Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 58

Đề luyện: Hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung của Vợ chồng A Phủ

Những ý chính cần có

1. Hoàn cảnh ra đời


+ Mùa thu năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc.
Chuyến đi dài tám tháng này đã giúp ông hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống của
người dân miền núi. Chuyến đi cũng để lại cho nhà văn nhiều kỉ niệm tình cảm sâu
sắc, thắm thiết với con người và thiên nhiên Tây Bắc.
+ Tô Hoài tâm sự: Thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ
cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và
dũng cảm lúc nào cũng thành việc thành người trong tâm trí tôi. Vì thế tôi viết
“Truyện Tây Bắc”. Tập Truyện Tây Bắc (1953) là kết quả của chuyến đi đó. Tập
truyện này gồm 3 truyện: Cứu đất cứu mường, Mường Giơn, và Vợ chồng A Phủ
Tác phẩm đã đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1954- 1955
+ Vợ chồng A Phủ gồm có 2 phần viết về 2 giai đoạn cuộc đời của Mị và A
Phủ: giai đoạn ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và giai đoạn ở Phiềng Sa
gặp gỡ CM và đã trở thành du kích.
+ Như vậy, cảm hứng sáng tác của Tô Hoài trong Vợ chồng A Phủ là cảm
hứng hồi sinh, cảm hứng ngợi ca và cảm hứng nhân đạo. Cụ thể là nhà văn đã lên
án XH giam hãm trói buộc tuổi xuân, sinh lực con người, tước đoạt khát vọng sống
và yêu của con người miền núi, thông cảm với nguyện vọng đau đáu, thiết tha của
họ muốn được vươn lên làm người, tin vào sức sống bất diệt của họ hướng đến tình
yêu, tự do và hạnh phúc..
2. Giá trị nội dung
2.1. Giá trị hiện thực
+ Qua những trang viết miêu tả cuộc đời số phận nhân vật Mị và A Phủ,
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ phản ánh một cách sinh động và chân thực tình cảnh
khốn khổ của của những người nông dân dưới chế độ thống lý ở miền núi phía Bắc
trước CM. Từ số phận của nhân vật trong truyện, có thể thấy được giai cấp thống
trị miền núi đã không từ một thủ đoạn nào để bóc lột sinh lực của những người trẻ
tuổi.
+ Tác phẩm cũng cho người đọc thấy phần nào quá trình giác ngộ của những
người dân miền núi, đứng lên, chống lại sự áp bức bóc lột giành lấy tự do cũng như
cho người đọc thấy con đường đi đến với cách mạng để thay đổi số phận mình của
những con người nghèo khổ ấy.
2.2. Giá trị nhân đạo
+ Qua việc miêu tả nỗi thống khổ của hai nhân vật Mị và A Phủ, tác phẩm
thể hiện niềm cảm thông thương xót sâu sắc của nhà văn Tô Hoài đối với số phận
khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của giai cấp
thông trị miền núi trước CM: bị đày đoạ về thể xác, bị trói buộc giam hãm về tinh
thần, sống không khác gì loài vật…
+ Nhà văn cũng phát hiện ra sức sống tiềm tàng bất diệt của những con
người đó, đó chính là những khát vọng đẹp đẽ dù bị vùi dập cũng không thể mất đi.
Nhà văn cũng khẳng định vào khả năng tích cực và con đường đi tới cách mạng
của người dân miền núi Tây Bắc. Đặc biệt nhà văn đề cao tình hữu ái giai cấp, sự
đồng cảm sẻ chia của những người cùng cảnh ngộ.
+ Tác phẩm tố cáo tội ác của lũ người cai trị vùng cao với một niềm khinh
ghét căm phẫn tột độ…Bộ mặt giai cấp thống trị hiện lên qua gương mặt của hai
cha con nhà thống lý Pá Tra: thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo, độc ác…
+ Chủ nghĩa nhân đạo trong VCAP là chủ nghĩa nhân đạo kiểu mới. Nó
không chỉ dừng lại ở sự xót thương, thông cảm với nỗi đau khổ của con người như
trong tác phẩm hiện thực phê phán Trước CM. Nó luôn đặt lòng tin ở sự trỗi dậy
của con người chống lại ách áp bức để hướng về chân trời tươi sáng. Mị và A Phủ
cũng chạy vào bóng đêm như chị Dậu ngày bào nhưng tiền đồ của họ không “tối
đen như mực” bởi họ có hai người bên nhau và phía trước cách mạng đang chờ đón
họ để nâng đỡ họ. Tư tưởng nhân đạo này thể hiện cái nhìn lạc quan của nhà văn
về số phận của con người. Có được điều này, là nhờ các nhà văn viết sau Cách
mạng nên được trang bị tư tưởng cách mạng nhìn nhận sự vật hiện tượng theo
chiều hướng đi lên, tích cực. Số phận của nhân vật vận động đi từ bóng tối ra ánh
sáng, gian khổ đến sướng vui, không bế tắc như những nhân vật trong văn học hiện
thực phê phán trước đây…

Đề luyện:
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt để làm nổi rõ những sáng tạo nghệ thuật
độc đáo của nhà văn Kim Lân.

Những ý chính cần có

1.Giới thiệu tác giả và tác phẩm


+ Truyện ngắn Vợ nhặt được coi là kiệt tác của nhà văn Kim Lân, kết tinh
được những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
+ Cùng với tình huống truyện độc đáo, Kim Lân còn rất thành công trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là trong việc tái hiện những diễn biến tâm
trạng. Các nhân vật sống động, gần gũi như vừa từ một lối ngõ của miền quê nào
bước vào trang văn Kim Lân. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, tự nhiên cũng mang lại
sức hấp dẫn cho tác phẩm.
2. Những đặc sắc nghệ thuật
2.1. Nhan đề:
+ Bản thân nhan đề của truyện đã là một đặc sắc nghệ thuật. Nó không phải
là sản phẩm của một sự ngẫu nhiên mà là một nhan đề có nhiều ý nghĩa: bao hàm
được tình huống éo le của truyện, hé mở nhiều giá trị độc đáo như giá trị hiện thực
và nhân đạo khơi gợi nhiều sự hấp dẫn, thú vị (…)
2.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
+ Tình huống truyện vừa có tính điển hình, vừa độc đáo, bất ngờ, dồn nén,
đầy kịch tính, các chi tiết chân thực, tự nhiên sinh động.
+ Diễn biến tình huống: Cuộc hôn nhân kì lạ (…). Anh cu Tràng lấy được vợ
diễn ra đơn giản đến lạ lùng. Vào một năm đói khát người chết như ngả rạ, anh
Tràng nghèo khổ, xấu xí tình cờ nhặt đuợc người phụ nữ khốn khổ còn nghèo hơn
anh. Họ dẫn nhau về làng, về cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại và nên vợ nên chồng.
+ Nhưng chính từ sự đơn giản đó, KL đã tạo ra được trạng thái xung đột của
những đối nghịch tuởng chừng không thể dung hoà: con người đi tìm sự giàu có
về tinh thần trong hoàn cảnh cực kì nghèo khó về vật chất; hạnh phúc lứa đôi nảy
sinh trong nỗi tuyệt vọng và đói khát, sự sống nảy sinh giữa cái chết, hi vọng nảy
sinh trong cơ cực, chua chát.
+ Từ tình huống giản đơn nhưng chứa đựng nhiều xung đột ấy, nhà văn
hướng người đọc đến nhận thức về tinh thần nhân bản và giá trị hiện thực của tác
phẩm: Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn hướng tới hạnh phúc, tương
lai, dù bị hạ bệ xuống hàng bèo bọt rẻ rúng, con người vẫn giữ được những phẩm
chất đáng trân trọng của con người…
+ Tình huống truyện cũng là một “khoảnh khắc” qua đó, tính cách, số phận,
tâm trạng nhân vật được hiện hình một cách rõ nét. Ở đây, nhà văn KL đã tái hiện
diễn biến nội tâm của Tràng, sự thay đổi của người vợ nhặt, đặc biệt và tâm lí bà
cụ Tứ một cách chân thực tinh tế.

2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật : Đặt nhân vật vào một tình huống éo le,
KL đã miêu tả thành công nhân vật với những tâm trạng, nét tính cách khác nhau
mỗi người một vẻ.
- Nhân vật bà cụ Tứ
+ Nhân vật bà cụ Tứ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí sắc sảo của nhà văn
Kim Lân. Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trước việc đứa con trai ngờ nghệch của
mình có vợ đầy phức tạp “theo kiểu vận động gấp khúc, phù hợp với tâm lí người
từng trải, nhân hậu” (Nguyễn Quang Trung).
+ Diễn biến: Từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên không giải thích nổi sự có mặt của
người đàn bà kia trong nhà mình, đến cúi đầu nín lặng tủi thân, xót xa cho thân
phận khi hiểu ra tất cả, từ sự lo lắng cho cuộc sống quá mong manh của đôi trẻ đến
niềm vui mừng khi nhận ra sự may mắn của con trai mình, từ nỗi xót thương thông
cảm với người con dâu đến niềm lạc quan tin tưởng vào tưong lai.
+ Kim Lân xoáy sâu vào dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật. Nhà văn để
bà cụ Tứ cảm nhận về hạnh phúc bất ngờ của đứa con trai bằng cả cuộc đời làm
vợ, làm mẹ cay cực của mình, bằng nhận thức của người từng trải. Tâm trạng ấy
cũng được thể hiện ra nét mặt, cử chỉ, cung cách sinh hoạt hằng ngày…(Chi tiết
giọt nước mắt, nồi cháo cám…)
+ Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên một cách
sinh động, đó là một người phụ nữ từng trải nhân hậu, ấm áp tình người, lạc quan,
hi sinh, chia sẻ…một người phụ nữ, người mẹ điển hình.
- Nhân vật Tràng:
+ Diễn biến tâm lí của anh cu Tràng có phần đơn giản hơn nhân vật ngươì
mẹ. Đó là tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng, phù hợp với một chàng rể đang
tràn trề hạnh phúc.
+ Diễn biến: Hồi hộp, ngỡ ngàng và có chút ngập ngừng khi thấy người đàn
bà theo mình về; Cảm xúc bâng khuâng, lâng lâng với niềm vui bất ngờ của chàng
trai có vợ trên đường trở về nhà. Niềm vui đó khiến Tràng quên hết những cảnh
sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ, quên cả những
tháng ngày trướcmặt…Một cái gì mới mẻ lắm, chưa từng thấy, ..nó ôm ấp, mơn
man khắp da thịt như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng; Hạnh phúc trọn vẹn với ý
thức về trách nhiệm của một người con trai, người chồng trong gia đình: Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này.
+ Điểm nhìn trần thuật đã được di chuyển một cách linh hoạt. Nếu ở nhân
vật bà cụ Tứ, điểm nhìn di chuyển từ nội tâm nhân vật đến cử chỉ lời nói thì ở nhân
vật người con trai, điểm nhìn lại bắt đầu từ bên ngoài rồi di chuyển đến điểm nhìn
bên trong. Điều này đã giúp cho nhà văn phân tích được tinh tế những trạng trạng
thái tâm lí của những con người trong một hoàn cảnh đặc biệt: sự đói khát có thể
làm biến dạng hình hài, thân xác con người nhưng không huỷ diệt được khát khao
hạnh phúc, nhu cầu được sốg và hi vọng về một cuộc đời tươi đẹp hơn.

- Nhân vật người vợ nhặt (bổ sung ở bài phân tích nhân vật)
+ Tâm trạng người vợ nhặt không được tập trung miêu tả trực tiếp như anh
cu Tràng và bà cụ Tứ, mà chỉ được cảm nhận qua vẻ bên ngoài: rón rén, e thẹn,
khó chịu, thở dài, ngượng ngiụ, mặt bần thần, khẽ nhúc nhích, ngồi mớm, khép
nép…Đó là những động từ, cụm động từ, tính từ miêu tả trạng thái cảm xúc của
người vợ.
+ Sự thay đổi của người vợ từ chỗ ngoa ngoắt, cong cớn khi ở chợ trở thành
ngoan hìên, đảm đang cũng được thể hiện ở hành động bên ngoài: chi tiết nén tiếng
thở dài, và bát cháo cám vào miệng, quét những nhát chổi sàn sạt…
2.4. Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ đối thoại
+ Ngôn ngữ đối thoại mang đậm phong cách sinh hoạt, nhưng mặt khác lại
được chắt lọc một cách nghiêm nhặt.
+ Ngôn ngữ phản ánh một cách sinh động địa vị xã hội, nguồn gốc xuất thân
của các nhân vật trong tác phẩm. Đó là ngôn ngữ mộc mạc bình dị của người nông
dân chất phác, dù là lời nói đùa, hay là lời nghiêm túc: Thì u hẵng vào ngồi lên
giường lên giếc chĩnh chện đã nào/ Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ/
chẳng qua nó cũng là cái số cả…
+ Ngôn ngữ phản ánh tính cách, đặc điểm, tâm lí của con người, ví dụ tính
thực tế của người mẹ khi ước mơ: Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà…Ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem, ví dụ sự ngờ ngệch, nông cạn,
vô tư của anh con trai: quái, sao nó lại buồn thế nhỉ/ Chán quá, chẳng đâu vào đâu
tự nhiên cũng khóc…, sự vô duyên, thiếu nữ tính của nhân vật ngưòi đàn bà khi ở
chợ: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu/ Hà, ngon!....
+ Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật phù hợp với tình huống giao tiếp, tình
huống của truyện: ví dụ cuộc đối thoại giữa Tràng và người đàn bà chính là một
khúc hát giao duyên, cuộc đối thoại đó xoay quanh chủ đề là miếng ăn. Chính cái
đói là nguyên cớ để Tràng nhặt được vợ, đây cũng là tình huống của truyện.
3. Kết luận
Đề luyện: (2 điểm)
Nêu ý nghĩa chi tiết “tiếng sáo gọi bạn tình” trong truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ của nhà văn Tô Hoài.

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu tác giả tác phẩm và chi tiết


+ Vợ chồng A Phủ là tác phẩm thể hiện rõ phong cách Tô Hoài trên nhiều
khía cạnh trong đó có khả năng mô tả tinh tế nội tâm con người cũng như vẻ đẹp
của thiên nhiên, phong tục vùng cao…
+ Để làm được điều đó, Tô Hoài đã xây dựng được nhiều chi tiết đặc sắc,
một trong số đó là chi tiết tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Chi tiết
này có nhiều ý nghĩa.
2. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Mị
+ Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – nhà văn Tô Hoài đã miêu tả âm
thanh của tiếng sáo đêm xuân rất với các cung bậc rất phong phú. Nhà văn đã hơn
sáu lần miêu tả các trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “tiếng sáo gọi bạn
đầu làng”văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một
gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị
và “lửng lơ” bay ngoài đường có khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm
hồn. Khi đầy khát khao: Ta không có con trai con gái, ta đi tìm người yêu; khi da
diết với những lỗi hẹn đáng tiếc: Anh ném pao em không bắt, em không yêu quả
pao rơi rồi…Từng thanh âm của tiếng sáo với những cường độ và cao độ khác
nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần, khi là tiếng gọi của cuộc sống bên ngoài, khi
lại là tiếng đời, khi là tiếng lòng cứ không thôi thổn thức trong Mị.
+ Để làm nổi bật sức sống tiềm tàng trỗi dậy trong Mị, Tô Hoài đã mượn
tiếng sáo. Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời
xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài nơi địa ngục trần gian nhà
thống lý Pá Tra. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ,
nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời: “có biết
bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Như vậy, có thể nói tiếng sáo đã
trở thành nhịp cầu nối giữa hiện tại đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền
đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng.
+ Nhớ về quá khứ, Mị đồng thời nhận thức được hiện tại, thấm thía thân
phận và cảnh ngộ của mình. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài khi xuân về và men
rượu, âm thanh tiếng sáo đã làm thức dậy trong Mị ý thức về tình yêu, hạnh phúc
và lòng khát khao cuộc sống tự do, tiếng sáo đã cộng hưởng, làm thức tỉnh ý niệm
về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nhà văn Tô Hoài đã rất tài tình khi dung các
trường độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cung bậc tâm trạng,
sự xáo trộn trong tâm tư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội tâm nhân
vật.
+ Tiếng sáo da diết ở bên ngoài tác động đến tâm lí và đồng thời dắt dẫn Mị
đi từ hành động này đến hành động khác: Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi,
lấy cái váy hoa ở phía trong vách, soi gương vấn lại tóc và xắn miếng mỡ bỏ vào
đĩa đèn dầu cho sáng…Lúc này đây, Mị cũng như đang sống trong mộng du cứ
vùng bước đi theo tiếng sáo và tiếng sáo kia đã trở thành tiếng gọi của tình người,
tình đời, tiếng gọi của sự sống réo gọi ngoài kia…
3. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm
+ Chi tiết tiếng sáo cho thấy tấm lòng yêu thương trân trọng của Tô Hoài đối
với con người. Ông đã không dừng lại ở chỗ xót thương cho số phận tủi nhục của
con người mà còn khám phá ra những khát vọng nhân văn đẹp đẽ trong họ, đó là
khát vọng được sống có ý nghĩa, sống với những ước mơ về tình yêu, về tự do,
hạnh phúc…Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng trong Mị bắt đầu từ việc Mị lắng
nghe tiếng sáo ở bên ngoài đánh thức nỗi khát khao được đi chơi và khi tiếng sáo
đã nhập hẳn vào nội tâm Mị, cô cũng bắt đầu có những hành động để thực hiện ước
muốn ấy…Cho nên chi tiết tiếng sáo là chi tiết thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà
văn.
4. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện tài năng, phong cách của nhà văn
+ Chi tiết tiếng sáo thể hiện rõ tài năng, phong cách của Tô Hoài: khả năng
miêu tả tâm lý nhân vật, nhất là diễn tả những trạng thái chập chờn trong tiềm thức
nhân vật. Chi tiết tiếng sáo cho thấy Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả những sự biến
đổi tinh vi trong tâm trạng nhân vật Mị.
+ Miêu tả sinh động vẻ đẹp đặc trưng của văn hoá vùng cao với những nét
phong tục độc đáo: những đêm tình mùa xuân, không khí ngày Tết ở vùng cao…
5. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm
+ Chi tiết tiếng sáo tạo nên màu sắc độc đáo cho thiên truyện: gợi không khí
Tây Bắc; tạo chất nhạc, chất hoạ, chất thơ, chất trữ tình cho tác phẩm…

Đề luyện: Ý nghĩa nhan đề, giá trị nội dung và nghệ thuật của Vợ nhặt
Những ý chính cần có
1. Ý nghĩa nhan đề
+ Nhan đề Vợ nhặt là một nhan đề lạ, độc đáo, có ý nghĩa sâu sắc. Trước hết,
nó đã bao quát, chứa đựng tình huống then chốt của truyện ngắn này: tình huống nhặt
vợ. Đây là tình huống éo le, vừa bi vừa hài, chứa đựng nhiều nghịch lý nên nhan đề đã
phần nào hé mở tính chất hấp dẫn, lôi cuốn của nó.
+ Nhan đề Vợ nhặt cũng đồng thời thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của
tác phẩm. Giá trị hiện thực thể hiện ở việc nó phản ảnh phần nào thực trạng ccuộc
sống của con người trong nạn đói năm 1945, phải sống giữa ranh giới sự sống và cái
chết, con người vì cái đói mà bị hạ bệ xuống hàng bèo bọt rẻ rúng, hay phải đến với
nhau trong một đám cưới sơ sài…
+ Nhan đề có khả năng gợi nỗi xót xa thương cảm trong lòng người đọc vì
nó gợi lên tình huống éo le, đáng thương, cho thấy ý tưởng nghệ thuật của nhà văn
Kim Lân là ca ngợi con người dù trong hoàn cảnh đói khát tăm tối nhất vẫn không
nguôi khát vọng về hạnh phúc, vẫn vươn lên kiêu hãnh làm người. Nhà văn cũng
khẳng định chính tình người nhân hậu, lạc quan trong khốn khó đã giúp họ vượt lên
những nỗi bất hạnh trong cuộc đời.
+ Nhan đề Vợ nhặt thể hiện sự lựa chọn ngôn ngữ tài tình của Kim Lân, đó
là thứ ngôn ngữ bình dị, mang phong cách sinh hoạt nhưng lại được lựa chọn nghiêm
nhặt, chuyển tải được nhiều ý nghĩa.
2. Giá trị hiện thực
+ Qua tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng giữa những ngày đói quay đói
quắt, nhà văn đã tái hiện lại sinh động, ám ảnh không khí ngột ngạt, cuộc sống của
người dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời, truyện ngắn
cũng phản ánh sự lựa chọn của lịch sử trong một thời điểm tận cùng của sự sống, khi
đối mặt với cái chết, con người sẽ biết cách vượt lên để sống bằng bất cứ giá nào…
+ Qua chi tiết lá cờ đỏ sao vàng ở cuối tác phẩm, truyện cũng phản ánh
những tín hiệu về một cuộc đổi thay lớn sắp xẩy ra, đó là cuộc cách mạng tháng Tám
năm 1945.
3. Giá trị nhân đạo
+ Qua tình huống nhặt vợ cũng như số phận của những nhân vật trong
truyện, nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thông thương xót đối với những cảnh ngộ éo le
của họ. Một anh cu Tràng nhờ nạn đói mới lấy được vợ, một người vợ nhặt phải theo
không một người đàn ông xa lạ về nhà chỉ mong được tồn tại qua nạn đói, một bà mẹ
nghèo khó tủi phận vì không lo được cho con một đám cưới tử tế hơn…
+ Nhà văn cũng tố cáo chế độ thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người
vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm đảo lộn rất nhiều giá trị trong cuộc
sống, hạ bệ con người xuống hàng bèo bọt rẻ rúng…
+ Nhưng nhà văn cũng bày tỏ niềm tin tưởng, ngợi ca trân trọng đối với
những vẻ đẹp phẩm chất của con người toả sáng trong những hoàn cảnh éo le, tăm tối
nhất, đó là bản năng sống mãnh liệt, là khát vọng hạnh phúc không nguôi, là niềm lạc
quan trong khốn khó, là tình người ấm áp nương tựa với nhau trong hoạn nạn…
+ Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt là giá trị nhân đạo kiểu mới, do nhà văn viết
sau CMTT, khi đã được trang bị tư tưởng cách mạng nên có cái nhìn lạc quan đối với
số phận con người. Có thể thấy, kết thúc tác phẩm Vợ nhặt là dự báo một tương lai
sáng sủa đối với gia đình Tràng, không bế tắc như trong những tác phẩm của văn học
hiện thực phê phán trước cách mạng.

