Professional Documents
Culture Documents
Nhom 13 - KHMT - O Nhiem Moi Truong Dat
Nhom 13 - KHMT - O Nhiem Moi Truong Dat
Nhom 13 - KHMT - O Nhiem Moi Truong Dat
HỒ CHÍ MINH
——————————
Tháng 05 - 2022
2
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì
thay thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá,
xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao công sức và
xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay. Nhưng
hiện nay đất đang dứng trước nguy cơ bị ô nhiễm trầm trọng từ thế giới đến Việt Nam.
Việc bảo vệ cũng như tìm hiểu nguyên nhân là điều cần thiết.
Trên cơ sở đó, bài báo cáo sẽ cung cấp những thông tin như thực trạng ô nhiễm đất ở
thế giới và cả Việt Nam, giải quyết được những vấn đề về nguyên nhân về tự nhiên và
nhân tạo gây ra ô nhiễm môi trường đất, các chất hoá học, hữu cơ chất thải sinh hoặt
công nghiệp… gây nên. Từ đó nêu lên sự ảnh hướng của ô nhiễm môi trường đất tác
động như thế nào và đưa ra những giải pháp khác phục.
Bài báo cáo với chủ đề ô nhiễm môi trường đất với hy vọng là một phần nào đó giúp
bạn hiểu hơn về tầm quan trọng của môi trường đất và các thực trạng của môi trường
đất hiện nay qua đó là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta, là những con người cùng sinh
sống trên trái đất. Hãy cùng chung tay bảo vệ không chỉ môi trường đất mà là bảo vệ
môi trường sống của chúng ta, vì bảo vệ môi trường là tự cứu sống chính mình.
MỤC LỤC
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT MÔI TRƯỜNG ĐẤT··········
29
vượt ngưỡng cho phép gây hại cho đời sống của con người, động vật và cả hệ sinh thái
trên trái đất.
Cụ thể, các hiện tượng làm ô nhiễm môi trường đất bởi chính hành động của con người
như người dân xả rác thải sinh hoạt, các khu công nghiệp, nhà xưởng xả rác thải công
nghiệp chưa qua xử lý, các chất thải rắn của ngành khai thác dầu mỏ. Đó còn là nguồn
ô nhiễm từ hóa chất, thuốc trừ sâu mà người nông dân hàng ngày sử dụng cho cây cối,
hoa màu; các chất thải khác của khu đô thị, chợ, khu sản xuất… gây ra tình trạng
nhiễm độc và ô nhiễm môi trường đất.
thế, quá trình công nghiệp hóa đang ngày càng phát triển gây ra hậu quả là tài
nguyên đất bị nhiễm kim loại nặng rất độc hại.
Tại Brazil, bang Minas Gerais bị vỡ đập gây ra hậu quả hơn 60 triệu m3 bùn đất
chứa các chất thải độc hại từ sau quá trình khai thác quặng sắt bị tràn ra ngoài, nhấn
chìm cả ngôi làng.
Tại Nhật Bản, hàng trăm cây km vuông đất nông nghiệp, lâm nghiệp và làng mạc
bị bỏ hoang do ảnh hưởng từ phóng xạ từ 3 lò phản ứng nguyên tử của nhà máy
Fukushima. Đây là hậu quả ảnh hưởng từ thiên nhiên-thảm họa động đất-sóng thần
hồi tháng 3/2021.
Tại Trung Quốc, sau nhiều năm công nghiệp hóa tràn lan khiến ⅕ diện tích đất
nông nghiệp bị ô nhiễm.
