Tài liệu QP1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

Cơ sở lý luận và thực tiễn

a. Cơ sở lý luận
Kinh tế quyết định QPAN:
- Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời và sức mạnh của quốc phòng an ninh.
- Bản chất của chế độ kinh tế xã hội quyết định đến bản chất của quốc phòng an ninh.
- Kinh tế quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật cho hoạt động quốc phòng an ninh.
- Kinh tế quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng, nguồn nhân lực cho quốc phòng an ninh, qua
đó quyết định đến tổ chức kinh tế cho lực lượng vũ trang, quyết định đến đường lối chiến lược về quốc
phòng an ninh cho quốc gia.
Tóm lại, kết hợp phát triển KTXH với tăng cường QPAN là một tất yếu khách quan, mỗi lĩnh vực hoạt
động có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện
tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung, phương thức riêng nên
việc kết hợp phải hợp lý cân đối, hài hòa.
QPAN tác động trở lại đối với kinh tế trên cả 2 góc độ tích cực và tiêu cực:
* Tích cực: QPAN vững mạnh sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định lâu dài và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển KTXH. Hoạt động của QPAN có tác dụng kích thích cho sự phát triển kinh tế và tạo ra
được thị trường để tiêu thụ sản phẩm kinh tế.
* Tiêu cực: hoạt động của quốc phòng an ninh sẽ tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực tài
chính của XH. Đặc biệt nếu chiến tranh xảy ra nó sẽ gây hủy hoại lớn đến môi trường sinh thái và để lại
nhiều hậu quả cho nền kinh tế phải giải quyết.
b. Cơ sở thực tiễn
Sự kết hợp của ông cha ta:
*ông cha ta luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, để đề ra kế sách dựng nước với tư tưởng lấy dân
làm gốc, dân giàu nước mạnh, đồng thời luôn chăm lo xây dựng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, để vừa
phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ tổ quốc.
*trong xây dựng phát triển kinh tế đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang, lập ấp ở những nơi xung
yếu, phát triển nghề thủ công, đồng thời chăm lo xây dựng mở mang đường sá, đào sông ngòi kênh rạch,
xây đắp đê điều, vừa phát triển kinh tế vừa tạo ra thế trận đánh giặc cơ động lực lượng trong chiến tranh
nhân dân bảo vệ tổ quốc.
Sự kết hợp của Đảng ta:
Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945-1954:
Đảng ta đã đề ra chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc,vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất,thực
hành tiết kiệm,vừa phát triển kinh tế ở địa phương,vừa chiến tranh nhân dân rộng khắp.
Trong kháng chiến chống Mỹ 1954-1975:
Việc kết hợp phát triển đã được Đảng ta chỉ đạo ở mọi miền với những nội dyng và biện pháp thích hợp.
ở Việt Bắc: Để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền nam đánh giặc
Đảng ta đã đề ra chủ trương:” trong xây dựng kinh tế phải thấu xuất nhiệm vụ quốc phòng cũng như trong
củng cố quốc phòng phải sắp xếp cho ăn khớp với nội dung công cuộc đổi mới kinh tế”.
Miền nam, Đảng ta chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh định, củng cố và mở rộng hậu
phương, xây dựng căn cứ địa miền nam vững chắc là điều kiện cơ bản để cho cách mạng miền nam nước
ta đi đến thắng lợi.
* Thời kì cả nước độc lập thống nhất cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay). Sự kết
hợp được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đồng thời được triển khai trên quy mô lớn và toàn diện.
* Tóm lại: nhờ chính sách nhất quán về thực hiện sự kết hợp chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng
cho xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực
quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã huy động được sức
mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù, gìn giữ và phát triển đất nước cho đến nay.

