Phần thuyết trình Qui luật Lượng Chất

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 12

Phần thuyết trình: Quy luật Lượng - Chất, những thay đổi về lượng dẫn đến những thay

đổi
về chất và ngược lại
Chủ nghĩa duy vật biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp phạm
trù được sử dụng là Cái chung và cái riêng, Bản chất và hiện tượng, Nội dung và hình thức, Tất
nhiên và ngẫu nhiên, Nguyên nhân và kết quả, Khả năng và hiện thực.
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ
định. Trong đó:
+ Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
+ Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
+ Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt
phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những
người Cộng sản.
Quy luật lượng - chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách thức của sự vận động, phát triển, theo đó sự phát triển được
tiến hành theo cách thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật và
đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo.
Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ
nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
I. Các khái niệm
Theo quan điểm của Triết học Mác - Lenin, bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm
mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Hữu cơ có
nghĩa là có quan hệ mật thiết với nhau. Phép biện chứng duy vật đưa ra khái niệm chất, lượng và
quan hệ qua lại giữa chúng như sau:
1) Chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng.
Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ:
Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083C, nhiệt độ sôi
là 2880C. Những thuộc tính này nói lên những chất riêng của đồng, để phân biệt giữa đồng với
các kim loại khác.
Mặt phẳng vòng tròn: Hình tròn là vùng trong giới hạn bởi một phân biệt với hình vuông là
hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc bằng nhau.

Đặc điểm của chất:


- Chất mang tính khách quan: Chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm bên trong sự vật
hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Chẳng hạn vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở bên trong chứ không
phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó.

- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật: Thuộc tính là những
tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên
ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác.
Chẳng hạn như sự quang hợp của lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nó với ánh
sáng mặt trời hay tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước.

Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản
tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn tại vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi
nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự
phân chia thuộc tỉnh thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương
đối. Trong mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện sự chất của sự vật
trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc tính.
Ví dụ:
Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có
tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong
trong quan hệ giữa con người với nhau thì những thuộc tính của con người như về nhận dạng về
dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.

Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi
giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà
rất có thể có nhiều chất. Giả sử những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu
thơ đến mầm non đến nhi đồng đến thiếu niên đến thanh niên. Mỗi giai đoạn đó là một chất.

- Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật trong hiện thực các sự vật
bật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau.
Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố cacbon tạo
nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử cacbon là khác nhau vì thế chất của chúng
cũng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng còn than chì mềm.

- Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: Khi nó chưa chuyển hóa thành
sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi.
Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí (chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ
40-50C chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi.

2) Lượng
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
Biểu hiện của lượng:
- Các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng tốc độ và
nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều,
trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt...
Ví dụ như đối với phân tử nước (H2O), lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử
hidro (H) và một nguyên tử oxi (O) hay ví dụ Việt Nam có Dân số >90 triệu người và Diện tích
331698km².

Đặc điểm của lượng:


- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể nhận thức bằng
con đường trừu tượng và khái quát hóa: Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi
những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân
tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxi,… bên cạnh đó có những lượng
chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một người ý thức
trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận
thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
- Lượng thường xuyên biến đổi: Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật
(số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có
những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự
vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường
xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
- Lượng mang tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất
định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại
lượng khác nhau; có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài
của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một
qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó điều tồn tại khách quan.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng chỉ mang tính tương đối. Có
những tính quy định trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
Chẳng hạn số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của
lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng
ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật, hiện tượng.

Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ
nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
1) Sự thống nhất giữa chất và lượng
Ví dụ: Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng,
chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại
lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược lại.
Như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hiđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1
phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của
nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axit,…

“Chất” và “lượng” biện chứng chất luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác
động lẫn nhau một cách. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang
tồn tại. Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “” của sự
vật, hiện tượng.
2) Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
- Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt
biến đổi hơn nên sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức
dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật
thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung một thỏi thép đặc
biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới hàng nghìn độ,
song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng.
- Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất
đi, chất mới thay thế chất cũ. Khoảng giới hạn đó gọi là độ. Độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống
nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn
bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
- Chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất
như vậy sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất thay đổi và kết quả là sự vật hiện tượng cũ mất
đi sự vật hiện tượng mới ra đời.
- Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất.
Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay
đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời.
Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự
vật đó, quá trình này diễn ra liên tiếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó
còn tồn tại.

- Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi
về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều
kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là điểm khởi đầu cho một giai
đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật hiện tượng. Trong
thế giới luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường
nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao.
Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ:
Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi
lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng
giới hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước
từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ
nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không
cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan
quy định. Chẳng hạn, thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác
nhau. Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng có những nước chỉ
mất 15 năm.

Tùy vào sự vật, hiện tượng; tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó sự
thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
3) Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhảy đột
biến và bước nhảy dần dần:
- Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi
chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Ví dụ như khối lượng Uranium 235 (Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ
nổ nguyên tử trong chốc lát.
- Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần
những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ xã hội loài người trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: cộng xã nguyên thuỷ, xã hội chiếm
hữu nô lệ - giai cấp chủ nô, xã hội phong kiến – giai cấp phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa –
giai cấp tư sản và tiến đến xã hội cộng sản chủ nghĩa – chủ nghĩa cộng sản;
Ví dụ như quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần. Vì là một quá trình phức tạp,
trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.

Căn cứ quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ:
- Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành
cho sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ
của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước
nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực
hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực
tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta.

4) Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật
- Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi luôn luôn
trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động của chất đối với lượng rõ
nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát
triển của lượng mới trong một độ mới.
- Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với
lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn như, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là thực hiện bước nhảy,
sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo
điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống như vậy khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử
nước tăng hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng với
cùng một khối lượng tính chất hoà tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi.

Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất
giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn
bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của
lượng. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
5) Nội dung quy luật lượng - chất
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định, trong đó chất
tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này tạo ra mâu thuẫn giữa lượng
và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì lượng
phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với
lượng mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động
lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy
vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động
biện chứng giữa chất và lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật.

Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình biến đổi về
lượng dẫn đến biến đổi về chất. Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về
chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về
lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của
biến đổi về lượng, biểu diễn trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và
lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật hiện tượng.
- Cần từng bước tích lũy về lượng mới có thể làm thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát
huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
Và để duy trì sự ổn định của chất thì phải duy trì sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn
độ, và khi lượng đạt đến giới hạn độ thì phải kiên quyết thể hiện bước nhảy.
Ví dụ như khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người ta không chỉ nghiên cứu
để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó mà còn phải nghiên cứu giải thích tính
chất đó được tạo ra bởi số lượng các nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo
ra sự biến đổi của các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.

- Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh (không chịu tích lũy về mặt lượng mà lại muốn
biến đổi về chất) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh (lượng đã tích lũy đến điểm nút nhưng không thực
hiện bước nhảy) trong công tác thực tiễn.
Ví dụ như một người thực hiện kinh doanh nhưng chưa tích lũy đủ kiến thức về lượng thì khả
năng thất bại sẽ rất cao.

- Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện,
lĩnh vực cụ thể.
- Quy luật này còn yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật hiện tượng do đó phải biết chọn phương pháp phù hợp
với tác động và phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật của chúng.
6) Đọc thêm: Liên hệ thực tiễn,
6.1) Nguồn Học viện Ngân Hàng
Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại vào hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên
a) Đôi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh
Tri thức là hành trang không thể thiếu của mỗi người. Từ khi sinh ra, chúng ta đã tích lũy tri
thức theo từng giai đoạn phát triển: từ những điều cơ bản nhất như ngôn ngữ, đồ vật, màu sắc,… đến
những kiến thức về các lĩnh vực trong cuộc sống như văn học, toán học, lịch sử. Đặc biệt là những
năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta được tiếp thu những tri thức cơ bản về cuộc sống trong
lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh cũng trang bị thêm cho mình những kiến thức
thực tiễn, những kĩ năng mềm cần thiết cho cuộc sống sau này.
Tuy nhiên, 12 năm học trung học và phổ thông và những năm trên giảng đường đại học vẫn là
thời gian quan trọng nhất bởi đó là thời điểm chúng ta trang bị cho mình những kiến thức cơ bản
nhất mà mỗi người đều phải biết trong xã hội ngày nay. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình này là một
vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết để từ đó có thể hiểu rõ hơn hoạt động và giúp hoạt động này
đạt được hiệu quả cao nhất.
Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau, tùy thuộc
vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của con người cũng
không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri
thức cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình
biến đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong phú, ở ví dụ này chúng em
chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông qua quá trình học tập và rèn luyện của học
sinh, sinh viên.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của học
sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không biết
mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng
việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,… thành quả của
quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp.
Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và
việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học, học sinh phải
thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học
lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong
việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc
đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và
vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về
chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp
cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan
trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên
bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh
viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động
trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh viên,
đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông.
Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này
khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là
việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích
lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc
làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ,
các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt
qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá
trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động không ngừng trong quá trình
tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến trình độ cao hơn, tạo động
lực cho xã hội phát triển.
c) Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Đại Học
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và
rèn luyện của sinh viên trong môi trường Đại Học như sau:
* Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên một cách đáng kể.
Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài trong một năm, trong khi ở Đại
học một môn chỉ kéo dài khoảng từ 1 đến 2 tháng. Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức
sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, học đại
học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Khác với phương pháp học thụ động
như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải tham gia rất nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá,..
các môn học tại bậc Đại học rất đa dạng và mới mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên còn
phải tìm thêm nhiều nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính sự thay đổi về khối
lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học sẽ khiến nhiều tân sinh viên gặp khó khăn trong quá
trình thích nghi với môi trường học tập, giáo dục mới.
Sự khác nhau lớn nhất giữa bậc THPT và Đại học có lẽ là nhiệm vụ trong học tập, đối với bậc
THPT thì việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra chính là nhiệm vụ lớn nhất
nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên
lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của chính
bản thân họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức của bản thân là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ
liên lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt.
Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nới
sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính
vì vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp để đạt được những thành
