Professional Documents
Culture Documents
CĐ TÂY TIẾN
CĐ TÂY TIẾN
CĐ TÂY TIẾN
(Quang Dũng)
I.Giới thiệu chung (Vận dụng làm phần mở bài):
1.Tác giả:
-Vị trí: là gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.
-PC: hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, hào hoa, chứa chan tình đồng bào, đồng chí.
2.Tác phẩm:
-Vị trí: Tây Tiến (Trích “mây đầu ô”) được đánh giá là một thi phẩm xuất sắc của Quang
Dũng cũng như của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
-Hoàn cảnh st: viết 1948 tại Phù Lưu Chanh khi tác giả vừa rời xa đơn vị Tây Tiến-nơi ông
từng làm đại đội trưởng. Trong nỗi nhớ da diết về đơn vị cũ, tg đã sáng tác bài thơ này. Tp
lúc đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó nhà thơ sửa lại thành Tây Tiến.
- Cảm xúc chủ đạo: nỗi nhớ.
- ND: qua nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải về đơn vị cũ, tg khắc họa hình tượng người lính với
vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng và lãng mạn, hào hoa, thấm đẫm chất bi tráng trên phông nền
thiên nhiên vừa hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng, trữ tình.
3. Dẫn dắt VĐNL (tùy từng đề)
II. Phân tích
1.Đoạn 1: Bao trùm là nỗi nhớ thiết tha, sâu lắng của Quang Dũng về đoàn quân Tây
Tiến. Qua nỗi nhớ, tác giả gợi lên được vẻ đẹp vừa dữ dội, vừa lãng mạn của thiên
nhiên Tây Bắc cùng với vẻ đẹp của người lính trên chặng đường hành quân đầy gian
khó nhưng thắm thiết tình quân dân.
a-Hai câu đầu: thâu tóm cảm xúc chủ đạo của bài thơ, bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ của tác giả.
Nỗi nhớ bùng phát mãnh liệt và bật lên thành tiếng gọi đầy thiết tha, khắc khoải.
+ C1: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi?
Sông Mã - dòng sông chảy dọc biên giới Việt Lào. Đây là dòng sông nhiều ghềnh
thác, đổ dốc dữ dội, hai bên bờ sông còn rải rác những nấm mồ của chiến sỹ Tây Tiến. Vì
thế Sông Mã vừa là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ vừa là hình ảnh của mảnh đất miền Tây.
Dòng sông ấy gắn liền với chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến và
chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, mất mát, hi sinh. Trong cuộc hành hương trở về với quá
khứ, Quang Dũng đã nhắc đến dòng sông này như một biểu tượng của nỗi nhớ.
Bài thơ được viết khi Quang Dũng rời xa đồng đội, rời xa núi rừng Sông Mã thân
yêu. Nhịp thơ 4/3 với dấu ngắt giữ dòng tạo cảm giác như có 1 khúc bình lặng để cảm nhận
sự trống trải mênh mông trong thực tại khi Sông Mã xa rồi để từ đó ùa về tiếng gọi tha thiết
hướng về quá khứ “Tây Tiến ơi”. Tiếng gọi ấy vọng về quá khứ, vọng lên từ sâu thẳm tâm
hồn. Cách điệp vần “ơi” tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang đập vào vách đá mà dội lại
lòng người da diết bâng khuâng.
+ Câu 2: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!sau tiếng gọi, nỗi nhớ ào ạt trào dâng “Nhớ…vơi”.
Từ “Nhớ” điệp lại đầu 2 vế câu diễn tả nỗi nhớ day dứt, ám ảnh, canh cánh, nhức
nhối không yên.
Vế đầu câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ “Rừng núi”, sau đó không gian mênh
mông được mở ra với nhiều địa danh, nhiều tên đất, tên làng… Vì thế nỗi nhớ không dừng
lại ở núi rừng mà còn hướng về những năm tháng quá khứ đong đầy kỷ niệm
Vế sau câu thơ miêu tả trạng thái của nỗi nhớ. Từ láy “chơi vơi” được sử dụng rất
độc đáo. Hai chữ này thường xuất hiện trong ca dao:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Tác giả đã có sự học tập, kế thừa một cách linh hoạt từ truyền thống. “Chơi vơi” là từ láy
vần, gợi độ cao chu du, bay bổng hay trạng thái mất thăng bằng, hẫng hụt của vật thể hoặc
tâm hồn. Sử dụng từ “chơi vơi” để diễn tả nỗi nhớ, Quang Dũng vừa vẽ ra trạng thái cụ thể,
vừa hình tượng hóa nỗi nhớ mênh mang mà sâu lắng. Nó như lan tỏa khắp không gian, bao
phủ cả miền kí ức. Một nỗi nhớ không hình, không lượng, lơ lửng, ăm ắp khôn nguôi,
chênh chao giữa 2 bờ hư thực. Cách dùng từ thật phù hợp với nỗi nhớ sâu sắc qua hoài niệm
với 1 không gian núi rừng bồng bềnh sương khói.
Cụm từ “xa rồi” còn bộc lộ nỗi niềm nuối tiếc khôn nguôi.
Hai câu thơ đầu bao trùm cảm xúc chủ đạo toàn bài thơ. Đó là nỗi nhớ tha thiết
hướng về những kỷ niệm…
Nỗi nhớ mạnh liệt đó đánh động kí ức sâu thẳm trong tâm hồn thi nhân khiến cả một
rừng kỷ niệm xôn xao của một thời trận mạc ùa về.
b.12 câu tiếp:
*Nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây:
->Những nét phác họa tài hoa vừa hiện thực vừa đậm chất lãng mạn-> tái hiện vẻ đẹp của
thiên nhiên miền Tây-con đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến. thiên nhiên hiện về
trong nỗi nhớ nên đẫm chất trữ tình cũng rất ấn tượng.
-Hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ, bí ẩn:
+ Địa danh: gợi về 1 không gian phương xa xứ lạ đầy vẻ hoang sơ, bí hiểm.
+ Thiên nhiên khắc nghiệt: không gian bị bao bọc bởi màn sương mù dày đặc. “Sài Khao…
mỏi”. Nhịp 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ “lấp” màn sương miền Tây mênh
mông che kín cả đoàn quân, sương mù khiến đường núi càng khó đi, con đường hành quân
càng gian nan, vất vả. Từ “lấp” với vần “ấp” kết hợp thanh trắc khiến màn sương hiện lên
như một trở lực có sức ngăn cản mạnh mẽ bước chân của người lính.
+ Con đường hành quân qua núi rừng gập ghềnh, trắc trở: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm
thẳm"…
Câu thơ tái hiện địa hình gập ghềnh, hiểm trở, những dốc núi chen chúc, trập trùng
uốn khúc.