Tác động qua lại của kinh tế thị trường đối với quốc phòng, an ninh
Quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN có tác động hai mặt đến việc củng cố tiềm lực quốc
phòng, an ninh đất nước. Về tác động tích cực:
Thứ nhất, tiềm lực quốc phòng, an ninh của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế
của quốc gia đó. Kinh tế phát triển tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nhân lực cho quốc phòng,
an ninh. Khi kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân sách không ngừng được tăng lên chính
là điều kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó, góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh. Kinh tế phát triển gắn với đổi mới kỹ thuật, công nghệ là cơ sở để đổi mới kỹ thuật, công
nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản xuất ra các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc
phòng, an ninh. Kinh tế phát triển cũng là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cường
cho các lực lượng vũ trang.
Thứ hai, phát triển KTTT góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từ đó củng cố và
tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh. Khi cuộc sống về mọi mặt của người dân được
nâng cao, tiến bộ, công bằng, dân chủ được tăng cường thì người dân, các lực lượng xã hội yên tâm, tin
tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vững vàng trước sự lôi
kéo, xúi bẩy, kích động của các thế lực thù địch. Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có cơ hội phát triển
toàn diện của nhân dân là nền tảng chính trị vững chắc để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, KTTT phát triển khơi thông các tiềm lực kinh tế, tác động đến việc tăng cường sức mạnh của lực
lượng quân đội và công an cả về vật chất và tinh thần. Về vật chất, kinh tế phát triển, đời sống của cán bộ,
chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ sẽ được cải thiện và nâng cao, là cơ sở để nâng cao năng
lực thể chất và trí tuệ mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Về tinh thần, kinh tế phát
triển, đời sống của nhân dân, trong đó có gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cải
thiện, giúp cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ quân đội, công an; đồng thời, tạo cơ hội để họ tập trung vào
công tác huấn luyện, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, đủ kiến thức và kỹ năng
làm chủ các phương tiện, vũ khí, khí tài hiện đại, nâng cao sự sẵn sàng, khả năng chiến đấu và chiến
thắng.
Thứ tư, KTTT gắn với việc mở cửa, hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước thông qua
phát huy các lợi thế, tạo tiền đề vật chất cho tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, mở
cửa, hội nhập quốc tế tạo sự hiểu biết, sự gắn kết và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích kinh tế, đầu tư, thương
mại, hạn chế nguy cơ chiến tranh. Bên cạnh đó, xu hướng hội nhập quốc tế đặt ra khả năng và yêu cầu
khách quan liên kết các quốc gia trong các thể chế khu vực và toàn cầu. Chủ động hội nhập quốc tế theo
yêu cầu phát triển của KTTT, sự tham gia có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, bên cạnh
mở rộng quan hệ kinh tế và ngoại giao song phương, còn góp phần củng cố thế và lực của đất nước trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự phát triển KTTT cũng có những tác động tiêu cực đến tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước, cụ thể:
Một là, phát triển KTTT dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một tất yếu do có sự
hoạt động và phát huy tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Sự phân hóa giàu nghèo làm phát
sinh những biểu hiện tiêu cực, bất mãn - cơ hội, điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm có thể lợi
dụng để dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động người dân gây tình huống phức tạp về an ninh, trật tự xã
hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Hai là, phát triển KTTT tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang.
Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội làm giàu hợp pháp và đang có nhiều người,
bằng tài năng, sức lực và nguồn lực của mình trở nên giàu có. Nhưng cũng có không ít cá nhân làm giàu
bất chính và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng vị trí công tác có hành vi tham nhũng,
nhận hối lộ, có nhiều tài sản bất hợp pháp. Điều này tác động đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm,
tâm lý, đạo đức của mỗi con người trong đó có cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, đặc biệt là đối với
những người có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

NỘI DUNG KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ
QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
2. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh
trong phát triển các vùng lãnh thổ
3. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trong
các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu
4. Kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc
5. Kết hợp trong hoạt động đối ngoại