2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay có 33 triệu ha diện tích đất tự nhiên, trong đó diện tích đất đang
sử dụng là 22.226.830 ha, chiếm 68,83% tổng quỹ đất. Còn 10.667.577 ha đất chưa
sử dụng, chiếm 33,04% diện tích đất tự nhiên.(Theo Tổng cục Địa chính, 1999). Với
đặc điểm đất đồi núi chiếm ¾ lãnh thổ lại nằm trong vùng nhiệt đới mưa nhiều và
tập trung, nhiệt độ không khí cao, các quá trình khoáng hóa diễn ra rất mạnh trong
đất nên dễ bị rửa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng dẫn đến
thoái hóa đất. Đất đã bị thoái hóa rất khó có thể khôi phục lại trạng thái màu mỡ ban
đầu.
2.1 Ô nhiễm đất ở Thái Nguyên
Thái Nguyên hiện có 66 đơn vị hoạt động khai thác khoáng sản với tổng số mỏ được
cấp phép khai thác lên tới 85, trong đó có 10 điểm khai thác than, 14 điểm khai thác
quặng sắt, 9 điểm khai thác quặng chì kẽm, 24 điểm khai thác đá vôi, 3 điểm khai
thác quặng titan…
Tổng diện tích đất trong hoạt động khai thác chiếm hơn 30191 ha, tương ứng gần
1% diện tích đất tự nhiên của tỉnh.
Trong quá trình khai thác, các đơn vị đã thải ra một khối lượng lớn đất đá thải, làm
thu hẹp và suy giảm diện tích đất canh tác, điển hình là các bãi thải tại mỏ sắt Trại
Cau (gần 2 triệu m3 đất đá thải/năm), mỏ than Khánh Hòa (gần 3 triệu m3 đất đá
thải/năm), mỏ than Phấn Mễ (hơn 1 triệu m3 đất đá thải/năm)...
70,05 nghìn ha, hoa 9,32 nghìn ha...); cây lâu năm 264,0 nghìn ha (174,1 nghìn ha cà
phê; 12,1 nghìn ha chè; 26,2 nghìn ha điều; 24,5 nghìn ha cây ăn trái...). Trong
những năm gần đây, nông nghiệp Lâm Đồng đã có những bước phát triển vượt bậc,
trở thành ngành kinh tế chủ lực, chiếm 40,1% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Diện
tích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao toàn tỉnh hiện có 60.228ha (chiếm 20%
diện tích canh tác), trong đó cây rau 24.016ha, cây hoa 2.927ha, cây đặc sản 172ha,
chè 6.883ha, cà phê 21.946ha; 157ha cây dược liệu và 3.827ha lúa chất lượng cao.
Sản xuất nông nghiệp theo hướng đầu tư thâm canh dẫn đến việc sử dụng phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật của nông dân Lâm Đồng cao hơn so với các địa phương khác
trong cả nước. Toàn tỉnh hiện có 2.465 cơ sở sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc
thuốc bảo vệ thực vật phân bố ở hầu khắp các huyện, thành phố cung ứng cho nông
dân đầy đủ các loại vật tư nông nghiệp có chất lượng, hiệu quả góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Với tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên 300.000ha, lượng thuốc bảo vệ
thực vật sử dụng hàng năm tại Lâm Đồng từ 3.500 - 4.000 tấn. Theo tính toán của
ngành bảo vệ thực vật với lượng thuốc trên, lượng bao gói thuốc bảo vệ thực vật thải
ra môi trường hàng năm tại Lâm Đồng khoảng 250 - 300 tấn/năm. Từ 2018 đến
2020, toàn tỉnh đã tổ chức thu gom, tiêu hủy đúng quy định, trung bình hàng năm từ
20,6 - 25,2 tấn bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng. Trong đó, năm 2018 là
20,6 tấn; năm 2019 là 21,7 tấn; năm 2020 là 25,2 tấn (chiếm 10,1% lượng bao gói
thuốc bảo vệ thực vật phát sinh/năm). Tỷ lệ thu gom, tiêu hủy vỏ bao bì thuốc bảo
vệ thực vật tại các vùng sản xuất trên địa bàn tỉnh còn rất thấp (khoảng 10%) so với
lượng vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật phát thải ra môi trường.
