Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 98

Bộ GIÁO DỤC V À Đ À O TẠO

T R Ư Ờ N G ĐẠI H Ọ C NGOẠI T H Ư Ơ N G
• • •

NGUYỄN T H À N H

DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TÉ


CHÂU Á - THÁI BÌNH D Ư Ơ N G (APEC) VÀ
Sư THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành : Kinh tê thê giới và Quan hệ Kinh tê Quôc tê


M ã số : 60.31.07

—s
T H Ư VIỄN
ưuhsn DẠ' xoe

L U Â N V Ã N T H Á C SỸ KINH T Ê

L2Í22Ì—

N G Ư Ờ I H Ư Ớ N G DẪN KHOA HỌC: TS Bùi Thị Lý

H À NÔI - 2007
LỜI CẢM Ơ N

Luận văn này được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ của Khoa
Sau Đại học Trường Đại học Ngoại Thương.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Bùi Thị Lý và các thầy cô giáo đã
tận tình hướng dẫn và cung cấp cho tôi những ý kiến đóng góp quể báu trong
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể người thân trong gia đình và
bạn bè đã quan tâm, giúp đỡ, động viên giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Nguyễn Thành
MỤC LỤC

LỜI M Ở Đ Ầ U
C H Ư Ơ N G 1: TỔNG QUAN VỀ DIỄN Đ À N HỢP T Á C KINH T Ế C H Â U Á -
THÁI BÌNH D Ư Ơ N G (APEC) Ì
LI. Lịch sử hình thành, phát triển và một số thành tựu của APEC Ì
Ì. Ì. Ì. Bối cảnh ra đời của APEC Ì
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của APEC 3
1.1.3. Một số thành tựu của APEC 10
1.2. Mụctiêu,nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và cơ chê hoạt động của APEC 16
1.2.1. Mục tiêu hoạt động của APEC 16
1.2.2. Các nguyên tức hoạt động của APEC 18
1.2.3. Cơ cấu tổ chức của APEC 20
Ì .2.4. Cơ chế hoạt động của APEC 23
1.3. Đánh giá tiến trình hợp tác APEC và triển vọng 23
1.3.1. Những ưu điểm của tiến trình hợp tác APEC 23
1.3.2. Những hạn chế của tiến trình hợp tác APEC 24
1.3.3. Triển vọng của tiến trình hợp tác APEC 25
1.4. Việt Nam tham gia APEC 27
C H Ư Ơ N G 2: THỰC TRẠNG THAM GIA HỢP T Á C APEC CỦA C Ộ N G
ĐỔNG DOANH NGHIỆP TRONG KHU vực 29
2.1. Bối c
nh tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp khu vực 29
2.2. Các hình thức tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
khu vực 31
2.2.1. Diễn đàn Kinh doanh Thái Bình Dương (PBF) 31
2.2.2. Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC) 33
2.2.3. Hội nghị Thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Doanh nghiệp APEC
(APEC CEO Summit) 55
2.2.4. Các Đối thoại Ngành trong APEC (ôtô, hoa chất, kim loại màu) 58
2.3. Một sô thành tựu và hạn chế của việc tham gia hợp tác APEC của cộng
đồng doanh nghiệp khu vực 62
2.3.1. Một số thành tựu 62
2.3.2. Một số hạn chế 64
2.4. Thực trạng tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam 65
CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG THAM GIA HỢP TÁC APEC VÀ MỘT số GIẢI
PHÁP NHẰM TẢNG CƯỜNG sự THAM GIA HỢP TÁC APEC CỦA CỘNG
ĐỔNG DOANH NGHIỆP TRONG KHU vực 69
3.1. Triển vọng tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
khu vực 69
3.1.1. Triển vọng tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
khu vực 69
3.1.2. Triển vọng tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam 70
32. Giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng
doanh nghiệp khu vực 71
3.2.1. Giải pháp từ phía APEC 71
3.2.2. Giải pháp từ phía từng nền kinh tế thành viên APEC 74
3.2.3. Giải pháp từ phía cộng đồng doanh nghiệp khu vưc 73
3.3. Giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam 76
3.3.1. Đẩy mạnh tham gia hợp tác APEC của Việt Nam 77
3.3.2. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về APEC cho cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam 78
3.3.3. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam tham gia hợp tác APEC 79
3.3.4. Cải thiện cơ sở hạ t
ng kinh tế xã hội để cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam phát triển và hội nhập 80
3.3.5. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phải tự nhận thức được yêu c
u
thiết thực của việc tham gia hợp tác APEC nói riêng, hội nhập khu vực và
quốc tế nói chung 81
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
D A N H M Ụ C C Á C T Ừ V I ẾT T Ắ T

Ì, ABAC Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC


2. AELM Hội nghị các Nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC
3. AMM Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC

4. APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

5. ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A


6. CÁP Kế hoạch Hành động Tập thể
7. CUFTA Khu vực thương mại tự do Hoa Kớ - Canada
8. ECOTECH Hợp tác kinh tế kỹ thuật
9. F D I Đầu tư trực tiếp nước ngoài

10. FTAAP Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á - Thái Bình Dương
l i . GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
12. IAP Kế hoạch Hành động Quốc gia
13. NAFTA Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ
14. OAA Kế hoạch Hành động Osaka
15. OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
16. PBF Diễn đàn Kinh doanh Thái Bình Dương
17. PECC Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương
18. RTAs/FTAs - Các thoa thuận thương mại tự do song phương và khu vực
19. SMEs - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
20. S Ò M - Hội nghị các Quan chức Cao cấp
21. TILF - Tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư
22. TFAP - Kế hoạch Hành động về Thuận lợi hoa Thương mại
23. TF - Lực lượng đặc trách
24. VCCI - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
25. WG - Nhóm Công tác
26. WTO - Tổ chức Thương mại Thế giới
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Được thành lập tháng 11 năm 1989, với bề dày lịch sử hơn 17 năm tồn tại và

phát triển, Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) - một

diễn đàn đối thoại chính sách dựa trên nguyên tắc mở, bình đỹng và đồng thuận -

đã qui tụ được 21 nền kinh tế thành viên thuộc lòng chảo Châu Á - Thái Bình

Dương. Các thành viên APEC trải rộng trên 4 châu lục (Châu Á (Đông Á), Châu

Đại Dương, Châu Mỹ, gồm cả Bắc Mỹ và Nam M ỹ và Châu  u (Nga) với tổng dân
số hơn 2,6 tỷ dân; tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 20,7 ngàn tỷ USD, chiếm
xấp xỉ 5 7 % GDP toàn cầu và tổng giá trị giao dịch thương mại đạt 7 ngàn tỷ USD,
chiếm hơn 45,8% thương mại thế giới.
Việt Nam tham gia vào APEC từ năm 1998. Tuy cho đến nay đã được hơn 8
năm, nhưng nhận thức và hiểu biết của cộng đồng về APEC, cơ cấu tổ chức, hoạt
động và định hướng phát triển của APEC vẫn còn m ơ hồ, nhiều điều cần phải được
làm rõ. Đạc biệt hơn, hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về hoạt động của
các doanh nghiệp và phương thức hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp trong APEC
cũng còn nhiều hạn chế.
Ngay từ những ngày đầu là thành viên, mục tiêu chính của việc tham gia
APEC đối với Việt Nam đã được xác định là "Mở rộng thị trường xuất khẩu cho
hàng hoa của Việt Nam xâm nhập thị trường các nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo
điều kiện cho thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoa và
dịch vụ Việt Nam, bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững". Như vậy
hoạt động hợp tác APEC của Việt Nam gắn chặt với định hướng xuất khẩu, tham
gia có chọn lọc các hoạt động thiết thực để góp phần giảm bớt các rào cản cho
hàng xuất khẩu của ta, giảm chi phí kinh doanh. Có thể nói lợi ích của cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam chính là mục tiêu trọng tâm khi Việt Nam tham gia tiến
trình APEC.
Thống kê những năm gần đây cho thấy khoảng 7 0 % tổng k i m ngạch xuất
khẩu của Việt Nam là sang thị trường các thành viên APEC. Ngoài ra, 7 5 % đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) và hơn 5 0 % viện trợ phát triển chính thỳc (ODA) vào
Việt Nam hiện nay cũng đến từ các thành viên APEC. Trong APEC, Việt Nam có
nhiều đối tác quan trọng có tính chiến lược như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc,
ASEAN, Ôxtrâylia... Do vậy, có thể khẳng định rằng sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế Việt Nam gắn bó chặt chẽ với sự ổn định và phát triển của khu vực
APEC thời gian qua cũng như trong tương lai.
N ă m APEC 2006 do Việt Nam là nền kinh tế chủ nhà đăng cai tổ chỳc đã
khép lại với những kết quả thành công rực rỡ, được bè bạn quốc tế đánh giá cao về
công tác tổ chỳc cả về mặt nội dung lẫn hậu cần. Đây là một sự kiện quốc tế có quy
m ô và tầm cỡ lớn nhất m à Việt Nam đã từng tổ chỳc. Riêng trong năm 2006 Việt
Nam chính thỳc tiếp song phương 5 nguyên thủ quốc gia, gồm: Hoa Kỳ, Nga, Nhật
Bản, Trung Quốc và Chile. Cũng riêng trong năm 2006 Việt Nam đã thu được trên
10,2 tỷ USD vốn FDI. Thông qua APEC 2006 Việt Nam đã kết thúc đàm phán với
Hoa Kỳ và gia nhập Tổ chỳc Thương mại Thế giới (WTO). Quan trọng hơn, nhờ có
APEC 2006 hàng ngàn doanh nghiệp, các công ty, tập đoàn lớn nhỏ trong khu vực
và trên thế giới đã đến và sẽ đến Việt Nam để tìm kiếm cơ hội kinh doanh - đầu tư.
Họ sẵn sàng cùng hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở đôi
bên cùng có lợi. Vấn đề đặt ra là liệu các doanh nghiệp Việt Nam có tận dụng được
những thời cơ m à APEC đem lai, vươt qua những khó khăn, thách thỳc, trở ngai về
vốn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhân lực, năng lực cạnh tranh, kỹ năng làm ăn
kinh doanh trên thương trường quốc tế... để vừa hợp tác vừa cạnh tranh một cách tự
tin và bình đẳng với các doanh nghiệp quốc tế hay không, đặc biệt là thông qua cơ
chế hợp tác của diễn đàn APEC.
Thực tiễn trên đặt ra yêu cầu cần thiết nghiên cỳu cụ thể và sâu sắc hơn về APEC
cũng như nghiên cỳu cơ chế hợp tác và tham gia của cộng đồng doanh nghiệp khu vực

vào diễn đàn hợp tác lớn nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương này qua đó đề xuất

một số giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia hợp tác trong APEC của cộng đồng
doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Đ ề tài luận văn thạc sỹ "Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình

Dương (APEC) và sự tham gia của doanh nghiệp" được thực hiện nhằm giúp
nâng cao nhận thức chung và hiểu biết về Diễn đàn này, đặc biệt là các khuynh
hướng phát triển hiện tại cũng như định hướng phát triển của APEC, phương thức
và triển vọng tham gia hợp tác của cộng đống doanh nghiệp trong khu vực vào diễn
đàn, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường sự tham gia hợp tác APEC của cộng
đống kinh doanh trong khu vực, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu:

Cho đến nay đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước về các khía

cạnh khác nhau của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Một số tài liệu nghiên cứu trong nước về APEC bao gốm: "Diễn đàn Hợp

tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương" do Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ

Ngoại giao và Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại biên soạn năm

2003, "Hỏi đáp về Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)"

do Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương Mại biên soạn năm 2006, "Sổ
tay Doanh nghiệp: APEC và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm " do Ư ỷ ban
Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế biên soạn năm 2006 và "Đánh giá tiến trình
APEC và tác động đối với Việt Nam" do Trung tâm nghiên cứu APEC, Học viện
Quan hệ Quốc tế biên soạn năm 2007.
Một số tài liệu nghiên cứu nước ngoài về APEC bao gốm: "APEC Outcomes
and Outlooks 200512006 " do Ban Thư ký APEC biên soạn năm 2006, "Networking
Asia - Paci/ỉc: A Pathway to Common P?'osperity" do H ộ i đống Tư vấn Kinh
doanh (ABAC) biên soạn năm 2005, "Driving Forward a Prosperous and
Harmoniied APEC Community" do H ộ i đống Tư vấn Kinh doanh (ABAC) biên
soạn năm 2006, "A Mid - term Stocktake oỷProgress towards the Bogor Goals " do
Ban Thư ký APEC biên soạn năm 2005 và "APEC Perspective 2006" do Ban Thư
ký APEC biên soạn năm 2006.
Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào tập trung vào chủ đề sự tham gia
hợp tác của cộng đổng doanh nghiệp trong APEC và qua đó đề xuất một số giải
pháp tăng cường sự tham gia hợp tác của giói doanh nghiệp vào diễn đàn có quy
m ô lớn nhất khu vực và ảnh hưởng quan trọng trên thế giới này.
3. M ụ c tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu các hoạt động của APEC, tình hình tham gia APEC
của doanh nghiệp các nền kinh tế thành viên, luận văn đề xuất, kiến nghị một sồ
giải pháp, cơ chế và chính sách thúc đẩy sự tham gia có hiệu quả hơn nữa của cộng
đồng doanh nghiệp khu vực trong APEC, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam nhằm tăng cường các hoạt động hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa
học kỹ thuật, xây dựng năng lực...
4. Nhỉệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ về APEC, sự thành lập và phát triển, mục tiêu và cơ cấu tổ chức,
các hoạt động hiện tại đang được triển khai, triển vọng và định hướng phát triển.
- Đánh giá thực trạng tham gia APEC của cộng đồng doanh nghiệp trong
khu vực, bao gồm phương thức tham gia hợp tác, những vướng mắc và bất cập, hiệu
quả của hợp tác trong thời gian qua cũng như triển vọng hợp tác trong thời gian tới,
bao gồm đánh giá thực trang tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam.
- Đ ề xuất những giải pháp thiết thực, có tính ứng dụng và thực tiễn cao từ
phía diễn đàn APEC với tư cách là một tổng thể, từ phía từng nền kinh tế thành
viên APEC, cũng như từ phía cộng đổng doanh nghiệp trong APEC nói chung,
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói riêng nhằm tăng cường sự tham gia hoạt
động hợp tác của mình trong APEC.
5. Đ ố i tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đ ồ i tương nghiên cứu:

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và sự tham

gia của các doanh nghiệp


Phàm vi nghiên cứu:

- Về không gian: các hoạt động của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á -

Thái Bình Dương (APEC); các hình thức tham gia APEC của cộng đồng doanh
nghiệp trong khu vực; sự tham gia APEC của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
- về thời gian: luận văn giới hạn nghiên cứu từ khi APEC ra đời năm 1989
cho đến hết năm 2006.
6. Phương pháp nghiên cứu:

- Thu thập và xử lý các thông tin tại bàn (Desk research)


- Phân tích, so sánh và dự báo kinh tế
- Phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử
7. Kết cấu của luận vãn:

Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3
chương:

Chương 1: Tổng quan về Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình

Dương (APEC)

Chương 2: Thực trạng tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh
nghiệp trong khu vực

Chương 3: Triển vọng tham gia hợp tác APEC và một số giải pháp

nhằm tăng cường sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
trong khu vực
Ì

CHƯƠNG Ì
TỔNG QUAN VE DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á
- THÁI BÌNH D Ư Ơ N G (APEC)

LI. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ MỘT số THÀNH Tựu


CỦA APEC

1.1.1. Bối cảnh ra đời của A P E C


Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc đưa thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng bởi phần lớn các cơ sở vật chất kinh tế kỹ thuật phục vụ cho công
cuộc sản xuất kinh doanh đã bị chiến tranh phá huy cộng với sự hình thành và phát
triện của chủ nghĩa hai cực gồm phe Đồng minh (trong đó Hoa Kỳ đứng đầu) và
phe Xã hội Chủ nghĩa (trong đó Liên X ô đứng đầu). Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và

tình trạng phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế phát triện mạnh mẽ khắp nơi

trên thế giới. Đ ệ giải quyết vấn đề này, các quốc gia dự định thành lập Tổ chức
Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hợp
quốc nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế, song cuối cùng chỉ đi đến việc ký kết

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vào ngày 23/10/1947 của
một nhóm gồm 23 thành viên với những chế định giới hạn ở việc điều tiết một số
vấn đề ràng buộc và cắt giảm thuế quan. Sau khi GATT chính thức có hiệu lực từ

01/01/1948, nhiều vòng đàm phán đa phương được tổ chức với nỗ lực mở rộng

thêm nội dung của GATT sang các lĩnh vực ngoài thương mại hàng hoa, bao gồm

thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp... Vòng đàm phán

có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triện của APEC phải kệ đến là

Vòng đàm phán thứ 8 (Vòng Uruguay) - vòng đàm phán dài nhất (từ tháng 9/1986

đến tháng 4/1994), phức tạp nhất, có quy m ô lớn nhất và có nhiều quốc gia tham

gia nhất trong lịch sử của GATT, và kết thúc bằng việc thành lập Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO). Tuy nhiên các vòng đàm phán, đặc biệt là Vòng Uruguay
2

thường xuyên gặp phải nhiều bế tắc vì không dung hoa được các mâu thuẫn về

quyền lợi giữa các quốc gia.

Vào đầu những năm 1980, tình trạng suy thoái kinh tế thế giới phủ bóng đen
bao trùm lên toàn bộ hệ thống thương mại toàn cầu. Các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia phát triển hoặc đã công nghiệp hoa đã áp dụng các công cụ bảo hộ thương
mại và những rào cản thương mại mới để bảo vệ ngành sản xuọt và thị trường nội
địa ngày càng thường xuyên hơn. Hệ quả tọt yếu là tiến trình toàn cầu hoa kinh tế,
tự do hoa thương mại bị đe dọa nghiêm trọng. Thay vào đó, trào lưu khu vực hoa
phát triển mạnh mẽ, đi đầu là Khối cộng đồng kinh tế Châu Âu (ÉC) thoa thuận
thành lập một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết thành lập một liên minh
tiền tệ với một đồng tiền chung. Đ ố i phó với những động thái trên của ÉC, Hoa Kỳ
từ quan điểm ủng hộ hệ thống thương mại đa phương đã chuyển dần sang việc thúc
đẩy các thoa thuận thương mại song phương và khu vực, cụ thể là xúc tiến thành
lập khu vực thương mại tự do với Canada năm 1983 - hạt nhân của Khu vực thương
mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) sau này. N ă m 1988, Hiệp định thương mại song
phương giữa Hoa Kỳ và Canada (CƯFTA) được ký kết và đến năm 1992 Mêhicô đã
được kết nạp thêm vào CUPTA để tạo nên NAFTA ngày nay [3].
Bên cạnh đó, từ cuối những năm 1970, và trong suốt những năm 1980 ở

Châu Á, đặc biệt là ở các nền kinh tế Đông Á diễn ra sự tăng trưởng kinh tế liên tục
với tốc độ cao, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Ngoại thương chính là động lực
tăng trưởng và phát triển của các quốc gia này. Ví dụ, trong giai đoạn 1980 - 1992,

xuọt khẩu của Châu Á tăng nhanh nhọt thế giới với tốc độ bình quân 1 0 % năm so
với 4 % của Châu Âu và Mỹ La tinh và 6% của các nước công nghiệp phát triển vốn
chiếm 2/3 thương mại thế giới. N ă m 1989, xuọt khẩu (XK) của các nền kinh tế

Châu Á - Thái Bình Dương (trừ Nhật Bản) sang Hoa Kỳ đạt 25,8% tổng k i m ngạch
thương mại và X K từ Hoa Kỳ sang các nền kinh tế này đạt 30,5% tổng kim ngạch

thương mại. X K của Nhật Bản sang các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương chiếm
3 3 % tổng kim ngạch X K của Nhật Bản và, ngược lại, 9,8% tổng kim ngạch X K của

các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương là sang Nhật Bản. X K của Nhật Bản sang
Hoa Kỳ đạt 34,2% tổng kim ngạch X K và, ngược lại, 12,3% tổng k i m ngạch X K
3

của Hoa Kỳ là sang Nhật Bản [7]. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chủ yếu từ
Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nền kinh tế mới công nghiệp hoa (NIEs), tăng mạnh vào

các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á. Rõ ràng là các quốc gia trong khu vực Châu
é

A - Thái Bình Dương ngày càng phụ thuộc lãn nhau một cách chặt chẽ hơn trên
nhiều phương diện.
Như vậy, trong giai đoạn cuối những năm 1970 và những năm 1980 khu vực

Châu Á - Thái Bình Dương là một khu phát triển năng động, có nền kinh tế hướng
ngoại, có kinh tế và ngoại thương tăng trượng với tốc độ cao lại tương đối ổn định
về chính trị nhưng thực sự chưa có được một hình thức liên kết kinh tế chính thức,
liên chính phủ và toàn khu vực nào để đảm bảo quyền và lợi ích của các quốc gia
trong khu vực trước sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ và khu vực hoa như ợ Châu
Âu và Bắc Mỹ. Hay nói cách khác, cần thiết có một thể chế thúc đẩy hợp tác kinh
tế đủ mạnh để làm đối trọng với hai khối kinh tế còn lại là C Ư F T A (sau này là
NAFTA) và ÉC.
Tóm lại, xu thế toàn cầu hoa và khu vực hoa phát triển manh mẽ, sự tăng

trượng và phát triển kinh tế "thần kỳ" của các nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương cũng như sự tuy thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc giữa các nền kinh tế
này đã đặt ra một yêu cầu khách quan và cấp thiết về sự ra đòi của một tổ chức đóng
vai trò điều phối, phối hợp các chính sách kinh tế - thương mại - đầu tư, thúc đẩy và
khuyến khích tự do hoa và thuận lợi hoa thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ
thuật, khoa học công nghệ, từ đó thúc đẩy tăng trượng kinh tế và sự thịnh vượng

cho khu vực, đổng thời phát triển một cộng đồng Châu Á - Thái Bình Dương.

1.1.2. Sự hình thành và phát triển của APEC


% S ỉ r
-

Y tượng manh nha về một liên kết kinh tế khu vực Châu A - Thái Bình
Dương sớm được đưa ra từ những năm 1960 bợi một số học giả người Nhật, trong
đó có Kojima và Kurimoto với đề xuất thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do Thái
Bình Dương (PAFTA) gồm 5 quốc gia công nghiệp phát triển: Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Niu Dilân, Canada và Ôxtrâylia và một số thành viên đang phát triển khu vực lòng
chảo Thái Bình Dương. Có quan điểm cho rằng, với việc tái thiết kinh tế thành
4

công sau Thế chiến thứ hai và ngày càng bành trướng sức mạnh kinh tế trên thế

giới, Nhật Bản luôn thường trực ý định tăng cường ảnh hưởng lên khu vực Châu A
- Thái Bình Dương để biến khu vực này thành sân sau và hệ thống đệm giảm sóc
khủng hoảng kinh tế cho mình. Tuy nhiên, ý tưởng đã sớm thất bại bởi chỉ nhận
được ủng hỵ hạn chế của mỵt số quốc gia.
Sau đó, mỵt số học giả khác như cựu Bỵ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Saburo
Okita và Tiến sỹ John Crawford (Ôxtrâỵlia) đã nhận thấy sự cần thiết phải tạo lập
mỵt thể chế hợp tác kinh tế có hiệu quả trong khu vực, ý tưởng này dẫn đến sự hình
thành Hỵi đổng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) năm 1980 - có thể coi là
bước đệm cho sự ra đời của APEC sau này.
Cuối những năm 1980, Bỵ trưởng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản
Hajime Tamura với sự ủng hỵ của mỵt số quan chức chính phủ Nhật Bản đã đề
xuất thành lập mỵt diễn đàn hợp tác có tính kỹ thuật về các vấn đề kinh tế khu vực.
Trong khi Hoa Kỳ tỏ ra thờ ơ với đề xuất này bởi còn đang tập trung vào Vòng

Urugoay và CUFTA thì Thủ tướng Ôxtrâylia Bob Hawke đã nắm bắt được tầm

quan trọng của vấn đề và thúc đẩy mạnh mẽ việc thành lập mỵt diễn đàn như vậy.
Tháng 1/1989 tại Hàn Quốc, Thủ tướng Bow Hawke đã nêu ý tưởng thành

lập mỵt Diễn đàn Tư vấn Kinh tế cấp Bỵ trưởng ở Châu Á - Thái Bình Dương nhằm

phối hợp hành đỵng của các chính phủ đẩy mạnh phát triển kinh tế và hỗ trợ hệ

thống thương mại đa phương và ngay lập tức ý tưởng này đã được mỵt loạt quốc gia

trong khu vực ủng hỵ: Nhật Bản, Malaixia, Hàn Quốc, Thái Lan, Phillipin,
Xingapo, Brunâỵ, Inđônêxia, Niu Dilân, Canada và ngay cả Hoa Kỳ. Đặc biệt tại

thời điểm này, Hoa Kỳ đã thiết lập xong CƯFTA, đã điều chỉnh chiến lược, cải

thiện quan hệ và thúc đẩy hợp tác để giải quyết các xung đỵt với Liên X ô trên

phạm vi toàn cầu, trong đó có việc làm ấm lên quan hệ giữa các quốc gia thuỵc khu

vực Châu Á - Thái Bình Dương - các quốc gia trước đây chịu sự tranh giành ảnh

hưởng gay gắt giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Do đó, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn cho việc

thành lập mỵt tổ chức hợp tác mang tính chất thuần tuy kinh tế như APEC và đây
cũng là mỵt trong các lý do tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của APEC.
5

Tháng 11/1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại của 12 nền kinh tế

thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là Ôxtrâylia, Hoa Kỳ, Canada, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Brunây, Inđônêxia, Xingapo, Malaixia, Phillipin, Thái Lan, và Niu
Dilân đã nhóm họp ở thủ đô Canberra (Ôxtrâylia), thành lập ra APEC Tháng
11/1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hổng Rông, Đài Loan. Tháng 11/1994,
APEC kết nạp thêm Chile, Mêhicô và Papua Niu Ghinê.

Tháng 6/1996, Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC và Hội
nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC tại Vancuvơ - Canada tháng 11/1997 đã quyết
định kết nạp Việt Nam, Nga và Peru là thành viên chính thức của APEC vào tháng
11/1998, nâng tổng số thành viên lên 21 nền kinh tế. Trong thời kỳ l o năm từ năm
1997 đến hết năm 2007 APEC tạm đóng cầa không kết nạp thành viên mới
(moratorium). Từ cuối năm 2006 APEC đã bắt đầu nhận được đơn xin gia nhập
diễn đàn của một số quốc gia/vùng lãnh thổ.

Như vậy, với bềdày lịch sầ hơn 17 năm tồn tại và phát triển của mình, cho

đến nay Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) - một diễn
đàn đối thoại chính sách dựa trên nguyên tắc mở, bình đẳng và đồng thuận đã phát
triển mạnh mẽ về mọi phương diện, thu hút được sự chú ý và tham gia của các cộng
đồng trong khu vực và trên thế giới.

Về số lượng thành viên, từ 12 thành viên sáng lập ban đầu APEC hiện nay

đã qui tụ được 21 nền kinh tế thành viên thuộc lòng chảo Châu Á - Thái Bình
Dương. Các thành viên APEC bao gồm các nền kinh tế lớn, phát triển ở trình độ
cao nhất nhì thế giới như Hoa Kỳ và Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp hoa ở
trình độ cao như Canada, Oxtrâylia, Niu Dilân, các nền kinh tế mới công nghiệp

hoa (NIEs) hay còn gọi là các con rồng Châu Á như Hồng Kông, Xingapo, Hàn
Quốc, Đài Loan, và các nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ như Trung Quốc Việt
Nam, Nga...

Về cấp bậc, APEC đã nâng cấp diễn đàn từ chỗ chỉ đơn thuần là diễn đàn
của cấp bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại lên cấp diễn đàn của các nguyên thủ
quốc gia, đồng thời làm phong phú thêm diễn đàn thông qua cuộc họp của các cấp
6

bộ trưởng chuyên ngành khác như bộ trưởng tài chính, bộ trưởng du lịch, bộ trưởng
giáo dục, bộ trưởng năng lượng, bộ trưởng giao thông vận tải, bộ trưởng phát triển
nguồn nhân lực, bộ trưởng y tế, bộ trưởng doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ trưởng tài
nguyên biển... Ngoài ra APEC cũng mở rộng hoạt động của mình thông qua các
cấp diứn đàn giữa giới quan chức với cộng đổng doanh nghiệp trong khu vực, giữa
bản thân các cộng đồng doanh nghiệp với nhau.