Cách ngắt nhịp 4/3, từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” với những thanh trắc liên tiếp
diễn tả được sự ghồ ghề của con đường hành quân đầy núi non. Sự hiểm trở của núi rừng
Tây Bắc khiến ta nhớ đên câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo nan. Thục đạo nan
Nan vi hướng thiên thanh
(Đường Thục thực khó đi
Khó hơn cả lên trời xanh)
Sự trùng điệp của núi rừng khiến ta nhớ đến câu thơ của Đoàn Thị Điểm:
Hình khe thế núi xa gần
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao
Điệp từ “dốc” nằm ở vị trí mở đầu câu thơ đã tô đậm những dốc núi trùng điệp,
chồng chất nối tiếp nhau tới vô tận. Núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí nghị lực
của con người.
Câu thơ phần lớn sử dụng thanh trắc (5/7) vừa gợi tả sự gập ghềnh, hiểm trở vừa tạo
nên một dòng thơ rất đặc biệt mang hơi thở hổn hển, mệt nhọc, nặng nề của người lính sau
một chặng đường vượt dốc gian lao. Đúng là Quang Dũng đang tả núi bằng chính cảm giác
của người đang leo núi:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Từ láy “heo hút” được dùng rất độc đáo. Thông thường nó được sử dụng để chỉ
không gian xa vắng, hẻo lánh, quạnh quẽ. Ở đây thi sĩ dùng để nhấn mạnh độ cao đến rợn
ngợp như hút cả tầm mắt. Câu thơ còn có hình ảnh đầy sáng tạo: cồn mây. Đây là một ẩn dụ
đặc sắc cho mây núi miền Tây trùng điệp dựng lên thành cồn, thành dốc. Câu thơ gián tiếp
cho thấy dốc núi cao mờ mịt chập chùng khiến con đường hành quân càng thêm hoang vu,
hiểm trở.
Hình ảnh “súng ngửi trời” diễn tả một cách cảm nhận độ cao rất đặc biệt, rất lính.
Người lính đứng trên đỉnh núi chót vót, mũi súng như chạm tới bầu trời. Nghệ thuật nhân
hóa được Quang Dũng sử dụng 1 cách tài tình. Trong tưởng tượng của người lính trẻ, mũi
súng như một sinh thể có tâm hồn, muốn ôm cả bầu trời cao trong xanh. Câu thơ gợi nhớ
đến câu thơ trong bài “Đồng chí”: “Đầu súng trăng treo”.
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Câu thơ vừa gợi độ cao, vừa gợi độ sâu của những con dốc cao đến heo hút, sâu đến
thăm thẳm. Điệp ngữ “ngàn thước” làm nổi bật độ dài của những con đường hành quân xa
tít tắp. Nhịp điệu câu thơ được bẻ làm đôi một cách đột ngột diễn tả những con dốc vút lên
cao rồi bất ngờ đổ xuống như thẳng đứng.
+Cảnh núi rừng hoang sơ, bí hiểm:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đem Mường Hịch cọp trêu người
Sự hiểm trở dữ dội không chỉ mở ra theo chiều không gian mà còn mở ra theo chiều
thời gian. Thời gian là những thời điểm “chiều chiều, đêm đêm”chứa đầy sự huyền bí, sự
đe dọa khủng khiếp đối với con người. Khi bóng đêm bao phủ, lan tỏa, rừng đại ngàn bỗng
trở nên bí mật, ẩn chứa nhiều hiểm nguy. Có thể nói màn đêm, bóng tối chính là kẻ đồng
lõa với thiên nhiên dữ dội nhằm thử thách con người. Với cách sử dụng những trạng ngữ
chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng, thời gian cho thấy sức mạnh thiên nhiên khủng
khiếp ấy ngự trị nơi núi rừng miền tây không phải một chiều, một đêm mà là sự ngự trị
muôn đời.
Sự bí hiểm của đại ngàn còn được miêu tả qua những âm thanh đầy ấn tượng, ám
ảnh. Bằng nghệ thuật nhân hóa Quang Dũng đã khiến những con thác hiện lên như những
con thủy quái đầy mạn dại, hung bạo, dữ dằn, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống con người. Trong
cảm nhận của nhà thơ, âm thanh của tiếng thác chính là oai linh của đại ngàn đang đe dọa
đùa giỡn với tính mạng của con người. Hình ảnh Cọp trêu người cũng đầy ám ảnh. Cọp là
chúa tể, biểu tượng sức mạnh của rừng xanh kết hợp với 2 chữ Mường Hịch khiến người
đọc như cảm nhận được bước chân nặng nề của cọp rình người trong đêm khuya.
Bằng những nét vẽ táo bạo, gân guốc, Quang Dũng đã khắc họa 1 bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc hùng tráng, dữ dội.
-Núi rừng Tây Bắc không chỉ hùng vĩ, dữ dội mà còn hiện lên đầy thơ mộng trữ tình.
+ Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Bằng những nét vẽ thoáng, nhẹ, Quang Dũng đã gợi lên được chất thơ của cảnh vật.
Đêm sương trở thành đêm hơi bồng bềnh. Cảnh núi rừng hiện thực mà huyền ảo. Câu thơ
đem đến 2 cách hiểu:
.Người lính Tây Tiến hành quân giữa một rừng hoa với hương thơm ngào ngạt.
Hương hoa như lan tỏa, bao trùm không gian khiến họ cảm nhận linh hồn của nó đang
phảng phất, đang bầu bạn với người lính trên bước đường hành quân gian khổ.
.Người lính trên bước đường hành quân trong đêm tối, tay cầm những bó đuốc ánh
lên như những bông hoa lửa lung linh, cảm giác như có 1 lễ hội hoa đăng giữa chốn núi
rừng huyền ảo, lãng mạn. Nó khiến cho núi rừng Tây Bắc trở nên rất đỗi trữ tình và nên thơ.
+Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ toàn thanh bằng, 6/7 âm tiết là phù bình thanh (âm không dấu) phần lớn là
âm tiết mở, tạo nên giọng điệu êm ái, du dương, ngân vang, diễn tả được hình ảnh bình
nguyên trải rộng, bằng phẳng với những mái nhà ẩn hiện thấp thoáng sau màn mưa mờ ảo.
Hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng, không gian bỗng
như mênh mông, xa vời hơn. Cảnh bình dị mà không kém phần thơ mộng.
+Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Miền Tây không chỉ có núi cao, vực sâu mà còn có những bản làng nên thơ với ngọn
khói lam chiều ấm áp quyện hòa núi rừng, có mùi thơm của nếp xôi, có những cô sơn nữ
tình tứ, xinh đẹp.
*Hình ảnh người lính Tây Tiến
Trên phông nền thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt mà trữ tình, hình ảnh người lính hiện lên
đầy chân thực, sống động với hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt nhưng tâm hồn lãng mạn
bay bổng, lạc quan yêu đời, dũng cảm kiêu hùng.
+Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hai câu thơ tái hiện hình ảnh người lính hành quân trong đêm. Những bước chân mệt
mỏi vì bị sương mù bao phủ. Câu thơ khắc họa chân thực sự gian khổ vất vả với tâm trạng
mệt mỏi của người lính.
Tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng đem đến cho người đọc sự bất ngờ thú vị về vẻ đẹp tâm
hồn của những người lính trẻ. Dù mệt mỏi nhưng họ vẫn có những cuộc vượt ngục về tinh
thần, những phút giây thăng hoa, bay bổng để cảm nhận được nét thi vị lãng mạn của thiên
nhiên. Đối với họ núi rừng nơi đây thật mĩ lệ, thơ mộng và tình tứ. Họ như cảm thấu được
linh hồn của hương hoa đang bảng lảng, giăng mắc khắp không gian, đồng hành cùng mình
trên những bước đường hành quân xa xôi.
+Heo hút cồn mây sung ngửi trời
Câu thơ diễn tả sự tinh nghịch, hồn nhiên, tinh thần lạc quan, yêu đời của lính. Hành
quân trên đỉnh núi cao, mũi súng như chạm tới bầu trời. Hình ảnh vừa thể hiện niềm tự hào,
sự tếu táo, đùa vui của lính đồng thời vừa khắc họa vẻ đẹp kiêu hùng và tầm vóc của họ. Tư
thế của người chiến sỹ ngang tàng như sánh ngang cùng trời đất. Câu thơ gợi ta liên tưởng
đến hình ảnh đầy khí phách của những dũng sỹ chống quân Mông Nguyên thời Trần:
Hoành sóc giang san kháp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
+Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn thể hiện được tâm hồn đầy lãng mạn, bay bổng của
những chiến binh Tây Tiến. Trên những chặng đường hành quân vất vả với những ngọn núi,
con dốc hiểm trở, người lính vẫn thả mình phóng tầm mắt ra xa để giao hòa với thiên nhiên,
để cảm nhận được bức tranh phong cảnh đầy mĩ lệ. Giọng thơ êm ái ngân vang hay đó là
âm vang của tâm hồn say mê, háo hức của người lính trước cảnh sắc mĩ lệ.
Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ “nhà ai” trở nên mơ hồ, xa xăm, nghi vấn gợi nỗi trăn
trở trong lòng người. cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng “nhà” mang thanh huyền như 1
thoáng trầm lắng suy tư để rồi sau đó tất cả là những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ.
Hình ảnh ngôi nhà giữa mưa rừng ướt lạnh, giữa núi rừng mênh mông gợi cảm giác nhớ
nhung làm xao xuyến lòng người xa quê.
+Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sung mũ bỏ quên đời
Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện được tất cả những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành
quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, những thác ghềnh dữ dội. Hai câu
thơ giống như một bức kí họa đầy ấn tượng của người lính về sự hi sinh, mất mát mà họ
phải trải qua bởi người lính Tây Tiến vốn phải sống trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn,
gian khổ, thiên nhiên dữ dội… Câu thơ gợi lên 2 cách hiểu:
.Tác giả ghi lại những cái chết bất ngờ, đột ngột của người lính Tây Tiến. Ở đây Quang
Dũng không né tránh việc khắc họa hiện thực nghiệt ngã của chiến tranh, tuy nhiên bằng
cách nói giảm, nói tránh “không bước nữa” tác giả đã làm với đi nỗi bi thương. Cách diễn
đạt đó khiến người đọc hình dung ra người lính Tây Tiến hoàn toàn thanh thản và nhẹ nhõm
khi trở về với đất mẹ. Cái chết đối với họ nhẹ tựa lông hồng. Điều đáng tôn trọng hơn nữa
là dù hi sinh nhưng họ vẫn ở trong tư thế của đội hình đánh giặc.
.Cũng có thể hiểu, giữa chặng đường hành quân vất vả, người lính có những giấc ngủ
ngắn, ngủ vội trong phút dừng chân, 1 giấc ngủ mệt nhọc nhưng cũng thật vô tư, trẻ trung.
Dù hiểu theo cách nào thì 2 câu thơ cũng giúp người đọc hình dung được hoàn cảnh
sống, chiến đấu, sự vất vả, hi sinh của đoàn quân Tây Tiến. Đồng thời qua đó tác giả cũng
làm bật được tinh thần lạc quan, vẻ đẹp hào hoa, kiêu dũng của họ.
*Hai câu cuối:
Kết thúc đoạn thơ tác giả trở về với nỗi nhớ Tây Tiến không phải là núi rừng hoang
vu với những gian khổ, mất mát, hi sinh mà là nỗi nhớ về cảnh sinh hạt ấm áp tình quân
dân.
Niềm xúc động mãnh liệt ấy được bộc lộ rõ qua cụm từ “Nhớ ôi Tây Tiến”. Hình ảnh
“cơm lên khói, thơm nếp xôi” đã gợi lên được một không khí gia đình bình dị, ấm áp.
Hương thơm của nếp xôi, của cơm lên khói hay cũng chính là sự thơm thảo của tình người.
Cảnh hiện thực mà lãng mạn. Sau những chặng đường hành quân vất vả, người lính hành
quân trên bản làng, nhận được sự quan tâm, đùm bọc của đồng bào Tây Bắc. Những gói
cơm nếp thơm từ tay những bóng hồng sơn cước được chuyển đến tay người lính trẻ yêu
đời. Hình ảnh ấy đã trở thành biểu tượng đẹp đẽ của tình quân dân ấm áp, nghĩa tình.
Cụm từ “mùa em” gợi cho người đọc nhiều sắc thái cảm xúc. Người ta thường nói
mùa hoa, mùa quả…để chỉ thời điểm căng tràn sung mãn đầy ắp sắc hương của thiên nhiên.
Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa mới mẻ, táo bạo. “Mùa em” khiến cho Mai Châu
không chỉ là địa danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa. Mai Châu còn gợi
nhớ hình ảnh cô gái miền Tây duyên dáng. Có ai mà quên được giây phút dừng chân ở đây
khi vây quanh các anh là dân làng, là các cô sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng rỡ nụ cười,
nồng nàn hương sắc… Thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bềnh, xao
xuyến của những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.
Với những chiến binh Tây Tiến, Tây Bắc đúng là mảnh đất “đã hóa tâm hồn”.
Tiểu kết đoạn 1:
-ND:
Khổ thơ đã vẽ ra được 1 bức tranh thiên nhiên dữ dội, hiểm trở nhưng cũng rất
đỗi thơ mộng, trữ tình.
Trên phông nền cảnh sắc thiên nhiên ấy là chân dung người lính Tây Tiến vừa
ngang tàng kiêu dũng, vừa lãng mạn hào hoa
Qua đây ta thấy được nỗi nhớ da diết mãnh liệt trong tâm hồn thi nhân cũng như
sự gắn bó sâu sắc của ông đối với cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc và đồng đội. Vì vậy kỉ
niệm được gợi về đầy sống động tươi nguyên.
Cũng qua đây người đọc thấy được tình yêu quê hương đất nước đắm say của tác
gỉa.
-NT:
Có ý kiến cho rằng “Nội dung của tác phẩm văn chương như 1 con thuyền chở
nhiều ít mặc sức, nhưng nếu thiếu đi chiếc bơi chèo nghệ thuật thì nó sẽ đứng im bất
động”. Làm nên thành công của đoạn thơ không thể không kể đến tài năng NT của
Quang Dũng trên nhiều phương diện. Đoạn thơ thể hiện khá tập trung bút pháp lãng
mạn tài hoa của ông: vừa táo bạo gân guốc, vừa mềm mại, tinh tế, hình ảnh vừa đối lập
tương phản, vừa hài hòa đến mức tuyệt diệu. ngôn ngữ giàu tính nhạc, giàu chất tạo
hình, nhà thơ đã phối hợp linh hoạt thanh điệu bằng trắc, sử dụng nhuần nhuyễn từ láy
giàu chất tạo hình. Giọng thơ tha thiết, thấm đượm cảm xúc hoài niệm nhung nhớ.
