách xa Bá Linh hai mươi dặm về phía Đông Bắc.
Và ở đây tôi tìm đủ mọi cách để bảo vệ đời tư của tôi để không bị công vụ xâm nhập. Khi
những bàn bè tuổi thiếu thời ở Moscow, George và Louis Fischer ghé thăm Bá Linh năm
1985, họ lấy làm ngạc nhiên khi khám phá tôi không có người hộ về bám sát theo tôi và
đi lại thong dong tự do. Mielke có người hộ tống bảo vệ và một lần ra lệnh bắt tôi phải có
một người hộ tống, nhưng rồi tôi xoay sở để đuổi anh này đi. Anh tài xế của tôi được
huấn luyện đặc biệt để bảo vệ tôi nhưng đương sự chẳng màng đeo súng. Súng của tôi tôi
cất trong tủ kín.
Cho dù tôi có mối nghi ngờ về hệ thống tôi đang phục vụ, một cuộc đời được ưu đãi, có
trách nhiệm và có lúc choáng ngộp sẽ khó lòng cho bất cứ ai từ bỏ việc vận động để thay
đổi, đặc biệt một người như tôi tin rằng thay đổi chỉ đến từ cấp cao. Điều này nghe có vẻ
lạ lùng đối với một người ở trong vị thế của tôi, tưởng chừng như có ảnh hưởng, nhưng
ảnh hưởng của tôi chỉ giới hạn trong cơ quan của tôi, nơi đây phạm vi không gian không
thuộc về tôi.
Günter Gaus, Đại Sứ Tây Đức đầu tiên tại Đông Đức, một người rất là thông minh, hiểu
biết rất rõ những vấn đề của chúng tôi, gọi nước CHDCĐ là một cộng đồng những hang
hốc. Phần lớn quần chúng không màng đến những vấn đề của đời sống công cộng, không
để ý đến những vấn đề của chính sách nhà nước, miệt mài thực hiện những mục tiêu cá
nhân và bảo vể không gian của bản thân. Tôi cũng có không gian riêng của tôi, và , xem
như có vẻ mâu thuẫn, không gian riêng này chính là cơ quan của tôi. Tôi không thể làm
khác hơn.
Việc mô tả đời sống chúng tôi có thể tạo nên cảm tưởng là tôi sống một cuộc đời tồi tan
của một anh nô chức, chỉ thi hành nhiệm vụ để có những đặc quyền hiếm hoi. Thưa
không phải như vậy.Tôi hài lòng với nhiệm vụ lãnh đạo cơ quan tình báo. Tôi thâm tín
rằng công việc này cần thiết và tôi cống hiến bản thân tôi cho công việc này. Tôi đã thành
công cố tình tránh né mọi cơ hội để leo lên những cấp bậc cao hơn và gần gũi với trung
tâm quyền lực hơn. Tôi cũng đã từ chối lời đề cử tôi trở thành cấp lãnh đạo về truyền
thông đại chúng, một chức vụ trông coi về tuyên truyền. Ngay cả các con tôi cũng xin tôi
từ chối việc thăng chức này, vì việc này sẽ đưa tôi đến gần kề chức vụ lãnh đạo chính trị
và chắc chắn sẽ tạo nên những mâu thuẫn.
Những ngày trước khi Bức Tường Bá Linh được dựng lên vào ngày 13 tháng 8 năm
1961, tôi cảm nhận có một biến cố quyết liệt sẽ diễn ra. Không khí của phiá Đông thành
phố xem ra ảm đảm. Công ăn việc làm và thực phẩm mỗi tuần một khan hiếm. Một hôm,
đi ngang qua một nhóm người xếp hàng trước một cửa hàng, tôi nghe một bà già nguyền
rủa trong tiếng địa phương của Bá Linh « chúng phóng được vệ tinh Sputnik, nhưng ngay
giữa mùa hè chúng ta không có một cọng rau tươi. Đấy là xã hội chủ nghĩa ».