Về nội dung, từ chỗ chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh tế, thương mại, đầu tư và
kỹ thuật, cụ thể là (i) Tự do hoa thương mại và đầu tư, (li) Thuận lợi hoa thương
mại và đầu tư và (iii) Hợp tác kinh tế - kỹ thuật (ECOTECH), APEC đã phát triển
mạnh mẽ sang các lĩnh vực khác như văn hoa, xã hội, giáo dục, ỵ tế một cách hết
sức đa dạng và phong phú, dưới nhiều hình thức khác nhau: từ các đối thoại chính
sách đến các cam kết đơn phương, từ trao đổi kinh nghiệm đến thiết lập, quản lý và
thực thi các chương trình hành động, từ các hội thảo, hội nghị chuyên đề đến các
hội nghị từ xa, các nghiên cứu tình huống, các chuyến đi thực tiứn... Các vấn đề
như an ninh con người (bao gồm các vấn đề y tế, phòng chống thiên tai, bệnh dịch,
chống khủng bố, an ninh năng lượng...), niềm tin tôn giáo, hợp tác bảo tồn tài
nguyên, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ công nghiệp, thanh niên,
phụ nữ, giáo dục V.V.... cũng được bàn thảo trong APEC.

Về thể chế, mặc dù được coi là một liên kết kinh tế liên khu vực tương đối
lỏng lẻo, với khuynh hướng rõ rệt là một diứn đàn đối thoại nhiều hơn là một tổ
chức có cơ chế chặt chẽ và có tính ràng buộc cao và các thoa thuận trong khuôn
khổ APEC đều đạt được trên cơ sở đồng thuận, tự nguyện, không ràng buộc, không
chịu sự giám sát của bất kỳ cơ quan chế tài hoặc giải quyết tranh chấp nào, APEC
không ngừng được củng cố và phát triển với việc thiết lập Ban Thư ký APEC - một
bộ máy giúp việc với mục đích ban đầu vốn chỉ hỗ trợ các hoạt động mang tính
chất hành chính thuần tuy của APEC nay đã chuyển sang hỗ trợ một cách có hiệu
quả các hoạt động mang tính nội dung trong APEC với tính chất công việc ngày
càng phức tạp và đòi hỏi trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn, việc thiết lập các
Kế hoạch Hành động Quốc gia (IAP) với cơ chế rà soát định kỳ (peer review) và
7

các K ế hoạch Hành động Tập thể (CÁP) cũng như cơ chế Sáng kiến N g ư ờ i tìm

đường (Pathíinder Initiative).

Với những nét đặc thù và cực kỳ đa dạng về trình độ phát triển kinh tế, thể
chế chính trị, xã hội, bản sắc văn hoa, các thành viên APEC trải rộng trên bốn ch

lục: Châu Á (Đông Á), Châu Đại Dương, Châu Mỹ, gấm cả Bắc Mỹ và Nam Mỹ và

Châu Âu (Nga) với tổng dân số hơn 2,6 tỷ dân; tổng GDP trên 20,7 nghìn tỷ USD,
chiếm xấp xỉ 57% GDP toàn cầu và tổng giá trị giao dịch thương mại đạt 7 nghìn tỷ
USD, chiếm hơn 45,8% thương mại thế giới. Có thể nói, APEC đã thực sự trở thành
một trong những liên kết kinh tế quốc tế có quy mô và tầm quan trọng bậc nhất
trên thế giới ngày nay.

Những Cột mốc Quan trọng của APEC

1989 Canberra, Oxtrâylỉa

APEC khởi đầu với 12 thành viên trong một nhóm đối thoại không
chính thức cấp Bộ trưởng.
1993 Blake Island, Hoa Kỳ
Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC nhóm họp lần đầu tiên để phác thảo
tầm nhìn của APEC, đó là: "ổn định, an toàn và thịnh vượng cho
nhân dân của Chúng tôi".
1994 Bogor, Inđônêxia

APEC xác định các Mục tiêu Bôgô với nội dung: "thương mại và
đầu tư mở và tự do trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào
năm 2010 đối với các nền kinh tế thành viên phát triển và vào năm
2020 đối với các nền kinh tế thành viên đang phát triển."
1995 Osaka, Nhật Bản

APEC thông qua Kế hoạch Hành động Osaka (OAA), giúp tạo ra
một khuôn khổ nhằm đạt được các Mục tiêu Bôgô thông qua tự do
hóa thương mại và đầu tư, thuận lợi hoa kinh doanh và các hoạt động
ngành, được hậu thuẫn bởi các đối thoại chính sách và hợp tác kinh
t ế - k ỹ thuật.
1996 Manila, Phillipin

Hội nghị đã thông qua Kế hoạch Hành động Manila của APEC
(MAPA), phác thảo các biện pháp về tự do hóa và thuận lợi hoa
thương mại và đầu tư nhằm đạt được các Mục tiêu Bôgô; và lẩn đầu
tiên đề ra các Kế hoạch Hành động Tập thể và Quốc gia (CÁP và
IAP), phác hoa cách thức các nền kinh te thành viên có thể đạt được
các mục tiêu về thương mại tự do.
8

1997 Vancouver, Canada


APEC thông qua đề xuất về việc tự do hóa sớm và tự nguyện theo
lĩnh vực (EVSL) trong 15 lĩnh vực và quyết định cần phải cập nhật
hàng năm Kế hoạch Hành động Quốc gia (LÁP).
1998 Kuala Lumpur, Malaixia
APEC nhất trí về 9 lĩnh vực ban đầu trong EVSL và cố gắng đạt
được thỏa thuận về EVSL với các nền kinh tế khống phải là thành
viên APEC trong WTO.
1999 Auckland, Niu Dilân
APEC cam kết phát triển thương mại phi giấy tờ vào năm 2005 ử các
nền kinh tế phát triển và 2010 ử các nền kinh tế đang phát triển. Các
nội dung khác cũng được thông qua đó là Chương trình Thẻ đi lại
cua Doanh nhân (ABTC), Thỏa thuận về Công nhận lẫn nhau đối vái
Thiết bị Điện tử và Khuôn khổ Hội nhập của Nữ giới trong APEC.
2000 Banda Seri Begawan, Brunây
APEC đã thiết lập hệ thống điện tử dành cho Kế hoạch Hành động
Quốc gia (e — IAP), giúp cung cấp các IAP trực tuyến và cam kết
thực thi Kế hoạch Hành động vì Nền kinh tế mới, trong đó bên cạnh
các mục tiêu khác đề ra mục tiêu đến năm 2005 sẽ tăng gấp ba số
lượng người dân được tiếp cận Intemet trong khu vực APEC.
2001 Thượng Hải, Trung Quốc
APEC thông qua Hiệp ước Thượng Hải, chú trọng vào việc M ử rộng
Tầm nhìn của APEC, Phân tích chi tiết Lộ trình hướng tới Bôgố và
Tăng cường Cơ chế Thực thi. Chiến lược về e — APEC được thống
qua đã thiết lập một chương trình nghị sự tăng cường các cấu trúc và
thể chế thị trường, xúc tiến đầu tư vào cơ sử hạ tầng và phát triển
công nghệ phục vụ giao dịch trực tuyến, thúc đẩy phát triển kinh
doanh và nâng cao năng lực con người. APEC cũng đã thông qua
Bản tuyên bố đầu tiên về Chống Khủng bố.
2002 Los Cabos, Mêhicô
APEC đã thông qua Kế hoạch Hành động về Thuận lợi hoa Thương
mại, Các Chính sách về Thương mại và Nền kinh tế Kỹ thuật số và
các Tiêu chuẩn về Minh bạch hoa. Cùng với việc thông qua Sáng
kiến về A n toàn Thương mại trong Khu vực APEC (STAR), APEC
đã đưa ra Bản tuyên bố thứ hai về Chống Khủng bố.
2003 Bangkok, Thái L a n
APEC nhất trí tạo thêm động lực cho Vòng đàm phán Phát triển Đô-
ha của WTO và nhấn mạnh các mục tiêu bổ trợ của các thoa thuận
thương mại song phương và khu vực, của các Mục tiêu Bôgô và hệ
thống thương mại đa phương trong WTO. APEC không chỉ định
hướng thúc đẩy sự thịnh vượng của các nền kinh tế thành viên m à
còn tăng cường an ninh cho người dân trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. APEC cam kết thực thi các biện pháp cụ thể để triệt
9

phá các nhóm khủng bố, loại bỏ mối nguy hiểm của vũ khí huy diệt
hàng loạt và đương đầu với những mối đe doa an ninh khác. Các
thành viên nhất trí tham gia Kế hoạch Hành động APEC về SARS và
Sáng kiến về A n toàn Sức khỏe nhằm đảm bảo an ninh con người.
APEC cũng tăng cường nỗ lặc của mình trong việc xây dặng các nền
kinh tế tri thức, trong việc thúc đẩy các hệ thong tài chính tốt và hiệu
quả và tăng tốc quá trình cải cách cơ cấu trong khu vặc.
2004 Santiago, Chile

APEC ra một Tuyên bố mạnh mẽ ủng hộ tiến trình của Chương trình
nghị sặ Phát triển Đôha trong WTO và đặt ra thời hạn đạt bước đột
phá trong đàm phán: tháng 12/2005, tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần
thứ sáu. APEC đã thông qua những Thặc tiễn Tốt nhất đối với các
thoa thuận thương mại tặ do song phương và khu vặc (RTAs/FTAs),
Sáng kiến Santiago về Thương mại M ở rộng và Khuôn khổ về Bảo
mật Dữ liệu. APEC tái khẳng định "quyết tâm đúng đắn" của mình
nhằm đối phó vói nguy cơ khủng bố và tiếp tục hành động trong lĩnh
vặc này thông qua việc: xác định các yếu tố then chốt của hệ thống
kiểm soát xuất khẩu hiệu quả; thiết lập các hướng dẫn kiểm soát các
hệ thống phòng không vác vai (MANPADS), và tiếp tục thặc thi Sáng
kiến STAR. APEC cam kết chính trị chống lại nạn tham nhũng và
đảm bảo minh bạch và thông qua một Danh mục các Hành động cụ
thể hướng tói các mục tiêu trên.

2005 Bu-san, H à n Quốc

APEC thông qua Lộ trình Bu-san, hoàn thành Đánh giá Giữa kỳ cho
thấy APEC đang đi đúng hướng trong việc hoàn thành các Mục tiêu
Bôgô và Khuôn khổ Bảo mật của APEC. Các Lãnh đạo đã ra Tuyên
bố riêng ủng hộ kết quả thành công của Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6
của WTO tại Hồng Công, Trung Quốc và thống nhất cùng đối phó
với những nguy cơ dịch bệnh gây ra đối với sức khoe con người và
tiếp tục đấu tranh chống khủng bố, là nguyên nhân có thể gây ra bất
ổn kinh tế sâu sắc trong khu vặc.

2006 H à Nội, Việt Nam

APEC thông qua Kế hoạch Hành động Hà Nội, trong đó đề ra những


hành động và cột mốc cụ thể nhằm thặc thi các Mục tiêu Bôgô đồng
thời ủng hộ các biện pháp xây dặng năng lặc nhằm hỗ trợ các nền
kinh tế thành viên APEC. APEC cũng ra một Tuyên bố về Chương
trình Phát triển Đôha WTO kêu gọi các kết quả tham vọng và cân
bằng. Đ ể xác định các ưu tiên trong chương trình nghị sặ của mình,
APEC đã đưa ra phương thức tiếp cận chiến lược đối với vấn đề cải
cách các nhóm công tác và kiện toàn Ban Thư ký APEC.
10

1.1.3. Một sô thành tựu của A P E C

Sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của APEC trong suốt gần hai thập kỷ qua
chính là minh chứng hùng hồn về những thành tựu m à APEC đã đem lại cho các
nền kinh tế thành viên, các doanh nghiệp và người dân trong khu vực.

Theo các tài liệu của Ban Thư ký APEC, ngay trong thập kỷ đầu tiên, các
nền kinh tế thành viên APEC đã tạo ra xấp xỉ 7 0 % tăng trưởng kinh tế toàn cầu và
khu vực APEC đã liên tớc vượt trội so với các nền kinh tế khác trên thế giới ngay

cả trong thời gian diễn ra khủng hoảng tài chính Châu Á.

Các thành viên tiếp tớc cùng nhau hợp tác nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế
thông qua cam kết cải cách kinh tế và tiến tới thương mại, đầu tư tự do, mở cửa.
Các thành viên đã liên tớc cắt giảm thuế và các rào cản thương mại khác, đáp ứng
ngày càng tốt hơn các nhu cầu của doanh nghiệp trong khu vực và tạo điều kiện
cho việc kinh doanh dễ dàng hơn và ít tốn kém hơn. Các biện pháp được tiến hành
đã giúp cho các nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả hơn và tạo điều kiện mở
rộng xuất khẩu một cách ngoạn mớc.

Những thành quả nổi bật bao gồm [9], [13], [26]:

- Rào cản thuế quan trong khu vực APEC đã giảm từ 16,6% năm 1988
xuống còn 6,4% năm 2004. Thuế quan của gần một nửa số thành viên APEC hiện
giờ là dưới 5 % và thuế quan đối với nhiều mặt hàng hiện đã ở mức 0 % hoặc hầu
như không đáng kể. Thông tin về thuế quan đã được đưa lên mạng internet tại hầu
hết các nền kinh tế APEC kể từ năm 1996, qua đó giúp tăng cường tính minh bạch
trong toàn khu vực. Ban Thư ký APEC duy trì Cơ sở dữ liệu thuế quan APEC, cung
cấp dịch vớ thông tin trực tuyến về thuế quan theo từng mặt hàng, các thông tin liên
quan về hải quan và đường dẫn tới dữ liệu thuế và thương mại của các thành viên.
Kể từ khi APEC được thành lập, hàng loạt rào cản phi thuế quan như hạn ngạch
thuế quan, các khoản phớ thu và giấy phép xuất nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu
trong khu vực APEC đã được dỡ bỏ hoặc được chuyển đổi thành thuế quan. Kết
quả là mức bảo hộ chung được giảm bớt và tính minh bạch trong các hệ thống
thương mại được tăng cường.
li

- về thương mại dịch vụ, trao đổi của ngành này giữa các nền kinh tế thành
viên APEC đã tăng trưởng mạnh trong hơn một thập kỷ qua. Một thị trường dịch vụ
sôi động đã hình thành nhờ nỗ lực của từng nền kinh tế thành viên trong việc xóa
bỏ các hạn chế về tiếp cận thị trường, mở rộng phạm vi đải xử quảc gia (NT) và
quy chế tải huệ quảc (MFN), nới lỏng cơ chế quản lý, xoa bỏ tệ quan liêu và tăng
cường xây dựng năng lực trong nước. Một sả tiến bộ trong lĩnh vực dịch vụ đã được
luật hoa thông qua các cam kết trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ
(GATS).