-KB
Trước những đoạn thơ hay, bài thơ hay, người xưa thường nói “Thi trung hữu họa,
thi hữu duyên tình”. Có thể nói đoạn thơ này là một đoạn thơ như thế. Nó lí giải vì sao tác
phẩm lại trở thành viên ngọc toàn bích của nền thi cả Việt Nam hiện đại.
2. Đoạn 2: Nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng,
trữ tình.
- Cảnh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp dữ dội hùng vĩ, khác thường ở đoạn 1 đã lùi xa và để
đến với đoạn thơ thứ hai bất ngờ hiện ra vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ. Những nét vẽ khỏe khoắn,
gân guốc ở đoạn 1 đã được thay thế bằng những nét vẽ mềm mại, tài hoa ở đoạn 2.
-Đoạn thơ có 2 cảnh: Nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng, trữ tình.
a. Bốn câu đầu: thể hiện cảm xúc đầy say mê của người lính Tây Tiến trong buổi lễ sinh
hoạt văn hóa tinh thần.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Cảnh mở ra một đêm hội lung linh huyền ảo với không gian quen thuộc nơi
doanh trại. Ban đêm, không gian thường bao trùm bởi bóng tối, nhưng không gian ở đây
tràn ngập ánh sáng, màu sắc và âm thanh.
+ Trước hết đó là không gian tràn ngập ánh sáng. Từ “bừng” trong câu thơ gợi tả
một cách ấn tượng, bất ngờ về sự bừng lên của bó đuốc, tiếng nhạc. 1 vùng không gian như
bừng sáng và sôi động hẳn lên. Bóng tối bị đẩy lùi, màn đêm với sự âm u, tĩnh lặng được
xua tan, thay vào đó là 1 không gian rực rỡ lấp lánh ánh sáng bởi những “đuốc hoa”. Từ
“đuốc hoa” gợi lên 1 không khí rất đặc trưng của lễ hội. Ánh sáng được thắp lên từ hàng
trăm, hàng ngàn bó đuốc. Những bó đuốc như những bó hoa lửa thắp sáng cả rừng già.
Cách gọi “hội đuốc hoa” ẩn chứa trong đó tâm hồn hào hoa, lãng mạn của những chiến
binh Tây Tiến.
+ Đó còn là không gian rực rỡ sắc màu: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Hai chữ
“xiêm áo” gợi lên sắc màu lung linh, rực rỡ của đêm liên hoan. Với bút pháp mĩ lệ hóa,
Quang Dũng đã khiến độc giả liên tưởng tới giữa không gian đầy ánh sáng ấy những cô gái
Tây Bắc trong những bộ xiêm y lộng lẫy rực rỡ, dịu dàng mà rất gần gũi, say mê.
+Đó còn là không gian rộn ràng âm thanh của tiếng khèn, tiếng nhạc, của những điệu
múa, điệu nhảy làm mê say lòng người:
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ
như chốn núi rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
- Nổi bật trên nền không gian đầy sức sống ấy là hình ảnh nhân vật “em”.
“Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm nhìn. Nhân vật “em” đã có những
cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục
truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng
chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về
phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng
đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần bỏ lại
sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng có thể chính là những
anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ,
dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên
dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Với cách xưng hô đầy trìu mến và cũng không kém phần tình tứ , “em” trở thành hạt nhân
của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
-Bốn câu thơ cũng phơi mở tâm hồn hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến.
+Từ “bừng” ở đầu đoạn thơ có thể xem là nhãn tự của đoạn. Bừng không chỉ thể hiện sự
bừng sáng đột ngột của ánh sáng mà còn diễn tả sự bừng khởi trong tâm hồn, trong cảm xúc thích
thú hân hoan của người lính.
+Từ “kìa” đứng đầu câu thơ thứ 2 thể hiện một cái nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng
đến say mê. Đằng sau đó ta như thấy cả ánh mắt lẫn nụ cười đa tình của những chàng trai hào hoa,
phong nhã.
+Tâm hồn người lính dường như không chỉ được xây đắp bằng nhạc, bằng họa mà còn
bằng thơ. Trong đêm liên hoan văn nghệ đó, người lính Tây Tiến dường như quên đi những gian
khổ, mất mát, hi sinh, quên cả cái chết đang treo lơ lửng, quên cả tiếng gào thét của đại ngàn, tiếng
gầm dữ dằn của chúa sơn lâm. Toàn bộ tâm hồn của họ dường như đang say theo điệu nhạc, tiếng
khèn, theo điệu múa tình tứ, e ấp của những cô sơn nữ.
Những câu thơ nói về cảnh đêm liên hoan văn nghệ đã giúp ta hiểu sâu sắc hơn về tâm hồn lãng
mạn của những chiến binh Tây Tiến. Họ phần đông là những HS, SV, những chàng trai tới từ thủ
đô HN, mảnh đất nghìn năm văn hiến. Trong cuộc đời chiến sỹ của họ không chỉ có giáo gươm,
súng ống mà còn có cả những nhu cầu văn hóa tinh thần.. Họ tổ chức những đêm hội liên hoan để
làm vơi bớt đi những khó khăn gian khổ, những mất mát của đời lính. Những chiến binh Tây Tiến
không chỉ dũng cảm trong chiến đấu mà còn rất hào hoa, lãng mạn trong đời thường. Đoạn thơ
không chỉ bộc lộ tâm hồn sôi nổi yêu đời của những người lính trẻ mà còn thể hiện một cách sinh
động sự ấm áp tình quân dân. Phải chăng tình cảm này trở thành nguồn động lực tinh thần mạnh
mẽ giúp họ vượt lên và chiến thắng mọi thử thách của chiến tranh.
b. Bốn câu sau: Mở ra trước mắt người đọc là 1 bức tranh sông nước mây trời và con
người miền Tây mộng mơ, huyền ảo. Nếu cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc 1
không gian mơ say ngất ngây thì cảnh sông nước và con người nơi đây lại gợi nên vẻ thi vị làm
rung động sâu sắc lòng người. Có thể nói trích đoạn đã vẽ nên 1 bức tranh phong cảnh với những
hình ảnh đặc trưng quen thuộc của núi rừng Tây Bắc.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
+Người đi …ấy
Câu thơ như 1 lời nhắn nhủ da diết. Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với người đi
nhưng đây không phải nhắn với một ai đó mơ hồ mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về
Châu Mộc, về núi rừng xa xôi.