Đề luyện:
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để thấy được khát
vọng sống mãnh liệt của người phụ nữ trong hoàn cảnh éo le.

Dàn ý chi tiết


1. Giới thiệu tác giả tác phẩm và nhân vật
+ Vợ nhặt được coi là kiệt tác của Kim Lân. Truyện ngắn thể hiện sự éo le, khốn cùng
của người dân ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Mặt khác, nó thể hiện lòng nhân ái, tình thương
yêu giữa con người và con người trong hoàn cảnh khốn cùng.
+ Hơn thế nữa, Vợ nhặt đã thể hiện sức sống mãnh liệt, sự khao khát và niềm tin, hi vọng
của con người trong hoàn cảnh khốn cùng ấy. Đặc biệt, qua nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã
bộc lộ cái nhìn trân trọng đối với người dân lao động nghèo khổ, đặc biệt là sự trân trọng đối với
vẻ đẹp thiên tính nữ không mất đi trong người phụ nữ khốn khổ ấy. Xuất hiện ít thôi nhưng nhân
vật này đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị hiện thực lớn lao, ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của
thiên truyện.
2. Phân tích chi tiết
2.1 Khái quát về nhân vật
+ Truyện nổi lên 3 nhân vật chính: Tràng, bà cụ Tứ và cô vợ nhặt. Mỗi nhân vật đều có
một vị trí riêng trong tác phẩm. So với 2 nhân vật kia, thì cô vợ nhặt có vẻ quan trong trọng hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà tên tác phẩm này liên quan trực tiếp đến người đàn bà.
+ Tuy nhiên xung quanh nhân vật này cũng có những nghịch lí rất đáng kể. Là nhân vật
quan trọng nhưng cũng là nhân vật duy nhất trong truyện không được đặt tên riêng. Tự đặt mình
vào hoàn cảnh mất danh giá dễ bị xem thường thế nhưng người đọc lại không thể coi thường mà
chỉ thấy thương, cảm thông, đôi chút cảm thấy ngồ ngộ. Những nghịch lí này đã chứa đựng vẻ
đẹp của hình tượng nhân vật vợ nhặt.
2.2. Phân tích chi tiết
a. Sự xuất hiện
+ Đó là người đàn bà không tên không tuổi, không rõ lai lịch, không có nhà cửa, chỉ biết
thị là một trong những nạn nhân bị cái đói thổi dạt về đây. Lúc gặp Tràng, thị cùng mấy chị con
gái ngồi vêu ra trước cửa kho thóc, chờ nhặt hạt rơi hạt vãi => Sự tận cùng của cái nghèo, khổ.
Chi tiết “ngồi vêu” rất đắt, nó không chỉ gợi lên hình ảnh thiếu sức sống của những thân phận
người mà lột tả bản chất của số phận con người trong nạn đói, đó là sự mong mỏi đến vô vọng
một sự giúp đỡ, một sự ban phát, bố thí để sống qua được từng ngày, từng khắc, chứ chưa nói gì
qua được nạn đói.
+ Ngoại hình: thị xuất hiện với dáng người gầy vêu vao, áo quần tả tơi như tổ đĩa, hai má
gầy sọp , đôi mắt trũng sâu trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, ngực phẳng phiu gầy lép…Đây là
một hình dạng tiều tuỵ nhất, là bằng chứng “sinh động” nhất, chứng minh cho sự tàn phá ghê
gớm của cái đói.
b. Sự gặp gỡ của thị và anh cu Tràng:
+ Lần gặp thứ nhất: nghe anh phu xe hò một câu: Muốn ăn cơm trắng với giò này/ Lại
đây mà đẩy xe bò với anh, trong số những người ngồi “vêu” ra trước của kho thóc, chỉ có thị
đứng lên, chạy lại đẩy xe bò với anh cu Tràng. Chi tiết này vừa ngẫu nhiên nhưng vừa tất nhiên,
nó báo hiệu một tính cách khá nhanh nhẹn, nhưng cũng cho thấy thị chỉ mong có ai nhờ cậy để
được bám víu vào đó.
+ Lần gặp thứ hai là hệ quả của lần gặp thứ nhất. Thị cong cớn, sưng sỉa, chao chát,
chỏng lỏn: Điêu, người thế mà điêu…Thị có ý nhắc lại lời hứa vu vơ của anh Tràng lần trước.
Khi được mời ăn, thì ngồi xuống ăn một lúc 4 bát bánh đúc. Kim Lân miêu tả: thị sà xuống ăn
một chặp 4 bát bánh đúc , không chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa, quẹt ngang miệng
mà thở. => Rõ ràng, ở người đàn bà ấy, lúc này chỉ còn lại bản năng. Để được ăn, thị mất đi lòng
tự trọng, sự xấu hổ, sự nữ tính của một người phụ nữ. Thế mới biết,cái đói có sức công phá ghê
gớm, nó không chỉ làm con người tiều tuỵ về thân thể, mà còn biến dạng về nhân phẩm, tâm hồn.
(ý nghĩa tố cáo)
c. Sự thay đổi khi làm vợ anh cu Tràng:
+ Và lời mời của anh cu Tràng ngay lập tức trở thành lời cầu hôn chính thức đối với
người đàn bà đói rách ấy. Thị đã bám víu vào Tràng như người chết đuối vớ được cọc”. Đây rõ
ràng không phải là chuyện vu vơ tầm phào nữa mà đã trở thành chuyện cả đời người: chuyện hôn
nhân. Người đàn bà ấy đã chính thức trở thành “vợ nhặt”.
+ Rõ ràng việc đồng ý theo anh cu Tràng về nhà đã thể hiện ở cô một niềm khao khát
được sống rất mãnh liệt. Chính điều này đã làm cô nghĩ tới Tràng. Trong cô “vợ nhặt” này diễn
ra một cuộc đấu tranh giữa “bản năng ham sống và nhân cách làm người”. Ở trong bước đường
cùng, bản năng ham sống đã trỗi dậy và chiến thắng, nó lấn át đi nhân cách làm người của cô.
Nhưng những phẩm chất ấy không mất đi, nó đã sớm được bộc lộ ngay từ những bước chân đầu
tiên theo anh cu Tràng về xóm ngụ cư.
+ Trên đường về nhà, thị đi sau Tràng mấy bước, rất e thẹn ngại ngùng. Vẻ táo tợn, đanh
đá khi gặp Tràng giữa chợ đã hoàn toàn mất đi. Khi bị đám trẻ con trêu ghẹo, thị càng xấu hổ,
ngượng ngiụ, chân nọ đá vào chân kia trong khi Tràng khi phởn phơ, sung sướng. Chính những
biểu hiện ấy của người đàn bà kia đã cho thấy chị không phải là người đánh mất hoàn toàn nhân
phẩm, vì nó là biểu hiện của nữ tính, và là ý thức xót xa trước thân phận mình. Điều này đã làm
cho người đọc tin tưởng vào hạnh phúc nhỏ nhoi mà Tràng đang có được.
+ Thái độ của người đàn bà khi về đến nhà Tràng càng thể hiện rõ điều đó. Lúc theo
Tràng vào nhà, nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại”, chị đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, như tự ý thức được sự tự nguyện gắn bó, châp
nhận hoàn cảnh nhà chồng không một lời oán thán, phê phán. Chị cũng cư xử rất ý tứ : từ chuyện
chào hỏi mẹ chồng lễ phép, cư đứng khép nép, không dám ngồi, khi được bà cụ tứ cho phép ngồi
cũng chỉ dám ngồi mớm ở mé giường, hay khuôn mặt bần thần nghĩ ngợi, cho đến sáng hôm sau,
điềm nhiên ăn bát cháo cám mẹ chồng đưa cho dù trong lòng, trong miệng đắng chát. Chị không
nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của một người mẹ già… Tất cả những điều ấy chứng tỏ người
đàn bà kia không phải là vô tâm, vô tình, cạn nghĩ. Phải tinh tế, ý nhị lắm, phải đầy tình thương,
trách nhiệm lắm chị mới có được những ứng xử như thế.
+ Sau đêm tân hôn, người vợ nhặt đã thực sự trở thành người vợ đảm đang, Chị dậy sớm
cùng mẹ chồng quét dọn vườn tược thật sạch sẽ. Tràng cũng thấy người vợ của mình nhanh
nhẹn, hiền hậu đúng mực khiến anh thêm vui vẻ, tự hào. Chi tiết chị quét sân được nhà văn miêu
tả: tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Đó là những hát chổi của lòng tự tin. Người vợ
nhặt ấy như đang khẳng định sự có mặt của mình nơi ngôi nhà này- sự có mặt đem lại vẻ sáng
sủa, sạch sẽ cho một cuộc sống mới. (có thể phân tích thêm chi tiết người vợ kể về chuyện cướp
kho thóc trên mạn Thái Nguyên để thấy thêm một phẩm chất khác của người đàn bà này như
mạnh mẽ, và có ý thức thay đổi vận mệnh… )
+ Như thế , có thể thấy rằng những cái chao chát chỏng lỏn chỉ là lớp vỏ bên ngoài mà
người đàn bà tự tạo ra để thích ứng, để tự vệ, để chống chọi với cuộc sống. Còn bên trong vẫn
có những đức tính của một người phụ nữ Việt Nam đúng mực: cam chịu, chịu thương, chịu khó,
chăm chỉ, lo toan…Với nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân mang đến cho người đọc một niềm tin:
người phụ nữ, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn mang thiên tính nữ. Một cách tự nhiên, họ
khát khao một tổ ấm gia đình và vun vén cho cái tổ ấm ấy.
2.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Không tập trung miêu tả diễn biến tâm lí như Tràng và mẹ Tràng, Kim Lân chú ý nhiều
đến khắc hoạ những chi tiết về ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói, nét mặt …nhưng qua đó
cũng thấy được tính cách, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của nhân vật.
+ Điển hình hoá nhân vật bằng việc không đặt cho nhân vật một cái tên riêng. Hiện tượng
“vợ nhặt” không hiện ra như một hiện tượng cá biệt mà như một hiện tượng xã hội phổ biến thời
buổi ấy, nhờ đó ý nghĩa tố cáo lại càng sâu sắc thêm.
3. Kết luận
+ Với nhân vật người vợ nhặt, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân phong kiến
đã gây ra nạn đói biến con người thành bèo bọt, rẻ rúng. Nhưng cũng qua đó, nhà văn khẳng định
niềm tin dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn sống, vẫn khao khát, vẫn vươn lên xứng
đáng làm người. Cùng với hai nhân vật Tràng và bà cụ Tứ, nhân vật vợ nhặt góp phần làm nên
chiều sâu trong tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” .

Đề luyện:
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt.
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Dàn ý chi tiết


(tham khảo các bài viết khác)
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật
2. Phân tích chi tiết
* Nêu ngắn gọn tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng…
2.1. Tâm trạng của Tràng khi đưa người đàn bà về nhà làm vợ
+ Trên đường về nhà, ban đầu tâm trạng Tràng cũng thấy “chợn”. Đó là
điều có thể hiểu được. Tràng đến với thị, đầu tiên và trước hết là sự chia sẻ của
những người nghèo trong hoàn cảnh hoạn nạn. Miếng ăn lúc bấy giờ là cả mạng
sống của con người. Thế nhưng một người kéo xe bò thuê, cuộc sống bấp bênh như
Tràng đã dám sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị bốn bát bánh đúc. Đưa thị về làm vợ, là
gánh thêm một gánh nặng nữa vào cái gia đình vốn đã rất vất vả của mình…
+ Cho nên tâm lý “chợn” của Tràng là có thật, điều đó cũng cho thấy, ở
người đàn ông này cũng biết lo nghĩ cho tương lai, không hoàn toàn vô tâm như cái
vẻ bên ngoài thể hiện. Nhưng rồi anh “Chậc, kệ!”. Cái tặc lưỡi của ấy của Tràng
không phải là sự phó mặc liều lĩnh, dễ dãi mà đó là tình thương yêu của anh đối
với người cùng khổ, và trên tất cả là khát vọng cháy bỏng về một mái nhà hạnh
phúc. Trong hoàn cảnh ấy, hạnh phúc là một sự mạo hiểm, nhưng Tràng vẫn chấp
nhận mạo hiểm để có được hạnh phúc. Vì hạnh phúc, Tràng sẵn sàng đuơng đầu
với cuộc sống khó khăn sắp tới, dũng cảm “đèo bòng”…
+ Tiếp đó là cảm giác lạ lẫm, vừa ngượng ngùng xen lẫn niềm hạnh phúc.
Có đến gần 20 lần trong tác phẩm, nhà văn miêu tả gương mặt Tràng biểu lộ niềm
vui khi có vợ. Hạnh phúc mới mẻ làm cho nguời đàn ông cục mịch, thô kệch ấy
xốn xang, quên đi cái đói khát của thực tại truớc mắt: Trong một lúc, Tràng như
quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát đang đe
doạ để chỉ còn tình nghĩa vói người đàn bà đi bên. Hay mặt hắn có một vẻ gì phớn
phở khác thường, hắn tủm tỉm cuời một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh…Ra
hắn đã có vợ rồi ư. Nhìn thị ngồi ngay giũa nhà, đến bây giò hắn vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế…Đó là cảm giác lâng lâng mơn man của hạnh phúc đựoc Kim
Lân diễn tả rất xúc động trong tâm trạng anh cu Tràng…
+ Cảm giác ngạc nhiên cũng đến một lúc với nỗi sờ sợ, ngượng ngiụ. Hắn
đứng tây ngây giữa nhà. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước
vội mấy bước ra sân gắt lên… Đó chắc không phải là nỗi sợ vô cớ, phải chăng hắn
thấy nghi ngờ sự đúng đắn trong quyết định của mình? Hay hắn sợ bà cụ Tứ không
cho phép? Thiết nghĩ không phải thế, Tráng thấy người đàn bà cứ ngồi mớm xuống
mép giuờng, rồi lại bần thần nghĩ ngợi, và không mấy làm nồng nhiệt, thị mất hẳn
đi cái bạo dạn, háo hức mà Tràng thấy khi ở ngoài chợ…Sự thay đổi ấy làm Tràng
sợ. Hắn sợ người đàn bà đổi ý, hắn sợ thị bỏ đi. Hắn sợ rằng hắn nghèo quá, không
giữ được người đàn bà ấy, không giữ được niềm hạnh phúc ấy…Đó là nỗi sợ hãi
thể hiện khát vọng có được hạnh phúc một cách khắc khoải đáng thương của
những con người trong những ngày đói khát, tối tăm lúc đó. Nó thật đáng trân
trọng biết bao. Tâm lý sốt ruột mong ngóng mẹ về của Tràng là có thật, Tràng
muốn bà cụ Tứ nhanh chóng về để chính thức thừa nhận thân phận dâu con của thị,
cũng là lúc hạnh phúc của Tràng có một cơ sở vững chắc hơn.
2.2. Tâm trạng nhân vật Tràng khi giới thiệu nàng dâu mới với bà cụ Tứ
+ Tràng đã lắng nghe tiếng húng hắng ho của bà cụ Tứ, lật đật chạy ra đón,
rồi reo lên như một đứa trẻ…Kim Lân đã thật tinh tế khi phát hiện ra những biến
động trong tâm lý anh cu Tràng. Khi có hạnh phúc, con người bỗng trở nên hồn
nhiên như trẻ thơ, tâm hồn tươi trở lại…Hạnh phúc đã biến người đàn ông thô
vụng thành đứa trẻ hìên lành ngờ nghệch…
+ Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới: Kìa nhà tôi nó chào u, một lời
tưởng giản đơn nhưng đầy yêu thương và trân trọng. Đón một người đàn bà về làm
vợ không có rước dâu, không có cỗ bàn đình đám. Cô dâu không có lấy một bộ
quần áo lành lặn, ngược lại rách như tổ đỉa. Vậy mà mấy tiếng: nhà tôi nó chào u,
Nhà tôi nó mới về làm bạn vói tôi đấy u ạ. Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với
nhau…chẳng qua nó cũng là cái số cả…nghe thật gần gũi thân thương. Không còn
một cu Tràng ngờ ngệch, thô vụng, mà rất tế nhị, chân thành và khôn khéo…Một
lời khéo ràng buộc đã khiến họ chính thức nên vợ nên chồng, một lời giản đơn,
mộc mạc thay cho một đại lễ trịnh trọng, nghiêm túc. Đó là cách để những người
khốn khổ về với nhau trong ngày đói.
2.3. Tâm trạng nhân vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ
+ Tâm trạng của Tràng sau đêm tân hôn được nhà văn khắc hoạ một các thật
tinh tế mà chân thực. Trước hết đó là cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong
anh: Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có
vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải…Nhà văn đã dùng nhiều từ
ngữ để cố gắng diễn tả trạng thái tâm lí của Tràng: êm ái, lửng lơ, ngỡ ngàng. Đó
là trạng thái hạnh phúc đến không tin được, hạnh phúc đến bât ngờ khiến con
người như mất đi ý niệm về thời gian, về cảm giác, hạnh phúc có thật mà cứ ngỡ là
mơ…
+ Tiếp đó là cảm giác thấm thía, xúc động. Khi chứng kiến ngôi nhà, khu
vườn có sự thay đổi, mới mẻ, khác thường…(). Tràng thấy bà mẹ lúi húi giẫy cỏ,
nàng dâu quét tước, nấu nướng. Cảnh tượng gia đình, đơn sơ mà thân thuộc, đối
với Tràng lúc này, nó là cảnh tượng ấm áp nhất, khiến Tràng xúc động nhất. Bỗng
nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy…
+ Có lẽ giờ đây, Tràng mới thực sự hiểu được giá trị của một gia đình hạnh
phúc đầy đủ. Niềm vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập tâm hồn anh, anh bỗng
thấy yêu và gắn bó với ngôi nhà dù còn bao thương khó. Nhưng nó là nơi che mưa
che nắng cho cả gia đình anh. Tràng thấy mình phải có trách nhiệm với người mẹ
già cả cuộc đời dằng dặc khổ đau, với người vợ mới dù nghèo nhưng chăm chỉ
hiền thục.
+ Ở đoạn cuối truyện, một chi tiết có thể làm người đọc thấy thương cảm xót
xa cho những hoàn cảnh tội nghiệp của gia đình Tràng, đó là bữa cơm ngày đói
khiến Tràng “mặt chun lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Nhưng
trên tất cả, vẫn là niềm hạnh phúc đang hiện hữu và có thật của Tràng. Hình như để
nhân vật của mình sẽ thực sự vượt lên hoàn cảnh và được sống hạnh phúc, nhà văn
đã để cái đầu ngờ nghệch của Tràng phút chốc vụt đến trong ý nghĩ “Cảnh những
người nghèo đói ầm ấm kéo nhau đi trên con đê Sộp” cùng lá cờ đỏ to lắm… Đó là
đoàn người đi phá kho thóc của Nhật, hình ảnh đó như dẫn mở Tràng vào một
bước ngoặt mới trong cả nhận thức và con đường đi lên. Nó là tín hiệu của sự đổi
đời, nhất định anh và bao người nông dân đói khổ khác sẽ được sống trong hạnh
phúc nếu biết đứng dậy mà đoàn kết đấu tranh. Đó không phải là một mơ ước viển
vông mà thực tế đã chứng minh ở cuộc cách mạng Tháng Tám của dân tộc.
2.4. Nhận xét về nhân vật Tràng và qua nhân vật Tràng nhà văn gửi gắm ý tưởng
gì?
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Nhà văn đặt nhân vật vào trong một tình uống vừa kì quặc, vừa oái oăm,
vừa bi hài nhưng như thế lại càng để nhân vật bộc lộ những nét độc đáo trong tính
cách và vẻ đẹp trong tâm hồn…
+ Diễn biến tâm lí của anh cu Tràng có phần đơn giản hơn nhân vật ngươì
mẹ. Đó là tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng, phù hợp với một chàng rể đang
tràn trề hạnh phúc.
+ Diễn biến: Hồi hộp, ngỡ ngàng và có chút ngập ngừng khi thấy người đàn
bà theo mình về; Cảm xúc bâng khuâng, lâng lâng với niềm vui bất ngờ của chàng
trai có vợ trên đường trở về nhà. Niềm vui đó khiến Tràng quên hết những cảnh
sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ, quên cả những
tháng ngày trướcmặt…Một cái gì mới mẻ lắm, chưa từng thấy, ..nó ôm ấp, mơn
man khắp da thịt như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng; Hạnh phúc trọn vẹn với ý
thức về trách nhiệm của một người con trai, người chồng trong gia đình: Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này.
+ Điểm nhìn trần thuật đã được di chuyển một cách linh hoạt. Nếu ở nhân
vật bà cụ Tứ, điểm nhìn di chuyển từ nội tâm nhân vật đến cử chỉ lời nói thì ở nhân
vật người con trai, điểm nhìn lại bắt đầu từ bên ngoài rồi di chuyển đến điểm nhìn
bên trong. Điều này đã giúp cho nhà văn phân tích được tinh tế những trạng trạng
thái tâm lí của những con người trong một hoàn cảnh đặc biệt: sự đói khát có thể
làm biến dạng hình hài, thân xác con người nhưng không huỷ diệt được khát khao
hạnh phúc, nhu cầu được sốg và hi vọng về một cuộc đời tươi đẹp hơn.