- Về đầu tư, khu vực APEC đã mở cửa hơn rất nhiều đải với đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) nhờ nỗ lực của các thành viên nhằm xóa bỏ rào cản và tăng
cường các biện pháp xúc tiến đầu tư. Các thủ tục hành chính trong đó có thủ tục
thẩm định đầu tư cũng được đơn giản hóa ở nhiều nền kinh tế thành viên. Bộ
nguyên tắc đầu tư không ràng buộc trong APEC (NBIP), được thông qua năm
1994, đóng vai trò là nguồn tham chiếu cho các nền kinh tế thành viên trong việc
tạo dựng một khu vực mở cửa hơn đải với đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của APEC ra ngoài khu vực đã tăng hơn 2 lần giai đoạn 1989 - 2003,
trong khi đầu tư vào khu vực APEC tăng hơn 5 lần, đạt tới mức tải đa là 565 tỷ
USD vào năm 2000. N ă m 2003, các nền kinh tế APEC thu hút 2 8 % chuchuyển
FDI toàn cầu và chiếm 4 2 % sở hữu F D I thế giới. Các nền kinh tế có thu nhập thấp
đặc biệt hưởng lợi từ FDI vì dòng đầu tư vào các nền kinh tế này vẫn ở mức khả

quan ngay cả trong thời gian diễn ra khủng hoảng tài chính Châu Á. N ă m 2006
APEC đã thông qua Chương trình làm việc mở rộng về tự do hóa và thuận lợi hóa
đầu tư và chỉ đạo các thành viên tiếp tục đẩy mạnh hoạt động này trong khuôn khổ
hợp tác đầu tư APEC.

- Về lĩnh vực thuận lợi hoa kinh doanh, APEC đã thể hiện được quyết tâm
sẵn sàng giải quyết các rào cản quan trọng trong biên giới đải với hoạt động kinh
doanh đi xa hơn chương trình nghị sự chính thức của WTO. Điều này được thể hiện
trong Kế hoạch Hành động về Thuận lợi hóa Thương mại 2002 (TFAP) để giảm
5 % chi phí giao dịch kinh doanh trong khu vực giai đoạn 2001 - 2006 và Sáng kiến
Santiago về mở rộng thương mại trong APEC được thông qua năm 2004. Nhiều
12

hoạt động đã định hình và trở thành đặc trưng của chương trình thuận lợi hóa
thương mại của APEC như hành động tập thể nhằm xúc tiến thương mại phi giấy
tờ, minh bạch hóa, đi lại của doanh nhân, đồng bộ với các tiêu chuẩn quốc tế, cụi
tiến chính sách cạnh tranh và chống tham nhũng, và cụi cách phương pháp quụn lý.
N ă m 2006, APEC đã kiểm điểm thực hiện thành công TFAP giai đoạn Ì và đề ra
TFAP giai đoạn 2 (2006 - 2010) tiếp tục cắt giụm 5 % chi phí giao dịch kinh doanh
trong khu vực với các lĩnh vực hành động đã được mở rộng so với TFAP Ì, trong
đó đặc biệt chú trọng đến các Kế hoạch Hành động Tập thể (CÁP) và các sáng kiến
người tìm đường.

- Về nội dung các thoa thuận thương mại tự do song phương và khu vực
(RTAs/FTAs), APEC đang dẫn đầu thế giới trong việc thừa nhận và phát triển
mối liên kết giữa các RTAs/FTAs chất lượng cao với chương trình nghị sự mở
rộng về tự do hóa và thuận lợi hoa thương mại và đầu tư. Các nhà lãnh đạo APEC
và các Bộ trưởng cũng đã không ngừng nhấn mạnh đến vai trò tích cực của các
RTAs/FTAs đối với việc thực hiện các Mục tiêu Bôgô và đẩy nhanh tiến trình
WTO, đồng thời cũng công nhận sự cần thiết đụm bụo các thỏa thuận này phụi
nhất quán với WTO, mang tính toàn diện, minh bạch và thực sự hướng tới mục
tiêu tự do hóa thương mại như được nêu trong Thông lệ mẫu của APEC về
RTAs/FTAs năm 2004. Các RTAs/FTAs còn tác động liên đới tích cực đến tiến
trình tự do hóa thương mại thông qua những lợi thế về mở cửa thị trường. Do
ngày càng nhiều các nền kinh tế thành viên APEC lựa chọn sử dụng các
RTAs/FTAs để tự do hóa nền kinh tế và theo đuổi các tham vọng phát triển của
mình, APEC đã đẩy mạnh hoạt động trong lĩnh vực này để khuyên khích các
thành viên ký kết các thỏa thuận toàn diện, chất lượng cao để tối đa hóa đóng góp
cho việc thực hiện các Mục tiêu Bôgô. Các Bộ trưởng và các nhà lãnh đạo đã
thông qua Thông lệ mẫu của APEC về RTAs/FTAs vào tháng 11/2004 và APEC
đã bắt đầu việc xây dựng các điều khoụn mẫu về thuận lợi hóa thương mại đối với
RTAs/FTAs vào năm 2005. Đến hết năm 2006, APEC đã thông qua được 6 biện
pháp mẫu về RTAs/FTAs bao gồm: (i) thương mại hàng hóa; (li) mua sắp chính
phủ; (iii) hàng rào kỹ thuật trong thương mại; (iv) minh bạch hóa; (v) hợp tác và
13

(vi) giải quyết tranh chấp. Trong năm 2007, APEC dự kiến sẽ tiếp tục xây dựng
các điều khoản mẫu vì mục tiêu xúc tiến các RTAs/FTAs minh bạch, nhất quán
và chất lượng cao. Thêm vào đó, các nền kinh tế APEC đang xúc tiến các
RTAs/FTAs chất lượng cao thông qua các chương trình ưu tiên về trợ giúp kỹ
thuật và xây dựng năng lực. Ngoài ra, trong năm 2006 APEC cũng thảo luận về ý

tưởng xây dựng Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á - Thái Bình dương (FTAAP)
bao gồm tất cả các nền kinh tế thành viên APEC như một mục tiêu dài hạn.

- Về vấn đề ủng hộ hệ thống thương mại đa biên, cụ thầ là ủng hộ


GATT/WTO, với tỉ phần gần 5 0 % thương mại thế giới và gần 6 0 % GDP toàn cầu,
APEC đã không ngừng dùng ảnh hưởng của mình đầ thúc đẩy đàm phán WTO.
APEC là một lực lượng quan trọng giúp kết thúc Vòng đàm phán Urugoay và hiện
cũng đang đóng vai trò tương tự trong việc đẩy nhanh Vòng đàm phán Đô-ha. Các
ví dụ gần đây: Tuyên bố của các nhà lãnh đạo và Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng
APEC vào tháng 10/2003 làm sống động lại Vòng Đô-ha sau thất bại của Hội nghị
Cancun; Tuyên bố mạnh mẽ của các Bộ trưởng Thương mại APEC trước khi diễn
ra phiên họp của Đại hội đồng WTO về gói cam kết tháng 7, trong đó có thỏa
thuận đưa thuận lợi hóa thương mại thành một nội dung đàm phán tại Vòng Đô-ha;
Tuyên bố chung của các Bộ trưởng APEC năm 2004 xác định 3 sản phẩm công
nghệ thông tin mới đầ đưa ra xem xét loại bỏ thuế tại WTO nhằm đạt được một kết
quả đàm phán cân bằng; Tuyên bố giữa các kỳ họp WTO của các Bộ trưởng năm
2005 về dịch vụ; Thỏa thuận có tính đột phá của các Bộ trưởng Thương mại vào
tháng 6/2005 ủng hộ công thức Thụy Sĩ về giảm thuế quan đối với các sản phẩm
phi nông nghiệp; Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng Thương mại tháng 6/2006 ủng
hộ kết thúc thành công Vòng đàm phán ĐôhaẠVTO nhằm đem lại một kết quả cân
bằng và tham vọng và cuối cùng là Tuyên bố riêng của Các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC tháng 11/2006 với quyết tâm chính trị mạnh mẽ và các chỉ thị rất cụ thầ, rõ
ràng nhằm thúc đẩy Vòng đàm phán Đôha sớm kết thúc. Bên cạnh đó, những thành
tựu to lớn của APEC trong các vấn đề về thuận lợi hóa thương mại và xử lý các rào
cản trong biên giới đối với thương mại và đầu tư ngoài phạm v i chương trình nghị
sự chính thức của WTO đã giúp đưa một số vấn đề này vào chương trình nghị sự
14

của các cuộc đàm phán thương mại toàn cầu, đồng thời thúc đẩy các ý tưởng và
chương trình đưa ra WTO như Hiệp định Công nghệ Thông tin (ITA).

- Tổng giá trị trao đổi hàng hóa và dịch vụ nội khối APEC, tính theo USD,
đã tăng hem 3 lần trong giai đoạn 1989 - 2003 và chiếm tỷ trọng ngày càng cao
trong GDP của các nền kinh tế thành viên (18,5% vào năm 2003 so với 13,8% vào
năm 1989). Lưu chuyỉn vốn toàn cầu hai chiều giữa APEC với khu vực bên ngoài
tăng gần 8 lần, đạt 1,4 nghìn tỉ USD trong vòng 20 năm qua. Trao đổi dịch vụ trong
toàn khu vực APEC đã tăng hơn 2 lần trong cùng giai đoạn. Thương mại giữa các
nền kinh tế APEC và phần còn lại của thế giới cũng gia tăng, với k i m ngạch xuất
khẩu tăng hơn 2 lần kỉ từ khi APEC thành lập.

- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế của cả khu vực APEC tăng khoảng
1/3 và tăng khoảng 7 4 % đối với những nền kinh tế APEC có thu nhập thấp trong 10
năm đầu thành lập. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người cũng tăng
với tỷ lệ ấn tượng tương tự, với 2 6 % giai đoạn 1989 - 2003 (khoảng 1,7% mỗi
năm) so với 8 % ở các nền kinh tế ngoài APEC. Các nền kinh tế APEC đã tăng
trưởng manh kỉ từ khi APEC thành lập, chiếm 6 1 % tăng trưởng của thế giới giai
đoạn 1989 - 2003. Đến năm 2003, các thành viên APEC chiếm tới 5 7 % kinh tế thế
giới. GDP thực tế khu vực APEC tăng 4 6 % giai đoạn 1989 - 2003, so với 3 6 % của
các nền kinh tế ngoài APEC trong cùng giai đoạn. Các nền kinh tế APEC có thu
nhập thấp đã tăng trưởng đặc biệt mạnh mẽ, với GDP thực tế tăng 7 7 % kỉ từ khi
APEC ra đời.

- Ngoài ra, các nhà lãnh đạo chính trị, các bộ trưởng, các cán bộ quản lý nhà
nước và các doanh nhân thường xuyên gặp gỡ đỉ tích cực trao đổi thông tin và đối
thoại nhằm thúc đẩy hợp tác và phát triỉn chính sách. APEC liên tục triỉn khai các
dự án hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triỉn các kỹ năng và tăng cường cơ sở hạ tầng kinh
tế. Đ ã có 17 nền kinh tế thành viên tham gia vào Chương trình Thẻ đi lại của
Doanh nhân (ABTC Scheme) cho phép các doanh nhân đi lại thường xuyên trong
khu vực APEC được xuất nhập cảnh nhanh chóng thông qua các cửa khẩu riêng
của APEC tại các sân bay quốc tế chính trong khu vực. APEC đã triỉn khai các
15

hoạt động nhằm hài hoa hoa, tiêu chuẩn hoa và đơn giản hoa các thủ tục hải quan,
đã hài hoa hoa các tiêu chuẩn khu vực với các chuẩn mực quốc tế nhằm giảm các
rào cản thương mại, thúc đẩy sức sáng tạo và những công nghệ mới và cho phép
người tiêu dùng được hưởng giá cả tốt hơn và có nhiều sự lựa chừn hơn.

Cũng theo các tài liệu của Ban Thư ký APEC, sau khi APEC được thành lập,
người dân ở các nền kinh tế APEC đã được hưởng lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp từ
các Kế hoạch Hành động Quốc gia (IAP) và Kế hoạch Hành động Tập thể (CÁP)
trong APEC. Một số lợi ích trực tiếp bao gồm: cơ hội việc làm gia tăng, các
chương trình đào tạo nhiều hơn, mạng lưới an sinh xã hội phát triển hơn, tình trạng
đói nghèo giảm thiểu... Hơn thế nữa, tính trung bình, người dân khu vực APEC
được hưởng chi phí cuộc sống thấp hơn do kết quả của việc cắt giảm các hàng rào
thương mại và sự cạnh tranh về giá cả cũng như chất lượng của các loại hàng hoa
dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, từ lương thực, quần áo cho
tới điện thoại di động...

Quan trừng hơn, sự tăng trưởng kinh tế đã tạo điều kiện để thúc đẩy tiến bộ
xã hội tại các nền kinh tế trong APEC. Những thành tựu nổi bật m à người dân
trong khu vực APEC được hưởng bao gồm [26]:

- Các nền kinh tế APEC đã tăng cường khả năng quản lý nhà nước, đặc biệt
về mặt chất lượng điều tiết, tính hiệu quả của quản lý nhà nước, độ tin cậy và mức
độ ổn định chính trị, và hiện đang dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực này.

- Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH) của APEC tiếp tục đóng góp cho
quá trình cải cách và phát triển.

- Theo Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), chỉ số phát triển
con người tại các nền kinh tế APEC có thu nhập thấp đã tăng gần 18%. Khu vực
APEC đang trên đà đạt tới những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp
Quốc thông qua giảm tỷ lệ dân số có thu nhập dưới Ì USD/ngày gần 6 0 % kể từ
năm 1990.