Cảnh sông nước Tây Bắc được khắc họa trong một buổi chiều sương. Câu thơ gợi lên 1
không gian đầy sắc trắng. Sắc màu này được dệt nên bởi những làn sương mỏng manh bảng lảng,
giăng mắc trên khung cảnh trời chiều. Nó khiến cho cảnh trở nên huyễn hồ, hư ảo. Người đọc có
cảm giác như lạc vào chốn bồng lai, tiên cảnh, thế giới của truyện cổ tích thần tiên. Đây là hình
ảnh rất gần gũi, quen thuộc, trở thành 1 biểu tượng đẹp của mảnh đất này, in sâu trong tâm khảm
của những chiến binh Tây Tiến.
Câu thơ sử dụng những từ ngữ giản dị, quen thuộc nhưng đầy sức gợi. “ấy” là một đại từ
phiếm chỉ được dùng để chỉ một thời khắc đặc biệt, trở thành 1 cột mốc đáng nhớ được khắc ghi
trong trái tim của những chàng trai trẻ.
+ Có thấy … bờ.
Câu 1 và câu 2 có sự cộng hưởng hài hòa. Trên nền sắc trắng của chiều sương, ta thấy hiện
lên những nét vẽ rất mảnh, rất mềm mại tinh tế về những bờ lau dọc triền sông. “Hồn lau nẻo bến
bờ” cũng là hình ảnh quen thuộc của núi rừng Tây Bắc. Những hàng lau trắng xóa, bạt ngàn nằm
dọc theo triền sông khiến không gian càng trở nên hư ảo. Chỉ 1 nét vẽ, Quang Dũng đã thâu tóm
được cái hồn, cái thần của cảnh. “Hồn lau” ở đây phải chăng là linh hồn của quê hương xứ sở.
Với nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã biến một thực thể vô tri vô giác trở thành 1 sinh thể thấm đẫm
tâm hồn, cảm xúc. Bằng cách diễn đạt này, núi rừng Tây Bắc toát lên 1 vẻ đẹp vừa hoang dại, vừa
thơ mộng. Giữa không gian sương khói hư ảo, các sự vật dường như trở nên mờ nhòe, hòa lẫn vào
nhau.
+ Có nhớ…mộc
Hòa lẫn với khung cảnh nên thơ nên họa ấy là dáng người trên độc mộc. Câu thơ khắc
chạm 1 hình ảnh quen thuộc, đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Đây cũng là một nét vẽ rất mảnh
nhưng đầy khỏe khoắn trong 1 bức tranh với đường nét mềm mại, tinh tế. “Dáng người” ở đây
phải chăng là dáng hình của người thiếu nữ Tây Bắc đầy duyên dáng, uyển chuyển, gợi cảm và
quyến rũ. Sự xuất hiện của con người khiến bức tranh thiên nhiên trở nên sống động, hữu tình hơn.
Câu thơ kết thúc bằng 2 âm tiết khép “độc mộc” với 2 thanh trắc đi liền nhau tạo nên 1
giọng thơ, hơi thơ khỏe khoắn làm nổi bật vẻ đẹp của người dân Tây Bắc: giữa không gian sông
nước mênh mông ấy, con người không nhỏ bé, đơn độc, không bị thiên nhiên nuốt chửng mà trở
thành 1 điểm nhấn, tiêu điểm của bức tranh.
+Trôi dòng…đưa
Câu thơ gợi lên 2 cách hiểu:
.Có người cho rằng hình ảnh hoa đong đưa ẩn dụ cho người Tây Bắc. Giữa sông nước
mênh mang, trên con thuyền độc mộc họ hiện lên với vẻ lãng mạn trữ tình như những bông hoa
đong đưa. Nếu hiểu như thế, câu thơ thể hiện niềm lạc quan bay bổng, tâm hồn hào hoa của những
người dân nơi đây.
.Có người cho rằng đó là những bông hoa rừng rụng thả trôi trên dòng nước lũ, sóng nước
dập dềnh khiến bông hoa đong đưa như chao lượn. 1 khung cảnh rất hữu tình và thơ mộng. Ở đây
Quang Dũng có 1 sự sáng tao từ ngữ rất linh hoạt. Thông thường từ láy “đong đưa” dùng để chỉ
nụ cười tình tứ của người con gái đẹp. Trong câu thơ, tác giả dùng để tả cảnh. Bằng cách đó, tác
giả đã biến 1 thực thể vô tri vô giác thành 1 sinh thể có hồn hòa hợp với con người, mang tâm
trạng con người: hoa cũng đong đưa như muốn làm duyên làm dáng. Ẩn hiện sau đó là ánh mắt,
tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến. Giữa mênh mông sông nước, người lính vẫn say mê
khám phá vẻ đẹp trữ tình của thiên nhiên, núi rừng.
+Hai câu thơ xuất hiện 2 câu hỏi liên tiếp: “có thấy, có nhớ” với 2 thanh trắc đi liền nhau
tạo nên 1 giọng thơ đầy khắc khoải da diết. Hỏi người đi cũng là nhằm để tự vấn, để KĐ nỗi nhớ
đang dâng trào mãnh liệt, đang khuấy động trong trái tim mình. Mặt khác nó cũng thể hiện được
sự tăng cấp của tình cảm, cảm xúc: nỗi nhớ, sự lưu luyến bịn rịn như bùng khởi mãnh liệt không
nguôi, không dứt trong tâm khảm thi nhân.
Cảnh HT mà lãng mạn, HT mà huyền ảo. Tất cả dường như không rõ nét, tất cả dường như mờ
nhòe. Nét bút này đã vẽ được cái mộng mơ của cảnh, cái hư ảo của hoài niệm. Quả thực “thi trung
hữu họa”. 4 câu thơ tả cảnh thiên nhiên với những hình ảnh đặc trưng nên thơ, mĩ lệ cho ta thấy
được vẻ đẹp tâm hồn của những chiến binh Tây Tiến cũng như của chính tác giả: lãng mạn, hào
hoa, có sự gắn bó thiết tha sâu nặng với mảnh đất Tây Bắc và quê hương đất nước nói chung.
Tiểu kết:
+ Đoạn thơ tái hiện sinh động những kỉ niệm đẹp của người lính Tây Tiến trên chiến
trường miền Tây, qua đó làm hoàn thiện vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc: không chỉ
hùng vĩ, dữ dội mà còn rất đẹp, thơ mộng, trữ tình. Đoạn thơ cũng phần nào cho ta
thấy vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến: nhạy cảm trước cái đẹp, giàu mơ mộng,
lãng mạn, gắn bó với quê hương xứ sở.
+ Đoạn thơ tiêu biểu cho tài thơ Quang Dũng: bút pháp thiên về lãng mạn, hình ảnh
vừa giản dị vừa chắt lọc, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất nhạc, ngòi bút tả cảnh
đậm chất hội họa phương Đông: gợi, tập trung vào linh hồn của cảnh, đường nét mềm
mại; đoạn thơ sử dụng phép điệp kết cấu, câu hỏi tu từ đầy sắc thái biểu cảm.