Ai có thể khiển trách những thanh niên nếu họ đem tài năng của mình để làm việc bên kia
biên giới, nơi đây họ có thể kiếm ra tiền và mua những sản phẩm mà những người ở lại
mơ tưởng? Trong thâm tâm của họ, họ không phản bội một quốc gia, họ chỉ di chuyển
sang phần bên kia của nước Đức, nơi đây phần lớn có bạn bè hoặc thân nhân sẵn sàng
giúp họ lập nên sự nghiệp.
Từ ngày thành lập Đông Đức vào năm 1949, 2,7 triệu người đã bỏ trốn sang Tây Đức,
hơn một nửa dưới 25 tuổi. Tôi cũng tự hỏi mấy đứa trẻ trong gia đình cũng bỏ đi nếu
chúng không nằm trong nhóm nhừng người sống chết với xã hội chủ nghĩa. Ngày 9 tháng
8 năm 1961, con số tị nạn ghi trong sổ tiếp nhận của các trại ở Tây Bá Linh lên đến 1926
người, con số cao nhất trong một ngày. Nhà nước đang mất đi nhân lực, mất đi những
người mà nhà nước đã bỏ tiền ra huấn luyện, không có sự đóng góp của họ mức sống sẽ
xuống thấp hơn nữa. Tôi cảm nhận chúng tôi đang bơi lội trong bùn.
Nhà Nước của chúng tôi tố cáo phương Tây hút máu của phương Đông. Lột bỏ luận điều
bệnh hoạn này, tôi biết điều này có nghĩa là sức thu hút của Tây Đức đang gia tăng vì
những thịnh vượng mới và quần chúng sẵn sàng hy sinh những mối liên hệ huyết thống
và nền an ninh êm ấm của nhà nước xã hội chủ nghĩa để đi đổi lấy những lời hứa hẹn
bâng quơ của chủ nghĩa tư bản. Lẽ cố nhiên tôi chảng bao giờ tin lời giải thích của nhà
nước về Bức Tường – rằng việc đóng biên giới của chúng ta là một biện pháp để chống
lại sự tấn cộng hoặc xâm nhập của các điệp viên ngoại bang. Nhưng việc xây dựng cái
mà Đông Đức gọi là « hàng rao bảo vệ chống phát-xít » và phương Tây gọi là « bức
tường ô nhục » đã làm thay đổi cuộc sống của chúng tôi trong một đêm.
Tôi không những hiểu những nguyên nhân thật sự xây Bức Tường mà còn đồng tình ủng
hộ chúng. Tôi tin rằng không có phương cách nào khác để cứu nước chúng tôi vào thời
buổi đó. Chúng tôi thừa hưởng theo lịch sử phần yếu kém kinh tế của nước Đức và chúng
tôi khởi sự từ một căn bản thật thấp, chưa kể những cách quản lý sai trái tạo nên những
khó khăn. Thêm vào đó Tây Đức đã bị các lực lượng Xô Viết tước đoạt các máy móc kỹ
nghệ và ngay cả những dụng cụ nằm ở hạ tầng cơ sở chẳng hạn như đường sắt xe hoả mà
họ xem là lợi phẩm đền bù chiến tranh. Tây Đức ngược lại đã có khả năng xây dựng lại
đất nước nhờ vào tiền của Kế hoạchMarshall. Tôi vẫn nuôi mộng tưởng – bây giờ tôi mới
rõ là mộng tưởng – với những thay đổi tình hình quốc tế và những cải cách cần thiết
trong nước, mức sống của chúng tôi sẽ từng bước một bắt kịp phương Tây. Tôi tin giá trị
của chủ nghĩa xã hội, trong một nền kinh tế chỉ định, sẽ xác định chỗ đứng của mình cũng
như chúng tôi thường nói với nhau, rồi sẽ có một ngày phương Tây sẽ chiếm đóng Bức
Tường để đuổi không cho quần chúng tới gần! Thực ra vào cuối những thập niên 1970 và
1980, một vài điệp viên và cảm tình viên ở phương Tây đặt câu hỏi chúng tôi thực sự có
cần hạn chế du lịch không bởi vì mức sống đã cải thiện đến độ những người du lịch từ
CHDC Đức đã quay trở về. Nhưng vào năm 1961, chúng tôi phải lựa chọn giữa Bức
Tường hay là đầu hàng.