Đề luyện
Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ từ khi Tràng đưa người đàn bà
về nhà giới thiệu cho đến buổi sáng hôm sau. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm
lý của nhà văn Kim Lân.

Dàn ý chi tiết

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm


+ Nhà văn Kim Lân tâm sự: Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại
truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đấy, tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng
hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy
lòng xót thương với nguời đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá
giả hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là
chủ đề của câu chuyện”.
+ Cái thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt
ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã đựoc nhà văn thể hiện thành công qua diễn biến
tâm trạng ở người mẹ nghèo ấy trong buổi tối ngày hôm trước và sáng hôm sau khi
con trai đưa chị vợ nhặt về giới thiệu.
2. Phân tích chi tiết tâm trạng bà cụ Tứ
* Nêu ngắn gọn tình huống nhặt vợ của Tràng, Tràng dẫn vợ về nhà để giới thiệu.
2.1. Ngạc nhiên bất ngờ
+ Ngạc nhiên, bất ngờ là cảm giác đầu tiên ỏ người mẹ nghèo khi lật đật
theo con từ ngõ vào nhà. Xưa nay, có bao giờ Tràng nôn nóng ngóng mẹ như vậy.
Nhất định là phải có việc gì quan trọng, khác thường. Bước chân bà “phấp phỏng”.
Rồi nó đứng sững lại khi bà nhìn thấy người phụ nữ trong nhà mình. Bao nhiêu câu
hỏi dội về đầy băn khoăn: Quái, sao lại có nguời đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Nguời đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào
mình bằng u? Không phải con Đục mà. Ai thế nhỉ”? “Ô hay thế là thế nào nhỉ”.
+ Ngạc nhiên sửng sốt nên bà lão không tin ở cảm giác của mình, không tin
ở tai mình, ở mắt mình. “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão
thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Nhưng sự thật thì bà không nhoèn, bà cũng chưa
đến mức già cả, điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chỉ chưa hình dung đến
việc có một ngày mình lại được đón con dâu trong tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp
như thế này.
2.2. Tủi hờn, thương xót
+ “Bà lão cúi đầu nín lặng”. Đằng sau cái cúi đầu ấy là cả dòng cảm xúc
tuôn trào. Bây giờ thì bà không chỉ biết cái sự việc “nhà tôi nó mói về làm bạn với
tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi. Bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vùa ai oán
vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Bà tủi thân, tủi phận. Bà so sánh người
ta vói mình để chua chát, để tự trách bản thân, để càng thương con trai hơn. Bà lão
khóc. Từ kẽ mắt kèm nhèm ở độ tuổi bảy mươi, hai dòng nước mắt rỉ xuống. Nước
mắt của sự thưong xót tủi buồn. Nuớc mắt của nỗi lo lắng: “Biết rằng, chúng nó có
nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?. Lòng bà cụ ngổn ngang
những lo âu tủi cực, xót thương lẫn vui mừng…
+ Nhưng không phải chỉ có tình mẫu tử. Trong hoàn cảnh khốn cùng nhất,
bà cụ Tứ là hiện hữu của tình người. Cái tình người mộc mạc rung rưng của những
người dân lao động nghèo thương yêu, đùm bọc, chở che nhau khi hoạn nạn. Cái
tình người của sự đồng cảm thân phận. Người đàn bà ấy đã chấp nhận cuộc hôn
nhân của con mình không phải vói tư cách của một bà mẹ chồng mà là của một ân
nhân đối với một nạn nhân, của một con ngừời đối với một con nguòi cùng cảnh
ngộ.
2.3. Chấp nhận, mừng lòng
+ Nhà văn Kim Lân rất tinh tế trong việc quan sát và miêu tả tâm lý nhân
vật. Bà cụ Tứ khi đã thấu hiểu cơ sự của con, bà không sao giấu nổi nỗi buồn lo
cho con, ai oán cho số kiếp mình…Nhưng lô gíc tâm lý của một bà mẹ già được
Kim Lân thấu hiểu, từ chỗ thương con, bà chuyển sang thương xót người đàn bà…
+ Bà cụ Tứ đăm đăm nhìn chị vợ nhặt, bà không nghĩ cho mình. Bà nghĩ cho
con. Bà nghĩ cho chị. “Nguời ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mói
lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
+ Câu nói đầu tiên của bà với Tràng và chị vợ nhặt là một câu nói chan chứa
tình nguời, tình mẫu tử như vậy: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với
nhau, u cũng mừng lòng…”. Hai chữ mừng lòng nghe sao mà mộc mạc và ấm
lòng. Tràng thở đánh phào một cái như cất được trái núi lo toan. Chị vợ nhặt hẳn
tâm trạng còn hơn thế nữa. Đã theo về đến đây là tủi hổ lắm rồi. Một lời nói có thể
làm đau mà cũng có thể xoa dịu nỗi đau.
+ Câu nói của bà cụ Tứ đã “chiêu tuyết” cho thị. Rằng thị đâu phải là người
phụ nữ chỏng lỏn, chao chát, không biết sĩ diện là gì. Câu nói của bà làm cho cuộc
hôn nhân giữa Tràng và thị là chuyện tầm phào vu vơ, vô nghĩa nữa. Nó cũng bình
đẳng, đẹp đẽ như tất cả các cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy xưa nay. Vì cuộc hôn
nhân nào mà chẳng xuất phát từ duyên phận vợ chồng. Tràng và thị là “phải
duyên, phải kiếp với nhau”.
+ Cho nên một người mẹ như bà thật cảm thấy mừng lòng. Cách nói giản dị
mà chan chứa tình ngưòi của bà mẹ quê mùa quả thực đã làm ấm lòng những số
phận lạnh lẽo, tội nghiệp. Bà dặn dò các con bảo nhau làm ăn. bà gieo hi vọng hco
con cái: ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà an ủi con trai con dâu. Rằng đúng ra thì
phải làm dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo, lại gặp bước tao đoạn chung. Bà
gọi người phụ nữ ấy là con, lòng đầy “thương xót”. Chị đã đuợc và chính thức
công nhận là dâu con trong nhà. Bà đã đem lại danh dự cho nàng dâu, công nhận,
chức phận dâu con trong nhà, để ngưòi đàn bà kia k cảm thấy mình bị hắt hủi là
“vợ nhặt, vợ theo”…
+ Những suy nghĩ, nỗi lo của bà quả thật là tấm lòng của một người mẹ trải
nghiệm, thấu tình đạt lý, vị tha độ lượng. Trái hẳn với quan niệm phong kiến
nghiệt ngã mẹ chồng- nàng dâu theo kiểu “cắn cơm k vỡ cắn đồng tiền vỡ đôi ”,
người mẹ này thật nhân hậu cao quý mà rất đỗi giản dị. Và đặc biệt, tình người là
điểm sáng nhất trong bức tranh tối tăm, xám xịt của ngày đói…
2.4. Lo lắng, xót xa
+ Nhưng dù cố gắng, trĩu nặng trong suy nghĩ của người mẹ vẫn là nỗi lo
lắng về tương lai của các con. Hình ảnh một bà lão trong cái nhập nhoạng của bóng
tối, hướng đôi mắt đăm đăm nhìn ra ngoài, nhìn suốt cuộc đời mình, cuộc đời của
những người thân mình để phấp phỏng cho cái hiện tại của con cái đầy ám ảnh với
nguời đọc. Theo cái nhìn ấy là “bóng tối bao trùm lấy hai con mắt”, “là dòng sông
sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối”, là hình ảnh ông lão, đứa con gái út,
những nguời thân yêu đã rời xa bà hẳn cũng vì đói khổ, là chính cuộc đời dài dằng
dặc đau khổ của bà. Bà đã đem vào cuộc đời con cái biết bao những kiếp đời khác
để mà thương xót, “nghẹn lời”, chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
2.5. Niềm vui, niềm hi vọng tội nghiệp, đáng thương.
+ Trong buổi sáng ngày hôm sau, tâm trạng của bà cụ Tứ cũng rất phức tạp.
Bà là người nhiều tuổi nhất trong gia đình này, nhưng lại là nhân vật nói nhiều đến
phía trước, đến tương lai.
+ Hạnh phúc của con đã làm bà vui hơn, hi vọng hơn. bà “nhẹ nhõm, tuơi
tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà xăm
xăm quét dọn, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn, ra sức thu xếp căn
nhà cho quang quẻ hơn với hi vọng cuộc đòi có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn, bà cụ Tứ “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sưóng về
sau này”. Bà bàn với con tính chuyện nuôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảnh lại có cả đàn
gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm chúng ta nhớ tới một bài ca
dao miền Trung: Mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân
xưa, bà đang nuôi hi vọng. Đôi gà có thể cho ra đàn gà. Từ đàn gà mà có tất cả. Và
cũng giống như người nông dân trong bài ca, dù hết hi vọng hày đến hi vọng khác
bị dập tắt thì họ vẫn k kết hi vọng. Khát vọng sống bật lên ngay trong hoàn cảnh
khốn khó nhất: Chớ than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
+ Ở bà cụ Tứ còn thể hiện một nghịch lý, niềm tin và hi vongj lẽ ra phải gán
với tuổi trẻ, nhưng ở đây lại được thể hiện bởi một bà lão gần đất xa trời. Đó chính
là truyền thống nhân bản của người Việt Nam, nguòi mẹ không ao uớc cho mình,
mà sống vì con, cho con, hi vọng cho lớp con cháu mai sau
+ Song niềm vui ở bà cụ thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng
thúc thuế dồn dập vội vã đưa họ trở lại với nỗi tủi hờn, lo lắng. Tiếng nói của bà cụ
Tứ như bật ra từ một tiếng thỏ dài, hay một tiếng rên: “Đằng thì nó bắt trồng đay,
đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con
ạ”. Và bà lại khóc. Vẫn là những giọt nước mắt lặng lẽ, giấu đi để các con không
biết mình buồn…Câu nói của bà cứ neo lại trong lòng người đọc một sự thương
cảm, xót xa: Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…
3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
+ Đặt nhân vật vào một tình huống éo le, KL đã miêu tả thành công nhân vật
với những tâm trạng, nét tính cách khác nhau mỗi người một vẻ.
+ Nhân vật bà cụ Tứ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí sắc sảo của nhà văn
Kim Lân. Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trước việc đứa con trai ngờ nghệch của
mình có vợ đầy phức tạp “theo kiểu vận động gấp khúc, phù hợp với tâm lí người
từng trải, nhân hậu” (Nguyễn Quang Trung).
+ Diễn biến: Từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên không giải thích nổi sự có mặt của
người đàn bà kia trong nhà mình, đến cúi đầu nín lặng tủi thân, xót xa cho thân
phận khi hiểu ra tất cả, từ sự lo lắng cho cuộc sống quá mong manh của đôi trẻ đến
niềm vui mừng khi nhận ra sự may mắn của con trai mình, từ nỗi xót thương thông
cảm với người con dâu đến niềm lạc quan tin tưởng vào tưong lai.
+ Kim Lân xoáy sâu vào dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật. Nhà văn để
bà cụ Tứ cảm nhận về hạnh phúc bất ngờ của đứa con trai bằng cả cuộc đời làm
vợ, làm mẹ cay cực của mình, bằng nhận thức của người từng trải. Tâm trạng ấy
cũng được thể hiện ra nét mặt, cử chỉ, cung cách sinh hoạt hằng ngày…(Chi tiết
giọt nước mắt, nồi cháo cám…)
+ Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên một cách
sinh động, đó là một người phụ nữ từng trải nhân hậu, ấm áp tình người, lạc quan,
hi sinh, chia sẻ…một người phụ nữ, người mẹ điển hình.
4. Kết luận: Tự viết

Đề luyện:
Cảm nhận về hai nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và người vợ nhặt trong
Vợ nhặt của nhà văn Tô Hoài.

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm


+ Số phận con người nhất là số phận người phụ nữ luôn là niềm trăn trở lớn
đối với những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Trong văn học Việt Nam, Tô Hoài và
Kim Lân là hai nhà văn cùng thời, đã miêu tả thật ám ảnh nỗi đau khổ của những
người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời đã khám phá và trân trọng những vẻ đẹp
tâm hồn của họ.
+ Mị trong Vợ chồng A Phủ và người vợ nhặt trong Vợ nhặt là những nhân
vật như vậy. Qua hai nhân vật này, người đọc có thể thấy được tư tưởng nhân đạo
mang màu sắc mới mẻ…
2. Khái quát về điểm chung
+ Cả hai nhân vật đều có số phận éo le, cuộc sống lay lắt, đáng thương do
cái đói nghèo, cái khổ, do những thế lực thù địch trong xã hội đẩy tới…
+ Nhưng cũng từ trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh, kém may mắn ấy, họ vẫn
bộc lộ, toả sáng những vẻ đẹp của tâm hồn, của khát vọng sống mãnh liệt…
+ Hai nhân vật được 2 nhà văn khắc họa bằng bút pháp điển hình hoá sắc
sảo, nhân vật hiện lên sinh động, có sức ám ảnh lớn…
+ Hai tác phẩm đều được viết sau cách mạng, các nhà văn đã được trang bị
tư tưởng cách mạng nên nhìn cuộc sống con người bằng cái nhìn lạc quan, sự vận
động của cuộc đời nhân vật đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc…
3. Phân tích lần lượt hai nhân vật
3.1. Nhân vật Mị
a. Số phận
+ Phân tích sự xuất hiện chứa đựng nhiều éo le…
+ Số phận chứa đựng nhiều nghịch lý: Xinh đẹp, giỏi giang, chăm chỉ nhưng
bất hạnh: Nạn nhân của cường quyền, thần quyền: bị đày đọa, đánh đập, bị giam
hãm trói buộc tuổi xuân, ước mơ bị vùi dập, quyền con người bị tước đoạt…Thể
xác và tinh thần đều bị chà đạp, tổn thương…
+ Trở nên trơ lì, vô cảm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa…
b. Vẻ đẹp
+ Có khát vọng sống mãnh liệt, ở Mị là sức sống tiềm tàng dù bị vùi dập vẫn
không thể mất đi…(Đêm tình mùa xuân)
+ Sức mạnh, sự phản kháng táo bạo và mạnh mẽ… (đêm cứu A Phủ)
c. Nghệ thuật
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật…
d. Tư tưởng của nhà văn
+ Tư tưởng nhân văn: đòi quyền được sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa cho
con người.
3.2. Nhân vật người vợ nhặt
a. Số phận
+ Phân tích sự xuất hiện để thấy được tình cảnh của thị: tiều tụy về thân thể,
méo mó về nhân cách…
+ Nạn nhân của cái đói khủng khiếp năm Ất Dậu, cuộc sống mong manh
giữa ranh giới sự sống và cái chết…
+ Tự rơi vào tình cảnh éo le, buồn tủi, bi hài, vì muốn được sống mà theo
không một người đàn ông về nhà…
b. Vẻ đẹp
+ Bản năng ham sống mãnh liệt
+ Thiên tính nữ bộc lộ khi về làm vợ Tràng: đảm đang, dịu dàng, nữ tính, ý
tứ…
+ Là người phụ nữ Việt nam điển hình…
c. Nghệ thuật
+ Đặt nhân vật vào tình huống éo le…
+ Không miêu tả nội tâm mà miêu tả hành động, cử chỉ, nét mặt…
+ Không đặt tên, tạo tính chất phổ biến điển hình…
d. Tư tưởng của nhà văn
+ Tư tưởng nhân đạo: Ca ngợi tình người trong hoạn nạn; khám phá vẻ đẹp
của con người trong những tình cảnh éo le, tăm tối…
4. Điểm khác của hai nhân vật
+ Cùng khám phá số phận con người trong những hoàn cảnh éo le nhưng ở
Mị, nhà văn chú ý đến việc khám phá nỗi thống khổ của con người dưới chế độ
thực dân - phong kiến miền núi trước CM. Đặc biệt tố cáo thế lực thống trị tàn bạo
đã cướp đoạt đi quyền được sống của con người; ngoài ra Tô Hoài còn sâu sắc chỉ
ra sự nô lệ thần quyền ăn sâu vào trí óc của con người cũng chính là nguyên nhân
dẫn con người đến nỗi bất hạnh…Còn Kim Lân, qua số phận một con người, muốn
khẳng định sự lựa chọn tất yếu của lịch sử trong thời điểm khủng khiếp nhất của
lịch sử là nạn đói năm 1945…
+ Nhân vật Mị được miêu tả trong gần suốt cuộc đời, từ tuổi thanh xuân đến
những năm làm dâu gạt nợ đến khi gặp A Phủ và chạy trốn khỏi Hồng Ngài…Nhà
văn muốn phản ánh phần nào con đường giác ngộ đến với cách mạng của người
dân miền núi, ca ngợi cách mạng đã đem đến sự đổi đời cho biết bao thân phận tủi
nhục…Nhân vật vợ nhặt chỉ được nhà văn miêu tả qua hai lần gặp gỡ với Tràng,
thời gian xuất hiện chỉ là một ngày đêm nhưng qua đó lại khái quát được hiện thực
xã hội trong thời khắc ngột ngạt nhất của lịch sử…Số phận cá nhân phản ánh số
phận lịch sử..
+ Nghệ thuật: Mị thiên về miêu tả tâm lí, người vợ nhặt chỉ miêu tả hành
động, cử chỉ bên ngoài…