3. Đoạn 3
Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, người lính trở thành hình tượng trung tâm,
đem lại nguồn cảm hứng bất tận cho văn học giai đoạn này. Cảm xúc chung của các tác giả
là trân trọng, tự hào, ngợi ca:
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ 20
Một dây ná một cây chông cũng đánh tan giặc Mỹ
Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử, hình ảnh người lính bên cạnh những nét đẹp chung
còn mang vẻ đẹp riêng. Nếu trước đó đã từng có những cây bút thành công về mảng đề tài
này như Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí”, đến lượt mình, mặc dù là người đến sau nhưng
với một mĩ cảm mới mẻ, với ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã gặt hái cho mình 1 mùa bội
thu với Tây Tiến. Đặc biệt, tác giả đã dựng nên bức tượng đài bất tử về người chiến sỹ với
vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, góp phần làm phong phú thêm hình ảnh về người lính trong
kho tàng văn học dân tộc. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ thứ 3.
-Hai câu đầu:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
+ Cũng viết về người lính, thơ ca kháng chiến chống Pháp thường nói về những gian
khổ, hi sinh mà họ phải chịu đựng, nhất là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Nhiều tác giả sử
dụng bút pháp hiện thực để gọi căn bệnh này đúng với cái tên của nó. Cái căn bệnh quái ác
đó từng hành hạ người lính trong bài “Đồng chí”:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Đó còn là màu da vàng nghệ dấu vết của căn bệnh quái ác trên đôi má anh vệ quốc quân:
“Giọt giọt mồ hôi rơi. Trên má anh vàng nghệ”.
Viết về người lính, Quang Dũng cũng không né tránh khắc nghiệt này. Chỉ bằng vài
nét phác chạm người đọc đã thấy được dấu ấn của nó trên hình hài những chiến binh Tây
Tiến: mái đầu rụng hết tóc, da xanh tái như màu lá. Chỉ có điều hiện thực khắc nghiệt đó
không được phản ánh như nó vốn có mà được nhìn qua lăng kính lãng mạn. Lãng mạn
không phải là bịa đặt mà trên cơ sở hiện thực để lãng mạn hóa hiện thực. Từ hình hài tiều
tụy ấy của những chiến binh Tây Tiến ta vẫn thấy toát lên tinh thần, vẻ đẹp ngang tàng kiêu
dũng của họ. Đảo ngữ “không mọc tóc” với 2 thanh trắc của 2 âm tiết khép đi liền nhau,
câu thơ toát lên giọng điệu rắn rỏi, mạnh mẽ, hơi thở chắc khỏe. Bằng cách đó, Quang
Dũng đã khái quát được tư thế chủ động, ngang tàng, niềm tự hào khôn xiết của những
người lính trẻ về vẻ đẹp độc đáo của mình. Sự thật là do bệnh sốt rét hiểm nghèo hoành
hành mà người lính rụng hết tóc, cũng có thể để thuận tiện cho việc đánh giáp la cà mà
người lính tự cạo trọc đầu. Dù hiểu theo cách nào, qua cách nhìn lãng mạn thì những mái
đầu của các anh vệ trọc lại gợi lên vẻ đẹp lẫm liệt, dữ dằn khác thường. Sự thật là do bệnh
sốt rét, do thiếu ăn nên da dẻ người lính trở nên xanh xao vàng vọt. Nhưng qua cảm hứng
lãng mạn, màu xanh ấy như hòa vào lá ngụy trang với đại ngàn. Ở họ toát lên vẻ đẹp oai
hùm như mãnh hổ ngự trị chốn rừng sâu.
Miêu tả người lính Tây Tiến trong gian khổ và bệnh tật nhưng Quang Dũng không
chú trọng vào gian khổ và những hậu quả của nó mà nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi
thường, lãng mạn, hào hùng. Chính điều đó đã khiến những chiến binh Tây Tiến ốm
mà không yếu, bi mà không lụy. Sức mạnh tinh thần của họ vẫn làm cho quân địch
khiếp sợ.
- Hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
+ Nếu hai câu đầu, vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người lính hiện lên gián tiếp qua
ngoại hình thì đến đây, vẻ đẹp đó được khắc họa 1 cách trực tiếp. Người lính Tây Tiến
trong gian lao vất vả luôn toát lên vẻ hào hoa, phong nhã. Họ là những HS, SV, những
người đến từ thủ đô HN, ra đi từ trường xưa phố cũ nên tâm hồn mang theo rất nhiều mộng
và mơ.
+ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới"
- Câu thơ đặc tả đôi mắt một cách ấn tượng, một cặp mắt rất dữ dội, mạnh mẽ đối lập với
thân hình tiều tụy được miêu tả ở trên. “mắt trừng” là ánh mắt mở to, hướng thẳng về phía
trước, ánh mặt hiện lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, cái khát vọng được thực
hiện giấc mộng chiến trường, giấc mộng cao đẹp của những chàng trai thời chiến. Người
lính Tây Tiến luôn khao khát giết giặc lập chiến công. Ý chí khát vọng chiến đấu đó trong
trái tim những người lính trẻ như ngọn lửa rực cháy, luôn nung nấu thường trực.
+ Những chàng trai Hà Nội ra đi vì sự vẫy gọi của lí tưởng nhưng trong trái tim họ
vẫn luôn dành 1 góc trời lưu luyến nhớ nhung “Đêm mơ…thơm”. Với cái nhìn đa chiều,
Quang Dũng còn nhìn thấy đằng sau vẻ oai hùng của những chiến binh Tây Tiến, sống
trong cảnh vô cùng gian lao, luôn phải đối đầu với những mất mát, đau thương, song trái
tim họ vẫn luôn ôm ấp ước mơ về 1 thời quá vãng. Họ mơ về 1 tà áo trắng, 1 đôi mắt huyền,
1 mái tóc thề, 1 dáng kiều thơm. Hai câu thơ thể hiện 1 nỗi nhớ, tình yêu quê hương xứ sở,
giấc mơ về HN, về mảnh đất thiêng liêng. Dáng kiều thơm ở đây có thể là 1 dáng hình cụ
thể của 1 mĩ nữ và đó cũng có thể là biểu tượng của quê hương tươi đẹp. Dù hiểu theo cách
nào, người đọc cũng thấy được chiều sâu tâm hồn, trái tim đa cảm, lãng mạn của những
chàng lính trẻ.
Có 1 thời câu thơ bị đánh giá là chứa đựng cái “buồn rớt, mộng rớt tiểu tư sản”, thể
hiện sự ủy mị, yếu đuối trong tâm hồn. Bởi họ cho rằng mơ về HN là mơ về chốn phồn hoa
đô hội, mơ về dáng kiều thơm có nghĩa là mơ về tình yêu cá nhân, thể hiện lối sống vị kỷ,
hưởng lạc như Chế Lan Viên từng “sám hối”:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Đây là 1 cách đánh giá không thật công tâm đối với Quang Dũng bởi người đọc dễ nhận
thấy nỗi nhớ ấy không phải là biểu hiện của sự yếu đuối, bạc nhược về tư tưởng mà là
những cảm xúc rất thực, rất đời thường và rất con người. Nó như một liều thuốc tinh thần
để tiếp thêm sức mạnh, nâng đỡ tâm hồn những người lính trẻ, giúp họ vững chắc thêm tay
súng, là động lực tinh thần để họ dấn thân và sẵn sàng xả thân cho đất nước. Nó khiến ta
liên tưởng tới hình ảnh người lính trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Hai thơ tưởng như mâu thuẫn nhưng trên thực tế lại bổ sung, đắp đổi, để làm
phong phú thêm vẻ đẹp của người lính. Đó là những con người đầy ngang tàng
lẫm liệt nhưng không kém phần lãng mạn, hào hoa.