Đất bị nhiễm phèn do nguồn nước từ một khu vực khác di chuyển đến, đất nhiễm
mặn từ lượng muối trong nước biển hoặc từ các mỏ muối và Gley hóa trong đất sinh
ra các độc tố.
Hình 7. Các Chất Hoá Học Thải Trực Tiếp Ra Môi Trường Đất
Nguồn : blogspot.com
-Chất thải xây dựng: là loại chất thải rắn có phát sinh trong quá trình thi công,
khảo sát xây dựng công trình (gồm có công trình xây dựng mới, cải tạo, di dời, sửa
chữa, tu bổ, phục hồi, phá dỡ).
Sử dụng nhiều phân hữu cơ trong điều kiện yếm khí, quá trình khử chiếm ưu thế, sẽ
tạo ra nhiều axit hữu cơ làm đất chua, đồng thời tạo ra nhiều chất độc H2S, CH4,
CO2.ệt là các loại rau ăn lá.
-Phân bón hóa học:Để tăng năng suất cây trồng, người ta thường sử dụng các loại
phân hóa học như: đạm (N), lân (P2O5), kali (K2O). Nhưng trong các loại phân vô
cơ, đáng chú ý nhất là phân N, một loại phân mang lại hiệu quả quan trọng nhất cho
năng suất cây trồng, tuy nhiên nó cũng rất dễ gây ô nhiễm cho môi trường đất do tồn
dư của nó do sử dụng với liều lượng cao. Khi bón N, cây sử dụng tối đa 30% lượng
phân bón vào đất. Còn lại, phần thì bị rửa trôi làm mất đi phần còn lại trong đất sẽ
gây ô nhiễm đất.
Quá trình nitrat hóa làm tăng tính chua của môi trường đất do trong đất tồn tại
HNO3.
Một số phân bón hóa học khác gây ô nhiễm môi trường đất như phân lân. Phân
super lân thường có 5% axit tự do (H2SO4), làm cho môi trường đất chua. Trong
các loại phân lân cũng còn chứa một lượng các kim loại nặng khác như As, Cd, Pb
cũng là nguyên nhân làm tích lũy các kim loại này trong đất.
Các phân hóa học khác hầu hết là các dạng muối (NH4SO4, KCL, K2SO4,
KNO3…) của các axit, do đó khi bón vào đất làm cho đất chua.
-Thuốc trừ sâu: Đặc tính của thuốc trừ sâu bệnh là tính bền trong môi trường sinh
thái. Sau khi xâm nhập vào môi trường và tồn tại một thời gian dài trong các dạng
cấu trúc sinh hóa khác nhau hoặc tạo các dạng hợp chất liên kết trong môi trường
đất. Các hợp chất mới này thường có độc tính cao hơn bản thân nó. Ví dụ như DDT
sau một thời gian sử dụng có tạo ra DDE, độc hơn DDT gấp 2-3 lần. Thuốc trừ sâu
Aldrin tồn tại lâu dài trong đất bị phân thành Dieldrin, mà tính chất của nó độc nhiều
lần so với Aldrin.
Các thuốc bảo vệ thực vật thường chứa nhiều kim loại nặng như: As, Pb, Hg. Một số
loại thuốc bệnh như: CuSO4, Zineb, Mancozeb… chứa các kim loại nặng như Zn,
Cu, Mn sử dụng nhiều và lâu dài sẽ tồn lưu các kim loại trong đất.
Tác hại khác của thuốc trừ sâu bệnh là sự xâm nhập của nó vào môi trường đất làm
cho cơ lý hóa tính đất giảm sút, mức độ gây hại tương tự như phân bón hóa học.
Nhưng khả năng diệt khuẩn cao nên thuốc trừ sâu bệnh cũng đồng thời tiêu diệt
nhiều vi sinh vật có ích làm các hoạt tính sinh học của đất bị giảm.
d) Do việc đẩy mạnh đô thị hóa, công nghiệp hóa và mạng lưới giao thông
Việc sử dụng một phần đất để xây dựng đường xá và các khu đô thị các khu công
nghiệp…. làm thay đổi kết cấu của đất.