Tôi phải thú nhần, với nguy cơ mất uy tín là người hiểu biết rõ những gì xảy ra tại Đông
Bá Linh, việc xây dựng Bức Tường Bá Linh cũng gây ngạc nhiên cho tôi giống như mọi
người bình thường vào tháng 8 năm 1961. Tôi chỉ đoán chừng Eric Mielke, người điều
khiển kế hoạch bí mật này, không thông báo cho tôi vì muốn tinh nghịch chọc ghẹo tôi.
Như hàng triệu người khác, tôi nghe tin một bức tường đã được dựng ngang Bá Linh trên
đài phát thanh vào sáng ngày 13 tháng 8. Phản ứng đầu tiên của tôi là giận dữ vì nghề
nghiệp. Đáng lý ra tôi phải được báo trước về việc này vì tôi phải tiếp tục điều khiển các
điệp viên ở bên kia biên giới. Bản chất của biên giới này đã thay đổi toàn diện chỉ qua
một đêm. Kế hoạch xây dựng bức tường quá bí mật nên chúng tôi không kịp phối hợp
trước với tổng tham mưu quân đoàn biên giới để đảm bảo liên lạc viên vẫn tiếp tục qua
được Tây Bá Linh để thu thập nhũng tài liệu mật của các điệp viên qua một biên giới
thinh lình trở nên khó xuyên thủng.
Những ngày kế tiếp tôi bỏ hầu hết thời gian để kiểm soát xem nhân viên của tôi đã nhận
giấy tờ được vội vã thảo và đưa qua các trạm kiểm soát để cho họ kịp thời nhận công tác
bên Tây Đức. Đây không phải là một vấn đề tiện nghi. Mối giây liên lạc trong điệp vụ đặt
căn bản trên sự tin tưởng tuyệt đối. Một khi sợi giây bị đứt, những điệp viên yếu đuối
sanh ra lo sợ và guồng máy thu thập tình báo sẽ ngưng hoạt động.
Bây giờ chúng tôi phải dựng những câu truyện nguỵ trang cho những trạm tiêp liên để họ
cung cấp những lời giải thích thích hợp cho lính gác ở bên kia biên giới để nói lý do tại
sao họ được quyền đi qua phía Tây trong khi số còn lại không làm được. Đối với các cơ
quan phương Tây, biên giới khép kín là một quà tặng bất ngờ vì nó ngăn lọc một số đông
thường dân và cho phép phản gián của đồng minh tập trung sức lực vào một số nhỏ công
dân bây giờ được phép qua biên giới, thường với tư cách là doanh nhân nhà nước, chẳng
hạn như những viên chức thương mại nhà nước, các giáo sư hàn lâm và công dân bình
thường lâu lâu được phép qua biên giới vì có việc gia đình khẩn cấp.
Khi tôi đi quanh Đông Bá Linh trên chiếc công xa, tôi đánh lạc hướng anh tài xế để tôi có
thể nhìn việc xây dụng bức tường trong lòng pha lẫn khâm phục và kinh hãi. Tất cả gia
đình thân thuộc nhất của tôi đều ở bên Đông, vì vậy tôi không mang vết đau thương của
sự xa cách. Nhưng Bức Tường tạo nên vố số sự việc lạ lùng, một trong những sự việc này
liên quan đến tôi và tên tuổi của cha tôi.
Trên một dải của con sông Spree, một đoàn những chiếc thuyền du ngoạn đi từ Treptow
Park cho đến tận biên giới sát với vùng Neukölln của Tây Đức rồi sau đó ngoan ngoãn
trở về bến tại Đông Đức. Những chiếc thuyền mang tên của các văn sĩ người Đức trong
đó có cha tôi. Một hôm, đúng sau ngày Bức Tường được dựng, con thuyền Friedich Wolf
vui vẻ đi về hướng Tây trong một trong những câu chuyện vượt biên lạ lùng vào thời đó.