+ Tư tưởng: Vợ chồng A Phủ thiên về tư tưởng nhân văn/ Vợ nhặt thiên về


tư tưởng nhân đạo …

Đề luyện:
Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân

Dàn ý chi tiết

1. Giới thiệu tác giả tác phẩm và tình huống truyện


+ Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của người nông dân Việt
Nam. Ông am hiểu sâu sắc đời sống sinh hoạt cùng những tâm tình ước nguyện
của người nông dân. Nhiều truyện ngắn của Kim Lân thể hiện nỗi lòng của những
người nông dân nghèo trong cảnh ngộ khốn khó vẫn thiết tha gắn bó với quê
hương, vẫn ước mong hạnh phúc bình dị.
+ Kim Lân thành công ở việc miêu tả tâm lí người nông dân và đặc biệt có
biệt tài xây dựng cốt truyện độc đáo bất ngờ và hấp dẫn.
+ Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong những sáng tác thành công nhất của
Kim Lân rút từ tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Trong truyện ngắn này,
Kim Lân cũng đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, qua đó gửi gắm
nhiều ý tưởng sâu sắc của một nhà văn giàu tinh thần nhân đạo.
2. Khái quát
2.1. Khái niệm về tình huống
+ Tình huống là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo
nên trong tác phẩm, ở đó có chứa những mối quan hệ bất thường, éo le. Tình
huống truyện là một lát cắt của đời sống nhưng qua đó người đọc có thể hình dung
được diện mạo cuộc sống. Đối với một tác phẩm văn xuôi, nhất là truyện ngắn,
tình huống có vai trò quan trọng trong việc bộc lộ chủ đề và thể hiện tính cách số
phận nhân vật. Vì thế qua tình huống, người đọc sẽ nhận ra tài năng nghệ thuật của
nhà văn.
2.2. Bối cảnh của tình huống
+ Người Việt Nam ai đã từng sống qua năm 1945 chắc khó có thể quên nạn
đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng hơn 2 triệu đồng bào. Nếu cuộc cách mạng
tháng Tám là cơn bão táp lịch sử thì đêm trước cơn bão ấy, dân tộc ta phải trải qua
một không khí ngột ngạt oi bức. Đó chính là bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt.
Trên nền hiện thực xám xịt này, Kim Lân đã sáng tạo ra được một tình huống
truyện độc đáo và hấp dẫn.
3. Phân tích chi tiết
3.1 Gọi tên tình huống: Có thể gọi tên tình huống này là: cuộc hôn nhân kì lạ. nói
khác đi truyện ngắn này xoay quanh một tình huống “nhặt vợ”, nghĩa là trong nhan
đề đã chứa đựng được tình huống. Đây là một tình huống éo le, mà cảm động.
+ Hoàn cảnh ngược đời: Anh cu Tràng xấu trai, thô kệch, lại là dân xóm ngụ
cư,… vậy mà Tràng bỗng dưng nhặt được vợ về. Hơn nữa, lại lấy vợ giữa những
ngày đói quay, đói quắt khi mà sự sống còn của mỗi người có khi chỉ tính bằng
ngày giờ ngắn ngủi…Tình huống này tạo nên nghịch cảnh éo le, bi hài. Nhưng đó
là nghịch cảnh có thật chẳng biết đáng mừng hay đáng lo, đáng cười hay đáng
khóc.
+ Giá trị đảo lộn: Xưa nay hôn nhân là việc hệ trọng nhất của đời người.
Thế nhưng ở đây, chỉ mấy câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một người đàn bà ở
chợ đã theo Tràng về làm vợ. Đám cưới sơ sài, nhếch nhác, thảm hại, cô dâu ăn
mặc tả tơi về nhà chồng với nỗi lo âu, buồn tủi…Lấy vợ là tạo lập gia đình, xây
dựng nền móng cho tương lai song nó lại diễn ra khi ở bờ vực của cái chết nên
tương lại càng trở nên mờ mịt hơn “năm nay rồi đói to đấy”. Vợ là người phụ nữ
quan trọng trong gia đình, nhưng ở đây chỉ được ví với một miệng ăn, một sự đèo
bòng. Giá trị con người bị hạ bệ xuống hàng bèo bọt rẻ rúng, đến nỗi bị coi là “vợ
nhặt”…Đó là những lý do khiến cho đám cưới trở thành kì lạ…
3.2. Ý nghĩa của tình huống
3.2.1. Ý nghĩa của tình huống đối với diễn biến mạch truyện
- Tình huống là một cuộc hôn nhân kì lạ, nên cả câu chuyện là một chuỗi ngạc
nhiên kế tiếp nhau:
+ Đầu tiên là sự ngạc nhiên của đám trẻ con xóm ngụ cư lâu nay, tiếp đến là
sự ngạc nhiên lẫn ái ngại của người lớn. Nhiều người nhìn theo “đôi vợ chồng” mà
không sao cắt nghĩa được.
+ Tiếp đến là sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ. Tràng có vợ là việc ngày đêm mơ
tưởng. Vậy mà khi nó xẩy ra bà vẫn ngạc nhiên, khôn tin ở mắt mình, cứ nghĩ
mình trông gà hoá cuốc, bà cũng không tin vào tai mình khi người đàn bà chào
mình bằng u. Đến khi hiểu ra bà cũng không khỏi ngạc nhiên và ái ngại cho Tràng
và cô con dâu.
+ Ngay đến cả Tràng cũng không hỏi ngạc nhiên, sự ngạc nhiên của Tràng
có phần hơi khác, đó là niềm ngỡ ngàng trước hạnh phúc không mong mà tới…
Ngay đến sáng hôm sau, Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên.
3.2.2. Ý nghĩa của tình huống truyện đối với vịệc thể hiện vẻ đẹp phẩm chất nhân
vật
- Nhân vật Tràng: Tình huống nhặt vợ đã làm hiện rõ những phẩm chất tốt đẹp bên
trong con người xù xì và thô kệch, nhưng nổi bật hơn tất cả vẫn là một niềm khát
khao hạnh phúc và sự trân trọng hạnh phúc của Tràng.
+ Câu chuyện bắt đầu từ một câu chuyện đùa, nhưng đùa mà hoá ra thật.
Một câu hò bâng quơ trở thành một lời hứa hẹn, một lời mời trở thành một lời cầu
hôn, bốn bát bánh đúc trở thành lễ vật ngày cưới…Mọi chuyện có vẻ ngẫu nhiên,
tầm phào nhưng trong đó lại chứa đựng một sự tất nhiên nghiêm túc. Hai con
người ấy, rất cần cho nhau, người này cần người kia để được sống, người kia cần
người này để có được hạnh phúc. Trong hoàn cảnh đói khát và tăm tối ấy, hạnh
phúc là một sự mạo hiểm, nhưng Tràng sẵn sàng chậc kệ- mạo hiểm để có được
hạnh phúc.
+ Tràng đã vét hết những đồng xu cuối cùng để mua một cái thúng, cùng
nhau ăn một bữa cơm và mua một chai dầu về thắp. Trong hoàn cảnh ấy, ta thấy
Tràng không phải vì lấy được vợ quá dễ dàng mà Tràng rẻ rúng hạnh phúc. Như
thế trong tình cảnh ngay cả mạng sống của mình cũng chưa chắc đã được đảm bảo
mà con người vẫn không thôi nghĩ về hạnh phúc chăm lo cho hạnh phúc. Đó là tư
cách làm người bất diệt trong mỗi con người.
+ Sau khi cưới vợ, Tràng cũng trở nên vui vẻ hơn, hào hứng hơn. Đặc biệt,
lần đầu tiên anh có được những cảm xúc rất hạnh phúc, những suy nghĩ sâu sắc
đúng đắn và ý thức nghiêm túc về tư cách con người của bản thân mình, có trách
nhiệm với gia đình mình…
- Nhân vật người vợ nhặt
+ Đằng sau tình cảnh vất vưởng là một niềm ham sống mãnh liệt. Đằng sau
vẻ ngoài chao chát chỏng lỏn lại là một sự hiền thục, đúng mực, đảm đang…Sau
khi trở thành vợ nhăt, người đàn bà đã trở lại với bản chất của người phụ nữ trong
gia đình (…) Tham khảo bài học trước.
- Nhân vật bà cụ Tứ
+ Hiện rõ là một người mẹ thương con, thấu hiểu, nhân hậu, bao dung..
+ Bà cụ cũng trở nên tươi tỉnh hơn trong nét mặt, nhanh nhẹn hơn trong cử
chỉ và vui vẻ hơn, tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống tương lai…
- Người dân xóm ngụ cư: cảm nhận được một điều mới mẻ, “có cái gì lạ lùng tươi
mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”
3.2.3. Ý nghĩa của tình huống đối với việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
- Ý nghĩa nhân bản: Qua câu chuyện nhặt vợ của anh cu Tràng, Kim Lân muốn gửi
gắm tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của mình: Dù trong bất kì tình huống và
hoàn cảnh nào, con người vẫn không từ bỏ niềm tin vào cuộc sống. Chính tình yêu
thương là tất cả, tất cả là tình yêu thương và khát vọng sống Niềm tin ấy được thể
hiện ở các khía cạnh sau:
+ Cuộc hôn nhân kì lạ này như một đám cưới nhỏ nhoi giữa một đám ma
khổng lồ. Đám cưới là sự kiện khi hai cá thể tự nguyện đến với nhau để bắt đầu
một cuộc sống chung, nên nó là sự kiện khởi đầu cho sự sống, còn đám ma lại là sự
kiện kết thúc một chu trình sống. Bởi lẽ đó ta cũng có thể gọi tình huống này là :
sự sống nảy sinh giữa cái chết. Đó cũng là tư tưởng sâu sắc mà KL muốn guỉ gắm
qua truyện ngắn này: dù trong tình huống nào, con người cũng tin ở cuộc sống,
tương lai. Niềm khao khát cuộc sống gia đình khiến Tràng vượt qua hoạn nạn để
lấy vợ, bản năng tự nhiên giúp con người tuyên chiến với cái chết để giữ bằng
hạnh phúc.
+ Cuộc giao tranh giữa sự sống và cái chết: Khi đôi trai gái dẫn nhau về
xóm ngụ cư, họ đã đi giữa sự bủa vây của cái chết. cái chết hiện ra với rất nhiều bộ
mặt. Khi thì hiện ra với hình ảnh xác chết nằm la liệt trên đường, bóng những
người đói dật dờ như những bóng ma, khi thì hiện ra với hình ảnh bầy quạ bi kín
trên ngọn cây, có lúc lại hiện ra với hình ảnh khói của những nhà đốt đống rấm để
xua mùi tử khí…Tận đến lúc đôi trai gái sắp sửa lên giường ngủ, cái chết vẫn chưa
buông tha họ. Nó lại hiện ra ở tiếng khóc hờ. Nhưng sự sống vẫn không hề chán
nản, những con người vẫn lạc quan, vẫn tự tin vẫn gắn bó với nhau, và hướng về
tương lai phía trước.
+ Cuộc giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng: Trước khi đôi trai gái dẫn
nhau về thì bao trùm lên xóm ngụ cư là cái bóng âm u ảm đạm chết chóc. Nhưng
đôi trai gái đi đến đâu, cảnh vật sáng lên đến đó. Có một cái gì tươi mát làm cho
gương mặt u tối hốc hác bỗng sáng hẳn lên. Rồi những chi tiết miêu tả ánh sáng:
ánh đèn vàng đục hắt hai cái bóng lên vách đêm tân hôn, khuôn mặt bủng beo u ám
của bà cụ Tứ bỗng nhiên rạng rỡ…và cuối cùng là ánh nắng của buổi sáng mùa hè
sáng loá chói vào mắt…Rõ ràng truyện ở đầu bằng buổi chiều xám xịt, kết thúc
bằng buổi sáng bình minh rực rỡ với hình ảnh lá cờ đỏ thắm, điều đó chúng tỏ sự
vận động của cốt truyện đã đi từ bóng tối ra ánh sáng. Và trong cuộc giao tranh
này, sự sống, ánh sáng luôn chiến thắng. Đó cũng chính là biểu hiện sâu sắc của tư
tưởng nhân đạo Kim Lân.
- Ý nghĩa tố cáo
+ Do đói khát, cùng quẫn, người đàn bà kia mới lấy Tràng, vậy ra cái trớ
trêu lại trở thành cơ hội may để Tràng lấy được vợ một cách đáng thương. Giá trị
người vợ cũng chỉ được ví như một thứ miệng ăn, một gánh nặng đèo bòng Như
vậy, tác giả đã tố cáo chế độ thực dân, phong kiến, đẩy xã hội và con người vào
bước đường cùng, dẫn đến nạn đói và cái chết khủng khiếp nhất, làm cho mọi giá
trị bị đảo lộn, nhân phẩm con người bị hạ bệ một cách rẻ rúng.
4.Kết luận
+ Vợ nhặt là truyện ngắn đầy xúc động về tình người, trong đói nghèo vẫn
biết sống cho ra người, đến với nhau bằng tình thương yêu sâu nặng.
+ Nhà văn cũng đã xây dựng được một tình huống độc đáo dồn nén, có tính
kịch cao thể hiện bản lĩnh của một ngòi bút tài năng.

Đề luyện: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Tô Hoài trong truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ. (Tham khảo các đề đã học)

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm


+ Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nằm trong tập Truyện Tây Bắc- két quả của
chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc 1952.
+ Vốn sống và tình yêu với miền đất Tây Bắc đã thôi thúc Tô Hoài viết đề
miền đất này. Song để dựng lại một cách chân thực và sinh động bức tranh về cuộc
sống và con người Tây Bắc với những sắc thái riêng của vùng đất này phải kể đến
những biện pháp nghệ thuật đặc sắc ở ngòi bút Tô Hoài.
2. Phân tích chi tiết
2.1 Nghệ thuật tả cảnh
a. Mục đích: Làm nổi bật chất Tây Bắc. Ở bề nổi, chất Tây Bắc bộc lộ rõ nhất qua
những nét đặc sắc của thiên nhiên, của cuộc sống sinh hoạt với những phong tục,
tập quán vừa mang đậm bản sắc văn hoá vùng cao vừa không ít những dấu hiệu
của lối sống còn lạc hậu, mông muội…
b. Đối tượng và cách thức miêu tả
- Cảnh sắc thiên nhiên
+ Chọn thời điểm: thời điểm Tết đến, xuân về là lúc Tây Bắc đẹp nhất với sự
gặp gỡ của cái bừng nở ở thế giới tự nhiên với cái bừng nở trong tâm hồn con
người.
+ Nghệ thuật miêu tả: Kết hợp giữa tả và gợi, xây dựng quan hệ tương
đồng , hài hoà giữa cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của con người đã tạo nên
sức hấp dẫn của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc: sắc màu của thiên nhiên và sắc
màu của cuộc sống đã hoà quyện vào nhau (khi cỏ gianh đồi núi vàng ửng, hoa
thuốc phiện nở đỏ, nở tím trên núi cao cũng là khi những chiếc váy hoa sặc sỡ
được đem ra phơi trên các mỏm đá như những cánh bướm rực rỡ…)
- Cảnh sinh hoạt , phong tục:
+ Cảnh sinh hoạt ngày Tết: Nhà văn chọn những chi tiết tiêu biểu nhất cho
nét sinh hoạt của người dân miền núi để miêu tả (uống rượu, nhày đồng, sân chơi
chung với các trò đánh pao, đánh quay, thổi sáo…). Những chi tiết được chọn và
dựng lại bằng một thứ ngôn ngữ miêu tả giản dị như đời sống tự nhiên chảy vào
trong tác phẩm.
+ Cảnh đêm tình mùa xuân: Nhà văn chọn được hai chi tiết đặc sắc nhất
trong nét sinh hoạt văn hoá độc đáp này và dựng lại một cách sinh động tự nhiên:
Đó là cảnh trai gái rủ nhau đi chơi mùa xuân (thời gian là nửa đêm tín hiệu là tiếng
gõ vách, hành động là dỡ cửa bước ra rừng chơi) và cảnh trai gái hẹn hò, ngỏ lời
yêu thương bằng quả pao, quả yến, tiếng sáo, tiếng khèn và những bài hát tỏ tình
rất độc đáo. Tất cả làm nên màu sắc trữ tình độc đáo cho bức tranh sinh hoạt và
chất trữ tình thấm thía cho trang văn Tô Hoài.
+ Cảnh xử kiện: Đây là một biểu hiện đậm nét của tập tục dã man trong chế
độ phong kiến miền núi. Tính chất dã man được dựng lại thông qua những nghịch
lý: Xử kiện là thực hiện công lí song trong cuộc xử kiện ấy, công lí đã bị bóp méo
nghiêm trọng để mang một bộ mặt bất công đến đáng kinh sợ. Bản án đưa ra đáng
lẽ để răn đe, trừng phạt kẻ có tội lại trở thành tai hoạ giáng xuống đầu những kẻ
thân cô thế cô khiên họ không thể kháng cự, không có cách nào để được giải thoát.
c. Nhận xét
+ Cái tài của nhà văn là tìm ra những chi tiết có ý nghĩa, khéo léo tổ chức
chúng để làm nổi bật đặc điểm chính của cảnh, của vật, của việc mà mình miêu tả.
+ Giá trị của những trang văn tả cảnh này là không chỉ dựng lại một cách
sinh động cảnh trí nếp sinh hoạt, phong tục vùng cao Tây Bắc mà còn tạo ra một
cảnh nền thích hợp để bộc lộ nét bi thảm của số phận và vẻ đẹp của sức sống tiềm
tàng của con người trên vùng đất đó.
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
a. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí:
- Sử dụng rộng rãi thủ pháp tương phản: nhà thống lí Pá Tra giàu có và cô Mị cúi
mặt, mặt buồn rười rượi, giữa vẻ bề ngoài cam chị nhẫn nhục, trơ lạnh với sức
sống mãnh liệt, nồng nàn bên trong…; phòng giam Mị chật hẹp và không gian bên
ngoài phóng khoáng, tự do; cảnh u ám, chết lặng trong buồng Mị và sự rộn ràng
của những ngày xuân, những đêm tình mùa xuân…
- Đi sâu vào đời sống nội tâm để khắc họa tính cách. Nội tâm nhân vật được khắc
hoạ bằng những cách thức cụ thể:
+ Mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng (mùa xuân của thiên
nhiên khơi gợi được sức sống thanh xuân trong tâm hồn Mị, ngọn lửa hơ tay trong
đêm đông gợi ngọn lửa âm ỉ trong tâm hồn…)
+ Trực tiếp miêu tả diễn biến tâm lí một cách hợp lí và tinh tế với từng tình
huống cụ thể: trong đêm tình mùa xuân, tiếng sáo bên ngoài đã đánh thức khát
khao tình yêu, khát khao sống trong Mị. Âm thanh tiếng sáo càng gần gũi thì khát
vọng trong Mị càng mạnh mẽ. Cho đến khi tiếng sáo bên ngoài đã nhập hẳn vào
trong lòng, trong đầu Mị thì Mị bắt đầu có những hành động để thực hiện khát
khao ấy. Trong đêm mùa xuân, giọt nước mắt A –Phủ gợi nhắc giọt nước mắt chảy
xuống không tự lau đi được khi Mị bị trói, điểm chung trong số phận của những
con ngườiluôn có thể bị trói đến chết đã khơi dậy lòng căn phẫn và ý thức về sự bất
công, hành động cứu người đã thúc đẩy hành động cứu mình…(tham khảo thêm
kiến thức đã được học)
+ Giọng kể của nhà văn nhập vào dòng tâm tư nhân vật, làm nổi lên ý nghĩ,
tâm trạng và cả những trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật.
- Nghệ thuật xây dựng tính cách
+ Xây dựng nét tính cách ổn định thống nhất mà cũng phong phú với những
vận động, đổi thay vừa bất ngờ vừa tất yếu. Mị là cô gái có sức sống tiềm tàng
mạnh mẽ: khi buộc phải sống như một con vật đã dám chết như một con người; khi
bên ngoài câm lặng là khi sức sống âm ỉ đã dồn vào bên trong chờ có cơ hội là
bùng phát; khi sẵn sàng chết thay cho người khác cũng là khi quyết tâm sống trào
lên mạnh mẽ nhất…
+ Làm nổi bật sự khác nhau giữa các tính cách: Mị và A Phủ có sức sống
mạnh mẽ song ở Mị, sức mạnh đã dồn vào bên trong nên Tô Hoài chủ yếu miêu tả
nội tâm nhân vật. Ở A Phủ, sức sống lại bộc lộ ra thành vẻ nam tính trong những
hành động dữ dội quyết liệt và lời nói dứt khoát…
2.3. Ngôn ngữ và cách kể:
a. Ngôn ngữ: đậm chất miền núi, biểu hiện ở lối tư duy gắn liền với thiên nhiên,
hoà quyện và đồng nhất với thiên nhiên. Nét đặc sắc là ở chỗ đó, Tô Hoài đã vận
dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của người miền núi song không sa vào sự
sao chép tự nhiên chủ nghĩa mà có chọn lọc, nâng cao đến trình độ chuẩn mực của
ngôn ngữ văn học.
b. Cách kể: Xây dựng lối trần thuật linh hoạt sáng tạo với sự dịch chuyển của điểm
nhìn trần thuật (khi đặt bên ngoài để quan sát khách quan, khi đặt bên trong để thể
hiện thấm thía những suy nghĩ, tình cảm trong lòng nhân vật)
3. Đánh giá tổng quát
+ Tô Hoài đã kết hợp và vận dụng tài tình những phương tiện, biện pháp
nghệ thuật khác nhau để làm nổi bật một bức tranh sinh động về cuộc sống và con
người Tây Bắc.
+ Những thành công về nghệ thuật góp phần thể hiện thành công ý đồ tư
tưởng của nhà văn trong tác phẩm. Đó là cơ sở để tác phẩm cũng như cả tập
Truyện Tây Bắc được đánh giá là thành công đột xuất của văn xuôi kháng chiến
chống Pháp.

Đề luyện
Về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là hiện thân của người phụ nữ nghèo, cùng đường,
liều lĩnh. Ý kiến khác khẳng định: Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát
vọng sống mãnh liệt và phẩm chất đức hạnh.
Qua nhân vật người vợ nhặt, anh chị hãy bình luận.