- Tỷ lệ dân số đói nghèo trong APEC đã giảm hơn một nửa. Tình trạng đói

nghèo ở các nền kinh tế Đông Á thuộc APEC giảm khoảng 1/3, đặc biệt là Trung
16

Quốc đã đưa khoảng gần 200 triệu người ra khỏi mức nghèo khổ theo tiêu chuẩn
của Liên Hợp Quốc, chủ yếu nhờ tăng truồng kinh tế.

- Việc làm trong khu vực APEC đã tăng 1 8 % trong giai đoạn 1990 - 2002.
Mặc dù thất nghiệp tăng nhộ trong giai đoạn này nhưng vẫn ở mức rất thấp nếu tính

đến ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đối với việc làm ở

một số nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực APEC rất thấp so với mức độ
trung bình của thế giới (khu vực đạt mức 4,3% so với 6,2% của thế giới trong năm
2003). Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh giảm thiểu mạnh mẽ, tuổi thọ của người dân ở
các nền kinh tế APEC có thu nhập thấp tăng thêm đáng kể do có sự cải thiện về
điều kiện vệ sinh, nước sinh hoạt và hệ thống y tế công.

- Việc di chuyển hợp pháp của người dân trong khu vực được dễ dàng và
thuận tiện hơn, an toàn hơn, đổng thời giảm thiểu và quản lý rủi ro di chuyển của
những kẻ di trú bất hợp pháp.

- Gần như hầu hết các nền kinh tế APEC đạt được tỷ lệ 1 0 0 % phổ cập giáo
dục tiểu học đối với nam và nữ giới, làm tăng tỷ lệ biết đọc biết viết đối với thanh
niên và người lớn trong khu vực. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tăng lên nhanh
chóng thông qua tăng cường hoạt động giáo dục, tăng tỷ lệ chi tiêu ngân sách cho
giáo dục và đẩy mạnh hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nền kinh tế APEC, đặc
biệt là sự hỗ trợ của các nền kinh tế phát triển dành cho các nền kinh tế kém phát
triển hơn trong khu vực. Ngày càng có nhiều công dân APEC được hưởng giáo dục
bậc trung học và cao hơn.

1.2. MỤC TIÊU, N G U Y Ê N TẮC, cơ C Â U T ổ CHỨC V À cơ CHẾ HOẠT


ĐỘNG CỦA APEC

1.2.1. Mục tiêu hoạt động của APEC

Ngay tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất, tức tháng l i năm 1989
APEC đã đặt ra mục tiêu vĩ mô, có tầm nhìn định hướng chiến lược lâu dài cho
diễn đàn, đó là: "Mục tiêu thúc đẩy hợp tác của APEC là duy trì sự tăng trưởng và
17

phát triển bền vững trong khu vực và, do đó, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế thế giới" [9].

Trong các tài liệu chính thức sau này của APEC, người ta thường đề cập đến
các mục tiêu của APEC như là "thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng trong

khu vực, đồng thời củng cố cạng đổng Châu Á - Thái Bình Dương" [23] hoặc là ba

mục tiêu: "Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; Phát triển và củng cố hệ thống
thương mại đa phương; Tăng cường sự phụ thuạc lẫn nhau và thịnh vượng của các
nền kinh tế thành viên." [22]

Mục tiêu của APEC đã được xác định rõ hơn vào năm 1994 tại Inđônêxia.
Trong Tuyên bố Bôgô các nhà lãnh đạo APEC đã cam kết thực hiện cái gọi là "các
Mục tiêu Bôgô" về thương mại và đầu tư tự do và mở trong khu vực, cụ thể là "Hơn
nữa, Chúng tôi (các nhà lãnh đạo APEC) nhất trí tuyên bố cam kết của chúng tôi

hoàn thành mục tiêu của chúng tôi về thương mại và đầu tư tự do và mở ở Châu Á -

Thái Bình Dương không muạn hơn năm 2020. Lạ trình thực thi sẽ tính đến trình đạ
phát triển kinh tế khác biệt của các nền kinh tế APEC, với các nền kinh tế đã công
nghiệp hoa cần phải đạt được mục tiêu thương mại và đầu tư tự do và mở không
muạn hơn năm 2010 và các nền kinh tế đang phát triển không muạn hơn năm
2020." [28]

Như vậy, các nhà lãnh đạo APEC đã đặt ra hai mốc thời gian cụ thể thực
hiện mục tiêu thương mại và đầu tư tự do và mở, đó là không muạn hơn năm 2010
đối với các nền kinh tế APEC phát triển và không muạn hơn năm 2020 đối với các
nền kinh tế APEC đang phát triển. Đây là mạt cam kết có tính tự nguyện dựa trên
sự tin tưởng lẫn nhau cùng với nỗ lực tối đa để thực hiện mục tiêu, nhưng cũng đầy
khó khăn và thách thức trong bối cảnh hiện nay.

Nhằm thực hiện các Mục tiêu Bôgô nêu trên, năm 1995 tại Osaka, Nhật Bản
APEC đã đề ra Kế hoạch Hành đạng Osaka (OAA) trong đó quy định các hoạt
đạng của APEC dựa trên 3 trụ cạt: Tự do hoa thương mại và đầu tư: nhằm giảm
và xóa bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi quan thuế pản trê hoai đạng thương
T H Ư VIÊN
T R Ư Ơ N G rCÍ.:
NGOA: THUŨtó
18

mại và đầu tư, chủ yếu thông qua các Kế hoạch Hành động Quốc gia (IAP); Thuận
lợi hoa thương mại và đầu tư: tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch trong kinh
doanh, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại, chủ yếu thông qua các
Kế hoạch Hành động Tập thể (CÁP); và Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH) .
nhằm hỗ trợ phát triển nguỉn nhân lực, nâng cao năng lực của các thành viên để
phát triển kinh tế bình đẳng, cân bằng và bền vững, chủ yếu thông qua các dự án và
chương trình hợp tác.

1.2.2. Các nguyên tắc hoạt động của A P E C

Chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động hợp tác trong APEC là 2 nguyên tắc
[28] được đề ra trong Tuyên bố Seoul - Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng APEC lần
thứ ba tại Seoul, Hàn Quốc ngày 14 tháng 11 năm 1991:

(1) Nguyên tắc cùng có lợi (Mutual Benefit): các thành viên APEC dù tham
gia APEC hay các thể chế hợp tác khu vực và quốc tế khác đều vì lợi ích của riêng
mình nhưng đỉng thời cũng phải chú trọng tới lợi ích chung của thể chế, tổ chức,
diễn đàn đó và lợi ích của các bên có liên quan. Cùng có lợi ích chính là cơ sở để
tham gia hợp tác bền vững và bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực. Cùng có lợi phải
tính đến "sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội trong các hệ
thống chính trị - xã hội, và chú ý đầy đủ đến các nhu cầu của các nền kinh tế đang
phát triển" [28].

(2) Nguyên tắc đối thoại mở và xây dựng sự đỉng thuận (Open dialogue and
Consensus-building): APEC mở cửa cho tất cả các nền kinh tế thuộc khu vực Châu

Á - Thái Bình Dương nhưng không phải thành viên APEC tham gia. Các kết quả,

thành tựu m à APEC đạt được được áp dụng cho cả trong khu vực lẫn trên thế giới.
Đổng thuận được đặc trưng bởi toàn bộ quyết định đưa ra trong APEC đều phải
phản ánh ý chí của tất cả các thành viên. Đỉng thuận có hiệu quả cao trong một
diễn đàn có tính không ràng buộc và sự đa dạng về nhiều mặt của các nền kinh tế
khu vực như APEC. Đỉng thuận nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành viên
và coi trọng ngang bằng quan điểm của tất cả thành viên;
19

Ngoài ra, trong tiến trình thực hiện thuận lợi hoa và tự do hoa APEC áp
dụng 9 nguyên tắc chung sau [28]:

(1) Toàn diện (Comprehensiveness): giải quyết mọi khó khăn cản trở việc
thực mục tiêu lâu dài là thương mại mở và tự do;

(2) Phù hợp với GATT/WTO (GATTẠVTO consistency): các biện pháp
được tiến hành trong khuôn khổ chương trình hành động APEC phải phù hợp với
các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới;

(3) Đảm bảo sự tương đờng (Comparability): các nền kinh tế APEC cố gắng
tiến hành đờng đều tự do hoa và thuận lợi hoa thương mại và đầu tư, đờng thời
cũng tính đến các cấp độ thực hiện khác nhau của mỗi nền kinh tế;

(4) Không phân biệt đối xử (Non - discrimination): mọi cắt giảm rào cản
thương mại đạt được thông qua APEC được áp dụng đều đối với tất cả các nền kinh
tế trong và ngoài APEC;

(5) Đảm bảo minh bạch hoa (Transparency): các luật lệ, qui định và thủ tục
hành chính của tất cả các nền kinh tế APEC có ảnh hưởng tới dòng lưu chuyển
hàng hoa, dịch vụ và vốn giữa các thành viên APEC phải hoàn toàn minh bạch;

(6) Giữ nguyên mức bảo hộ hiện tại làm mốc (Standstill): các nền kinh tế
thành viên APEC không thực hiện các biện pháp làm gia tăng mức độ bảo hộ;

(7) Khởi động đờng thời, tiến trình liên tục và thời gian biểu khác nhau
(Simultaneous start, continuous process and differentiated timetables): tiến trình tự
do hoa thương mại và đầu tư của APEC được các thành viên đờng thời triển khai,
thực hiện liên tục và hoàn thành với những mốc thời gian khác nhau;

(8) Có sự linh hoạt (Flexibility): các nền kinh tế thành viên APEC tiến hành
tự do hoa và thuận lợi hoa một cách linh hoạt, có tính đến mức độ phát triển khác
nhau giữa các nền kinh tế thành viên;

(9) Hợp tác Kỹ thuật (Technical Cooperation): APEC chủ động tiến hành
hợp tác kinh tế, kỹ thuật góp phần thúc đẩy quá trình tự do hoa và thuận lợi hoa.
20

1.2.3. Cơ câu tổ chức của A P E C

Tuy hình thức là một diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực mở, nhưng APEC có
một cơ chế tổ chức và hoạt động khá chặt chẽ. APEC có trụ sở Ban Thư ký, có
Giám đốc điều hành Ban Thư ký, cùng các Uy Ban, Tiểu ban và các N h ó m công tác
chuyên môn được thành lập trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Dưới đây là một
số khái quát về cơ cấu tổ chức và hoạt động cờa APEC.

(1) Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC (APEC Economic Leaders
Meeting - A E L M )

Đây là cơ quan quyết định chính sách cao nhất cờa APEC, nơi đề ra các
định hướng chiến lược và viễn cảnh dài hạn cho APEC. A E L M thường được tổ
chức vào tháng 11 hàng năm từ năm 1993, để phê duyệt các kế hoạch, kiến nghị do
Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC ( A M M ) và các Hội nghị Bộ
trưởng APEC khác đệ trình và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm kế tiếp.
Việc tổ chức A E L M được đánh giá như cột mốc biến APEC từ một cơ chế đối
thoại, tư vấn kinh tế thuần tuy thành một cơ chế như là một tổ chức quốc tế thực sự.

(2) Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC (APEC Ministerial
Meeting - A M M ) và các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành APEC khác (APEC
Sectoral Ministerial Meeting)

A M M thường được tổ chức hàng năm vào tháng 11 từ năm 1989, ngay trước
A E L M nhằm quyết định phương hướng hoạt động cờa APEC trên cơ sở chiến lược
và viễn cảnh do A E L M đề ra, đánh giá hiệu quả hoạt động cờa APEC trong năm,
thông qua các chương trình hành động, các sáng kiến, ngân sách hoạt động cờa
APEC, đôn đốc theo dõi kếtquả hoạt động cờa các diễn đàn cấp thấp hơn và ấn
định thời hạn thực hiện các chương trình hành động cho các năm sau.

Các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành thường được tổ chức định kỳ, trước
A E L M và AMM, bao gồm các Hội nghị Bộ trưởng Thương mại, Hội nghị Bộ trưởng
Vận tải, Hàng không, Bưu chính viễn thông, Công nghệ Thông tin, Du lịch, Tài
nguyên biển, Khai thác mỏ và Khoáng sản, Tài chính... Chức năng chờ yếu cờa các
Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành là định hướng và thúc đẩy các hoạt động hợp tác
21

chuyên ngành trong APEC, xem xét, thông qua và đánh giá các hoạt động họp tác
chuyên ngành, đưa ra các đề xuất đóng góp ý kiến cho tiến trình chung của APEC.

(3) Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (APEC Business Advisory Council
- ABAC)

ABAC có nhiệm vụ là tăng cường sự hợp tác của APEC với khu vực doanh
nghiệp và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp vào các hoạt động hợp tác
trong APEC ABAC đưa ra các quan điểm dựa trên lập trường kinh doanh về các
vấn đề trong APEC thông qua một cuộc họp giữa ABAC và các nhà lãnh đạo kinh
tế APEC hàng năm và một báo cáo chính thởc. ABAC họp 4 lần trong năm và có
đại diện thường trực tại các Hội nghị Bộ trưởng, A M M và AELM. ABAC ra đời
sau Hội nghị Bộ trưởng ở Osaka năm 1995 thay cho Diễn đàn Kinh doanh Thái
Bình Dương (PBF) do A E L M thành lập.

AELM, AMM, các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành và ABAC là các cấp
hoạch định chính sách trong APEC. Các cấp còn lại dưới đây là các cấp làm việc
trong APEC.

(4) Hội nghị Quan chởc Cao cấp (Senior Officials' Meeting - S Ò M )

Hội nghị này thường được triệu tập 4 lần trong một năm, vào các tháng 1,5,
9 và li, được gọi là S Ò M Ì, S Ò M 2, S Ò M 3 và CSOM (Conclusion S Ò M ) , tởc là
S Ò M Tổng kết hoặc là S Ò M kỳ Tổng kết, trước khi diễn ra A M M và AELM.
Nhiệm vụ chính của S Ò M là triển khai các kếhoạch, chương trình, quyết định của
A E L M và AMM, đệ trình các sáng kiến, khuyến nghị, chương trình hợp tác lên
Hội nghị Bộ trưởng xem xét phê duyệt. S Ò M cũng đảm nhận việc xem xét, điều
phối ngân sách và hoạt động của các Uy ban, Tiểu ban và các N h ó m công tác.