Nhân dịp một đêm chiếc thuyền rời bến, ông đầu bếp và gia đình đã phục rượu ông
thuyền trưởng và xúi ông xả hết tốc lực đâm thuyền sang Tây Bá Linh trước sự kinh ngạc
của lính gác. Đến đây họ nhảy tàu và bơi vào bờ để tìm tự do. Ông thuyền trưởng say gục
trên boong tàu. Khi ông tỉnh giấc, ông thiểu não lái tàu trở về khiến cho lính gác biên giới
càng ngạc nhiên hơn. Ông sẽ phải bị trừng phạt. Người vợ tuyệt vọng của anh thuyền
trưởng điện thoại cho mẹ tôi, lúc ấy bà phụ trách Công khố Friedich Wolf , và van xin mẹ
tôi giúp đỡ.
« Con có giúp được gì không?» mẹ tôi hỏi tôi trong bữa cơm tối hôm đó. Tôi biết cha tôi
sẽ xem câu chuyện phiêu lưu của chiếc thuyền là một chuyện khôi hài, vì vậy tôi kêu gọi
khoan hồng cho ông thuyền trưởng. Ông không bị vào tù nhưng tôi không cứu gỡ ông
khỏi nỗi nhục nhằn bị thuyên chuyển ra khỏi Bá Linh. Cuối cùng ông làm việc trên một
chiếc tàu hơi trong một vùng kỹ nghệ nằm ở vùng an toàn cách xa biên giới.
Tình hình thay đổi cũng gia tăng căng thẳng giữa cơ quan tình báo hải ngoại của tôi
(Aufklarüng) và cơ quan phản gián (Abwehr) trách nhiệm về an ninh biên giới. Mối liên
hệ giữa hai ngành tình báo không bao giờ đằm thắm cả, cũng như những ai theo dõi lịch
sử cạnh tranh giữa CIA và FBI đều biết. Trường hợp của chúng tôi, mối liên hệ cũng lạnh
lùng không ít. Tôi từ chối trao cho họ danh sách các điệp viên và các thông tín viên cần
phải qua biên giới, vì điều này có thể gây tổn thất cho chúng tôi nếu không may các sĩ
quan trong các cơ quan mà tôi không kiểm soát phản bội.
Chúng tôi phải mất nhiều tuần – có khi hàng tháng trong một vài trường hợp đặc biệt khó
khăn – để đạt được một thỏa ước sống chung mới. Chúng tôi ở trong một vị thế mâu
thuẫn là những kiểm soát bên phía chúng tôi có phần gắt gao và khó dàn xếp hơn là bên
phía Tây Đức. Một trường hợp làm cho tôi nhức đầu là trường hợp của Freddy (không
phải tên thật), một nguồn tin tức quan trọng nhất của chúng tôi nằm trong giới lãnh đạo
của đảng Dân Chủ Xã Hội tại Bá Linh. Tôi không gọi đích danh tên ông để tránh tai tiếng
cho gia đình ông, nhưng các đảng viên Dân Chủ Xã Hội vào thời đó sẽ nhận ra ông. Là
một nhân vật khác thường, thích hưởng thụ, ông có giọng nói lớn và thuyết phục trong
giới lãnh đạo đảng Dân Chủ Xã Hội (SPD) và có những mối giây liên lạc thân thiện với
Bonn – một người phò vua hơn vua, nhưng không phải vì vậy mà kém phần hữu dụng đối
với chung tôi. Ông trở về Đức mãi sau này khi chiến tranh chấm dứt sau thời gian bị Hoa
Kỳ giam giữ. Ông không có một kỷ niệm tốt về việc này. Vào lúc thiếu thời ông đã là
đảng viên, ông được đưa vào ngành tình báo. Thật ra, ông xâm nhập đảng SPD năm 1950
theo lệnh của một trong những giới chỉ huy kỳ cựu của chúng tôi, Paul Laufer, và sau này
chính ông cũng điều khiển Günter Guillaume, gián điệp nằm trong Văn phòng của Thử
Tướng Willy Brandt.