Dàn ý chi tiết

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật


+ Truyện ngắn Vợ nhặt được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim
Lân. Cùng với tình huống truyện độc đáo, Kim Lân còn rất thành công trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật, qua đó thể hiện những ý tưởng nhân đạo sâu sắc của
mình.
+ Nhân vật người vợ nhặt là một người đàn bà không tên, nhưng đã để lại
một ấn tượng khó quên trong lòng độc giả. Về nhân vật này, có ý kiến cho rằng:
Đó là hiện thân đầy đủ của người phụ nữ nghèo, cùng đường, liều lĩnh. Ý kiến
khác khẳng định: Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt
và phẩm chất đức hạnh.
2. Khái quát về nhân vật
- Giải thích hai ý kiến:
+ Ý kiến 1: Ý kiến này đề cập đến một nét nổi bật của số phận người đàn bà.
Là nạn nhân của cái đói, nghèo đến cùng kiệt, thị đã bám víu vào một người đàn
ông xa lạ, theo người đàn ông đó về nhà trong thân phận “vợ nhặt” chỉ để mong
được sống qua ngày. Rõ ràng, nhìn bề ngoài, thị đúng là hiện thân đầy đủ nhất của
người phụ nữ nghèo, cùng đường, liều lĩnh.
+ Ý kiến 2: Ý kiến này lại khẳng định một vẻ đẹp khuất lấp của người đàn
bà ấy. Bề ngoài tình cảnh vất vưởng là một khát vọng sống mãnh liệt; bề ngoài
chao chát chỏng lỏn, song bên trong lại tiềm tàng nữ tính, sự đảm đang, hiếu thảo.
Xét ở khía cạnh này, người đàn bà quả thật là người phụ nữ đức hạnh.
3. Phân tích chi tiết
3.1. Người vợ nhặt- hiện thân đầy đủ nhất của thân phận nghèo khổ, cùng đường,
liều lĩnh.
+ Sự xuất hiện và vài nét về chân dung của nhân vật người đàn bà đã phần
nào cho thấy điều đó. Thị xuất hiện trong truyện với bộ quần áo rách tả tơi như tổ
đĩa, người gầy lép, phẳng phiu, hai má gầy sọp, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn trơ lại hai con mắt trũng sâu… Thị ngồi vêu trước cửa kho thóc, chờ nhặt
hạt rơi hạt vãi. Chi tiết ngồi vêu rất sinh động, nó là một chi tiết đầy tạo hình, vừa
làm hiện lên dáng ngồi thê thảm của thị, vừa thể hiện tất cả sự tội nghiệp, ế ẩm
cũng như sự mòn mỏi, trông mong đến tuyệt vọng một sự giúp đỡ, một sự ban
phát bố thí để sống qua được từng ngày, từng giờ chứ chưa nói chi đến qua đựơc
nạn đói. Giữa lúc cái đói hoành hành ghê gớm, người chết đói như ngả rạ thì cuộc
sống của thị cũng như biết bao thân phận khác, cũng lắt lay, mong manh bên bờ
vực của cái chết.
+ Cái đói cũng khiến con người trở nên méo mó về tính cách: Cái chao chát
chỏng lỏn, sưng sỉa, cong cớn, điêu ngoa của thị khi gặp Tràng và cả cách thị ngồi
xuống ăn một chặp hết bốn bánh bánh đúc không ngẩng đầu lên, những lời thoại
chỉ xoay quanh miếng ăn: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu/ Hà, ngon!....Tất cả đều là
biểu hiện sinh động nhất của tình cảnh nghèo đói, rách nát của thân phận người
đàn bà. Rõ ràng, để chống chọi với cái đói, thị đã gần như biến thành con người
khác, rất vô duyên và dường như mất đi nữ tính, mất đi lòng tự trọng , chỉ còn lại
bản năng…
+ Tuy nhiên, hiện thân đầy đủ nhất của sự cùng đường, liều lĩnh của người
đàn bà đó phải là sau câu nói đùa bâng quơ vu vơ của anh Tràng, thị đã theo không
Tràng về nhà làm vợ. Gặp gỡ hai lần, chưa thể hiểu hết tính cách, con người gia
cảnh của người đàn ông xa lạ kia, thị vẫn bám lấy Tràng như người sắp chết đuối
vớ được cọc. Liều lĩnh, mạo hiểm, đem số phận, tương lai của mình giao phó, phó
mặc cho người đàn ông kia mà chưa biết thế nào. Theo người ta về trong hoàn
cảnh tủi phận ê chề, tự hạ thấp mình thành bèo bọt, rẻ rúng. Người đàn bà chấp
nhận làm vợ nhặt, như cái rơm, cái rác, như hạt cơm, hạt thóc rơi vãi trên đường.
+ Và rồi một “lễ rước dâu” thảm hại nhất đã xẩy ra, một lời hứa vu vơ đã trở
thành lời cầu hôn, bốn bát bánh đúc trở thành lễ vật ngày cưới, cô dâu về nhà
chồng trong bộ quần áo rách tả tơi và trong mùi gây của xác người và trong âm
thanh tiếng khóc người chết đói… Có lẽ đó là tất cả những gì éo le, trớ trêu nhất
của thân phận người đàn bà. Nó cũng là hiện thân đầy đủ nhất của thân phận
nghèo khổ, cùng đường, liều lĩnh của biết bao nhiêu con người khi rơi vào hoàn
cảnh ấy. Đồng thời qua số phận người đàn bà, Kim Lân đã tố cáo xã hội đẩy con
người vào hoàn cảnh khốn cùng, tăm tối nhất. Cái đói đã làm đảo lộn mọi giá trị,
hạ bệ con người xuống hàng bèo bọt rẻ rúng.
3.2. Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt và phẩm
chất đức hạnh.
+ Thế nhưng, ngay sau khi được anh cu Tràng chấp nhận cho theo về nhà
với thân phận vợ nhặt, người đàn bà đã không còn những biểu hiện như khi còn ở
chợ, thị dường như đã trở thành một người khác hẳn, là bản tính hàng ngày của thị
bị cái đói che lấp đi hay chính sự bao dung, nhân hậu của mẹ con Tràng đã làm
biến đổi thị? Có lẽ là do cả hai nguyên nhân.
+ Thật vậy, đằng sau tình cảnh vất vưởng của người đàn bà là cả một khát
vọng sống mãnh liệt. Ngay cả việc sưng sỉa ở chợ, hay theo anh cu Tràng về nhà
đều là biểu hiện của bản năng ham sống mạnh mẽ đó. Trong người đàn bà đó, đã
xảy ra một sự đấu tranh để lựa chọn giữa bản năng ham sống và nhân cách làm
người. Ở trong bước đường cùng, bản năng ham sống trỗi dậy, nó lấn át đi nhân
cách làm người của cô. Nhưng những phẩm chất của một người phụ nữ đức hạnh k
mất đi, nó đã sớm được bộc lộ ngay từ những bước chân đầu tiên theo anh cu
Tràng về xóm ngụ cư.
+ Trên đường về nhà, thị đi sau Tràng mấy bước, rất e thẹn ngại ngùng. Vẻ
táo tợn, đanh đá khi gặp Tràng giữa chợ đã hoàn toàn mất đi. Khi bị đám trẻ con
trêu ghẹo, thị càng xấu hổ, ngượng ngiụ, chân nọ đá vào chân kia trong khi Tràng
khi phởn phơ, sung sướng. Chính những biểu hiện ấy của người đàn bà kia đã cho
thấy chị không phải là người đánh mất hoàn toàn nhân phẩm, vì nó là biểu hiện của
nữ tính, và là ý thức xót xa trước thân phận mình. Điều này đã làm cho người đọc
tin tưởng vào hạnh phúc nhỏ nhoi mà Tràng đang có được.
+ Thái độ của người đàn bà khi về đến nhà Tràng càng thể hiện rõ điều đó.
Lúc theo Tràng vào nhà, nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại”, chị đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, như tự ý
thức được sự tự nguyện gắn bó, châp nhận hoàn cảnh nhà chồng không một lời oán
thán, phê phán. Chị cũng cư xử rất ý tứ : từ chuyện chào hỏi mẹ chồng lễ phép, cư
đứng khép nép, không dám ngồi, khi được bà cụ tứ cho phép ngồi cũng chỉ dám
ngồi mớm ở mé giường, hay khuôn mặt bần thần nghĩ ngợi, cho đến sáng hôm sau,
điềm nhiên ăn bát cháo cám mẹ chồng đưa cho dù trong lòng, trong miệng đắng
chát. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của một người mẹ già… Tất cả
những điều ấy chứng tỏ người đàn bà kia không phải là vô tâm, vô tình, cạn nghĩ.
Phải tinh tế, ý nhị lắm, phải đầy tình thương, trách nhiệm lắm chị mới có được
những ứng xử như thế.
+ Sau đêm tân hôn, người vợ nhặt đã thực sự trở thành người vợ đảm đang,
Chị dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn vườn tược thật sạch sẽ. Tràng cũng thấy
người vợ của mình nhanh nhẹn, hiền hậu đúng mực khiến anh thêm vui vẻ, tự hào.
Chi tiết chị quét sân được nhà văn miêu tả: tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên
mặt đất. Đó là những hát chổi của lòng tự tin. Người vợ nhặt ấy như đang khẳng
định sự có mặt của mình nơi ngôi nhà này- sự có mặt đem lại vẻ sáng sủa, sạch sẽ
cho một cuộc sống mới. (có thể phân tích thêm chi tiết người vợ kể về chuyện
cướp kho thóc trên mạn Thái Nguyên để thấy thêm một phẩm chất khác của người
đàn bà này như mạnh mẽ, và có ý thức thay đổi vận mệnh… )
3.3. Bình luận
+ Như thế, có thể thấy rằng hai ý kiến không hề đối lập nhau mà bổ sung cho
nhau. Cái liều lĩnh trong bước đường cùng lại chính là sự mạo hiểm để có được
hạnh phúc. Cái chao chát chỏng lỏn chỉ là lớp vỏ bên ngoài mà người đàn bà tự tạo
ra để thích ứng, để tự vệ, để chống chọi với cuộc sống. Còn bên trong vẫn có
những đức tính của một người phụ nữ Việt Nam đúng mực: cam chịu, chịu thương,
chịu khó, chăm chỉ, lo toan…Với nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân mang đến cho
người đọc một niềm tin: người phụ nữ, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn mang
thiên tính nữ. Một cách tự nhiên, họ khát khao một tổ ấm gia đình và vun vén cho
cái tổ ấm ấy.
+ Hai ý kiến hợp nhất tạo thành cái nhìn hoàn chỉnh về nhân vật người đàn
bà cũng là nhân vật điển hình cho số phận của con người trong hoàn cảnh éo le,
tăm tối. Hai ý kiến góp phần định hướng cho người đọc khi khám phá những giá trị
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
3.4. Vài nét về nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Kim Lân đã cố ý xây dựng nhân vật này với những nghịch lí rất đáng kể.
Là nhân vật quan trọng nhưng cũng là nhân vật duy nhất trong truyện không được
đặt tên riêng. Tự đặt mình vào hoàn cảnh mất danh giá dễ bị xem thường thế
nhưng người đọc lại không thể coi thường mà chỉ thấy thương, cảm thông, đôi chút
cảm thấy ngồ ngộ. Những nghịch lí này đã chứa đựng vẻ đẹp của hình tượng nhân
vật vợ nhặt.
+ Không tập trung miêu tả diễn biến tâm lí như Tràng và mẹ Tràng, Kim
Lân chú ý nhiều đến khắc hoạ những chi tiết về ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời
nói, nét mặt …nhưng qua đó cũng thấy được tính cách, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm
của nhân vật.
+ Điển hình hoá nhân vật bằng việc không đặt cho nhân vật một cái tên
riêng. Hiện tượng “vợ nhặt” không hiện ra như một hiện tượng cá biệt mà như một
hiện tượng xã hội phổ biến thời buổi ấy, nhờ đó ý nghĩa tố cáo lại càng sâu sắc
thêm.
4. Kết luận
+ Với nhân vật người vợ nhặt, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân
phong kiến đã gây ra nạn đói biến con người thành bèo bọt, rẻ rúng. Nhưng cũng
qua đó, nhà văn khẳng định niềm tin dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn
sống, vẫn khao khát, vẫn vươn lên xứng đáng làm người. Cùng với hai nhân vật
Tràng và bà cụ Tứ, nhân vật vợ nhặt góp phần làm nên chiều sâu trong tư tưởng
nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” .

Đề luyện
Về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là hiện thân của người phụ nữ nghèo, cùng đường,
liều lĩnh. Ý kiến khác khẳng định: Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát
vọng sống mãnh liệt và phẩm chất đức hạnh.
Qua nhân vật người vợ nhặt, anh chị hãy bình luận.

Dàn ý chi tiết

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật


+ Truyện ngắn Vợ nhặt được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim
Lân. Cùng với tình huống truyện độc đáo, Kim Lân còn rất thành công trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật, qua đó thể hiện những ý tưởng nhân đạo sâu sắc của
mình.
+ Nhân vật người vợ nhặt là một người đàn bà không tên, nhưng đã để lại
một ấn tượng khó quên trong lòng độc giả. Về nhân vật này, có ý kiến cho rằng:
Đó là hiện thân đầy đủ của người phụ nữ nghèo, cùng đường, liều lĩnh. Ý kiến
khác khẳng định: Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt
và phẩm chất đức hạnh.
2. Khái quát về nhân vật
- Giải thích hai ý kiến:
+ Ý kiến 1: Ý kiến này đề cập đến một nét nổi bật của số phận người đàn bà.
Là nạn nhân của cái đói, nghèo đến cùng kiệt, thị đã bám víu vào một người đàn
ông xa lạ, theo người đàn ông đó về nhà trong thân phận “vợ nhặt” chỉ để mong
được sống qua ngày. Rõ ràng, nhìn bề ngoài, thị đúng là hiện thân đầy đủ nhất của
người phụ nữ nghèo, cùng đường, liều lĩnh.
+ Ý kiến 2: Ý kiến này lại khẳng định một vẻ đẹp khuất lấp của người đàn
bà ấy. Bề ngoài tình cảnh vất vưởng là một khát vọng sống mãnh liệt; bề ngoài
chao chát chỏng lỏn, song bên trong lại tiềm tàng nữ tính, sự đảm đang, hiếu thảo.
Xét ở khía cạnh này, người đàn bà quả thật là người phụ nữ đức hạnh.
3. Phân tích chi tiết
3.1. Người vợ nhặt- hiện thân đầy đủ nhất của thân phận nghèo khổ, cùng đường,
liều lĩnh.
+ Sự xuất hiện và vài nét về chân dung của nhân vật người đàn bà đã phần
nào cho thấy điều đó. Thị xuất hiện trong truyện với bộ quần áo rách tả tơi như tổ
đĩa, người gầy lép, phẳng phiu, hai má gầy sọp, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn trơ lại hai con mắt trũng sâu… Thị ngồi vêu trước cửa kho thóc, chờ nhặt
hạt rơi hạt vãi. Chi tiết ngồi vêu rất sinh động, nó là một chi tiết đầy tạo hình, vừa
làm hiện lên dáng ngồi thê thảm của thị, vừa thể hiện tất cả sự tội nghiệp, ế ẩm
cũng như sự mòn mỏi, trông mong đến tuyệt vọng một sự giúp đỡ, một sự ban
phát bố thí để sống qua được từng ngày, từng giờ chứ chưa nói chi đến qua đựơc
nạn đói. Giữa lúc cái đói hoành hành ghê gớm, người chết đói như ngả rạ thì cuộc
sống của thị cũng như biết bao thân phận khác, cũng lắt lay, mong manh bên bờ
vực của cái chết.
+ Cái đói cũng khiến con người trở nên méo mó về tính cách: Cái chao chát
chỏng lỏn, sưng sỉa, cong cớn, điêu ngoa của thị khi gặp Tràng và cả cách thị ngồi
xuống ăn một chặp hết bốn bánh bánh đúc không ngẩng đầu lên, những lời thoại
chỉ xoay quanh miếng ăn: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu/ Hà, ngon!....Tất cả đều là
biểu hiện sinh động nhất của tình cảnh nghèo đói, rách nát của thân phận người
đàn bà. Rõ ràng, để chống chọi với cái đói, thị đã gần như biến thành con người
khác, rất vô duyên và dường như mất đi nữ tính, mất đi lòng tự trọng , chỉ còn lại
bản năng…
+ Tuy nhiên, hiện thân đầy đủ nhất của sự cùng đường, liều lĩnh của người
đàn bà đó phải là sau câu nói đùa bâng quơ vu vơ của anh Tràng, thị đã theo không
Tràng về nhà làm vợ. Gặp gỡ hai lần, chưa thể hiểu hết tính cách, con người gia
cảnh của người đàn ông xa lạ kia, thị vẫn bám lấy Tràng như người sắp chết đuối
vớ được cọc. Liều lĩnh, mạo hiểm, đem số phận, tương lai của mình giao phó, phó
mặc cho người đàn ông kia mà chưa biết thế nào. Theo người ta về trong hoàn
cảnh tủi phận ê chề, tự hạ thấp mình thành bèo bọt, rẻ rúng. Người đàn bà chấp
nhận làm vợ nhặt, như cái rơm, cái rác, như hạt cơm, hạt thóc rơi vãi trên đường.
+ Và rồi một “lễ rước dâu” thảm hại nhất đã xẩy ra, một lời hứa vu vơ đã trở
thành lời cầu hôn, bốn bát bánh đúc trở thành lễ vật ngày cưới, cô dâu về nhà
chồng trong bộ quần áo rách tả tơi và trong mùi gây của xác người và trong âm
thanh tiếng khóc người chết đói… Có lẽ đó là tất cả những gì éo le, trớ trêu nhất
của thân phận người đàn bà. Nó cũng là hiện thân đầy đủ nhất của thân phận
nghèo khổ, cùng đường, liều lĩnh của biết bao nhiêu con người khi rơi vào hoàn
cảnh ấy. Đồng thời qua số phận người đàn bà, Kim Lân đã tố cáo xã hội đẩy con
người vào hoàn cảnh khốn cùng, tăm tối nhất. Cái đói đã làm đảo lộn mọi giá trị,
hạ bệ con người xuống hàng bèo bọt rẻ rúng.
3.2. Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt và phẩm
chất đức hạnh.
+ Thế nhưng, ngay sau khi được anh cu Tràng chấp nhận cho theo về nhà
với thân phận vợ nhặt, người đàn bà đã không còn những biểu hiện như khi còn ở
chợ, thị dường như đã trở thành một người khác hẳn, là bản tính hàng ngày của thị
bị cái đói che lấp đi hay chính sự bao dung, nhân hậu của mẹ con Tràng đã làm
biến đổi thị? Có lẽ là do cả hai nguyên nhân.
+ Thật vậy, đằng sau tình cảnh vất vưởng của người đàn bà là cả một khát
vọng sống mãnh liệt. Ngay cả việc sưng sỉa ở chợ, hay theo anh cu Tràng về nhà
đều là biểu hiện của bản năng ham sống mạnh mẽ đó. Trong người đàn bà đó, đã
xảy ra một sự đấu tranh để lựa chọn giữa bản năng ham sống và nhân cách làm
người. Ở trong bước đường cùng, bản năng ham sống trỗi dậy, nó lấn át đi nhân
cách làm người của cô. Nhưng những phẩm chất của một người phụ nữ đức hạnh k
mất đi, nó đã sớm được bộc lộ ngay từ những bước chân đầu tiên theo anh cu
Tràng về xóm ngụ cư.
+ Trên đường về nhà, thị đi sau Tràng mấy bước, rất e thẹn ngại ngùng. Vẻ
táo tợn, đanh đá khi gặp Tràng giữa chợ đã hoàn toàn mất đi. Khi bị đám trẻ con
trêu ghẹo, thị càng xấu hổ, ngượng ngiụ, chân nọ đá vào chân kia trong khi Tràng
khi phởn phơ, sung sướng. Chính những biểu hiện ấy của người đàn bà kia đã cho
thấy chị không phải là người đánh mất hoàn toàn nhân phẩm, vì nó là biểu hiện của
nữ tính, và là ý thức xót xa trước thân phận mình. Điều này đã làm cho người đọc
tin tưởng vào hạnh phúc nhỏ nhoi mà Tràng đang có được.
+ Thái độ của người đàn bà khi về đến nhà Tràng càng thể hiện rõ điều đó.
Lúc theo Tràng vào nhà, nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại”, chị đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, như tự ý
thức được sự tự nguyện gắn bó, châp nhận hoàn cảnh nhà chồng không một lời oán
thán, phê phán. Chị cũng cư xử rất ý tứ : từ chuyện chào hỏi mẹ chồng lễ phép, cư
đứng khép nép, không dám ngồi, khi được bà cụ tứ cho phép ngồi cũng chỉ dám
ngồi mớm ở mé giường, hay khuôn mặt bần thần nghĩ ngợi, cho đến sáng hôm sau,
điềm nhiên ăn bát cháo cám mẹ chồng đưa cho dù trong lòng, trong miệng đắng
chát. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của một người mẹ già… Tất cả
những điều ấy chứng tỏ người đàn bà kia không phải là vô tâm, vô tình, cạn nghĩ.
Phải tinh tế, ý nhị lắm, phải đầy tình thương, trách nhiệm lắm chị mới có được
những ứng xử như thế.
+ Sau đêm tân hôn, người vợ nhặt đã thực sự trở thành người vợ đảm đang,
Chị dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn vườn tược thật sạch sẽ. Tràng cũng thấy
người vợ của mình nhanh nhẹn, hiền hậu đúng mực khiến anh thêm vui vẻ, tự hào.
Chi tiết chị quét sân được nhà văn miêu tả: tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên
mặt đất. Đó là những hát chổi của lòng tự tin. Người vợ nhặt ấy như đang khẳng
định sự có mặt của mình nơi ngôi nhà này- sự có mặt đem lại vẻ sáng sủa, sạch sẽ
cho một cuộc sống mới. (có thể phân tích thêm chi tiết người vợ kể về chuyện
cướp kho thóc trên mạn Thái Nguyên để thấy thêm một phẩm chất khác của người
đàn bà này như mạnh mẽ, và có ý thức thay đổi vận mệnh… )
3.3. Bình luận
+ Như thế, có thể thấy rằng hai ý kiến không hề đối lập nhau mà bổ sung cho
nhau. Cái liều lĩnh trong bước đường cùng lại chính là sự mạo hiểm để có được
hạnh phúc. Cái chao chát chỏng lỏn chỉ là lớp vỏ bên ngoài mà người đàn bà tự tạo
ra để thích ứng, để tự vệ, để chống chọi với cuộc sống. Còn bên trong vẫn có
những đức tính của một người phụ nữ Việt Nam đúng mực: cam chịu, chịu thương,
chịu khó, chăm chỉ, lo toan…Với nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân mang đến cho
người đọc một niềm tin: người phụ nữ, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn mang
thiên tính nữ. Một cách tự nhiên, họ khát khao một tổ ấm gia đình và vun vén cho
cái tổ ấm ấy.
+ Hai ý kiến hợp nhất tạo thành cái nhìn hoàn chỉnh về nhân vật người đàn
bà cũng là nhân vật điển hình cho số phận của con người trong hoàn cảnh éo le,
tăm tối. Hai ý kiến góp phần định hướng cho người đọc khi khám phá những giá trị
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
3.4. Vài nét về nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Kim Lân đã cố ý xây dựng nhân vật này với những nghịch lí rất đáng kể.
Là nhân vật quan trọng nhưng cũng là nhân vật duy nhất trong truyện không được
đặt tên riêng. Tự đặt mình vào hoàn cảnh mất danh giá dễ bị xem thường thế
nhưng người đọc lại không thể coi thường mà chỉ thấy thương, cảm thông, đôi chút
cảm thấy ngồ ngộ. Những nghịch lí này đã chứa đựng vẻ đẹp của hình tượng nhân
vật vợ nhặt.
+ Không tập trung miêu tả diễn biến tâm lí như Tràng và mẹ Tràng, Kim
Lân chú ý nhiều đến khắc hoạ những chi tiết về ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời
nói, nét mặt …nhưng qua đó cũng thấy được tính cách, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm
của nhân vật.
+ Điển hình hoá nhân vật bằng việc không đặt cho nhân vật một cái tên
riêng. Hiện tượng “vợ nhặt” không hiện ra như một hiện tượng cá biệt mà như một
hiện tượng xã hội phổ biến thời buổi ấy, nhờ đó ý nghĩa tố cáo lại càng sâu sắc
thêm.
4. Kết luận
+ Với nhân vật người vợ nhặt, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân
phong kiến đã gây ra nạn đói biến con người thành bèo bọt, rẻ rúng. Nhưng cũng
qua đó, nhà văn khẳng định niềm tin dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn
sống, vẫn khao khát, vẫn vươn lên xứng đáng làm người. Cùng với hai nhân vật
Tràng và bà cụ Tứ, nhân vật vợ nhặt góp phần làm nên chiều sâu trong tư tưởng
nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” .