(5) Ban Thư ký (Secretariat)

Ban Thư ký APEC được thành lập tại A M M lần thở 4 tại Băng Cốc năm
1992, có trụ sở đặt tại Xingapo, có bộ máy gồm Ì Giám đốc điều hành và Ì Phó
Giám đốc điều hành, khoảng 21 giám đốc chương trình và 27 chuyên viên. Ban
Thư ký APEC làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của S Ò M và có quan hệ thông tin
22

liên lạc trực tiếp, thường xuyên với các nền kinh tế thành viên, các Uy ban, các
Nhóm Công tác và N h ó m đặc trách trong APEC [7]. Nhiệm vụ chính của Ban Thư
ký APEC mang tính chất hỗ trợ kỹ thuật và chuyên môn cho toàn bộ các cấp và
tiến trình A P E G

(6) Các Uy ban và Tiểu ban chuyên môn của APEC

Các Uy ban và Tiểu ban chuyên môn của APEC bao gồm:

- Uy ban Thương mại và Địu tư (Committee ôn Trade and Investment - en)

- Ưỷ ban Kinh tế (Economic Committee - ÉC)

- Uy ban Quản trị và Ngân sách (Budget and Management Committee


- BMC)

- Uy ban Điều hành S Ò M về Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật (SÒM Steering


Committee ôn ECOTECH - SCE)

- Tiểu ban về Thủ tục H ả i quan (Sub-committee ôn Customs


procedures - SCCP)

- Tiểu ban về Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn (Sub-committee ôn Standards and


Conformance-SCSC)

(7) Các N h ó m công tác trong APEC (Working groups - WG) và các Lực
lượng Đặc trách của S Ò M (SÒM Special Task Forces - S Ò M TF)

Đ ể triển khai thành công các chương trình hành động thực hiện các mục tiêu
đề ra, ngoài các Uy ban và Tiểu ban, APEC còn có một hệ thống gồm trên 11 WG
và khoảng 8 S Ò M TF trợ giúp hoạt động của APEC trên nhiều lĩnh vực cụ thể. Các
WG gồm có WG v ề hợp tác kỹ thuật nông nghiệp, năng lượng, thúy sản, phát
triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ công nghiệp, bảo tồn nguồn tài
nguyên biển, doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông tin và viễn thông, du lịch, xúc tiến
thương mại, vận tải. Các S Ò M TF bao gồm: TF về Chống tham nhũng, Chống
khủng bố, Mạng lưới địu mối văn hoa, Mạng lưới địu mối về giới, N h ó m công
tác về Thương mại điện tử, TF về y tế, TF về Đ ố i phó với trường hợp khẩn cấp,
Mạng lưới an sinh xã hội.
23

Ngoài ra còn có một số diễn đàn khác trong APEC như: Tiến trình Bộ
trưởng Tài chính, Tổ hợp các Trung tâm nghiên cứu APEC, Diễn đàn về đổi mới
khoa học đời sống, Các Đ ố i thoại Ngành: ôtô, hoa chất, kim loại màu, Đ ố i thoại
chính sách cấp cao về công nghệ sinh học nông nghiệp, Hệ thống thực phẩm
APEC...

1.2.4. Cơ chê hoạt động của A P E C

APEC hoạt động với tư cách là một diễn đàn hợp tác thương mại và kinh tế
đa phương. Các nền kinh tế thành viên chủ yếu triịn khai thực thi các Kế hoạch
Hành động Quốc gia (IAP) và Kế hoạch Hành động Tập thị (CÁP) nhằm mở của
thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các Kế hoạch hành động này được thảo
luận tại S Ò M , Hội nghị Bộ trường chuyên ngành, A M M và cuối cùng là AELM.

Các nhà lãnh đạo APEC là những người đưa ra định hướng chính sách của
APEC. Các khuyến nghị mang tính chiến lược do các Bộ trưởng và ABAC đệ trình
lên các nhà lãnh đạo được xem như là một phần của quá trình này.

Các hoạt động và dự án của APEC ở cấp chuyên viên do các quan chức cao
cấp APEC định hướng và được thực hiện thông qua 4 Uy ban: Uy ban về Thương
mại và Đầu tư, Uy Ban Điều hành S Ò M về Hợp tác Kinh tế vàKỹ thuật, Uy ban
Kinh tế vàUy ban Quản trị và Ngân sách. Các tiịu ban, nhóm công tác và nhóm
đặc trách có trách nhiệm triịn khai những hoạt động do 4 Uy ban nòng cốt này đề
ra [22].

1.3. Đ Á N H GIÁ TIÊN TRÌNH HỢP T Á C APEC V À TRIỂN V Ọ N G

1.3.1. Những ưu điểm của tiến trình hợp tác A P E C

Sự hình thành và phát triịn mạnh mẽ của diễn đàn APEC trong bối cảnh khu
vực hoa, toàn cầu hoa và phân công lao động ngày càng sâu sắc, tăng trưởng liên

tục và tuy thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương cho thấy những mặt ưu việt của tiến trình hợp tác này.

Trước hết, APEC đặt ra mục tiêu có tầm chiến lược của diễn đàn rất phù hợp
với mục tiêu riêng của từng thành viên cũng như mục tiêu chung của cả khu vực,
24

đó là tăng trưởng và phát triển bền vững, thịnh vượng thông qua đó góp phần thúc

đẩy sự thịnh vượng chung của khu vực và thế giới.

Thứ hai, APEC là phương thức liên kết quốc tế có các lĩnh vực hợp tác

phong phú nhất, đa dạng nhất: từ kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học kụ

thuật cho đến vãn hoa, xã hội, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, y tế, chống khủng bố,

chống tham nhũng, thiên tai, cúm gà, sóng thần... Đồng thời các lĩnh vực hợp tác

liên tục được m ở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành viên cũng như yêu cầu

đặt ra của bối cảnh mới.

Thứ ba, chính các nguyên tắc trong APEC, đặc biệt nổi bật là nguyên tắc
cùng có l ợ i tính đến trình độ phát triển khác nhau của các thành viên, nguyên tắc

đối thoại m ở và xây dựng sự đồng thuận và nguyên tắc ủng hộ chủ nghĩa k h u vực

m ở và thể chế thương mại đa phương ( G A T T Ạ V T O ) đã giúp APEC và các thành

viên của mình đạt được sự linh hoạt, năng động và chủ động trong việc đề ra và

thực thi các sáng kiến, ý tưởng, kế hoạch, chương trình hành động nhằm thực thi

các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển bền vững và thịnh vượng của diễn đàn.

Cũng chính nhờ các nguyên tắc này m à APEC có tính chất "mở" - điều khác biệt

giữa APEC và các tổ chức, thể chế hợp tác liên kết khu vực và quốc tế khác.

V à cuối cùng, trong một k h u vực phát triển năng động nhất thế giới như

Châu Á - Thái Bình Dương với nhiều lợi ích cũng như m ố i quan tâm đa dạng của

các nền k i n h tế thành viên có điều kiện và trình độ phát triển khác biệt về nhiều

mặt thì một diễn đàn như APEC nhằm mang lại và cân bằng các l ợ i ích ngắn hạn

cũng như dài hạn giữa các thành viên, nhằm tập hợp nguyên tắc, thống nhất quan

điểm, đưa ra sáng kiến, thúc đẩy hợp tác, giải quyết bất đồng, gia tăng hợp tác k i n h

tế, tăng cường giao lưu văn hoa - xã hội, duy trì hoa bình, ổn định và an ninh k h u

vực là hết sức cần thiết và thích hợp và cũng khó một thể chế hợp tác k h u vực nào

khác có thể thay thế được.

1.3.2. Những hạn chê của tiên trình hợp tác A P E C

Bên cạnh những ưu điểm, tiến trình hợp tác APEC, giống như bất kỳ tiến
trình hợp tác nào khác, cũng tổn tại một số mặt hạn chế của nó. Những mặt hạn chế
25

này được giới học giả nổi tiếng trong k h u vực và trên thế giới thường xuyên đề cập
đến trong các nghiên cứu của mình.

Thứ nhất, sau hơn 17 năm tiến hoa, APEC vẫn chỉ là một diễn đàn với thiết
chế lỏng lặo và các quyết định không có tính cưỡng chế, ràng buộc, không có một
cơ chế giám sát thực thi chặt chẽ. Điều này đã từng và có nhiều khả năng sẽ làm
suy yếu năng lực thực thi của APEC, ảnh hưởng đến tính hiệu quả, uy tín và niềm
tin vào APEC.

Thứ hai là sự đa dạng và khác biệt rất lớn về m ọ i mặt của các thành viên
APEC: từ trình độ phát triển kinh tế - văn hoa - xã hội đến hệ thống thể chế chính
trị, nhân sinh quan, các m ố i quan tâm ưu tiên riêng khác, các đặc điểm địa lý, khí
hậu không giống nhau... cộng với nguyên tắc đồng thuận (concensus) trong APEC
đã dẫn đến sự chậm chề và tạo ra nhiều khó khăn trong việc đưa ra các quyết sách,
các chương trình, k ế hoạch hành động để thúc đẩy tiến trình hợp tác APEC.

Thứ ba là có rất nhiều vấn đề phi truyền thống đang nổi lên trong APEC như
là chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, chống SARS, c ú m
gia cầm, đối phó với sóng thần, thiên tai, HIV/AIDS, đảm bảo an ninh năng lượng,
hợp tác về văn hoa và tôn giáo... Những vấn đề này làm chệch hướng tập trung
trong APEC và làm phân tán các nguồn lực của APEC vào các vấn đề truyền thống,
tức là các vấn đề kinh tế - thương mại - đầu tư và hợp tác kinh tế kỹ thuật và mục
tiêu chính yếu đặt ra trong APEC, tức là các M ụ c tiêu Bôgô về thương m ạ i và đầu
tư tự do và m ở vào n ă m 2010 đối với các thành viên phát triển và n ă m 2020 đối với
các thành viên đang phát triển.

Trên đây là ba mặt hạn chế nổi trội, thường xuyên được đề cập nhất trong
các tài liệu nghiên cứu về APEC trong nước cũng như nước ngoài, đồng thời cũng
là những hạn chế gây khó khăn, thách thức lớn nhất đến hoạt động hợp tác của
APEC thời gian qua và có thể trong thời gian tới.

1.3.3. Triển vọng của tiến trình hợp tác A P E C

Trước bối cảnh m ớ i của khu vực và thế giới, APEC sẽ cần phải tiếp tục tiến

hoa, vận động, biến đổi mình cho phù hợp với tình hình mới. Tiến trình hợp tác

APEC trong tương lai sẽ gắn liền với một số khuynh hướng vận động sau.
26

Trước tiên, APEC sẽ có khuynh hướng chuyển thành một thể chế tổ chức

hợp tác và phát triển kinh tế dạng OECD của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
hoặc có thể chuyển thành một thể chế tổ chức với những ràng buộc tương đối chặt
chẽ hơn về mặt pháp lý và thực thi, với một cơ chế rà soát có hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, APEC sẽ phải cạnh tranh với những thể chế khác trong khu vực như

ASEAN, ASEAN +..., và nhất là Cộng đồng Kinh tế Đông Á đang manh nha
(East Asian Community - EAC). Bên cạnh đó, APEC cũng sẽ vụn động theo
hướng tự cải cách, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hợp tác của mình nhằm
hoạt động hiệu quả hơn.

Thứ hai, APEC sẽ cần phải tụp trung giải quyết các Mục tiêu Bôgô về
thương mại và đầu tư tự do và mở cụn kề với mốc thời gian là năm 2010 đối với các
thành viên phát triển. Vấn đề đặt ra là liệu APEC có hoàn thành được mục tiêu có
thể nói là cực kỳ khó khăn này đúng thời hạn đề ra hay không và bằng cách nào
APEC có thể chứng minh với khu vực và thế giới rằng mình đã hoàn thành được cột
mốc đầu tiên của các Mục tiêu Bôgô này.

Thứ ba, APEC nhìn nhụn và định hưóng thế nào đối với việc thiết lụp một
khu vực thương mại tự do toàn khu vực Châu A - Thái Bình Dương (Free Trade
Area in Asia Pacific - FTAAP). Liệu APEC có tiếp tục xử lý các vấn đề phi truyền
thống mới đặt ra hay không. Và đặc biệt là APEC sẽ ứng phó như thế nào trong
trường hợp Vòng đám phán Phát triển Đôha của WTO lại tiếp tục thất bại trong
thời gian tới.

Thứ tư, APEC sẽ tụp trung giải quyết, điều hoa mối quan hệ và chuẩn hoa
các khu vực thương mại tự do song phương và khu vực (RTAs/FTAs) như thế nào.
Hiện trong APEC có khoản hơn 34 RTAs/FTAs đã và đang được đàm phán và số
lượng này đang ngày càng tăng nhanh, tạo ra những hiệu ứng phức tạp đối với kinh
tế-thương mại và đầu tư trong khu vực, đòi hỏi phải có sự kiểm soát và quản lý.

Và cuối cùng, về mặt dài hạn APEC sẽ hướng tới một Cộng đổng

(Community) Châu Á - Thái Bình Dương. Vấn đề đặt ra là APEC định nghĩa thế

nào về một Cộng đổng Châu Á - Thái Bình Dương và làm cách nào để xây dựng
Cộng đồng này.
27

1.4. VIỆT NAM THAM GIA APEC

N ă m 1998, cùng với Nga và Peru, Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 6/1996 Việt Nam chính thức
nộp đơn gia nhập APEC. A E L M lần thứ 5 tại Vancouver, Canada tháng 11/1997 đã
nhất trí kết nạp Việt Nam tại A M M và A E L M tháng 11/1998 ở Malaixia. Đây là
một trong những bước quan trọng khẳng định sự nhất quán trong chính sách hội
nhập kinh tế cểa Việt Nam, và đồng thời thể hiện kết quả tích cực cểa những nỗ lực
cểa Việt Nam hội nhập sâu rộng và toàn diện vào cộng đồng quốc tế. Gia nhập
APEC, Việt Nam có nhiều nỗ lực tích cực, chể động tham gia các hoạt động cểa
diễn đàn này và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Việt Nam đã mở ra cho
mình những cơ hội mới trong đối thoại chính sách với các nền kinh tế thuộc các
khu vực địa lý khác nhau, trong đó có cả những cường quốc kinh tế là đối tác hàng
đầu trong quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Oxtrâylia, Niu Dilân, Trung Quốc và ASEAN. Hơn thế nữa, việc tham gia vào một
diễn đàn kinh tế mở, với những mục tiêu và chiến lược cụ thể như trong APEC, các
doanh nghiệp Việt Nam có "cơ hội vàng" tiếp cận "khu vực thị trường" vô cùng
rộng lớn và đa dạng, giúp tăng trưởng về kinh tế thương mại và đầu tư, nâng cao
khả năng cạnh tranh cểa nền kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ, nâng
cao kỹ năng và trình độ quản lý.

