Professional Documents
Culture Documents
Hồ Chí Minh Và Tập "Thơ Trong Tù"
Hồ Chí Minh Và Tập "Thơ Trong Tù"
Hồ Chí Minh Và Tập "Thơ Trong Tù"
- Từ đó Người bị cầm tù trong gần 30 nhà lao thuộc 13 huyện tỉnh Quảng Tây. Đến tháng 9.1943, Người được
thả tự do.
- Trong hoàn cảnh tù đày suốt “Mười bốn trăng tê tái gông cùm” (Tố Hữu). Người đã sáng tác tập thơ
Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). Tập thơ gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán ghi lại chặng đường đấu tranh
gian khổ nhưng rất đỗi lạc quan của người tù Hồ Chí Minh.
- Trần Dân Tiên đã kể về những ngày bị giam cầm của Bác: “Tay bị tróc cổ mang xiềng xích, có sáu người
lính mang súng giải đi. Cụ hồ đi mãi đi mãi nhưng vẫn không biết là đi đến đâu… Mỗi buổi sáng khi gà gáy
đầu làng người ta lại giải cụ Hồ đi. Mỗi buổi chiều khi chim về tổ người ta lại dừng lại ở một địa phương nào
đó, giam cụ vào xà lim, trên một đống gio bẩn, không cởi trói cho cụ ngủ. Đau khổ như vậy, nhưng cụ vẫn vui
vẻ. Cụ sung sướng được thấy phong cảnh thay đổi ngay. Thỉnh thoảng cụ Hồ làm thơ..”. 10-9-1943, chính
quyền Tưởng Giới Thạch buộc phải trả tự do cho Bác. Kết thúc 13 tháng bị giam cầm của Người.
Bài thơ “chiều tối” đi từ bóng tối chiều hôm, từ sự mệt mỏi; cô đơn, lang thang vô định của chim, của mây đến
ánh sáng hồng tươi ấm áp của ngọn lửa, của tình người.
Ta cũng gặp sự vận động kỳ diệu ấy trong Giải đi sớm.
Không chỉ Chiếu tối và Giải đi sớm, rất nhiều bài thơ trong Nhật ký trong tù tả cảnh thiên nhiên và tất cả thiên
nhiên đều có sự vận động tươi sống từ bóng tối tới ánh sáng. Ra đời trong một hoàn cánh đặc biệt, những vần
thơ ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu tự do bao la của Bác. Và hơn hết, nó thể hiện bản lĩnh,
tinh thần người cách mạng luôn lạc quan tin tưởng vào ngày mai tươi sáng.
Phiên âm:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh,
Dạo vọng Nam thiên ức cố nhân.
Dịch thơ:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời nam nhớ bạn xưa
(Bản dịch của VIỆN VĂN HỌC)
( Bản dịch dùng bút danh T. Lan, in trong tập Vừa đi đường vừa kể chuyện.) Vừa đi đường
vừa kể chuyện là một tác phẩm văn học theo lối tự truyện được cho là Hồ Chí Minh viết với bút
danh T.Lan. Trong tác phẩm, T. Lan là một cán bộ tháp tùng Chủ tịch, và được nghe Hồ Chí Minh
kể lại nhiều câu chuyện khác nhau về Hồ Chí Minh trên suốt quãng đường đi cùng nhau. Hồ Chí
Minh xuất hiện trong quyển sách như một người "Bác". Tuy nhiên T. Lan thực chất là bút danh của
Hồ Chí Minh và ông Hồ chính là tác giả của tác phẩm này.
a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ : Nếu như các bài “Chiều tối”, “Giải đi sớm”, “Cảnh chiều hôm”
được viết khi Hồ Chí Minh ở trong tù thì bài Mới ra tù , tập leo núi (Tân xuất ngục học đăng sơn )
được Chủ tịch Hồ Chí Minh làm sau khi ra tù (khoảng giữa tháng 9 năm 1943), nó không nằm trong
Nhật kí trong tù nhưng thường được đặt ở cuối bản dịch tập thơ này như bài kết thúc.