Đề luyện: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt

Dàn ý chi tiết


1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm
+ Kim Lân, một nhà văn tuy viết ít nhưng là một cây bút cự phách của nền văn
xuôi đương đại. Trong số những tác phẩm thành công của KL, Vợ nhặt được
coi là truyện ngắn hoàn hảo hơn cả. Đó là một tác phẩm giàu chất hiện thực
và thấm đẫm tinh thần nhân đạo cao cả.
+ Vợ nhặt tuy được viết sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc nhưng đã dựng lại
bối cảnh những ngày tiền khởi nghĩa 1945. Trong truyện ngắn này, KL đã có
chủ định tái hiện một cách sinh động gương mặt xanh xám vừa đau khổ vừa
hi vọng củat xã hội VN trong một thời điểm lịch sử đặc biệt: thời điểm xảy
ra nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử. Chính điều đó đã đem lại
cho tác phẩm một giá trị hiện thực đậm đà.
2. Phân tích chi tiết
Giá trị hiện thực
+ Nói tới giá trị hiện thực của một tác phẩm là phải nói tới sự phản ánh trung
thành bản chất một mặt nào đó của đời sống xã hội, giúp độc giả hình dung
được về cái xã hội, cái thời được nói tói một cách chính xác, rõ ràng
+ Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt”, ta có thể bắt gặp rất nhiều chi tiết trực tiếp nói về
nạn đói 1945- cái nạn đói đã cướp đi của nước ta một phần mười dân số.
Bàn tay của thần chết lúc này đã vươn toả đi khắp nơi, luồn sâu vào mọi ngõ
ngách xóm làng, đánh gục vô số sinh mạng sau khi đã xua đuổi họ trôi dạt
khắp nơi. Đây là một trong những hình ảnh cụ thể: Những gia đình từ vùng
Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên xanh xám
như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả
rạ. Không buỏi sáng nào người làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn
cái thấy nằm còng queo bên đường . Thật là những hình ảnh ảm đạm khiến
người đọc phải xây xẩm mặt mày. Chưa hết, nhà văn còn đưa ra những chi
tiết thể hiện sự nhận biết về nạn đói bằng khứu giác: Không khí vẩn lên mùi
ẩm thói của rác rưởi và mùi gây của xác người chết, mùi đốt dồng rấm ở
những nhà có người chết theo gió thoảng bay vào khét lẹt. Còn đây là những
âm thanh kinh rợn củađặc trưng của cõi chết: Tiếng quạ trên mấy cây gạo
ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. Những chi tiết rất điển hình như
trên có thể khiến người đọc hình dung mà rùng mình kinh sợ không khác gì
một thiên phóng sự bằng hình ảnh nổi tiếng về nạn dói của nhà nhiếp ảnh Võ
An Ninh.
+ Người chết đã đi tới chỗ tột cùng bi thảm của số phận mình. Còn người sống thì
sao? Hình như họ cũng đứng bên bờ vực của cái chết. Trước đây, lũ trẻ con
trong xóm ngụ cư cứ đợi Tràng về mỗi chiều là bám lấy anh reo cười vang
lên. Còn giờ đây, không còn đứa nào buồn ra đón Tràng nữa. “Chúng nó
ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Những khuôn mặt
của người lớn cũng trở nên u tối, hốc hác âu lo…
+ Cái đói đã làm cho con người thành một thứ cỏ rác vô giá trị, thành một thứ của
nợ đời. Tình cảnh người vợ nhặt là một bằng chứng sinh động. Gặp Tràng,
chị chàng như người chết đuối vớ được cọc, cứ bám theo anh không kể gì tới
ý thức về phẩm giá. Trong tác phẩm của KL chi tiết này có rất nhiều ý nghĩa,
nhưng xét theo góc độ mà ta đang đề cập thì đó là một chi tiết hiện thực đến
tàn nhẫn. Cũng hiện thực đến cay đắng là bữa cơm mừng nàng dâu mới ở
cuối truyện. Người đọc cảm thấy một cái gì đắng nghét ở cổ họng. Phải ăn
thứ thức ăn của lợn ấy, con người có còn được là người nữa không?
+ Nhưng đúng theo quy luật ở đời, cái gì “cùng” thì tắc “biến”. Thực tại xã hội
những năm trước cm không phải chỉ có một màu xám xịt mà còn loé lên
những nét sáng sủa. Do viết Vợ nhặt sau cách mạng, KL có điều kiện hơn
các nhà văn hiện thực phê phán ngày trướclà được nói tới trong tác phẩm
của mình những biến đổi cách mạng trong đời sống xã hội do Đảng CS đưa
lại. Chi tiết lá cờ đỏ sao vàngdù chỉ xuất hiện thoáng qua ở cuối tác phẩm,
cũng có tác dụng đưa đến cho người đọc một ấn tượng hoàn chỉnh hơn về bộ
mặt xã hội Việt nam trước cuộc Tổng khởi nghĩa 1945.
+ Có thể thấy, qua mấy trang truyện ít ỏi, KL đã đưa vào nhiều chi tiết cực đắt làm
nổi bật bản chất đời sống trong thời điểm mà ông lựa chọn để miêu tả. Tính
hiện thực đậm đà của tác phẩm có được là nhờ vậy
2.2 Giá trị nhân đạo
+ Bên cạnh giá trị hiện thực, Vợ nhặt còn toát lên giá trị nhân đạo sâu sắc
hiếm thấy. Nói tới giá trị này người ta thông thường người ta quan tâm tìm
hiểu thái độ thông cảm, thương yêu trân trọng con người của người viết
được thể hiện trong tác phẩm. Đọc Vợ nhặt ta luôn luôn cảm nhận được
nhịp đập thổn thức của trái tim nhà văn đàng sau những sự kiện được phơi
bày
+ Dưới ngòi bút KL , dù chỉ một “con đường khẳng khiu buồn qua cái xóm
chợ của những người ngụ cư vào trong bến” cũng hiện ra với dáng vẻ thân
thuộc, bởi KL đã nhìn nó với một cái nhìn đầy âu yếm. Khi tả người, đặc
biệt là đám trẻ con, nhà văn càng tỏ thái độ trìu mến và thương cảm. Có một
cái gì đó hết sức tội nghiệp và dáng xót xa trong hình ảnh bọn trẻ ngồi ủ rủ
trước những sân nhà. Tâm trạng những người dân xóm ngụ cư khi thấy
Tràng dẫn về một người đàn bà cũng được miêu tả một cách đầy xúc động…
Phải thương, phải hiểu người dân nghèo lắm mới có thể viết những dòng
văn nhân hậu và ấm áp như thế.
+ Tuy nhiên, yếu tố cơ bản quyết định giá trị nhân đạo của Vợ nhặt là việc nhà văn
đi sâu vào miêu tả số phận cụ thể. Ba nhân vật chính của truyện là Tràng, vợ
tràng, bà cụ Tứ đã được ngòi bút KL nói tới với rất nhiều trân trọng.
+ Trước hết là thái độ nhà văn đối với Tràng. Qua mấy dòng đầu tiên, ta thấy
Tràng không phải là hình mẫu đẹp về người dân nghèo. Từ hình dạng đến
thói tật, anh ta có một cái gì đó thật không bình thường: thân thể “to lớn,
vập vạp”, hai conmắt nhỏ tí, gà gà, quai hàm bạnh, bộ mặt thô kệch, hắn có
tật vừa đi vừa nói, lảm nhảm than than thở những điều hắn nghĩ. Lúc thích
chí thì ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Đích thị là một anh chàng ngốc theo
quan niệm thông thường hoặc là một đứa trẻ lớn xác. Nhưng từ sâu trong ý
đồ nghệ thuật của mình, KL không muốn biến Tràng thành một nhân vật
biếm học giống như Nam Cao ngày trước. Bằng con mắt của tình thương,
ông thấy ở Tràng có cái gì đáng trọng. Giữa những ngày đói, chuyện đồng
tiền bát gạo là chuyện sinh tử vậy mà Tràng đã hào phóng dốc túi để đãi một
người dưng những bốn bán bánh đúc. Hành động đó rõ ràng xuất phát từ sự
ái ngại và từ một lòng thương.
+ Khi người đàn bà đói rách bám theo Tràng về nhà, thoạt đầu Tràng chợn, nhưng
rồi anh chậc lưỡi chấp nhận “Chậc kệ”. Việc này trong tình thế bi đát lúc
bấy giờ, khác nào một ơn cứu tử. Nét đẹp tiềm ẩn trong con người Tràng mà
chắc nhiều người không nghĩ là Tràng có đến đây được bộc lộ.
+ Nhưng điều cơ bản mà nhà văn muốn khẳng định qua nhân vật Tràng chưa hẳn
phải là ở chỗ đó. Điều đáng nói hơn cả là giấc mơ hạnh phúc của anh trong
cảnh khốn cùngKim lân không hề mỉa mai, cười cợt những giây phút lâng
lâng của Tràng. Những dòng văn của ông ấm áp tha thiết, biểu hiện thái độ
vun đắp, nâng niu rất mực: “Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những
cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe
doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn
tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm chưa
từng thấy ở người đàn ông nghèo khỏ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt
Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng ”
+ Còn rất nhiều chi tiết hay nữa về Tràng được nhà văn kể tới trong tác phẩm. Điều
không ngờ là càng theo dõi ngòi bút tác giả, ta càng thấy Tràng hiện lên thật
dáng mến, đáng gần gũi. Tràng quả là nhân vật có thể đem đến cho độc giả
niềm tin về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc bền bỉ của con người.
+ Nhân vật người vợ nhặt: Như để tạo nên sự tương xứng với Tràng, nhân vật
người vợ nhặt ngay từ đầu cũng không được KL cho xuất hiện với những nét
hiền thục, dịu dàng. Tình cảnh của chị ta còn khốn nạn hơn tình cảnh của
Tràng một bậc.
+ Trong những ngày đói thê thảm, chị cùng mấy người phụ nữ nữa ngồi vêu trước
kho thóc chờ nhặt hạt rơi hay chờ có ai có công việc gì gọi đến thì làm.
Người chị tàn tạ, áo quần tả tơi như tổ đỉa, ám sọp, trên cái khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt…Dù thảm hại như thế, chị cũng không có
cái vẻ đáng thương. Chị cong cớn, sưng sỉa trách mắng Tràng đặc biệt chị ta
sáng mắt lên khi thấy Tràng vỗ vào túi. Chị còn gọi ăn một cách trơ trẽn,và
khi được mời thì cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện
trò gì. Đọc đến đoạn này người đọc cư đinh ninh rằng đây là nhân vật chẳng
được nhà văn dành cho một chút cảm tình nào. Nhưng sự thực không diễn ra
như thế. Kim Lân không tuộc những nhà văn chỉ thích đi tìm và chế giễu
những nét ngợm ở con người. Ông hiểu sâu sắc rằng chính cái đói do bọn
thực dân phong kiến gây rađã đẩy con người tới cảnh phải đánh rơi nhân
phẩm một cách xót xa.
+ Nào ai muốn mình trở thành của nợ, thành người vợ nhặt vô giá trị bao giờ. Ở
hoàn cảnh khác người phụ nữ này hẳn sẽ không trơ trẽn như ta đã thấy. Quả
thật từ khi theo Tràng về, chị ta bỗng dưng như đổi khác. Chị có vẻ rón rén,
e thẹn, chân nọ bước díu vào chân kia và rất ít lời. Đến khi gặp mẹ chồng chị
càng ngượng ngiụ, khép nép hơn. KL tả: thị ngồi mớm ở mé giường, vẻ mặt
u buồn và bần thần nghĩ ngợi. Thế nghĩa là chị hoàn toàn không vô tâm
trước những gì đang diễn ra. Biết bao nhiêu nỗi niềm tâm trạng, không nói
nên lời.
+ Con người ấy ít ra cũng tỏ ra được là người đảm đang, quét tước dọn dẹp sân
vườn sạch sẽ tinh tươm. Chị làm Tràng thật sự ngạc nhiên: Tràng nom thị
hôm nay khác lắm, rõ ràng là con người hiền thục, đúng mực, không còn vẻ
gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh. Sự thay đổi này
tuy bề ngoài có vẻ đột ngột và lạ lùng, nhưng bên trong hoàn toàn không khó
hiểu, bởi có lẽ bản chất của chị vẫn là một sự thuần thục dịu dàng vốn có của
người phụ nữ Việt Nam. Qua nhân vật vợ nhặt này, Kim Lân chứng tỏ là
một người nhân hậu, không mất lòng tin vào phẩm chất tốt đẹp của con
người dù trong hoàn cảnh nào.
+ Nhân vật bà cụ Tứ: Với nhân vật bà cụ Tứ, chất nhân đạo của ngòi bút KL lại
được thể hiện ở một khía cạnh mới. Qua bà mẹ này, ta nhận thấy nhà văn
muốn biểu dương những vẻ đẹp điển hình trong tâm hồn, tình cảm của người
mẹ Việt Nam: nhân hậu, thương con, lo toan, cả nghĩ…Trước sự kiện Tràng
“nhặt vợ” về bà đã không có một thái độ oán trách, giận hờn. Trong điều
kiện sống chết liền kề, một phản ứng như thế ở một ngưòi mẹ cũng không
hẳn là có gì quá đáng và nhất là vẫn chưa phải ra ngoài khuôn khổ của lòng
yêu thương. Nhưng ở đây, lòng yêu thương của một người mẹ mới thật là
sâu sắc.
+ Trong lòng bà dấy lên niềm xót thương: xót thương cho số kiếp của con trai
mình, cho bước đường cùng của người đàn bà vừa trở thành con dâu. Tình
cảm ấy thể hiện trọn vẹn trong câu nói từ lòng vị tha cao quý: Ừ, thôi thì các
con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng. Bà còn cảm thấy
day dứt về bổn phận làm mẹ cua rmình: chao ôi, người ta dựng vợ gả chống
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở
mặt sau này. Còn mình thì…..
+ Trong thái độ của bà đối với con dâu, có biết bao sự gượng nhẹ thân tình, biểu
thị niềm cảm thông vô hạn của một người trải đời và hiểu người. Có lẽ nhờ
thái độ đó mà niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của hai vợ chồng tràng có thêm dư
vị, càng đáng quý giữa lúc bóng đen của cái đói và cái chết bủa vây. Rõ ràng
trong cái đói, tình thương không những không mất đi mà còn làm sáng lên
vẻ đẹp của nó.
+ Do thấm nhuần tư tưởng nhân đạo của cuộc cách mạng vô sản, trong tác phẩm
Vợ nhặt, KL đã không nỡ tước đi của nhân vật niềm hi vọng về một tương
lai tươi sáng. Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ đều muốn được sống và đã sống thì
phải biết nuôi dưỡng niềm tin. Có ai ngờ bà cụ đã gần đất xa trời lại là người
nói nhiều hơn cả về ngày mai: Rồi may mà ông trời cho khá, biết thế nào hở
con. Không ai giàu ba họ không ai khó ba đời” . Những lời nói ấy tưởng chỉ
thốt ra để an ủi các con những thật sự chúng đã phản ánh đúng những điều
mà bà - một người giàu kinh nghiệm đã nghĩ. Thật tự nhiên khi ta thấy bà
bàn với con chuyện kiếm nứa đan phên để ngăn buồng, nào chuyện mua đôi
gà để nó sinh sôi nảy nở…Đúng, không có gì có thể ngăn con người vun đắp
cho tổ ấm của mình. Đối mặt với cái chết, sự sống vẫn không hề chán nản,
vẫn kiên quyết vươn lên khẳng định sức mạnh.
+ Cuộc đổi đời tuy còn chưa tới, nhưng tín hiệu của nó thì đã phấp phới với hình
ảnh lá cờ đỏ sao vàng. Truyện tuy kết thúc ở điều nghĩ ngợi, bần thần của
Tràng, nhưng độc giả tin rằng những điều tràng mơ ước hôm nay một mai sẽ
trở thành hiện thực. Là một tác phẩm thấm nhuần tinh thần nhân đạo cách
mạng, truyện Vợ nhặt đã thật sự đem đến cho người đọc niềm lạc quan về
cuộc sống.
3. Kết luận
+ Xét theo phương diện thực tế lịch sử, cái thời được miêu tả trong truyện
ngắn Vợ nhặt đã lùi xa về dĩ vãng. Nhưng trên những trang văn của Kim
Lân, thời khắc ẫy vẫn còn sống động và gợi lên biết bao suy nghĩ trong
chúng ta. Chính giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm đã
tạo nên sự ám ảnh kì diệu này ở người đọc. Sức sống bền bỉ của tác phẩm
phải chăng cũng chính nhờ những giá trị đó.

Đề luyện:
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt để làm nổi rõ những sáng tạo nghệ thuật độc
đáo của nhà văn Kim Lân.

Những ý chính cần có

1.Giới thiệu tác giả và tác phẩm


đặc biệt là trong việc tái hiện những diễn biến tâm trạng. Các nhân vật sống
động, gần gũi như vừa từ một lối ngõ của miền quê nào bước vào trang văn Kim
Lân. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, tự nhiên cũng mang lại sức hấp dẫn cho tác
phẩm.
2. Những đặc sắc nghệ thuật
2.1. Nhan đề:
+ Bản thân nhan đề của truyện đã là một đặc sắc nghệ thuật. Nó không phải
là sản phẩm của một sự ngẫu nhiên mà là một nhan đề có nhiều ý nghĩa: bao hàm
được tình huống éo le của truyện, hé mở nhiều giá trị độc đáo như giá trị hiện thực
và nhân đạo khơi gợi nhiều sự hấp dẫn, thú vị (…)
2.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
+ Tình huống truyện vừa có tính điển hình, vừa độc đáo, bất ngờ, dồn nén,
đầy kịch tính, các chi tiết chân thực, tự nhiên sinh động.
+ Diễn biến tình huống: Cuộc hôn nhân kì lạ (…). Anh cu Tràng lấy được vợ
diễn ra đơn giản đến lạ lùng. Vào một năm đói khát người chết như ngả rạ, anh
Tràng nghèo khổ, xấu xí tình cờ nhặt đuợc người phụ nữ khốn khổ còn nghèo hơn
anh. Họ dẫn nhau về làng, về cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại và nên vợ nên chồng.
+ Nhưng chính từ sự đơn giản đó, KL đã tạo ra được trạng thái xung đột của
những đối nghịch tuởng chừng không thể dung hoà: con người đi tìm sự giàu có
về tinh thần trong hoàn cảnh cực kì nghèo khó về vật chất; hạnh phúc lứa đôi nảy
sinh trong nỗi tuyệt vọng và đói khát, sự sống nảy sinh giữa cái chết, hi vọng nảy
sinh trong cơ cực, chua chát.
+ Từ tình huống giản đơn nhưng chứa đựng nhiều xung đột ấy, nhà văn
hướng người đọc đến nhận thức về tinh thần nhân bản và giá trị hiện thực của tác
phẩm: Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn hướng tới hạnh phúc, tương
lai, dù bị hạ bệ xuống hàng bèo bọt rẻ rúng, con người vẫn giữ được những phẩm
chất đáng trân trọng của con người…
+ Tình huống truyện cũng là một “khoảnh khắc” qua đó, tính cách, số phận,
tâm trạng nhân vật được hiện hình một cách rõ nét. Ở đây, nhà văn KL đã tái hiện
diễn biến nội tâm của Tràng, sự thay đổi của người vợ nhặt, đặc biệt và tâm lí bà
cụ Tứ một cách chân thực tinh tế.