-Bốn câu sau: Khắc họa tư thế lên đường và sự hi sinh của người lính.
+ “Rải rác biên…xanh”.
Lại một lần nữa Quang Dũng không né tránh đau thương, mất mát. Nhà thơ dám nhìn
thẳng vào hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Không khí đau thương được gợi lên qua hình
ảnh những nấm mồ hoang vu nằm rải rác nơi rừng sâu biên giới. Câu thơ gồm 7 chữ, chữ
“rải rác” nằm đầu câu thơ dường như nhấn mạnh không khí hiu hắt, ảm đạm, còn 5 chữ,
chữ “mồ” được đặt giữa biên cương và viễn xứ. Còn gì thê lương hơn thế? Những nấm mồ
không hương khói ít người qua lại, gợi lên trong ta sự bùi ngùi thương cảm. Tuy nhiên mỗi
khi chìm vào trong đau thương, hồn thơ Quang Dũng lại được nâng lên bởi cảm hứng lãng
mạn, bởi đôi cánh của lí tưởng. Cái đau thương dường như bị vùi lấp đi khi câu thơ xuất
hiện nhiều từ hán Việt. Những từ ngữ này mang sắc thái trang trọng đã biến những nấm mồ
hoang vu thành thành những mộ chí tôn nghiêm vĩnh hằng. Cách diễn đạt đó cho thấy lòng
thành kính của tác giả trước sự hi sinh của đồng đội. Câu thơ như những nén tâm hương
dâng lên để tưởng niệm linh hồn tử sĩ. Dù miêu tả nhiều hiện thực đau thương song Quang
Dũng không hề đem lại cho người đọc cảm giác bi lụy mà ngược lại vẫn có tác dụng cổ vũ
tinh thần chiến đấu.
Cái bi thương bị át hẳn đi bởi vẻ đẹp của lí tưởng: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh". Câu thơ đã diễn tả tư thế lên đường lẫm liệt hiên ngang, xem cái chết nhẹ tựa lông
hồng. Hai chữ “chẳng tiếc” với 2 thanh trắc đứng liền nhau tạo nên giọng thơ rắn rỏi, gân
guốc. Bằng cách đó, tg đã làm toát lê được thái độ vừa ngang tàng, vừa tự nguyện, tâm thế
vô cùng thanh thản của người lính.
“Đời xanh” là cụm từ chỉ người tuổi trẻ với bao mộng mơ hi vọng. Đẹp là thế, đáng
yêu là thế mà họ sẵn sàng hiến dâng cho tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao đẹp hơn? Nó
gợi ta nhớ đến những vần thơ chân thành xúc động:
Chúng tôi đã đi không tiêc đời mình
Tuổi 20 làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi là Tổ quốc?
Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng như 1 lời thề nguyện, 1 quyết tâm thư. Giọng
thơ ấy, hình ảnh ấy làm ta liên tưởng đến những tráng sỹ trong thơ ca cổ:
“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” (CPN)
Hay tráng sỹ “Nhất khứ bất phục phản”
Đồng thời nó cũng làm toát lên không khí hào hùng của thời đại: Ra đi ra đi thà chết không
lùi, Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Sau câu thơ nói về cái chết, về những nấm mồ hiu hắt, ảm đạm dọc đường
hành quân là 1 câu thơ khẳng định ý chí. Lí tưởng và khí phách của người chiến sỹ, từ
đó người đọc có thể nhận ra hàm ý sâu xa của tác giả: các anh đã nằm lại nhưng với
Tổ quốc, các anh luôn bất tử, khí phách và tinh thần của các anh vẫn sống mãi tuổi 20,
vẻ đẹp hào hùng của các anh vẫn có sức cổ vũ mãnh liệt tới muôn đời.
+ Áo bào thay…hành
Cái chết của người lĩnh cũng mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng.
Hình tượng “áo bào” đem đến nhiều cách cảm nhận khác nhau. Nhà thơ Quang Dũng
từng chia sẻ: “Tử sĩ nằm xuống không có đủ mây chiếu để liệm”, họ được chôn cất trong
chiếc áo của chính mình. Nếu may mắn, họ sẽ được người dân đồng bào miền núi khâm
lượm bởi những chiếc chiếu của họ. Hiện thực bi thương đó được nhà thơ soi chiếu bằng
cặp mắt lãng mạn: những chiếc áo lính rách vì bom đạn, bạc vì mưa nắng qua cách nhìn
lãng mạn đã trở thành những chiếc áo bào sang trọng bọc thi thể của các anh về với cõi vĩnh
hằng. Người lính ngã xuống nơi chiến trường dẫu không có da ngựa bọc thây như những
dũng tướng ngày xưa thì đã có áo bào thay chiếu-hình ảnh biểu trưng cho vẻ đẹp cao cả lẫm
liệt đầy khí phách của các đấng trượng phu. Hình ảnh lấy từ văn học cổ điển này đã đẩy vẻ
kiêu dũng của những chiến binh Tây Tiến lên đến cực điểm, làm mờ thực trạng thiếu thốn ở
chiến trường.
Từ “về đất” đã thể hiện được sự hi sinh tự nguyện giản dị và thanh thản của những
chiến binh Tây Tiến. Biện pháp nói giảm, nói tránh vừa làm vơi đi nỗi đau thương vừa vĩnh
viễn hóa sự hi sinh của họ. Dùng từ “về” để nói cái chết, tác giả muốn khẳng định: với
người lính Tây Tiến chết không phải là hết mà là sự trở về với đất mẹ. Mẹ hiền Tổ quốc
luôn dang rộng vòng tay để đón những đứa con thân yêu trở về. Các anh về đất là để hóa
thân vào sông núi, để còn vĩnh viễn với núi sông này. Câu thơ gợi ta nhớ tới câu thơ trong
đoạn trích “Đất Nước” của NKĐ:
Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Đúng là Quang Dũng có nói tới những đau thương mất mát, tuy nhiên bi mà kg lụy, trái lại
vẫn mang vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ.