Mặt khác trong cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện, T.Lan lại cho biết hoàn cảnh cảm hứng của bài thơ
như sau:"Khi được thả ra, mắt Bác nhìn kém, chân bước không được, Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày
10 bước, dù đau mà phải bò, phải lết cũng phải được 10 bước mới thôi. Cuối cùng Bác chẳng những đi
vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Bác cao hứng làm bài thơ Tân xuất ngục học
đăng sơn.
Bài thơ này nguyên không có đầu đề, cũng không có trong tập Ngục trung nhật ký
Bác đã ghi bài thơ vào rìa một tờ báo Trung Quốc, kèm theo dòng chừ sau: "Chúc chư huynh ở nhà
mạnh khỏe và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên". Bài thơ không chỉ mang tính chất "đưa tin" một
cách bí mật mà còn mang ý nghĩa của một văn kiện lịch sử của Cách mạng Việt Nam. Theo hồi kí của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, hồi ấy các yếu nhân của Tổng bộ Việt Minh tại căn cứ địa Cách
mạng Cao -Bắc - Lạng vô cùng phấn khởi khi nhận được bài thơ này và đã phái người đi đón Bác.
Khán “Thiên gia thi” hữu cảm
Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,
Sơn thuỷ yên hoa tuyết nguyệt phong;
Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,
Thi gia dã yếu hội xung phong.
Dịch nghĩa
Thơ xưa nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên,
Núi, sông, khói, hoa, tuyết, trăng, gió;
Trong thơ thời nay nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Bác Hồ làm bài thơ Khán “Thiên gia thi” hữu cảm này sau khi Ngã tố tù thi bách kỷ niên (Thơ tù ta
viết hơn trăm bài rồi).
Thiên gia thi (Thơ nghìn nhà) là tuyển tập những bài thơ cận thể và cổ thể ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu,
dễ nhớ của các nhà thơ nổi tiếng đời Đường, đời Tống, là sách nhập môn
cho những người bắt đầu học làm thơ mà Bác đã đọc. Tập thơ Thiên gia thi đã gợi cho Bác nhiều suy
nghĩ, nhất là Bác đã trải qua hai thực tế: thực tế tù đầy và thực tế làm thơ với biết bao trăn trở, suy tư,
cảm xúc, nghị lực, ý chí, tinh thần và trách nhiệm đối với con người, đối với cuộc sống đã tạo nên những
ý tưởng lớn cho bài Khán “Thiên gia thi” hữu cảm.
Hai câu đầu Bác nhận xét về cái vốn có, đã có của thơ xưa: Hai câu đầu tác giả nêu nhận định về thơ
xưa: Thơ xưa nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên; núi, sông, khói, hoa, tuyết, trăng, gió. Thiên nhiên
bao la, đa dạng; tác giả chỉ nêu tượng trưng vài cảnh đẹp thiên nhiên.
Hai câu sau Bác mong muốn về cái nên có, phải có của thơ nay. Cái vốn có, đã có và cái nên có, phải
có của thơ bổ sung cho nhau góp phần hoàn chỉnh một quan niệm thơ. tác giả đưa ra quan điểm của
mình về thơ và trách nhiệm của nhà thơ: Thời đại hiện nay, trong thơ nên có thép; Nhà thơ cũng phải
biết xung phong. GS Vũ Khiêu viết: “Thép” trong thơ chính là phẩm chất tư tưởng và thẩm mỹ của thơ.
Thơ phải có “thép” nghĩa là phải có tính chiến đấu, phải góp phần cải tạo xã hội và tự nhiên, phải phục
vụ cách mạng. Phục vụ cách mạng không phải chỉ là yêu cầu của cách mạng đối với thơ. Đó cũng là yêu
cầu của bản thân thơ, nếu thơ muốn thật sự là thơ (Hồ Chí Minh tác giả tác phẩm nghệ thuật ngôn từ,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 230). Đúng vậy, đó là yêu cầu của thơ hiện đại.
Ý kiến phê bình của nhà văn Hoài Thanh: “Khi Bác nói trong thơ có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào
là thép trong thơ. Có lẽ phải tìm hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải có nói chuyện thép,
lên giọng thép mới là có tinh thần thép”.