Freddy bảo vệ hăng say lý tưởng của SPD, và thất vọng vì những sự cố bên Đông Đức,
không coi chủ nghĩa xã hội là biểu tượng nữa. Trong một thời gian dài, hầu như chúng tôi
mất liên lạc với đương sự. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc với những người chúng
tôi muốn giữ. Tôi đặc biệt chú trọng đến trường hợp của đương sự trong mục đích gặt hái
những tin tức có chất lượng cao mà tôi biết đương sự nắm giữ trong những cuộc bàn thảo
nội bộ của SPD về chính sách của họ đối với Đông Đức. Tuy nhiên, đương sự một mực
từ chối ghi âm hoặc nói bất cứ điều gì về các bạn đồng nghiệp làm việc tại Văn Phòng
Nghiên cứu Đông Đức của đảng SPD, một tổ chức tại Tây Bá Linh với mục đích tái lập
dân chủ xã hội bên Đông Đức – đối với chúng tôi đây là một cơ quan hắc ám nhất hoạt
động ở bên kia Bức Tường. Những cố gắng để dẫn dụ đương sự vào những cuộc thảo
luận chính trị hầu như luôn luôn kết thúc trong hãi hùng vì Freddy chửi Ulbricht là một
thằng ngốc theo chủ nghĩa Stalin.
Trước tiên Freddy và tôi có ý định gặp gỡ nhau tại những căn phòng nhỏ dùng làm nhà an
toàn cho cơ quan của chúng tôi tại vùng Bohnsdorf nằm về phía Nam của Đông Bá Linh.
Nhưng tình thế lúc đó căng thẳng và năm 1955, tôi nảy sáng kiến thay đổi nơi gặp gỡ tại
những căn nhà nhỏ kín đáo của những người quen khi tôi sống tại Moscow. Tôi lợi dụng
tinh thần lạc quan do Đại Hội Đảng lần thứ 20 thổi tới để điều chỉnh mối liên hệ giữa
chúng tôi. Freddy rất có ấn tượng với những lời bài bác của Khrushchev lên án Stalin và
tội ác của ông. « Anh thấy chưa, » y nói với vẻ đắc thắng, « tôi có lý. Tôi đã nói với anh
là tình thế phải thay đổi ». Tôi cũng chia sẻ nỗi vui với y về « Con Đường Mới » của
Moscow – bây giờ chúng tôi được tự do nói về quá khứ và bàn thảo về những vấn đề của
đảng, về tự do văn hoá, về kinh tế, vân vân… – và chúng tôi có thể ngồi hàng giờ trong
căn phòng đầy khói thuốc thảo luận về tương lai của Liên Bang Xô Viết và đồng minh.
Cuối cùng tôi đạt được một kết quả nào đó. Đối với tôi, Freddy chỉ chấp nhận vai trò
điềm chỉ viên nếu mối liên hệ của chúng tôi đặt trên căn bản tình bạn. Đương sự cũng
không từ chối việc lâu lâu nhậu nhẹt. Vì vậy trước ngày sinh nhật thứ 50 của y, tôi mời y
đến gặp gỡ tôi tại một biệt thự nhỏ ở Rauchfangswerder bên cạnh một cái hồ, cái hồ mà
chúng tôi đã dùng để dàn dựng cuộc du ngoạn malina một cách vô tích sự. Tại đây,
không ai dòm ngó chúng tôi, chúng tôi buổi trưa ngồi nhâm nhi ly rượu long lanh với đá
lạnh và, khi chiều về, một két bia. Tôi phải uống nhiều để bắt kịp anh bạn của tôi và báo
cho người phụ tá của tôi, có trách nhiệm đưa chúng tôi tới đây và trở về,và bảo đảm
chúng tôi không bị quấy rầy, phải tỉnh táo như một quan toà để khi chúng tôi đưa Freddy
trở về Tây Đức, ít nhất có một người trong chúng tôi biết rõ đường đi nước bước của ông
bạn.