Chất thải rắn đô thị rất phức tạp, nó bao gồm các thức ăn thừa, rác thải nhà bếp, làm
vườn , đồ dùng hỏng , gỗ, thủy tinh, nhựa, các loại giấy thải,các loại rác đường phố
bụi, bùn, lá cây…
Ở các thành phố lớn , chất thải rắn sinh hoạt được thu gom , tập trung ,phân loại và
xử lý. Sau khi phân loại có thể tái sử dụng hoặc xử lý rác thải đô thị để chế biến
phân hữu cơ, hoặc đốt chôn. Cuối cùng vẫn là chôn lấp và ảnh hưởng tới môi trường
đất.
Ô nhiễm môi trường đất tại các bãi chôn lấp có thể do mùi hôi thối sinh ra do phân
hủy rác làm ảnh hưởng tới sinh vật trong đất , giảm lượng oxy trong đất.
Các chất độc hại sản phẩm của quá trình lên men khuếch tán , thấm và ở lại trong
đất.
Nước rỉ từ các hầm ủ và bãi chôn lấp có tải lượng ô nhiễm chất hữu cơ rất cao
( thông qua chỉ số BOD và COD) cũng như các kim loại nặng như Cu , Zn, Pb,
Al ,Fe, Cd , Hg và cả các chất như P ,N, … cũng cao. Nước rỉ này sẽ ngấm xuống
đất gây ô nhiễm đất và nước ngầm.
Ô nhiễm môi trường đất còn có thể do bùn cống rãnh của hệ thống thoát nước của
thành phố là mà thành phần các chất hữu cơ , vô cơ, kim loại tạo nên các hỗn hợp
các phức chất và đơn chất khó phân hủy
vừa qua). Số chất thải rắn do chăn nuôi đưa thẳng vào sông rạch khoảng 22.500
tấn/ngày đêm, chất thải lỏng (kể cả nước rửa chuồng trại) chừng 40.000 m3/ngày
đêm
+Tàn tích của rừng:
Sau khi thu hoạch gỗ, phần bỏ đi chiếm một lượng lớn. Tàn tích này khi nằm lại
trong môi trường đất sẽ phân hủy tạo mùn cho đất, nhưng khả năng này phụ thuộc
nhiều vào điều kiện môi trường và tỉ lệ C/N của tàn tích rừng. Nếu điều kiện phân
giải tạo mùn ít thì khả năng chuyển hóa thành chất thành những chất khó tiêu và gây
chua nhiều hơn.
Nếu tàn tích rừng bị vùi lấp trong điều kiện yếm khí lâu dài, thì hoặc tạo ra cá đầm
lầy than bùn phèn. Điều đó có nghĩa là tạo ra môi trường đất acid.
Hình 13. Vi Sinh Vật Phát Triển Trong Nguồn Nước Bị Ô Nhiễm
Nguồn : biowish.vn
động vật với lượng đồng vị phóng xạ có trong môi trường được gọi là” hệ số cô đặc”
sau các vụ nổ bom nguyên tử trong đất thường tồn lưu ba chất phóng xạ Sn90;
I131 ;Cs137 . Các chất phóng xạ này xâm nhập vào cơ thể người, làm thay đổi cấu
trúc tế bào, gây ra những bệnh về di truyền, bệnh về máu, bệnh ung thư…
Gây một số bệnh truyền nhiễm, bệnh do giun sán, ký sinh trùng mà đa số người dân
mắc phải đặc biệt là trẻ em ở các vùng nông thôn.
Các chất phóng xạ, kim loại, nilon, do không phân hủy được nên gây trở ngại cho
đất.