tích cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
* Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc
học tập của sinh viên cũng không nằm ngoài điều đó. Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải
tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về
lượng mà điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của
sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo
quy luật..
Sinh viên cần học tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh gặp
gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và trong hoạt động
thực tiễn hàng ngày. Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến
thức mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm việc ngay được vì
kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm
mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô,
qua những lần đi thực tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên môn
cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó, con người cũng
phải vận động chạy theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh viên thời đại mới phát triển và
tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân mình. Chúng ta
sinh ra ai cũng có điểm chung là phải sống và làm việc, còn thành công đến như nào là do sự nỗ lực,
cố gắng, do sự rèn luyện mà nên. Bởi thế, việc phải tự học tập, tìm kiếm, rèn luyện tích cực, trau dồi
bản thân khi còn là 1 sinh viên trên giảng đường Đại học là điều quan trọng và cần thiết. Khi sinh
viên biết tự giác học tập, tìm hiểu, nghiên cứu và họ trở nên tích cực, chủ động hơn trong công việc
của mình.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự tích lũy về
lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh đổi bằng sức lao động mà có
được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác. Đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên.
Trong một kỳ thi, nếu có sinh viên gian lận để một kết quả tốt .Bằng gian lận, ta có thể qua được kỳ
thi, nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất
* Học tập & nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và rèn luyện của
sinh viên như sau: để có thể tốt nghiệp, chúng ta phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để
môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian
học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả thi (bước
nhảy) tốt là sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh
viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ
kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và
rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau khi học những kiến thức cơ bản, tức là khi có
sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như
trước khi lên Đại học thì phải hoàn thành việc học ở 3 cấp bậc trước, nếu không, tình trạng mất gốc
sẽ xảy ra.Việc tiếp thu kiến thức từ cơ bản đến nâng cao là phương pháp học tập khoa học mọi người
đều biết nhưng không phải ai cũng thực hiện đúng quy trình. Một số trường hợp sinh viên không tập
trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh hưởng đến tốc độ học. Nhiều sinh viên
khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ đầu, nhưng thời gian ôn thi là để sinh viên ôn lại
kiến thức họ đã học chứ không phải tiếp thu thêm cái mới, vì vậy cho dù sinh viên chăm học trong
thời gian đó thì cũng không thể đảm bảo được lượng kiến thức để vượt qua được kì thi. Ngoài ra, có
nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng một năm
hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không có môn học nào được
hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến
thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến
nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực
* Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ những
điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to lớn, thành tựu
trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập là khoảng
thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những
kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển
hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên
tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những
thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn, tạo
nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy.
Trên quan niệm triết học, chất thay đổi sẽ thay đổi cả sự vật. Điều đó được minh chứng khi sinh
viên nỗ lực phấn đấu và trở thành các thầy giáo, giảng viên, lượng sẽ được đổi mới theo nhịp điệu
của chất đã được tạo ra bởi thế hệ trước và truyền lại cho thế hệ sau.
Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện,
tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những
“lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân,
những học bổng,… và tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất-lượng liên tục
diễn ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp
họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết
tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học
– nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
* Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất;
không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy
đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ
sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và không thể
hình thành chất mới.
Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để
được học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một cách
ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật lượng – chất. Những
sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ
được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất.
Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các
bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước.
Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù
bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước
nhảy, thì quá trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất.
Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương
pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được mối
liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
* Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt (lượng) sẽ góp phần tạo nên
“chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp có nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt,
luôn cố gắng để phấn đấu đạt được thành tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng
giúp đỡ mọi người. Có thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn đấu nỗ lực của
mỗi sinh viên.
6.2) Vận dụng ý nghĩa quy luật lượng - chất vào lĩnh vực kinh doanh
1. Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy sự thay đổi về lượng
- Một thương hiệu cà phê (chất cũ) sau khi nhận thấy sự thay đổi trong thị hiếu tiêu dùng của
khách hàng, cụ thể ở đây là lượng tiêu thụ trà sữa và thức ăn nhanh ngày càng tăng, nên muốn chuyển
hướng thành một thương hiệu F&B (chất mới). Để làm được điều này doanh nghiệp trên cần phải có
được những yếu tố (lượng) sau:
● Thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường F&B;
● Định hình được phân khúc thị trường, đối tượng khách hàng mà mình hướng tới sau khi chuyển
hướng thương hiệu;
● Xác định rõ nguồn vốn cần thiết để thực hiện quá trình chuyển đổi;
● Tái cơ cấu nhân sự doanh nghiệp (tuyển thêm nhân sự mới có đủ kiến thức, hiểu biết về thị
trường F&B nói chung và trà sữa nói riêng);
● Nghiên cứu công thức và hình thành menu mới;
● Lựa chọn hình thức Marketing phù hợp để quảng bá về việc chuyển mình của thương hiệu.
2. Muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn độ
- Để duy trì sự phát triển, ổn định ở hiện tại của một doanh nghiệp (chất) thì bản thân doanh
nghiệp ấy cần phải ý thức được việc hạn chế những hành động có thể làm ảnh hưởng đến hình ảnh
vốn có hay chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Ví dụ như:
● Một doanh nghiệp trước giờ nổi tiếng với những sản phẩm thuần chay, ủng hộ lối sống thuần
chay để bảo vệ động vật nhưng trong sản phẩm sắp ra mắt lại thay đổi thông điệp trước đó của mình
và sử dụng những thành phần liên quan đến động vật → Điều này sẽ khiến cho hình ảnh của doanh
nghiệp bị biến chất trong mắt của người tiêu dùng
● Công ty cổ phần ban đầu đặt ra số vốn cũng như số lượng cổ đông mà công ty cầnđể có thể
phát triển và duy trì sự ổn định. Nhiệm vụ của công ty là phải luôn đảm bảo những con số được đề
ra ấy phải luôn nằm trong mức mà công ty có thể chấp nhận được, tránh những trường hợp như có
quá nhiều cổ đông rút vốn làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của công ty
3. Khi lượng thay đổi đạt giới hạn độ phải kiên quyết thực hiện bước nhảy
- Đối với công ty TNHH một thành viên, giả sử như có rất nhiều cá nhân/tổ chức muốn được rót
vốn vào công ty mà lúc ấy công ty cũng đang cần một lượng vốn lớn hơn để thực hiện những dự án
có quy mô lớn. Lúc này chủ sở hữu của công ty cần đưa ra quyết định chuyển đổi công ty thành công
ty cổ phần để vừa tránh lãng phí cơ hội được đầu tư vừa tránh trường hợp công ty bị thiếu vốn.
- Hay đối với một sản phẩm, khi lượng tiêu thụ ngày càng giảm và tệ hơn nữa là xuất hiện tình
trạng tồn đọng thì doanh nghiệp cần phải có kế hoạch về việc kiểm tra lại chất lượng sản phẩm, hình
thức chiêu thị hay trong tình huống tệ nhất thì buộc phải ngừng sản xuất sản phẩm để giảm thiểu
thiệt hại.
4. Phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện,
từng lĩnh vực cụ thể
- Ví dụ như một cafe trước giờ chuyên về cà phê nhưng để có thể thu hút được đối tượng khách
hàng mới, cụ thể ở đây là giới trẻ, mà vẫn giữ chân được nhóm khách hàng trước đó thì quán đó nên
chọn bước nhảy cục bộ là vẫn giữ nguyên các món về cà phê và thêm trà sữa vào menu của mình;
- Đối với công ty cổ phần khi gặp trường hợp có quá nhiều cổ đông rút vốn làm công ty không
còn đủ điều kiện tài chính để vận hành với quy mô lớn nữa thì doanh nghiệp nên xem xét bước nhảy
toàn bộ là chuyển đổi thành công ty TNHH một hoặc hai thành viên.
5. Khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh lẫn tư tưởng bảo thủ hữu khuynh
- Khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh: Để bắt đầu một doanh nghiệp kinh doanh một sản
phẩm nào đó, một người cần phải ý thức rõ về những bước cần thiết trong quá trình hình thành nên
doanh nghiệp và tránh trường hợp đốt cháy giai đoạn do thiếu hiểu biết.
● Cần tích lũy đủ vốn;
● Nắm rõ những kiến thức cần thiết trong kinh doanh buôn bán;
● Hiểu rõ sản phẩm của mình, cách thức Marketing, cung ứng và đối tượng khách hàng mà mình
muốn hướng tới,...;
● Định hướng rõ cơ cấu cũng như quy mô hoạt động của công ty.
- Khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh: Để thành công trong thị trường kinh doanh rộng lớn
và đầy cạnh tranh như hiện nay, mỗi doanh nghiệp cũng cần ý thức và chủ động làm mới mình, tự
đưa mình đến gần hơn với người tiêu dùng.
Ví dụ như: Chất lượng sản phẩm của một doanh nghiệp ở hiện tại đang rất tốt nhưng khi đặt
cạnh các sản phẩm khác lại không thể nổi bật, chứng tỏ cách đóng gói của sản phẩm đang có vấn đề.
Lúc này doanh nghiệp không thể cứ vin vào tư tưởng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, chỉ tập trung vào
chất lượng mà quên đi hình ảnh bên ngoài mà phải tổ chức thiết kế lại hình ảnh bao bì để sản phẩm
của mình có thể trở nên bắt mắt, nổi bật hơn.

You might also like