Lúc này Freddy nói không ngững và thổ lộ hết những bực tức về tình trạng Mỹ Hoá của
Công Hoà Liên Bang Đức và chửi rủa thậm tệ các chính trị gia và bơi móc đời tư của
ngôi sao sáng đang lên tại Tây Bá Linh, Willy Brandt. Chúng tôi trở về thủ đô vừa đúng
trước 12 giờ đêm. Tôi kêu anh tài xế đầu xe khá xa và hai đứa chúng tôi chập choạng đi
ngang qua Công Viên Treptow đến gần cửa biên giới. Chúng tôi tiến gần đến tầm tai của
anh lính gác thì Freddy thình lình nổi hứng hát những bài cách mạng và hát to « Khi
chúng ta cùng nhau lên đường » và bài « Quốc Tế Ca ». Tôi tỉnh cơn say tức khắc, nói
Freddy im miệng với giọng không thân thiện và kêu anh tài xế đưa chúng tôi tới điểm
kiểm soát biên giới kế tiếp, nơi đây chúng tôi thả y xuống. Sau khi dặn dò y phải cúi đầu
và nói tối thiểu khi qua biên giới, tôi nấp trong bóng tối nhìn y đi qua biên giới.
Tôi hầu như đứng tim, vì y đã say đến giai đoạn bất chấp hậu quả những gì mình nói hay
mình làm. Mối lo sợ lớn nhất của tôi là một trong những cảnh sát bên phía Tây Đức sẽ
nhận ra hắn là một nhân vật nổi tiếng trong vùng và để ý hắn đi qua biên giới trong lúc
say tuý luý vào lúc giữa đêm – một vụ tai tiếng đủ để chấm dứt sự nghiệp mặc dù đương
sự không bị tình nghi làm gián điệp. Bóng dáng lảo đảo của đương sự tiến về hướng trạm
kiệm soát. Vào giờ phút chót, y quay ngược trở lại, vẫy tay hùng dũng và la lớn về phía
tôi : « Chúng ta sẽ uống cạn một ngàn ly với nhau, anh và tôi ! »
Tôi chửi thầm, nhưng không làm gì khác hơn được nữa. Những ngày sau đó, tôi lo âu rà
soát báo chí xem có âm hưởng gì không. Nhưng kẻ say sưa lại có trời độ và uy tín của
Freddy vẫn còn nguyên vẹn.
Đối với những nhân vật có tiếng tăm, việc tham dự những buổi họp bên Đông Đức qua
trung gian của chính quyền luôn luôn là một việc làm phiêu lưu. Freddy lần hồi xét lại ý
kiến của y đối với Willy Brandt và trở nên một cộng tác viên thân cận của ông thị trưởng
trẻ. Đương sự không thể mạo hiểm đến gặp gỡ chúng tôi một cách công khai, dù say hay
tỉnh táo. Chúng tôi bó buộc phải tìm ra một giải pháp mới và áp dụng một kế hoạch dàn
xếp tỉ mỉ và phức tạp để chúng tôi trao đổi quan điểm: Con đường thông quá của đồng
minh phải đi ngang qua lãnh thổ của Đông Đức để tới Bá Linh.
Chúng tôi ước tính phản gián Tây Đức kiểm soát chặt chẽ con đường này, cũng giống
như chúng tôi. Các sĩ quan kiểm soát ở cả hai phía ghi sổ ngày giờ mỗi chiếc xe đi vào và
đi ra khỏi xa lộ, hoặc ở bên Tây Bá Linh hoặc ở biên giới Tây Đức. Vận tốc bị giới hạn ở
100 cây số một giờ một cách triệt để, do đó thời gian phỏng định đi hết con đường có thể
tính ra khá chính xác, và không thể có khả năng ngừng lại để làm bất cứ chuyện gì ngoài
trừ việc trao đổi mau chóng những tài liệu.