2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật : Đặt nhân vật vào một tình huống éo le,
KL đã miêu tả thành công nhân vật với những tâm trạng, nét tính cách khác nhau
mỗi người một vẻ.
- Nhân vật bà cụ Tứ
+ Nhân vật bà cụ Tứ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí sắc sảo của nhà văn
Kim Lân. Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trước việc đứa con trai ngờ nghệch của
mình có vợ đầy phức tạp “theo kiểu vận động gấp khúc, phù hợp với tâm lí người
từng trải, nhân hậu” (Nguyễn Quang Trung).
+ Diễn biến: Từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên không giải thích nổi sự có mặt của
người đàn bà kia trong nhà mình, đến cúi đầu nín lặng tủi thân, xót xa cho thân
phận khi hiểu ra tất cả, từ sự lo lắng cho cuộc sống quá mong manh của đôi trẻ đến
niềm vui mừng khi nhận ra sự may mắn của con trai mình, từ nỗi xót thương thông
cảm với người con dâu đến niềm lạc quan tin tưởng vào tưong lai.
+ Kim Lân xoáy sâu vào dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật. Nhà văn để
bà cụ Tứ cảm nhận về hạnh phúc bất ngờ của đứa con trai bằng cả cuộc đời làm
vợ, làm mẹ cay cực của mình, bằng nhận thức của người từng trải. Tâm trạng ấy
cũng được thể hiện ra nét mặt, cử chỉ, cung cách sinh hoạt hằng ngày…(Chi tiết
giọt nước mắt, nồi cháo cám…)
+ Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên một cách
sinh động, đó là một người phụ nữ từng trải nhân hậu, ấm áp tình người, lạc quan,
hi sinh, chia sẻ…một người phụ nữ, người mẹ điển hình.
- Nhân vật Tràng:
+ Diễn biến tâm lí của anh cu Tràng có phần đơn giản hơn nhân vật ngươì
mẹ. Đó là tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng, phù hợp với một chàng rể đang
tràn trề hạnh phúc.
+ Diễn biến: Hồi hộp, ngỡ ngàng và có chút ngập ngừng khi thấy người đàn
bà theo mình về; Cảm xúc bâng khuâng, lâng lâng với niềm vui bất ngờ của chàng
trai có vợ trên đường trở về nhà. Niềm vui đó khiến Tràng quên hết những cảnh
sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ, quên cả những
tháng ngày trướcmặt…Một cái gì mới mẻ lắm, chưa từng thấy, ..nó ôm ấp, mơn
man khắp da thịt như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng; Hạnh phúc trọn vẹn với ý
thức về trách nhiệm của một người con trai, người chồng trong gia đình: Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này.
+ Điểm nhìn trần thuật đã được di chuyển một cách linh hoạt. Nếu ở nhân
vật bà cụ Tứ, điểm nhìn di chuyển từ nội tâm nhân vật đến cử chỉ lời nói thì ở nhân
vật người con trai, điểm nhìn lại bắt đầu từ bên ngoài rồi di chuyển đến điểm nhìn
bên trong. Điều này đã giúp cho nhà văn phân tích được tinh tế những trạng trạng
thái tâm lí của những con người trong một hoàn cảnh đặc biệt: sự đói khát có thể
làm biến dạng hình hài, thân xác con người nhưng không huỷ diệt được khát khao
hạnh phúc, nhu cầu được sốg và hi vọng về một cuộc đời tươi đẹp hơn.
- Nhân vật người vợ nhặt (bổ sung ở bài phân tích nhân vật)
+ Tâm trạng người vợ nhặt không được tập trung miêu tả trực tiếp như anh
cu Tràng và bà cụ Tứ, mà chỉ được cảm nhận qua vẻ bên ngoài: rón rén, e thẹn,
khó chịu, thở dài, ngượng ngiụ, mặt bần thần, khẽ nhúc nhích, ngồi mớm, khép
nép…Đó là những động từ, cụm động từ, tính từ miêu tả trạng thái cảm xúc của
người vợ.
+ Sự thay đổi của người vợ từ chỗ ngoa ngoắt, cong cớn khi ở chợ trở thành
ngoan hìên, đảm đang cũng được thể hiện ở hành động bên ngoài: chi tiết nén tiếng
thở dài, và bát cháo cám vào miệng, quét những nhát chổi sàn sạt…
2.4. Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ đối thoại
+ Ngôn ngữ đối thoại mang đậm phong cách sinh hoạt, nhưng mặt khác lại
được chắt lọc một cách nghiêm nhặt.
+ Ngôn ngữ phản ánh một cách sinh động địa vị xã hội, nguồn gốc xuất thân
của các nhân vật trong tác phẩm. Đó là ngôn ngữ mộc mạc bình dị của người nông
dân chất phác, dù là lời nói đùa, hay là lời nghiêm túc: Thì u hẵng vào ngồi lên
giường lên giếc chĩnh chện đã nào/ Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ/
chẳng qua nó cũng là cái số cả…
+ Ngôn ngữ phản ánh tính cách, đặc điểm, tâm lí của con người, ví dụ tính
thực tế của người mẹ khi ước mơ: Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà…Ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem, ví dụ sự ngờ ngệch, nông cạn,
vô tư của anh con trai: quái, sao nó lại buồn thế nhỉ/ Chán quá, chẳng đâu vào đâu
tự nhiên cũng khóc…, sự vô duyên, thiếu nữ tính của nhân vật ngưòi đàn bà khi ở
chợ: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu/ Hà, ngon!....
+ Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật phù hợp với tình huống giao tiếp, tình
huống của truyện: ví dụ cuộc đối thoại giữa Tràng và người đàn bà chính là một
khúc hát giao duyên, cuộc đối thoại đó xoay quanh chủ đề là miếng ăn. Chính cái
đói là nguyên cớ để Tràng nhặt được vợ, đây cũng là tình huống của truyện.
3. Kết luận

Đề luyện
Cảm nhận về nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài

Những ý chính cần có


1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm, nhân vật
+ Trong tác phẩm VCAP chúng ta thấy nổi lên hai tuyến nhân vật. Đó là
nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị và tầng lớp chính diện thuộc tầng lớp
bị trị.
+ Nếu tuyến thứ nhất chỉ sắm vai phụ thì vai chính thuộc về tuyến thứ 2.
Tuy câu chuyện có tên “Vợ chồng A Phủ” nhưng giữa hai nhân vật này, Mị mới
chính là nhân vật quan trọng, là linh hồn của tác phẩm. Song, A Phủ không phải
là không có một ý nghĩa riêng. Nếu Mị là hình tượng điển hình cho người phụ nữ
thì A Phủ là hình tượng điển hình của người đàn ông. Cả hai hợp lại sẽ cho chúng
ta một hình ảnh toàn cảnh về kiếp sống ngày xưa của người nông dân dưới ách
thống trị của bọn lang đạo chúa đất.
+ Trong phần đầu của tác phẩm, AP là nhân vật phụ, nhưng góp phần tạo
nên tình huống độc đáo cho tác phẩm và tô đậm thêm sức tố cáo cho truyện.
2. Phân tích nhân vật
2.1. Khái quát về nhân vật
+ Nếu Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là đứa ở trừ nợ. A Phủ cũng là một
thành công của nhà văn TH. AP được xây dựng gần gũi với các chàng trai trong
truỵện cổ miền núi ngày trước. AP cũng là một chàng trai mồ côi, xuất thân nghèo
hèn khốn khó, nhưng nhờ những phẩm chất tốt, có tài có đức mà dần dần vươn lên
cuộc sống tự do, sung túc, tất nhiên là không thiếu sự trợ giúp. A Phủ cũng thế, tuy
chỉ khác một điều là không phải là yếu tố thần kì mà chính là cách mạng đã dẫn dắt
những người như A Phủ và Mị từ một cuộc sống bất hạnh đến cuộc sống hạnh
phúc.
2.2. Các phương diện của nhân vật
- Lai lịch và tính cách:
+ AP là đứa con mồ côi, nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói làm chết người
hàng loạt: mới 14 tuổi AP đã bị bán xuống vùng người Thái , nhưng lại trốn để lưu
lạc đến Hồng Ngài. Trong xã hội phong kiến miền núi với một bản lí lịch như thế
để vào đời, AP khó mà tìm được chỗ đứng trong xã hội. Rốt cuộc quanh năm AP
chỉ làm thuê làm mướn để kiếm sống mà thôi.
+ Tuy nhiên, lớn lên giữa núi rừng hoang dã, A Phủ thành chàng trai Mông
khoẻ mạnh: Chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, cày giỏi và
săn bò tót rất bạo, mọi công việc cứ làm phăng phăng...
+ Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ sống tất hồn nhiên, yêu đời,
yêu cuộc sống bình yên, chính nghĩa. Ngày Tết dù chẳng có quần áo đẹp như nhiều
chàng trai khác trên cổ vẫn lằn một chiếc vòng vía đeo từ nhỏ, nhưng A Phủ vẫn
hoà cùng đám bạn thổi kèn thổi sáo tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm mơ ước
của bao cô gái Mèo. Họ kháo nhau: Đứa nào có được A Phủ cũng như có con trâu
tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu.
+ Ngay từ nhỏ, A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản
kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì vô lí...
- Số phận
+ AP cũng là một điển hình cho số phận bi đát của người dân miền núi hồi
ấy. Vốn bản tính phóng khoáng tự do, AP đã đánh con quan. Nhưng cũng vì hành
động ấy mà anh phải rơi vào nhà thống lí Pá Tra làm đứa ở trừ nợ. Nếu như Mị là
nạn nhân của món nợ truyền kiếp, của phong tục tập quán và của thần quyền, thì
AP là nạn nhân của một xã hội không có luật pháp, hay đúng hơn là một thứ luật
rừng. Cách xử tội của bọn chức việc ở Hồng Ngài mới thật lạ lùng: sinh mạng con
người nằm trong tay kẻ mạnh. Nhà văn đã lột trần cái gọi là công lí của xã họi
phong kiến miền núi qua cách xử kiện A Phủ: “Cứ mỗi đợt hút thuốc phiện
xong….càng đánh, càng chửi, càng hút”. Câu văn miêu tả của Tô Hoài như bị xé
ra, hơi văn đứt từng khúc, từng đoạn, khiến người đọc như nghe, như thấy được
cái cảnh xử kiện lạ lùng, quaí đản. Và nghe đựoc cả tiếng lòng thổn thức, sôi giận
đến tắt nghẹn của nhà văn trước tội ác của lũ chúa đất vùng cao thời phong kiến
thực dân.
+ Bị đánh đập chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làm mưa roi và khói
thuốc phiện, không được nói, không được thanh minh. Suốt chiều, suốt đêm vẫn im
như tượng đá...
+ Sau cảnh xử kiện. A Phủ lại như Mị, ngày ngày làm việc cực nhọc: cày
ruộng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, một mình cô độc, rong ruổi ngòai gò bãi,
nương rừng...
+ Cũng như số phận của Mị, trói chặt AP vào địa ngục trần gian ấy còn có
lực luợng thần quyền. Con ma nhà thống lí đã nhận mặt AP thì có nghĩa là AP đã
chấp nhận làm con trâu, con ngựa nhà thống lí đời đời mãn kiếp. Đặc biệt những
chi tiết khi AP ngoan ngoãn tự đi chôn cọc, đi lấy dây mây và nhẫn nhục bị trói
đứng bên cột, hoặc chi tiết đến lúc không phải quỳ, tập tễnh chân đau đi làm thịt
lợn hầu hạ những kẻ đã đánh mình, hầu hạ những kẻ từ nay làm cho mình trở thành
nô lệ của chúng khiến chúng ta không khỏi rùng mình bởi sự tàn bạo thâm độc của
chế độ cai trị của bọn chúa đất phong kiến vùng cao.
-Vẻ đẹp của nhân vật
+ Thế nhưng AP cũng biểu hiện một khát vọng tự do mãnh liệt. Mọi khát
vọng của AP đều được bộc lộ ra bên ngoài. AP sinh ra giữa núi rừng nên yêu tự do
như con chim trên trời như con thú trong rừng. Nhu cầu tự do như là bản năng.
Tuy nhiên không chỉ dừng lại ở bản năng mà khát vọng tự do ở AP còn trở thành ý
thức. Một loạt những dẫn chứng đã cho thấy khát vọng tự do của AP thật tràn trề
như sinh lực của AP vậy: thủa bé, trốn khỏi nhà chủ để tìm về quê quán; không
chịu được sự ức hiếp của con nhà quan, khẳng khái, cương trực kiểu “anh hùng
tiếng đã gọi rằng, giữa đường dầu thấy bất bằng mà tha”; AP nhay đứt hai vòng
dây mây, rồi khi đối diện với cái chết, đã bất lực uất ức khóc; quật dậy dùng sức
tàn của mình chạy trốn vào bóng tối….Tất cả những điều đó, chúng tỏ AP đã thấm
thía tận cùng nỗi đau của người bị mất tự do, nên khát vọng tự do đã cho AP sức
mạnh để giải phóng chính mình. Đó cũng là ý thức làm người, là tinh thần phản
kháng dù tự phát nhưng nó là cơ sở tốt để sau này A Phủ làm du kích.
- Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: phản kháng và cam chịu
+ Ở nhân vật AP, Tô Hoài đã nhìn ra vấn đề, trong con người AP có hai nét
đối lập: AP cường tráng, bất khuất và A Phủ cam phận tôi đòi. A Phủ biểu trưng
cho sức mạnh con người và A P biểu trưng cho sự nhục mạ con người. Đây là sự
vận động, phát triển nội tại của hình tượng nhân vật.
+ Có những ý kiến băn khoăn, A Phủ có tính cách tự do, ngang bướng, luôn
phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì nhưng vì sao, sau khi bị đánh đập, xử
tội phải ở nợ cho nhà thống lí, A Phủ vẫn tự tay cầm dao, lê bước chân tập của
mình đi
giết lợn phục dịch chính những kẻ đã hành hạ, đánh đập biến mình thành con nợ? Hoặc
khi để hổ vồ mất một con bò, A Phủ cãi lại thống lí nhưng vẫn phải vác cọc, đóng
cọc, mang dây mây đến cho tên ác bá trói mình vào đó?
+ Những chi tiết ấy có gì mâu thuẫn với tính cách của một con người vốn
mãnh liệt, can trường. Tuy nhiên, Tô Hoài đã nhận rõ hai mặt đối lập ấy trong mỗi
con người: mâu thuẫn mà thống nhất. Một con người cường tráng, bất khuất và
một con người thân phận tôi đòi đều có trong A Phủ...Cam chịu chấp nhận, nhẫn
nhục vì thân cô thế cô, vì ý thức được sự bất lực...Đấy chính là giai đoạn chưa giác
ngộ của những người dân nghèo miền núi khi phải sống trong tăm tối, chưa có ánh
sáng của Đảng...Họ chưa biết kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh phản kháng nên
cuối cùng vẫn chỉ là thân phận đơn độc nô lệ dưới tay bọn ác bá...Sau này khi được
giác ngộ, A Phủ là một du kích dũng cảm trở về giải phóng quê hương...
2.3. Ý nghĩa của nhân vật
+ Xét về ý nghĩa nghệ thuật, nhân vật AP xuất hiện đặc biệt làm đứa ở trong
nhà thống lí Pá Tra là một tình huống độc đáo. Nó vừa nói rằng trong xã hội ấy,
sớm hay muộn những con người khoẻ mạnh như AP cũng sẽ bị biến thành nô lệ.
Và nhân vật A Phủ cũng cho thấy một trong rất nhiều thủ đoạn, cách thức của giai
cấp thống trị biến những người lao động khoẻ mạnh tự do thành nô lệ cho chúng...
+ Mặt khác, sự xuất hiện của AP đã giúp Mị bộc lộ những tiềm năng sức sống
trong tâm hồn mình. Nếu không có AP và những giọt nước mắt trong đêm gió rét
bị trói đứng bên cọc, thì không thể có sự chuyển biến lạ lùng trong tâm hồn Mị và
kết cục hai người tháo cũi sổ lồng giải phóng cho mình khỏi địa ngục trần gian.
2.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Dù Mị và A Phủ có số phận giống nhau, nhưng nhà văn đã xây dựng nhân
vật có cá tính, sinh động khác nhau.
+ Nếu nhân vật Mị chủ yếu được xây dựng bằng một số nét chân dung lặp lại,
bằng những dòng ý nghĩa chập chờn, mà rất ít hành động thì ngược lại, A Phủ
được thể hiện chủ yếu bằng hành động và chỉ một vài lời đối thoại ngắn giản đơn
mà chắc nịch. Vì thế, A Phủ hiện lên với tính cách gan góc, bộc trực và táo bạo…
3. Kết luận
+ Thông qua nhân vật AP ta vừa có điều kiện hiểu thêm mảng đời sống xã hội
mà Tô Hoài đã lựa chọn để miêu tả, đồng thời thấy được cái nhìn nhân đạo sâu sắc
của nhà văn.

Đề luyện:
Về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) , có ý kiến cho rằng: Nét
nổi bật ở người phụ nữ này là sự nhẫn nhục và ý thức đầu hàng hoàn cảnh.
Ý kiến khác khẳng định: Nét nổi bật ở Mị chính là sự phản kháng mạnh mẽ và
khát vọng sống mãnh liệt.
Qua việc phân tích nhân vật Mị, anh chị hãy bình luận những ý kiến trên.