“Sông Mã…hành”. Sông Mã đã từng xuất hiện trong tiếng gọi tha thiết ở đầu bài thơ
như 1 biểu tượng của miền Tây, của quá khứ nay trở lại với âm thanh dữ dội, hào hùng
trong cảnh tiễn đưa tử sỹ. Không phải vang lên hay cất lên, cụm từ “gầm lên” đã thể hiện
trọn vẹn tình cảm dữ dội, 1 trong những tình cảm mạnh mẽ và sâu sắc. Sông Mã đã từng
gắn bó với các anh trong các chặng đường hành quân gian khổ, nay lại là chứng nhân lịch
sử thay lời cho cả thiên nhiên, đất trời, núi sông “gầm lên khúc độc hành”. Câu thơ mang
âm hưởng sử thi: giọng thơ trầm hùng, bi tráng, với việc sử dụng từ hán Việt “độc hành”
kết hợp động từ mạnh “gầm” và các thanh trắc âm vực thấp “khúc độc”, Quang Dũng đã
thể hiện được tình cảm ngưỡng mộ của chính mình, của quê hương xứ sở đối với những
người anh hùng. Người lính về nơi an nghỉ cuối cùng, dẫu không có quân đoàn quân nhạc
thì đã có tiếng gầm của Sông Mã. Dòng sông quê hương tấu lên khúc ca bi tráng để tiễn đưa
hương hồn các anh. Nó còn là tiếng vọng âm vang linh thiêng từ ngàn đời của đất nước:
Đề 6: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài Tây Tiến
MB
- Gt tác giả, tác phẩm
- Nêu vấn đề: trong thi phẩm, Quang Dũng đã tập trung đã tập trung khắc họa chân
dung người lính Tây Tiến, từ đó tạo nên 1 tượng đài bất hủ về anh bộ đội cụ Hồ, góp phần
làm phong phú thêm viện bảo tàng về người lính trong VHVN
- TB
1, GTC
- Hoàn cảnh sáng tác ( Nếu chưa nêu ở mở bài thì nếu ở phần GTC)
- Đề tài người lính (Đoạn 3: MB_ cách 2 _ý 2)
- Nét khác biệt của Quang Dũng khi viết về người lính, “Tây Tiến” của Quang Dũng
với bút pháp lãng mạn & tả thực đã khắc họa rất sống động, cụ thể chân dung người lính
vs vẻ đẹp kiêu hùng gan góc mà hào hoa lãng mạn & thấm đẫm chất bi tráng
2, Phân tích
2.1 Người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp kiêu hùng, gan góc
- Trước hết, thể hiện qua cái nhìn ngang tàng và lạc quan trên đường hành quân gian
khổ, thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội
+ Thiên nhiên khắc nghiệt, đường hành quân vất vả : địa hình hiểm trở ( Dốcc
lên ...), sương mù dày đặc, oai linh của chốn rừng thiêng nước đọc đe dọa, sự
rình mò của thú dữ,... Cuộc hành trình cuộc hành trình vạn lý trường chinh về
miền Tây quả là 1 thử thách rất lớn, nhất là đời sống của những người lính xuất
thân từ thanh niên tri thức HN.
+ Cái nhìn ngang tàng lạc quan : “Heo hút cồn mây...”
- Bệnh tật hoành hành, lam sơn chướng khí nhưng người lính Tây Tiến hiện ra ốm
mà ko yếu, bi mà k lụy, vẫn toát lên cốt cách mạnh mẽ phi thường.
+ Ngoại hình kì dị, tiều tụy. ( 2 câu đầu - khổ 3)
+ Tuy vậy, cốt cách đầy phi thường : đoàn binh, dữ oai hùm, quân xanh màu lá,
mắt trừng gửi mộng... Chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, gian khó song
những chiến binh Tây Tiến luôn nuôi kv lập công, giết giặc.
- Ý chí phi thường và vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến càng tỏa sáng hơn
khi đối mặt với cái chết:
+ T/g ko ít lần nhắc tới cái chết, 1 sự thật tàn khốc của ctranh, thể hiện 1 sự ám
ảnh nặng nề: anh bạn..., rải rác..., áo bào.....
+ Tư thế hi sinh lẫm liệt, oai phong, khi các anh ra đi được dòng sông quê hương
dâng tấu lên khúc độc hành.
- Lí tưởng cao cả: người lính ra đi theo tiếng gọi của non sông, ôm ấp trong mình
một mộng ước, lí tưởng yêu nước cao đẹp: “chiến trường đi chẳng..... ’’
2.2 Vẻ đẹp hào hoa lãng mạn
- Vđ này được nhà thơ khắc họa tập trung trong tương quan với khung cảnh Tây
Bắc. Với cái nhìn đa chiều về con người, Quang Dũng đã nhìn thấy đằng sau dáng vẻ oai
hùng tưởng dữ dằn của người lính là 1 tâm hồn vô cùng nhạy cảm, tinh tế, đầy lãng mạn,
bay bổng. Đây là 1 nét độc đáo của những chiến binh Tây Tiến.
- Cảm nhận tài hoa tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây. Dường như cứ
mỗi lần vượt qua đc thử thách, người lính Tây Tiến ko bỏ qua 1 cơ hội nào để thưởng thức
vẻ đẹp của cảnh trí thiên nhiên nơi phương xa xứ lạ.
+ Họ ngỡ ngàng nhận ra “ hoa về trong đêm khơi”
+ Họ sảng khoái ngắm nhìn khung cảnh “nhà ai Pha Luông...”
+ Họ say mê trước vẻ đẹp thơ mộng của cuộc sống sông nước MT, thể hiện chất
nghệ sĩ sâu thẳm trong tâm hồn người lính Tây Tiến: phân tích hình ảnh chiều sương, hồn
lau, hoa đong đưa.
- Cái nhìn say mê & tình tứ trước cảnh sắc và vẻ đẹp của con người Tây Bắc:
+người lính Tây Tiến thấy được vẻ đẹp, hương thơm nếp xôi vùng MC: Nhớ ôi
Tây Tiến../ MC...
+ Ánh mắt trầm trồ , ngỡ ngàng, ngất ngây, mê say trước vđ của con người Tây
Bắc, tâm hồn dạt dào niềm vui, ngất ngây men ay tình ái ( 4 câu đầu _ k2)
- Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được thể hiện qua những cảm xúc nhớ
thương, khát khao hạnh phúc và t/y: Đêm mơ HN...( so sánh hình tượng người lính nông
dân trong “Đồng chí’’: đơn sơ ,mộc mạc)
2.3 Đánh giá
- Nội dung
+ Bài thơ khắc họa thanh công hình tượng người lính Tây Tiến trong sự hòa hợp
tự nhiên của 2 vẻ đẹp hào hùng và rất đỗi lãng mạn. Đó là những con người đầy ý chí nghị
lực và dũng cảm bởi họ mang trong mình lí tưởng yêu nước cao cả song đầy nhạy cảm
tinh tế trong cách nhìn, cách cảm nhận về thiên nhiên, c/s.
+ Hình tượng người lính Tây Tiến tiêu biểu cho 1 thế hệ ra đi ko hẹn ngày về, kết
tinh vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng CMVN & những năm kháng chiến chống Pháp.
+ Qua đó người đọc cảm nhận được tình cảm của nt: xót xa thương cảm, trân
trọng ngưỡng mộ tôn vinh. Đây cũng là tiếng lòng, tình cảm chung của cả dân tộc đối vs
những người con ưu tú của mình.
+ Đối với người đọc: gợi nhắc ta về 1 thời kì lịch sử của dân tộc với thái độ trân
trọng tự hào, biết ơn, khơi dậy trong ta t/y quê hương đất nước.
- NT (Tham khảo trên phần phân tích)