Hơn nữa, cảnh sát lưu thông kiểm soát các trạm dừng và đặt máy quay phim trên những
tuyến đường ngoằn ngoèo. Tôi không thích cho cơ quan phản gián biết về những chi tiết
công tác của tôi, vì vậy tôi quyết định không làm thủ tục xin họ ngưng quan sát khi tôi
gặp gỡ điệp viên của tôi. Với sự đồng ý của Freddy, chúng tôi bày một phương kế hào
hứng và thoải mái để gặp nhau. Tôi hồi hộp chờ đón việc này, và cho dù tôi có kinh
nghiệm, một điệp viên vẫn luôn là một người phiêu lưu, và tôi vẫn thích thú sắn tay áo để
đôi lúc mạo hiểm. Chúng tôi đồng ý với nhau là Freddy sẽ rời Tây Bá Linh vào xế trưa để
khi chúng tôi gặp nhau trời đã chạng vạng. Y sắp xếp chuyến đi cho ăn khớp với buổi dạ
tiệc kinh doanh tại Bonn để phù hợp với nguỵ trang.
Trước khi y rời Tây Bá Linh, tôi rời Đông Bá Linh trên một chiếc xe Mercedès xanh
dương đậm với bảng số tỉnh Cologne và một anh tài xế với giấy tờ Tây Đức giả. Vì
không ai bên Tây Đức biết rõ mặt mũi của tôi, tôi không cần phải cải trang và tôi đơn
giản mặc y phục của một thương gia. Tại trạm xăng đầu tiên ngoài ô trên con đường
thông quá Bá Linh – Munich, tôi kêu anh tài xế ngưng xe để đổ xăng và uống một ly cà-
fê Đông Đức tại trạm xãng. Tôi ngôi ở đây chờ cho đến khi xe của Freddy đi ngang.
Việc này xem ra rất là thú vị. Các anh tài xê xe vận tải, nhìn lầm tưởng tôi là một người
phương Tây sau khi tôi tặng họ thuốc lá phương Tây, bắt đầu than phiền tình thế ở bên
Đông Đức. Đây là cơ hội hiếm có để nghe người bình dân thực sự nghĩ gì trong khi tôi
ngồi cao chót vót trên cấp bậc kỳ cựu của Đông Đức. Nếu họ biết họ đang trực tiếp than
phiền với một sĩ quan cao cấp của Stasi, họ sẽ hốt hoảng. Tôi nhớ một anh tài xế vận tải
chửi rủa những đặc quyền của giới lãnh đạo Đông Đức sau khi tôi bịa chuyện tôi là một
thương gia chào hàng dạo khá thành công xuất xứ từ vùng Ruhr. « Bọn đảng lại của
chúng có lẽ cũng sống thoải mái như ông, sự khác biệt là ông thực hiện được một việc gì
đó còn họ chẳng làm gì cả ». Markus Wolf chính hiệu cảm thấy hơi nhột vì lời nhận xét
này, nhưng tôi gật đầu đồng ý.
Khi Freddy đi ngang qua trặm dừng với vận tốc giới hạn 100 cây số một giờ, chúng tôi
móc một dấu hiệu đặc biệt cho phép chúng tôi, những giới chức cao cấp mà anh bạn tài
xế vừa mới chửi rủa, chạy nhanh hơn vận tốc ấn định. Chúng tôi chạy vào khoảng tốc độ
150 cây số/giờ, thời gian và khoảng cách đã tính sẵn để phù hợp với tốc độ xe của Freddy
chúng tôi đến một ngã rẽ trên xã lộ dành riêng cho xe vận tải gỗ rừng và cảnh sát. Chúng
tôi lái xe vào trong rừng để tránh tai mắt của những ống kính kiểm soát quay phim và
những tài xế khác. Lặng lẽ và nhanh nhẹn như thể xác đồ sộ của anh cho phép, Freddy
chui vào xe của tôi và tài xế của tôi chạy qua của anh. Cả hai xe đều lên đường chạy ra
khỏi nơi trốn, đèn tắt để tránh ống kính kiểm soát hoặc một đội tuần đi ngang. Chúng tôi
cảm thấy sung sướng khi chúng tôi biết rằng chúng tôi đã thành công trong trò chơi này.