Các phân bón hóa học, thường có một số vết kim loại và hóa chất như As, Cd, Co,
Cu, Pb, Zn … theo thời gian sẽ tích tụ trên lớp đất mặt làm đất bị chai xấu, thoái
hóa, không canh tác tiếp tục được.
DDT là một trong những thuốc trừ sâu gây độc hại cho sinh vật và môi trường. Sử
dụng DDT và một số thuốc trừ sâu khác đã làm cho nhiều loài chim và cá bị hủy
diệt. Nguyên nhân là do thuốc trừ sâu và diệt cỏ tồn tại lâu trong đất (từ 6 tháng đến
2 năm) và gây tích tụ sinh học. Trung bình có khoảng 50% lượng thuốc trừ sâu được
phun đã rơi xuống đất, tồn đọng trong đất và bị lôi cuốn vào chu trình: đất - cây -
động vật - người. Một số chất còn bị nghi là nguyên nhân của bệnh ung thư.
- Phương pháp xử lí bằng thực vật: hoa hướng dương hấp thụ urani, một số loại
dương xỉ hấp thụ asen, nhiều cây vùng núi hấp thụ mạnh mẽ kẽm, cây mù tạc hấp
thụ chì, cỏ ba lá hấp thụ dầu,….
Phương pháp ngâm chiết: kết hợp với chất hoạt động bề mặt để ngâm và chiết
các chất gây ô nhiễm ra khỏi đất thu gom chất chiết bằng hệ thống thu gom và xử lí
riêng.
- Phương pháp cố định chất ô nhiễm bằng dòng điện phương pháp xử lí thụ động: sử
dụng các quá trình xảy ra một cách tự nhiên như các quá trình bay hơi, thông khí,
phân hủy sinh học, phân hủy do ánh sáng để phân hủy các chất gây ô nhiễm.
2. Xử lí đất bị ô nhiễm sau khi bốc khỏi vị trí
- Phương pháp xử lý bằng mặt đất: Rải trên một bề mặt đất khác để phân hủy các
chất ô nhiễm bằng quá trình phân hủy sinh học, phân hủy do ánh sáng xảy ra một
cách tự nhiên.
- Phương pháp nhiệt.
- Phương pháp trộn với nhựa đường asphalt.
- Phương pháp đóng khối.
- Phương pháp bóc và chôn lấp.
3. Điều tra và phân tích đất
Điều tra ô nhiễm đất là tìm hiểu trạng thái ô nhiễm và đánh giá mức độ ô nhiễm.
Hiện nay người ta lấy “trị số cơ bản” làm tiêu chuẩn đánh giá. Căn cứ vào hàm
lượng bình quân của hợp chất hoặc nguyên tố độc hại trong đất vượt quá “trị số cơ
bản” để đánh giá.
4. Loại bỏ nguồn gây ô nhiễm
Trong các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ cần nghiên cứu công nghệ khép kín, không
sản xuất hoặc ít sản xuất chất độc. Những chất thải loại cần có cách xử lý thu hồi.
Hiện nay, ô nhiễm đất chủ yếu bắt nguồn từ các nhà máy và nước cống thành phố,
bởi vậy lúc tưới nước cho cây trồng cần phải cẩn thận.
Cần chọn dùng loại nông dược có hiệu lực cao nhưng ít độc, ít tồn lưu trong đất.
Loại bỏ hoàn toàn các nông dược đã cấm sử dụng. Một hướng mới hạn chế dùng
thuốc gây ô nhiễm là cần mở rộng phương pháp sinh vật phòng trừ kết hợp với các
phương pháp khác (phòng trừ tổng hợp).
5. Làm sạch hóa đồng ruộng
- Dùng vôi và muối phốt phát kiềm để khử chua, chuyển phần lớn nguyên tố kim loại
sang hợp chất khó tan từ đó làm giảm nồng độ của chúng trong dung dịch.
- Tiêu nước vùng trũng, điều tiết Eh đất làm cho một số nguyên tố kim loại nặng
chuyển sang dạng khó tan.