Mục tiêu chính cểa việc tham gia APEC đối với Việt Nam được xác định là
"Mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hoa cểa Việt Nam xâm nhập thị trường
các nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho thu hút đầu tư trong và ngoài
nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao sức cạnh tranh cểa hàng hoa và dịch vụ Việt Nam, bảo đảm nền kinh tế tăng
trưởng cao và bền vững". Khi tham gia vào các hoạt động hợp tác trong APEC,
Việt Nam luôn cố gắng gắn chặt với định hướng xuất khẩu, tham gia có chọn lọc
các hoạt động thiết thực để góp phần giảm bớt các rào cản cho hàng xuất khẩu,
giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới. Đ ể đạt được điều này,
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào các chương trình hoạt động cểa APEC,
28

trong đó nổi bật là: (i) Kế hoạch Hành động Quốc gia (IAP); (li) Kế hoạch Hành
động Tập thể (CÁP); (iii) Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH); (iv) và một số các
hợp tác chuyên ngành khác. Kể từ 1998 đến nay, Việt Nam đã và đang thực hiện,
bổ sung các cam kết của mình trong khuôn khổ các LÁP và CÁP, cũng như tham
gia vào các chương trình hợp tác ECOTECH một cách hiệu quả và ổn định [2].

Tham gia vào các hoạt động hợp tác trong APEC là một phần của tiến trình
hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó, hoạt động này được Đảng, Nhà nước và
Chính phủ rụt coi trọng. Bộ Ngoại giao tham gia vào các hoạt động liên quan tới
Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế và Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC Cơ quan điều phối tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, thương mại
của APEC là Bộ Thương mại (Vụ Chính sách Thương mại Đa biên), đóng vai trò
Trưởng S Ò M của Việt Nam. Các Bộ/Ngành hữu quan phụ trách các lĩnh vực
chuyên môn [6].

N ă m 2006 đánh dụu một mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập APEC
của Việt Nam khi Việt Nam chủ trì đăng cai tổ chức năm APEC 2006 với kết quả
thành công rực rỡ về mọi mặt, cả về nội dung lẫn vật chụt - hậu cần, được cộng
đồng, bạn bè khu vực và quốc tế đánh giá cao.

APEC Việt Nam 2006 là sự kiện quốc tế có quy m ô và tầm cỡ lớn nhụt từ
trước đến nay Việt Nam từng đăng cai tổ chức. Hàng trăm cuộc họp lớn nhỏ diễn ra
liên tục trong cả năm và hàng nghìn lượt đại biểu khu vực và quốc tế, trong và
ngoài nước tham dự. Số lượng nguyên thủ quốc gia đến thăm song phương chính
thức Việt Nam nhiều nhụt trong một năm (5 nguyên thủ quốc gia của các nền kinh
tế hàng đầu: Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc và Chile). Các thành tựu trực
tiếp hoặc gián tiếp thu được từ APEC như: tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài F D I
trong năm 2006 đạt trên 10,2 tỷ USD, Việt Nam kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ và
gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam được thông qua quy chế
thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Hoa Kỳ... APEC Việt Nam 2006
thực sự khẳng định được vị thế, vai trò cũng như năng lực hội nhập của Việt Nam
vào cộng đổng khu vực và quốc tế.
29

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THAM GIA HỢP TÁC APEC
CỦA CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG KHƯ vực
• • •

2.1. BỐI CẢNH THAM GIA HỢP TÁC APEC CỦA CỘNG ĐỔNG DOANH
NGHIỆP KHU Vực

APEC ra đời năm 1989 với tư cách là hình thức liên kết liên chính phủ đầu

tiên ở Châu Á - Thái Bình Dương nhằm thiết lập một cơ chế toàn khu vực phối hợp
chính sách và hành động chung để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và bảo đảm
sự phát triển bền vững. Một mặt, APEC ra đời là nhằm tỳo dựng một thế lực ở Châu

Á - Thái Bình Dương cân bằng với chủ nghĩa khu vực đang phát triển mỳnh mẽở
Châu  u dưới hình thức Khối cộng đồng kinh tế Châu  u (ÉC) cũng như ở Châu
Mỹ dưới hình thức Khu vực thương mỳi tự do Hoa Kỳ - Canada (CUFTA) và chính
là Khu vực thương mỳi tự do Bắc Mỹ (NAFTA) sau này. Mặt khác, APEC ra đời
cũng chính là từ nhu cầu khách quan của toàn cầu hoa, khu vực hoa và hội nhập
kinh tế quốc tế diễn ra mỳnh mẽ trên thế giói, nhu cầu khách quan về một hình

thức liên kết liên chính phủ trong khu vực lòng chảo Châu Á - Thái Bình Dương, ý
định chính trị của một số nền kinh tế hàng đầu trong khu vực như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ôxtrâylia và Hoa Kỳ được hậu thuẫn bởi một số nền kinh tế khác. Như vậy,
có thể nói APEC ra đời là kết quả của sự chín muồi của các điều kiện khách quan
lẫn chủ quan và là một thực thể độc đáo không giống bất cứ một hình thức liên kết
khu vực hay quốc tế nào khác.

Chính vì vậy, trong những năm đầu thành lập APEC đã cân nhắc, tìm tòi,
khám phá các nguyên tắc và những định hướng cho riêng mình. Một APEC theo
đuổi chủ nghĩa khu vực mở (open regionalism) với các nguyên tắc không ràng
buộc, cùng có lợi, đồng thuận. Một APEC luôn thúc đẩy, ủng hộ hệ thống thương
mỳi đa phương GATTẠVTO. Một APEC luôn đi đầu trong các hoỳt động thuận lợi
hoa kinh doanh... Chính những đặc điểm này đã tỳo nên một APEC khác biệt các
hình thức tổ chức liên kết hợp tác khu vực và quốc tế khác.
30

Về mặt đối ngoại, APEC thành lập trong bối cảnh các tổ chức, liên kết kinh

tế khu vực và quốc tế khác như É C , ASEAN, N A F T A đã được thành lập vói các

mục tiêu, nguyên tắc, chương trình và kế hoạch hành động hết sức rõ rệt. N h ư vậy,

nếu APEC cũng đề ra những mục tiêu, nguyên tắc, chương trình và k ế hoạch hành

động, kể cả phương thức thực hiện tương tự thì không thể có sức hấp dồn và thuyết

phục các thành viên của diễn đàn và cộng đồng quốc tế. Do vậy, APEC cần tìm ra

cho mình một hướng đi riêng.

Về mặt đối nội, APEC bao gồm nhiều nền kinh tế thành viên thuộc các trình

độ phát triển, thể chế kinh tế chính trị xã hội hết sức đa dạng, do vậy khó có thể

thực hiện các mục tiêu và chương trình như đề ra trong các liên kết khu vực và

quốc tế khác như một khu vực thương mại mậu dịch tự do hoặc một khối thị trường

chung, một cộng đồng kinh tế haymột liên minh tiền tệ, đặc biệt trong bối cảnh

các thành viên có sự phân rẽ quan điểm sâu sắc về một số những vấn đề then chốt

liên quan đến thiết chế APEC (chủ yếu giữa các thành viên phát triển và đang phát

triển). Vì thế, tất yếu APEC phải có phương thức khác để thực hiện những mục tiêu

về sự tăng trưởng, phát triển và thịnh vượng m à diễn đàn đề ra ban đầu.

V à trong quá trình tìm kiếm những hướng đi cho riêng mình này, APEC đã

nhận thức được vai trò thực sự của cộng đồng kinh doanh trong k h u vực đối v ớ i

tăng trưởng và phát triển bền vững hướng tới sự thịnh vượng chung của người dân

trong khu vực - mục tiêu m à APEC đã và đang theo đuổi kể từ những ngày đầu

thành lập, đồng thời nhận thấy sự cần thiết phải lôi kéo lực lượng này tham gia vào

các hoạt động của diễn đàn.

Bên cạnh đó, xét về mặt tổng thể, cộng đồng kinh doanh trong k h u vực

chính là những nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất k i n h doanh, tăng

trưởng và phát triển kinh tế-thương mại và đầu tư trong khu vực, đ e m l ạ i công ăn

việc làm, tạo dựng nên của cải vật chất, sự phồn thịnh của xã hội trong k h u vực.

Tuy nhiên, vị thế và tiếng nói của cộng đồng kinh doanh trong khu vực dường như

chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng của họ, đặc biệt là sự tham gia của cộng

đổng doanh nghiệp khu vực vào các diễn đàn, tổ chức, liên kết k h u vực và quốc tế.
31

Cũng chính vì vậy, APEC đã quyết định đề ra một phương hướng mới trong
các hoạt động trọng tâm của mình, đó là tạo ra một cơ chế cho phép cộng đồng
doanh nghiệp khu vực tham gia trực tiếp vào diễn đàn từ tháng 11/1993, bày tỏ
những quan điểm, tiếng nói, tâm tư, những khuyến nghị, khuyến cáo của mình với
các bộ máy chính phủ, bộ máy quản lý nhà nước các cổp.
Đây là một bước tiến bộ vượt bậc của APEC, đánh dổu sự phát triển mới về
chổt của diễn đàn trong bối cảnh tại các tổ chức và hình thức liên kết khu vực khác
trên thế giới cũng như quốc tế như Cộng đồng Kinh tế Châu  u (ÉC), CUFTA
(NAFTA), ASEAN, OECD, GATT sự tham gia, vị thế và tiếng nói của cộng đồng
doanh nghiệp chưa được chú trọng một cách đầy đủ, rõ rệt và tương xứng với vai
trò của họ trong xã hội.
Như vậy, sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp khu vực vào hợp tác
APEC xuổt hiện ngay từ những năm đầu thành lập do tác động tổng thể của những
điều kiện khách quan và chủ quan, trong đó các điều kiện chủ quan là chủ đạo, và
đã được phát triển qua nhiều năm với những thay đổi, tiến bộ, đồng thời vẫn giữ
nguyên được mục tiêu tôn chỉ đề ra là đánh giá đúng vai trò, vị thế và lắng nghe ý
kiến của cộng đổng doanh nghiệp khu vực về các vổn đề quan trọng có liên quan

đến kinh tế - chính trị - xã hội trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương.

2.2. C Á C HÌNH THỨC THAM GIA HỢP TÁC APEC CỦA CỘNG ĐỔNG
DOANH NGHIỆP KHU v ự c

2.2.1. Diễn đàn Kinh doanh Thái Bình Dương (PBF)

Tại Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần đầu tiên ở Blake Island
tháng 11/1993, các nhà lãnh đạo đã nhổt trí thiết lập Diễn đàn Kinh doanh Thái
Bình Dương (Pacific Business Forum - PBF) với tư cách là một cầu nối thông tin
liên lạc không chính thức giữa giới kinh doanh trong khu vực với chính phủ các
thành viên APEC.
Ngay sau A E L M PBF đã được thành lập với mục tiêu nhằm "xác định các
vổn đề APEC cần phải giải quyết để thúc đẩy thương mại và đầu tư trong khu vực
và khuyến khích tiếp tục phát triển các mạng lưới kinh doanh trong khắp khu vực".
32

PBF có cấu trúc gồm hai đại diện là doanh nhân từ mỗi nền kinh tế thành
viên APEC, tuy nhiên một số thành viên như Canada và Malaixia chỉ có một đại
diện. Cơ chế hoạt động của PBF là hàng năm PBF sẽ đệ trình một báo cáo dựa trên
ý kiến đóng góp của giới doanh nghiệp trong khu vực về các vấn đề liên quan đến
hoạt động kinh doanh lên Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC diễn ra vào cuối
năm. Tổng cộng PBF đã đệ trình được hai báo cáo lên các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC, đó là "Kế hoạch Hành động Kinh doanh cho APEC: Chiến lược cho sự
Tăng trưởng và Thịnh vượng chung' năm 1994 và "Kế hoạch Hành động Osaka:
Lộ trình thực hiện Tầm nhìn ÁP ÉC " năm 1995.
Báo cáo đểu tiên của PBF "Kế hoạch Hành động Kinh doanh cho APEC:
Chiến lược cho sự Tăng trưởng và Thịnh vượng chung' năm 1994 đã chỉ ra những
thách thức chính yếu của khu vực dựa trên quan điểm kinh doanh thuển tuy và
không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ các hạn chế về chính trị - ngoại giao nào. Những
thách thức này đã tạo cơ sở thiết lập một danh sách các khuyến nghị và ưu tiên chủ
yếu dựa trên các ý kiến đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực theo
đó các thành viên PBF tin tưởng rằng các chính phủ cển phải giải quyết nhằm đảm
bảo tiếp tục các nỗ lực tự do hoa và cải thiện môi trường kinh doanh và kinh tế và

đạt được mục tiêu chung vê tự do hoa thương mại và đểu tư trong khu vực Châu A
- Thái Bình Dương. Cụ thể hơn, PBF đã đề xuất một mốc thời hạn tự do hoa tương
đối nhanh chóng, đó là năm 2002 đối với các nền kinh tế phát triển và không muộn
hơn năm 2010 đối với các nền kinh tế đang phát triển.
Kết quả là các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã mở rộng cột mốc thời hạn tự
do hoa thương mại đểu tư như đã được biết đến là các Mục tiêu Bôgô tại A E L M
năm 1994. Trong Tuyên bố A M M năm 1994 các Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế
APEC đã ghi nhận và hoan nghênh báo cáo do PBF đưa ra, đánh giá cao những nỗ
lực và đóng góp quý báu, đặc biệt là những đề xuất hết sức cụ thể dựa trên quan
điểm kinh doanh của các thành viên PBF và cho rằng những ý kiến đóng góp này
sẽ phục vụ cho các suy tính của APEC trong tương lai. Đồng thời các Bộ trưởng
khẳng định vai trò quan trọng hàng đểu của khu vực tư nhân (cộng đồng doanh
nghiệp) trong APEC và nhất trí sẽ duy trì một cơ chế tham vấn thường trực của khu
33

vực doanh nghiệp/tư nhân thay cho cơ chế tham vấn mang tính chất tạm thời (ad
hoe) của PBF.
Trong báo cáo thứ hai "Kế hoạch Hãnh động Osaka: Lộ trình thực hiện
Tầm nhìn APEC" năm 1995 PBF đã xác định mười lĩnh vực APEC cần tập trung,
đưa ra những cột mốc thời hạn thực hiện hết sức cụ thể và kỳ vắng APEC có thể đạt
được một số kết quả trong ngắn hạn. Trong số các lĩnh vực này có: tự do hoa đầu
tư, đi lại miễn thị thực, thị thực cư trú cho doanh nhân, hài hoa hoa các tiêu chuẩn
và quy tắc hải quan, thiết lập hệ thống giám sát thực thi các vấn đề liên quan trong
lĩnh vực thương mại và đầu tư trên toàn khu vực, xây dựng cơ sở hạ tầng, nuôi
dưỡng các doanh nghiệp vừa và nhỏ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó,
PBF cũng đề xuất các nhà lãnh đạo APEC thiết lập một cơ quan thường trực tham
vấn về cách thức thiết lập một môi trường kinh doanh thân thiện cho doanh nhân

trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương.