« Việc này hay ho hơn cả chính trị » Freddy bâng quơ nói.
Có được giấy phép chạy nhanh cho phép chúng tôi có đủ thời gian để nói chuyện. Chạy
xe trên xa lộ, chúng tôi nói chuyện thoải mái và Freddy trao cho tôi một vài tài liệu. Tôi
cùng có cơ hội đưa ra một số chỉ thị hoàn toàn bí mật. Trước khi rẽ vào một lối ra xa lộ,
chúng tôi ngừng tại một trạm dừng xe trong bóng tối và chờ xe của Freddy (có tái xế của
tôi) đến. Freddy trở lại xe của mình. Điều phiền với mánh khoé này là chúng tôi không
phải là những người duy nhất khám phá ra nó. Với thời gian, các cơ quan phương Tây
cũng sử dụng nó và hàng chục những tổ chức giúp người Đông Đức giúp người trốn
trong những vận tải cũng dùng đến nó. Những ngõ ra xa lộ bất hợp pháp và các trạm xăng
trở thành trọng điểm kiểm soát của chính cơ quan phản gián của chúng tôi. Họ bắt đầu
xiết mỗi lúc một chặt chẽ hơn và tôi lo ngại một ngày nào đó các bạn đồng nghiệp trong
cơ quan phản gián sẽ khám phá một trong những cuộc gặp gỡ của tôi. Tôi phải duyệt xét
lại những quyết định trước đây của tôi và yêu cầu các ống kính kiểm soát được tắt trong
lúc chính tôi hoặc sĩ quan của tôi thi hành công tác với các điệp viên nước ngoài.
Việc này tiến hành một thời gian, nhưng tôi lo ngại tình báo Tây Đức đã khám phá ra
phương cách kiểm soát chúng tôi, vì vậy nếu các ống kính bị tắt trong vòng mười phút
hoặc hơn, điều này có nghĩa là một số hoạt động đáng nghi đang tiến hành và việc kiểm
soát biên giới trở nên gắt gao hơn. Tôi trở lại với phương pháp cũ và liều làm việc không
thông báo cơ quan phản gián. Vì tôi lanh lẹ và chuẩn mực nên tôi chưa hề bị hai bên bắt
gặp. Phương pháp này thành công không những với Freddy mà cả với một thông tín viên
chính trị ởBonn, một chính trị gia thuộc phe cấp tiên tên là William Borm. Đương sự
cung cấp tin tức trong quốc hộiBonn.
Freddy qua đời một vài năm sau, tim của đương sự không làm việc một vài ngày sau khi
chúng tôi gặp nhau trên xa lộ. Tôi đoán chừng thể lực của đương sự không theo kịp cuộc
sống chính trị sôi động, lối ăn uống vương giả và những cố gắng quá mức trong công tác
nguỵ trang với chúng tôi của đương sự. Đương sự say mê với những kích thích và cảm
giác đương sự đang tạo nên những ảnh hưởng đặc biệt. Với cương vị của một chủ nhân
ông, chúng tôi luôn luôn giành tiền hưu trí cho những người vợ của các điệp viên, mặc dù
là, trong trường hợp của Freddy, bà không được thông báo về việc làm của y. Bây giờ
chúng tôi nằm trong một vị thế khó xử phải phái một sĩ quan đến báo cho bà biết là bà có
quyền hưởng tiền hưu trí bởi vì chồng của bà đã làm việc cho Đông Đức. Tôi không rõ bà
ấy có nghi ngờ chồng mình không, nhưng bà tiếp nhận tin tức rất là bình thản. Có một
điều nghề nghiệp dạy tôi là đàn bà biết rõ về chồng mình nhiều hơn là các ông tưởng.
Hồi ký trùm gián điệp Đông Đức ( kỳ 11 đến kỳ 19 )
Rate This