- Luân canh lúa màu để xúc tiến phân hủy DDT.
- Cải thiện thành phần cơ giới đất, tăng cường bón phân hữu cơ.
- Đối với đất cát cần nâng cao tính đệm và khả năng hấp phụ để hút các cation kim loại
và nông dược, áp dụng biện pháp tổng hợp nâng cao độ màu mỡ của đất, tạo điều kiện
cho sinh vật hoạt động phân hủy các nông dược tồn lưu trong đất.
Khi đất bị nhiễm kim loại nặng (như Cd) có thể áp dụng biện pháp đổi đất, lật đất.
Biện pháp này cải tạo triệt để nhưng khó thực hiện trên diện rộng.
Kết luận
Ô nhiễm môi trường hiện nay luôn là vấn đề đáng quan tâm không những ở Việt
Nam mà còn trên toàn thế giới. Bên cạnh việc ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí
thì ô nhiễm đất cũng đang cần được quan tâm sâu sắc bởi những tác hại, hậu quả gây
ra cho con người cũng như những sinh vật khác. Các loại ô nhiễm đều có quan hệ
mật thiết với nhau, chẳng hạn như ô nhiễm không khí gây ra mưa acid dẫn đến ô
nhiễm đất, ô nhiễm đất gây ra ô nhiễm mạch nước ngầm và ảnh hưởng đến môi
trường không khí.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm đất đến từ các chất thải công nghiệp do các
hoạt động sản xuất, khai thác khoáng sản, các chất thải hữu cơ, các khí thải từ nhà
máy công nghiệp. Thứ hai là các chất thải sinh hoạt trong quá trình sinh sống của
con người như rác thải đồ ăn, túi nilon, chai nhựa,... những chất thải này khi thải ra
ngoài không thể nào phân hủy liền được từ đó dẫn đến việc môi trường đất ngày
càng ô nhiễm. Ngoài các nguyên nhân do con người tác động thì còn có cả nguyên
nhân tự nhiên như đất nhiễm phèn, đất nhiễm mặn, sự gia tăng hàm lượng các chất
tự nhiên trong đất cũng gây ảnh hưởng độc hại đến môi trường, nơi ở của các loài
sinh vật và làm xấu đi cảnh quan thiên nhiên.
Môi trường là nơi chúng ta sinh sống, cung cấp tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho
đời sống con người có thể thấy được đó rất quan trọng cho toàn nhân loại. Vậy nên
chúng ta hãy đứng lên bảo vệ môi trường, xây dựng và bảo vệ trái đất, nâng cao ý
thức người dân, trồng nhiều cây xanh, sử dụng các nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên
thay vì thuốc trừ sâu để bảo vệ sức khỏe cũng như môi trường. Đất là nơi con người
hoạt động, sinh sống nhưng một khi đã bị ô nhiễm sẽ rất khó để xử lý do vậy hãy
chung tay bảo vệ nơi ở của chính mình cũng như các loài sinh vật trên trái đất để
ngày càng trở nên xanh, sạch, đẹp hơn.
Lê Văn Khoa-Sinh Thái Và Môi Trường Đất, Ô nhiêm môi trường đất trang (112-
197).
https://drive.google.com/file/d/1kv3k-KBlNnqEFAlv56ua_XLOTTMn6iyg/view
Tú Lê-Ô Nhiễm Môi Trường Đất ở Việt Nam, Báo Môi Trường và Xã Hội
https://moitruongvaxahoi.vn/o-nhiem-moi-truong-dat-o-viet-nam-1720450467.html
Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Cự, Trần Thiện Cường, Nguyễn Đình Đáp – Ô
Nghiễm Môi Trường Đất và Biện Pháp Xử Lý
file:///C:/Users/Admin/Downloads/Giao_Trinh_O_Nhim_Moi_Trng_Dt_Va_Bi.pdf