Thực trạng kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an
ninh - Từ góc độ quản lý nhà nước
Hoạt động vận chuyển hàng hóa tại Tân Cảng Sài Gòn, thuộc Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn (Quân
chủng Hải quân) - doanh nghiệp quốc phòng tiên phong đi đầu trong sản xuất, phát triển hiệu quả kinh tế
biển và logistics
Từ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, thời gian qua, công tác
quản lý nhà nước đạt được những kết quả khá toàn diện.
Trongxây dựng thể chế, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể chế phát triển KTTT, tạo hành lang pháp lý
thuận lợi để giải phóng năng lực sản xuất trong xã hội, khai thác tiềm năng đất nước đi đôi với thu hút
vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, giúp nền kinh tế có những chuyển biến hết sức to
lớn. Tăng trưởng GDP trung bình hằng năm của nước ta giai đoạn 2016 - 2019 đạt trên dưới 7%, mức cao
trên thế giới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được phát triển. Đây là những điều
kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước đầu tư toàn diện cho lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, từ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đến
con người nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.
Bộ máyquản lý nhà nước về kinh tế - xã hội vàbộ máy quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninhở Trung
ương và địa phương được kiện toàn với các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đối với công tác quốc
phòng, an ninh theo quy định của Luật Quốc phòng và Luật An ninh quốc gia, trong đó, xác định rõ
nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về quốc phòng trong thời bình và
thời chiến theo nhiệm vụ được giao; thực hiện việc kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, kinh tế với
quốc phòng trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch của bộ, ngành, lĩnh vực được giao phụ
trách; bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia;
bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.
Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạchtrung và dài hạn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội luôn được nghiên
cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện trong mối quan hệ với chiến lược quốc phòng, an ninh. Đây là bước
tiến quan trọng, thể chế hóa một cách đồng bộ các quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm
mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan
trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo
các cấp, các ngành, các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Trong hoàn thiện các chính sáchphân phối thu nhập, lĩnh vực văn hóa - xã hội, Nhà nước chủ động giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Nhờ đó, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được cải thiện; hạn chế một phần sự phân hóa giàu nghèo cũng như khoảng cách
về mức sống và cơ hội phát triển giữa các vùng, miền, các dân tộc, giữa nông thôn và thành thị. Chế độ,
chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ được đặc biệt quan tâm để cán
bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách phát triển khoa
học - công nghệ và môi trường không chỉ nhằm nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện năng suất lao động
mà còn ưu tiên cho các mục tiêu hiện đại hóa nhanh chóng lực lượng quân đội và công an, đặc biệt là
trình độ phòng vệ quốc gia trước các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống (chiến tranh
mạng, vũ khí sinh học, hóa học, ô nhiễm môi trường...).
Trong triển khai cácchính sách hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước chủ động đưa nền KTTT mà Việt
Nam xây dựng trở thành một bộ phận hữu cơ của nền KTTT thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành
tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị
trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên
thế giới”(1), tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển. Các chính sách hội
nhập quốc tế, mở rộng thị trường để,một mặt, phát triển nhanh và bền vững kinh tế của đất nước;mặt
khác, tạo sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường gắn bó lợi ích kinh tế, quan hệ ngoại giao hữu nghị giữa nước
ta với các nước trên thế giới, góp phần hình thành trật tự thế giới mới theo xu hướng bảo đảm an ninh,
hòa bình chung cho phát triển, bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở quan hệ hợp tác về
đầu tư và thương mại, có chính sách lựa chọn các đối tác hợp tác về quốc phòng, an ninh để tăng cường
vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ quốc phòng, an ninh hiện đại và đào tạo nhân lực, phục vụ hiện
đại hóa các lực lượng vũ trang.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong chiến lược phát triển
kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực,
trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược. Tuy nhiên, một số chính sách vẫn chưa xác định cụ
thể các giải pháp để tổ chức thực hiện. Vì vậy, một số quy hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế, một số khu
kinh tế, khu công nghiệp được bố trí ở các địa bàn không bảo đảm yêu cầu của chiến lược quốc phòng, an
ninh. Mặt khác, khi xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, các cơ quan ở Trung
ương và địa phương dành sự quan tâm chủ yếu đến phương diện lợi ích kinh tế, chưa xem xét đầy đủ tác
động của các dự án đó đến vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI GẮN VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp trong
thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh cho các đối tượng
3. Xây dựng chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh trong thời kì mới
4. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan đến thực hiện kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong tình hình mới
5. Củng cố kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quốc phòng, an ninh
các cấp

Trách nhiệm của sinh viên


 Để thực hiện tốt việc kết hợp, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó phải
quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam cho toàn dân, nhất là cho học
sinh, sinh viên - những người quyết định tương lai của đất nước. Quá trình kết hợp phải được
triển khai có kế hoạch, có cơ chế chính sách cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ.
 Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh cho bản than
 Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội;
biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá đạo
đức truyền thống của dân tộc.
 Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

You might also like