Dàn ý chi tiết

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật


+ Nhân vật trong truyện ngắn là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực
và thể hiện những quan niệm về con người. Con người trong văn học hiện lên với
tất cả những gì tinh vi, phức tạp, mâu thuẫn nhất của nó. Nhà văn tài năng thường
xây dựng được những nhân vật có tính điển hình cao, ở nhân vật ấy thường có sự
hài hoà, thống nhất giữa các đối cực.
+ Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một nhân vật như thế.
Về nhân vật này, có ý kiến cho rằng: Nét nổi bật ở người phụ nữ này là sự nhẫn
nhục và ý thức đầu hàng hoàn cảnh. Ý kiến khác khẳng định: Nét nổi bật ở Mị
chính là sự phản kháng mạnh mẽ và khát vọng sống mãnh liệt.
+ Hai ý kiến đối lập nhưng không hề loại trừ nhau, thể hiện hai đặc điểm
mâu thuẫn nhưng tương tác qua lại tạo nên tính cách nổi bật của nhân vật Mị.
2. Giải thích ý kiến
+ Ý kiến 1: Ý kiến này cho thấy một nét tính cách nổi bật của Mị khi về làm
dâu nhà thống lý Pá Tra một thời gian. Lúc này, sống lâu với cái khổ Mị không còn
thấy khổ nữa, cô trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa, câm lặng với cuộc
đời, tê liệt mọi xúc cảm con người. Đó chính là biểu hiện của sự nhẫn nhục, chịu
đựng và buông xuôi trước hoàn cảnh.
+ Ý kiến 2: Ý kiến này đề cập đến vẻ đẹp sâu xa của nhân vật, đó chính là
sức sống tiềm tàng, là khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị. Đó là khát vọng
được sống một cuộc sống tự do, có nhân phẩm, có tình yêu, hạnh phúc. Khát vọng
ấy vẫn tồn tại âm thầm trong sâu thẳm con người Mị, có lúc bị hoàn cảnh vùi dập
nhưng chưa bao giờ mất đi, chỉ cần có cơ hội là bùng lên dữ dội.
+ Tính cách của Mị là sự tương tác của hai đặc điểm ấy. Nó vừa tranh chấp
với nhau, vừa kết hợp với nhau tạo nên nét sinh động nổi bật của nhân vật, vừa thể
hiện bản lĩnh của một nhà văn am hiểu lôgic tâm lí của con người. Sự tranh chấp -
kết hợp đó được thể hiện qua diễn biến hành động, tâm lí của nhân vật Mị trong
suốt tác phẩm.
3. Phân tích chi tiết
3.1. Sự xuất hiện của nhân vật Mị
+ Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên trong truyện, Mị đã có những biểu
hiện của hai nét đặc điểm đó. Không phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài đã để nhân vật
Mị xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với
nhiều điều bất thường, nghịch lý: Ai ở xa về có việc vào nhà thống lý Pá Tra
thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
ngựa. Mị xuất hiện trong dáng vẻ lẻ loi, cô độc trong sự đối lập với không khí ồn
ào của người qua, kẻ lại, kẻ hầu người hạ trong gia đình thống lí Pá Tra; giữa tư
cách là vợ A Sử, con trai thống lí - gia đình được biết đến là ăn của dân nhiều, đồn
Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc nhiều thuốc
phiện nhất làng và những việc làm, dáng vẻ của cô: Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, che củi, hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là sự đối lập giữa danh phận – thân phận, giữa vị thế
- tâm thế, giữa vị thế chủ nhân- tâm thế nô lệ, giữa địa vị cao sang, quyền quý -
dáng vẻ hèn kém, tội nghiệp…
+ Với một vài chi tiết, giọng điệu có phần tưng tửng, khách quan, Tô Hoài
đã làm hằn lên chân dung nhân vật Mị, không chỉ là ở dáng vẻ bề ngoài mà đã hé
mở rất nhiều điều về số phận, cõi lòng nhân vật. Trước hết, Tô Hoài đã để cho Mị
xuất hiện bên cạnh những đồ vật: bên tảng đá, trước cửa, cạnh tàu ngựa. Như đã
nói, nó đã làm toát lên sự lẻ loi, âm thầm của nhân vật. Sự tồn tại của cô như lẫn
vào những đồ vật vô tri. Nhưng hình như không chỉ có thế, sự xuất hiện ấy còn báo
hiệu sự vô cảm, câm lặng trong tâm hồn. Phải chăng có những trói buộc về tâm
hồn, sự hành hạ về thể xác có thể khiến cho con người trở nên chai sạn với nỗi đau
của chính mình, tê liệt cảm xúc vốn có của một con người, trở thành kiểu người
“vật hoá”. Khi đó, con người không phải đang sống mà chỉ như đang tồn tại mà
thôi, hoặc chấp nhận một cuộc sống không đáng sống, sống không được như con
người thực sự. Ở trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Cô không ý thức được sự sống
nữa, sống chẳng qua chỉ là kéo dài những ngày chưa chết mà thôi.
+ Trong lời văn nghệ thuật, không chỉ là một thông báo thuần tuý khách
quan mà còn bao hàm một đánh giá: lúc nào cũng thế. Như vậy, dáng điệu cúi mặt,
mặt buồn rười rượi của Mị không phải là biểu hiện nhất thời, ngẫu nhiên nữa mà
đã trở thành dáng diệu quen thuộc, nó là dáng điệu của thân phận, đổ bóng xuống
toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên cũng từ dáng vẻ đó lại cho thấy ở Mị một tính cách
đặc biệt, đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Một mặt, Mị có vẻ nhẫn nhục chịu
đựng, buông xuôi đến mức yếu đuối, mặt khác, người ta lại thấy Mị là người cứng
cỏi, mạnh mẽ đến mức bướng bỉnh. Bên trong cái bề ngoài lặng lẽ, câm lặng, có vẻ
ý thức đầu hàng hoàn cảnh ấy lại chứa đựng một sức sống mãnh liệt ở bên trong.
Điều này còn được thể hiện xuyên suốt ở những hành động, tâm lí của Mị ở trong
truyện.
3.2. Cuộc sống làm dâu ở nhà thống lí Pá Tra
+ Trước khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị đã sống cuộc sống thanh xuân
tươi đẹp. Xinh đẹp, tài hoa và đức hạnh, đó là những giá trị con người Mị có thể
khiến Mị xứng đáng được hưởng một số phận hạnh phúc. Với tất cả khát vọng
mãnh liệt của mình, Mị đã lên tiếng từ chối cuộc hôn nhân với A Sử một cách tự
tin: Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô giả nợ thay cho bố, bố
đừng bán con cho nhà giàu. Câu nói là sự lên tiếng của một khát vọng sống tự do,
nó cho thấy với Mị, thà làm việc khổ cực trên nương rẫy mà được tự do còn hơn
làm dâu cho nhà giàu mà nô lệ.
+ Không cưỡng lại được số phận, bị bắt về nhà thống lí, bị đem cúng trình
ma nhà thống lí, chấp nhận làm vợ A Sử cũng là biểu hiện của thái độ không dám
phản kháng, của ý thức đầu hàng hoàn cảnh. Nhưng mấy tháng đầu, ngày nào Mị
cũng khóc, cũng héo hon. Có lần còn toan tự tử. Đây là hành vi có vẻ tiêu cực
nhưng thực ra vẫn là biểu hiện tích cực, nó cho thấy Mị vẫn còn ham sống, khát
khao cuộc sống tốt đẹp nên mới muốn chết. Như thế Mị không đầu hàng hoàn
cảnh, không buông xuôi.
+ Tuy nhiên vài năm sau, khi bố chết rồi, Mị không còn vướng bận, nhưng
Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa. Đây lại là biểu hiện của ý thức đầu hàng
hoàn cảnh. Cô không còn ý thức về sự tủi nhục của mình nữa. Kiếp sống tôi đòi ở
nhà thống lí không những vắt kiệt sức lực của Mị mà còn khiến Mị trở nên tê dại
về tinh thần. Từ cô gái trẻ trung xinh đẹp, giờ đây lúc nào Mị cũng buồn rười rượi.
Mị như lẫn vào thế giới của những đồ vật vô tri: những tảng đá, cạnh tàu ngựa, lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Chỗ ở của cô là một buồng gian chỉ có một lỗ
vuông bằng bàn tay “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng”. Nỗi khổ triền miên và sự lặp lại của những công việc nặng nề
đơn điệu làm cho Mị mất cả ý niệm về thời gian, mọi ước mơ dường như tắt lịm,
mọi khát vọng như đã bị lụi tàn. Cuộc sống của Mị bây giờ chẳng qua là sự kéo dài
những ngày chưa chết mà thôi.
+ Trói chặt Mị vào cái nhà tù ấy còn có lực lượng thần quyền mà kẻ thống trị
đã lợi dụng để khống chế con người một cách triệt để. Khi đã bị trình cũng ma nhà
thống lí thì coi như cuộc đời Mị đã được sắp đặt. Không thể cựa quậy, không mong
giải thoát. Hình ảnh con ma nhà thống lí rồi sẽ bám riết lấy Mị suốt đời. Đó là sợi
dây trói tinh thần ghê gớm và nghiệt ngã của những tư tưởng cổ hủ và lạc hậu. Nó
khiến cả thể xác và tinh thần con người đều bị cầm tù một cách hoàn toàn. Như vậy
sự nhẫn nhục, cam chịu của Mị đã làm nên dáng điệu cố hữu của cô trong toàn bộ
tác phẩm. Tuy nhiên khát vọng bên trong vẫn luôn cựa quậy, có cơ hội là lại bùng
lên.
3.3. Đêm tình mùa xuân
+ Trước đó, sau nhiều năm làm trâu ngựa nhà thống lí, Mị đã mất đi hạnh
phúc đang có, Mị không thiết tha bất cứ điều gì. Năm nào cũng có những đêm tình
mùa xuân, nhưng Mị không có nhu cầu gì nữa cả. Chiếc váy hoa vẫn vắt tít ở trong
vách chứng tỏ từ ngày về nhà thống lí, cô chưa mặc một lần. Nó chứng tỏ cô cũng
chẳng có nhu cầu làm đẹp. Cô cũng chẳng thiết đi chơi hội, cũng vì A Sử chưa bao
giờ cho Mị đi chơi. Được đi chơi là nhu cầu giao lưu, là khao khát được vui, muốn
làm đẹp là biểu hiện của nữ tính . Ở Mị tất cả dường như đã đã bị dập tắt, cũng như
sự tắt ngúm của ngọn lửa lòng, của khát vọng sống.
+ Nhưng mùa xuân năm nay khác hẳn. - Mùa xuân về ở Hồng Ngài đã có
những tác động tích cực đối với cuộc đời tăm tối và giá lạnh của Mị.
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống và đầy màu
sắc, âm thanh: trên đồi núi những nương thuốc phiện với sắc màu rập rờn biến ảo,
trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như
con bướm sặc sỡ …Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà;
Mùa đông năm đó Hồng Ngài cũng giá rét hơn, sự lạnh lẽo bên ngoài đánh thức
nhu cầu hơi ấm ở bên trong con người… Rồi tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi- tiếng
sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị thiết tha bổi hổi. Từng lời hát giản dị, mộc
mạc những lại có sức mời gọi lớn lao đối với Mị “ ta không có con trai con gái- ta
đi tìm người yêu”. Và bay theo tiếng sáo, những đêm tình mùa xuân đã tới…
- Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất
là tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã
thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là
tiếng ca của hạnh phúc, là âm thanh của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua cái hàng
rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức
cái sức sống vẫn tiềm ẩn trong cõi lòng của người thiếu nữ Tây Bắc này.
+ Và đặc biệt, khi uống rượu vào, Mị ý thức được mình còn trẻ, mà rất trẻ.
Đó là khoảnh khắc đau đớn nhất của người đàn bà, là giây phút phẫn uất nhất, nhận
ra những oái ăm, ngang trái của cuộc đời, những oan ức mà mình phải gánh chịu.
Đó là những cay cực không đáng có..Thấm thía cảnh tình tủi nhục của mình, Mị
chỉ muốn chết quách đi cho xong “ Nếu có nắm lá ngón lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay”. Lúc chán đời nhất thì k chết, nhưng khi muốn chết chính là khi khát khao
sống mãnh liệt nhất. Đây là biểu hiện lộn ngược vẫn xảy ra ở Mị. Tuy nhiên nhiệt
tình sống vẫn mạnh mẽ hơn.
+ Một loạt sự biến đổi bên trong tâm lí dẫn đến những hành động kế tiếp
nhau là biểu hiện minh chứng cho sức sống tiềm tàng trỗi dậy, sự sống quay về. Mị
thấy mình còn trẻ, đó là ý thức về sự tồn tại của mình trên đời. Mị thắp đèn lên cho
sáng, lòng yêu đời đã trở về, nó muốn mượn ngọn đèn kia để toả sáng. Mị muốn đi
chơi đó lại là nhu cầu được giao lưu được vui đuợc chia sẻ. Mị soi gương vấn lại
tóc, lấy cái váy hoa dắt tít ở trong vách ra để mặc đi chơi, nhu cầu làm đẹp trở lại,
nữ tính quay về(….)…Như vậy, Mị quyết định đi chơi đêm hội, cô thấy mình
không thể buông xuôi như trước nữa. Ý thức đâù hàng hoàn cảnh giờ đây đang bị
khát khao sống chất vấn.
+ Thế nhưng, A Sử lại dập tắt ngọn đèn mới sáng trong Mị, A Sử trói Mị
đứng bên cột suốt đêm. Sau đêm ấy, Mị lại bị hoàn cảnh dúi đạp xuống. Lần này
cô gần như bị tê liệt hoàn toàn. Ý thức đầu hàng hoàn cảnh lại chiến thắng.
3.4. Đêm cứu A Phủ
+ Lần này, cô không những mất đi khao khát sống, mà cô mất đi nhưng cảm
xúc người. Mất lòng trắc ẩn, mất đi tình thương đối với đồng loại- tính người đầu
tiên và cũng là cuối cùng của con người. Nó là sự mất mát đáng sợ nhất trong cuộc
đời.
+ Biểu hiện: A Phủ bị hành hạ, trói đứng bên cột hàng tuần lễ ở những ngày
mùa sương muối, thân xác tiều tuỵ đi. Ngày nào, đêm nào Mị cũng ra hơ tay sưởi
lửa, cũng nhìn thấy những biểu hiện khổ sở của A Phủ nhưng không hề động lòng.
Mị đã tê liệt, lòng trắc ẩn đã lịm tắt. Ý thức đầu hàng hoàn cảnh đã chế ngự con
người Mị. Mị đã buông xuôi tuyệt đối.
+ Nhưng khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt cay đắng,
bất lực, giọt nước mắt yếu đuối của phái mạnh, thậm chí là của người có sức mạnh
nhất bản Hồng Ngài, lòng trắc ẩn của Mị đã được đánh thức. Đó là dòng nước mắt
của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt
lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị nhớ đến
những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho
thân phận của mình: “…Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó
rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi… Còn người kia việc gì phải chết
thế?”
+ Ngay trong lời độc thoại này cũng cho thấy sự tương khắc lẫn nhau giữa
hai ý thức: ý thức đầu hàng hoàn cảnh, cam chịu thân phận và ý thức nổi loạn phản
kháng trong nhân vật Mị. Ý nghĩ về số kiếp thân phận mình sẽ bị trói chặt ở cái
nhà này và chết rũ xương khiến cho Mị không còn le lói bất cứ sự phản kháng nào
nữa. Với cô, cuộc sống chỉ là kéo dài những ngày chưa chết, và sẽ chết như trâu
ngựa ở nhà này, không khao khát gì hơn.
+ Nhưng khi trong Mị nhận thấy sự vô lý của sự việc: Người kia việc gì mà
phải chết thế? Chúng nó thật độc ác…thì đây lại là dấu hiệu của sự nổi loạn. Hơn
nữa, thấy cảnh A Phủ khóc, Mị lại nhớ đến đêm bị A Sử trói đứng bên cột. Thương
mình, đồng cảm với A Phủ, rồi đến thương người, lòng trắc ẩn đã tạo nên sức
mạnh cho Mị. Ý nghĩ cứu A Phủ xẩy đến rất nhanh nhưng lại hợp tâm lí nhân vật
Mị. Giây phút chứng kiến A Phủ chạy đi, Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối với sự
nghẹn ngào. Cứ tưởng Mị sẽ cam tâm chết thay cho A Phủ, nhưng khát khao sống
đã bùng lên mãnh liệt vào cái giấy phút mệnh hệ ấy. Mị đuổi theo A Phủ và cất lên
tiếng nói sau bao nhiêu năm câm nín: A Phủ. Cho tôi đi. Ở đây thì chết mất. Đó là
tiếng nói khát khao sống, và khao khát tự do bấy lâu nay vị đè nén, giày xéo, chà
đạp. Tiếng nói ấy cho thấy Mị đã phá bỏ được sức nặng của cường quyền, của thần
quyền vẫn trói buộc đày đoạ Mị. Cắt dây trói cho A Phủ, Mị đồng thời cắt luôn sợi
dây trói tinh thần ấy để giải phóng chính mình.
+ Như vậy, đến đây, sức sống tiềm tàng của Mị đã không chỉ dừng ở dạng
tinh thần nữa, nó đã biến thành hành động, hành động cuối cùng, quyết lịêt để
chấm dứt cuộc sống nô lệ, lặng câm. Nói cách khác, đến cuối cùng, ý thức phản
kháng đã hoàn toàn chiến thắng sự cam chịu nhẫn nhục của Mị.
+ Vài nét về nghệ thuật xây dựng nhân vật. (…)
4. Bình luận
+ Như vậy, nét nổi bật ở con người Mị không chỉ là một trong hai ý kiến. Nó
là sự kết hợp vừa tương giao vừa tương khắc của hai ý thức: cam chịu nhẫn nhục
và sức sống mãnh liệt, phản kháng hoàn cảnh.
+ Xây dựng nhân vật Mị với hai đặc điểm như thế, Tô Hoài một mặt phản
ánh được số phận cay cực, thống khổ của người nông dân nghèo miền núi trước
CM, tố cáo được sự bóc lột chèn ép ghê gớm của giai cấp thống trị phong kiến
thực dân. Đặc điểm ấy cũng phản ánh sự bế tắc, sự hạn chế trong tư tưởng, nhận
thức của những người nghèo chất phác khi chưa được giác ngộ. Mặt khác, Tô Hoài
cũng thể hiện đuợc cảm hứng nhân văn khi phát hiện ra được vẻ đẹp tiềm tàng
trong nhân vật, niềm tin vào sức mạnh phản kháng với hoàn cảnh để giải phóng
chính mình của họ…

Đề luyện: Phân tích diễn biến tâm lý, hành động của nhân vật Mị trong đêm tình
mùa xuân trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (đoạn trích)- Nhận xét nghệ
thuật miêu tả tâm lý của nhà văn Tô Hoài.

Những ý chính cần có


1.Những tác động của ngoại cảnh
- Mùa xuân về ở Hồng Ngài đã có những tác động tích cực đối với cuộc đời tăm
tối và giá lạnh của Mị.
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống và đầy màu
sắc, âm thanh: trên đồi núi những nương thuốc phiện với sắc màu rập rờn biến ảo,
trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như
con bướm sặc sỡ …Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà..
+ Mùa đông năm đó Hồng Ngài cũng giá rét hơn, sự lạnh lẽo bên ngoài đánh
thức nhu cầu hơi ấm ở bên trong con người…
+ Tiếp đó là tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi- tiếng sáo gọi bạn tình “vọng”
vào tâm hồn Mị thiết tha bổi hổi. Từng lời hát giản dị, mộc mạc những lại có sức
mời gọi lớn lao đối với Mị “ ta không có con trai con gái- ta đi tìm người yêu”. Và
bay theo tiếng sáo, những đêm tình mùa xuân đã tới…
+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa
rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa
- Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là
tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã
thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là
tiếng ca của hạnh phúc, là âm thanh của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua cái hàng
rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức
cái sức sống vẫn tiềm ẩn trong cõi lòng của người thiếu nữ Tây Bắc này…
2. Diễn biến tâm lí, hành động của Mị
+ Đầu tiên Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Cô Mị sau
bao ngày lặng câm, đã cất tiếng, dù đó chỉ là những lời thầm thì nhưng đó dầu sao
cũng là âm thanh của tiếng lòng khát khao hạnh phúc, khát khao tự do đang trỗi
dậy, đã cất lên thành lời hát trên môi Mị, đánh dấu một bước trở lại con đường làm
người con gái yêu đời, yêu sống ngày nào.
+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa
rượu ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái
cách uống rượu của Mị khiến người đọc ngạc nhiên nhưng không cảm thấy vô lý.
Bởi sau bao tháng ngày đau đớn, tủi nhục, giờ là lúc Mị được sống với con người
chính mình, cô như không phải đang uống rượu mà đang uống tất cả nỗi hận đời.
Uống để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, uống để sống lại mạnh mẽ cái
phần đời tươi trẻ đã có. Chẳng phải thế mà trong Mị lúc này đang sống lại những
kỉ niệm của ngày trước- những ngày tươi đẹp, hạnh phúc và đầy kiêu hãnh của tuổi
trẻ.
+ Việc sống lại những kí ức tươi đẹp của quá khứ đã khiến Mị tiến thêm một
bước nữa trên hành trình tìm lại chính mình, tìm lại niềm vui sống và khát vọng
hạnh phúc. Tình trạng sống mà như đã chết ở Mị được cởi bỏ, Mị thấy “phơi phới
trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước ”. Lần đầu
tiên sau những tháng ngày mất ý niệm về không gian, thời gian, về bản thân, Mị
cảm thấy “mình trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Rõ ràng, lòng ham
sống trong Mị đã trỗi dậy, khát vọng hạnh phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh.
Mị ý thức rất rõ quyền được sống, được đi chơi ngày Tết của mình như bao nhiêu
người phụ nữ có chồng khác.
+ Như một lẽ tự nhiên, khi ý thức sống đã trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm
thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại. Nếu trước đây, Mị
quen khổ đến mức chai sạn, không còn tưởng đến việc ăn lá ngón tự tử thì giờ đây
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa”. Đây chính là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự
xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống chân chính đã được thức tỉnh với
một bên là thực tại đáng chán vẫn đang hiện hữu. Những giọt nước mắt của Mị chỉ
càng chứng tỏ rằng Mị đã thực sự hồi sinh và ý thức rất rõ tình trạng thê thảm, đau
xót của kiếp sống mình.
+ Tiếng sáo vẫn đang lửng lơ bay ngoài đường, những giai điệu tình yêu, cả
những lỗi hẹn đáng tiếc “Anh ném pao, em không bắt - em không yêu, quả pao rơi
rồi” vẫn vang lên đâu đây. Từ chỗ là một thanh âm bên ngoài, tiếng sáo đã trở
thành những “nốt nhạc” trong tâm hồn Mị: Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.
Và tiếng sáo nội tâm ấy giống như chất xúc tác để phản ứng đi chơi của Mị diễn ra
nhanh hơn. Trước đó, Mị đã “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào
đĩa đèn cho sáng” (như Mị đang ý thức được sự tối tăm của cuộc sống này, như
đang cố gắng thắp lên ánh sáng cuộc đời vậy) nay tiếng sáo rập rờn hối thúc Mị
“quấn lại tóc”, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách (nhu cầu làm đẹp, ý
thức về nữ tính trỗi dậy). Có thể thấy, những chuyển động mạnh mẽ trong tâm hồn
Mị đã dẫn đến những hành động nối tiếp nhau.
+ Giữa lúc những hoạt động sống trong Mị trào sôi thì cũng là lúc nó
bị vùi dập một cách dã man bởi A Sử. Hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, quấn tóc
Mị lên cột khiến Mị không cúi không nghiêng được đầu. Tuy nhiên, hành động ấy
của A Sử chỉ có thể trói buộc thân xác Mị, ngăn cản hành động đi chơi của Mị chứ
không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt vẫn đang dâng lên trong người con
gái Tây Bắc này. Dù đang bị trói đứng nhưng Mị như quên mình đang bị trói,
quên những đau đớn về thể xác, trong Mị hơi rượu vẫn nồng nàn và nhất là tiếng
sáo gọi bạn tình vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi…
+ Mị tỉnh dậy trong một không gian im ắng xa lạ bao trùm lên là một
không khí lạnh ngắt của cõi chết (không nghe tiếng lửa, không một tiếng động,
không biết...không biết tất cả. Mị không thể biết...). Con người từ cõi chết trở về
như lạc lõng, chơi vơi, trơ trọi.
+ Không khí lạnh chết đó có sức khơi gợi Mị trơ về với chính mình. Bản
năng tự vệ bừng dậy và Mị “sợ quá”. Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay đã
chết...và trong vô thức cũng chợt nhớ lại đời một người vợ trẻ trước đây cũng bị
trói ba ngày rồi chết đi.
+ Tác giả dựng phông cảnh không gian thích hợp cho sự chuyển biến bước
đầu một cách mong manh trong tâm lí nhân vật, mơ màng cảm nhận thân phận bản
thân và liên tưởng tới thân phận những người cùng cảnh. Đây là mầm mống cho
sự phát triển hành động của nhân vật trong hoàn cảnh mới...

3. Đánh giá về vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Mị, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của
nhà văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm
+ Qua diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị, ta thấy vẻ đẹp con
người bên trong nhân vật vẫn không mất đi. Đặc biệt là khát vọng sống, niềm khao
khát hạnh phúc vẫn tiềm ẩn trong sâu thăm tâm hồn nhân vật. Nó giống như ngọn
lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một cơn gió mát lành
thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh
là không nhỏ nhưng cái sức mạnh bên trong không thể nào dập tắt của con người
mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị, của mỗi cá nhân. Đó là sức sống
tiềm tàng của nhân vật Mị.
+ Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một lần sức sống ấy trỗi dậy, nó cho
ta thấy những bí ẩn trong cuộc đời và con người Mị nói riêng và đời sống tâm hồn
tình cảm của con người nói chung. Sức sống ấy là sự phản kháng mạnh mẽ và táo
bạo của con người đối với nghịch cảnh, nó còn diễn ra lần nữa trong đêm cứu A
Phủ ở đoạn sau.
+ Đoạn văn cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí và phát triển tính cách nhân
vật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài: ít miêu tả hành động mà chủ yếu khắc hoạ tâm
tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật; thể hiện sự
am hiểu tâm lí con người, nên miêu tả sự phát triển của tính cách, cũng như hành
động một cách lô gíc, hợp lí; giọng kể của nhà văn có lúc hoà vào dòng tâm tư
nhân vật, vẽ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật: lúc tự tin, lúc ai oán lúc
giận dỗi, lúc uất ức….
+ Với đoạn văn này, Tô Hoài thể hiện một cái nhìn đầy cảm thương, đồng
cảm và một niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh
phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con
ngưòi cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.
+ Đoạn văn cũng đưa đến một thông điệp: Con người cần được sống cho ra
sống, không thể sống mà như đã chết. Vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng không
phải dễ dàng thực hiện với tất cả mọi người. Vẫn còn có những con người chưa
được sống một cuộc sống có ý nghĩa, chưa được hưởng thụ những giá trị tinh thần
mà con người có quyền được hưởng. Đây là vấn đề nhân sinh nhân bản cho đến
hôm nay vẫn còn nguyên giá trị của nó.

You might also like