Tại Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC ở Osaka tháng 11/1995 PBF đã
chấm dứt tồn tại và được thay thế bởi một cơ chế tổ chức tương tự, gắi là Hội đồng Tư
vấn Kinh doanh APEC (APEC Business Advisory Council - ABAC) - đại diện chính
thức cho sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp khu vực sau này.
Sự ra đời, tồn tại và giải thể của PBF đã đánh dấu một chặng đường sơ khai
của tiến trình tham gia hợp tác của cộng đổng doanh nghiệp khu vực vào APEC.
Mặc dù PBF tồn tại trong một thời gian ngắn, chưa thực sự bộc lộ và phát huy được
hết những ưu điểm, hiệu quả và tính thực tiễn cao của một cơ chế đại diện cho tiếng
nói của cộng đồng doanh nghiệp khu vực đối với tiến trình hợp tác APEC, những gì
PBF làm được cũng đã đóng góp không nhỏ vào sự lớn mạnh và phát triển của
APEC, cũng như góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời và kế cận của Hội đồng Tư vấn
Kinh doanh APEC là ABAC - cơ chế đại diện chính thức và thường trực của cộng
đồng doanh nghiệp khu vực sau này.

2.2.2. Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC)

2.2.2.1. Quá trình thiết lập ABAC

Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế ( A M M ) lần thứ 7 tại Osaka,
Nhật Bản tháng 11/1995 đã quyết định thành lập H ộ i đồng Tư vấn Kinh doanh
34

APEC (APEC Business Advisory Council - ABAC) hay còn gọi là Hội đồng Tư
vấn Doanh nghiệp APEC vào năm 1996.
Có thể nói rằng, cho đến nay ABAC là đại điện đầy đủ nhất và hiệu quả nhất
cho quyền lợi, lợi ích cũng như tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp khu vực
trong hợp tác APEC.
Trong Tuyên bố A M M lần thứ 7 này các Bộ trưởng đã tái khờng định tầm
quan trọng của sự hợp tác chạt chẽ giữa các chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp
nhằm tăng cường tính hiệu quả cho các hoạt động của APEC, đồng thời các Bộ
trưởng cũng đánh giá cao những đóng góp quý giá của Diễn đàn Kinh doanh Thái
Bình Dương (PBF) trong suốt hai năm 1994 và 1995. Các Bộ trưởng thống nhất cần
phải tiếp tục duy trì sự hơp tác và tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp
vào tất cả các hoạt động của APEC. Ngoài ra, các Bộ trưởng cũng thông qua một số
quy định về cơ cấu tổ chức, kinh phí và các hoạt động của ABAC trong thời kỳ đầu
và nhất trí sẽ xem xét lại các quy định này sau một năm.

2222. Cơ cấu tổ chức của ABAC

Về mặt cơ cấu tổ chức ABAC, mỗi nền kinh tế APEC sẽ chỉ định tối đa ba
đại diện từ cộng đồng doanh nghiệp tham gia vào ABAC. Các thành viên này sẽ đại
diện cho những lợi ích chung nhất của cộng đồng doanh nghiệp khu vực, bao gồm
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. M ỗ i nền kinh tế thành viên sẽ quyết định nhiệm kỳ
của thành viên ABAC đại diện cho nền kinh tế đó cũng như các vấn đề liên quan
đến hành chính và nhân sự khác. Khi chỉ định các đại diện ABAC và quyết định về
quy định bổ nhiệm họ, mỗi nền kinh tế APEC cần phải xem xét đến tính kế thừa
của tiến trình tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp.
ABAC được yêu cầu phải tìm kiếm các phương thức phù hợp lôi kéo sự
tham gia của các tổ chức khu vực doanh nghiệp/tư nhân khác trong khu vực vào
hợp tác APEC như lôi kéo sự tham gia của Hội đồng Kinh tế Lòng chảo Thái Bình

Dương (PBEC): một hiệp hội doanh nghiệp độc lập lâu đời nhất ở Châu Á - Thái
Bình Dương, thành lập từ năm 1967 gồm các thành viên là các doanh nhân từ các
nền kinh tế thuộc Lòng chảo Thái Bình Dương, PBEC đóng vai trò là đại diện cho
tiếng nói độc lập của doanh nghiệp ở Thái Bình Dương thông qua cơ chế họp mặt
35

giữa các ngành, các lĩnh vực dịch vụ và nghề nghiệp nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển của Lòng chảo Thái Bình Dương; hoặc của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Thái Bình Dương (PECC): một cơ chế hợp tác ba bên được thành lập tớ năm 1980
gồm các nhân vật cấp cao tớ khu vực kinh doanh và công nghiệp, chính phủ, giới
hàn lâm và giới trí thức khác thông qua sự hợp tác và phối hợp chính sách chặt chẽ
trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư và tài chính nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế

trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, PECC là quan sát viên phi chính phủ

chính thức duy nhất trong APEC; và của Mạng lưới Kinh doanh Châu Á - Thái
Bình Dương (APB-NET): được Nhóm công tác về Xúc tiến Thương mại (TPWG)
trong APEC thành lập tớ năm 1994 như là một biện pháp cụ thể để khuyến khích sự
tham gia của giới doanh nghiệp vào hoạt động APEC, chủ yếu các hoạt động trong
lĩnh vực xúc tiến thương mại.
ABAC có Ban Thư ký hỗ trợ cho các hoạt động của mình và APEC quyết
định cơ cấu tổ chức và chức năng của Ban Thư ký này. Ban Thư ký ABAC được đặt

tại Manila, Phillipin hỗ trợ tất cả các thành viên ABAC và các nền kinh tế thành
viên APEC đồng thời duy trì một trang web điện tử: www.abaconline.org.

2.2.2.3. Kinh phí hoạt động của ABAC

Về nguyên tắc, kinh phí hoạt động của ABAC chủ yếu dựa trên các nguồn
kinh phí tớ khu vực doanh nghiệp, tuy nhiên trong năm đầu Quỹ Trung tâm APEC

đã hỗ trợ cho ABAC. Kinh phí của ABAC được cung cấp thông qua một hệ thống

đóng góp niêm liêm hàng năm dựa trên quy m ô của mỗi nền kinh tế thành viên
theo công thức đóng góp niêm liêm của APEC.

2.2.2.4. Chức năng của ABAC

ABAC có hai chức năng chính, đó là: thứ nhất, tư vấn về việc thực thi K ế

hoạch Hành động Osaka (OAA) năm 1995 và về các ưu tiên cụ thể khác của cộng

đổng doanh nghiệp và thứ hai, cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến kinh

doanh hoặc các quan điểm của cộng đồng kinh doanh về các lĩnh vực hợp tác cụ

thể khác nhau khi các diễn đàn trong APEC yêu cầu.
36

Hàng năm ABAC phải báo cáo vềcác hoạt động của mình thông qua các
báo cáo gửi các nhà lãnh đạo kinh tế APEC cũng như các Bộ trưởng thông qua Hội
nghị các Quan chức Cao cấp APEC (SÒM).

2.22.5. Một số hoạt động chính ban đầu của ABAC

Trong năm đầu hoạt động - năm 1996 ABAC đã hình thành phát triển và
thực hiện được một số công việc sau. Các lãnh đạo kinh tế APEC đã hoàn thành
việc chỉ định các thành viên ABAC đại diện cho tổng nền kinh tế vào mùa xuân
năm 1996. ABAC đã tiến hành ba cuộc họp chính thức vào tháng 6 (Manila), tháng
8 (Honolulu) và tháng 9 (Hồng Kông) để thống nhất về các vấn đềtổ chức và soạn
thảo báo cáo gửi lên các nhà lãnh đạo kinh tế APEC. Tại cuộc họp đầu tiên ở
Manila, ABAC đã nhất trí rằng ABAC sẽ được lãnh đạo bởi một Chủ tịch (thành
viên ABAC thuộc nền kinh tế chủ nhà đăng cai tổ chức năm APEC hiện tại) và hai
Đồng Chủ tịch (các thành viên ABAC tổ các nền kinh tế chủ trì đăng cai APEC
năm trước đó và năm sau đó).
Nhằm thúc đẩy hoạt động của mình trong năm 1996, ABAC đã thiết lập
năm uy ban phụ trách năm lĩnh vực chính trong hoạt động của ABAC năm 1996 và
do các chủ tịch uy ban đứng đầu, bao gồm đầu tư và tài chính, cơ sở hạ tầng, các
dòng lưu chuyển qua biên giới, các doanh nghiệp vổa và nhỏ và phát triển nguồn
nhân lực, và hợp tác kinh tế kỹ thuật. Trung tâm Nghiên cứu và Truyền thông thuộc
Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược Phillipin đã được chỉ định sơ bộ làm Ban
Thư ký ABAC. Vai trò chủ yếu của Ban Thư ký ABAC là định hướng phát triển
báo cáo ABAC và phối hợp giữa ABAC và các diễn đàn APEC khác. Ban Thư ký
APEC tại Xingapo đã hỗ trợ rất hiệu quả Ban Thư ký ABAC trong năm 1996 trong
các lĩnh vực truyền thông, quan hệ công chúng và xuất bản báo cáo.
Kinh phí cho hoạt động của Ban Thư ký ABAC được lấy tổ Quỹ APEC của
Phillipin và hỗ trợ một phần bởi cộng đồng doanh nghiệp Phillipin và Quỹ của
Trung tâm Nghiên cứu và Truyền thông. Bên cạnh đó, Quỹ Trung tâm APEC cũng
hỗ trợ tài chính đối với các hoạt động truyền thông và xuất bản các ấn phẩm cũng
như các hoạt động khác. ABAC đã nhất trí rằng tổ năm 1997 các thành viên ABAC
chịu trách nhiệm cung cấp kinh phí cho hoạt động của Ban Thư ký ABAC. Đ ố i với
37

công tác tổ chức h ộ i nghị, các thành viên A B A C chịu các chi phí về đi lại và ăn ở,

thành viên A B A C của nền kinh tế thành viên chủ nhà đăng cai APEC lo các chi phí

tổ chức hội nghị.

2.2.2.6. Các báo cáo thường niên của ABAC

Sự tham gia hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp khu vực trong APEC thông

qua đại diện chính thức là A B A C được biểu hiện chủ yếu dưới hình thức các báo cáo

thường niên của A B A C gửi lên các nhà lãnh đạo kinh tế APEC và tất cặ các diễn đàn

liên quan trong APEC, trong đó nêu ra các vấn đề quan trọng, nổi cộm hoặc các vấn

đề có tính chiến lược, ặnh hưởng dài lâu đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

trong khu vực, ặnh hưởng đến môi trường kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp,
ặnh hưởng đến sự an toàn, an sinh xã hội và phát triển bền vững..., các phân tích,

khuyến nghị cũng như các định hướng, phương hướng giặi quyết dựa trên quan điểm

của cộng đồng doanh nghiệp khu vực. Dưới đây liệt kê sơ lược các báo cáo thường

niên A B A C đã đưa ra kể từ k h i được thành lập cho đến nay:

Các Báo cáo Thường niên của A B A C

1996 APEC là Kinh doanh: Thiết lập sự Thịnh vượng cho Cộng đồng của
Chúng ta:

Trong năm đầu tiên, Báo cáo đã nghiên cứu phân tích năm lĩnh vực lớn cần
ưu tiên hành động m à theo quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp sẽ đóng
vai ừò quan trọng, quyết định động lực của tiến trình APEC trong những năm
tiếp theo. Đồng thời Báo cáo cũng nêu lên một số khuyến nghị có tính thực
tiễn cao đối với năm lĩnh vực này. Các khuyên nghị cụ thể như sau:

1. Các luồng lưu chuyển qua biên giới: Thông qua việc thiết lập Thị thực
dành cho Doanh nghiệp APEC và các cửa làm Thủ tục Nhập cảnh
dành riêng cho Doanh nghiệp APEC tại các cửa khẩu nhằm tạo thuận
lợi cho sự đi lại của doanh nhân; Thông qua việc thiết lập Cơ quan
Đăng ký Thương hiệu và Bằng Sáng chế Trung ương APEC để thúc
đẩy các dòng lưu chuyển đầu tư và công nghệ; Thiết lập và thông
qua một bộ Tiêu chuẩn Nghề nghiệp Chung cho các nhà cung cấp
dịch vụ kinh doanh có liên quan trong khu vực; Gắn chặt với tiến
trình thực hiện các Mục tiêu Bôgô về tự do hoa thương mại và đầu tư.
ABAC sẽ nỗ lực thúc đẩy theo dõi tiến trình.
38

2. Tài chính và đầu tư: Khuyến nghị thiết lập các Dự án Đầu tư Tự nguyện
trong APEC, theo đó các nền kinh tế có thể tự nguyện áp dụng một bộ
nguyên tắc để tăng cường bảo hộ đầu tư đối với một số dự án được
chọn lựa, bên cạnh các Nguyên tắc Đầu tư Không ràng buộc đã được
thông qua.
3. Cơ sữ hạ tầng: Tổ chức một loạt các Hội nghị bàn tròn chung vềcơ sữ
hạ tầng giữa Khu vực Công - Tư tại các nền kinh tế APEC có liên quan
nhằm tìm hiểu về nhu cầu cơ sữ hạ tầng của nền kinh tế chủ nhà, xác
định và khuyên nghị những sửa đổi để loại bỏ các rào cản ngăn cản sự
tham gia của khu vực tư nhân vào quá trình phát triển cơ sữ hạ tầng
mới, phổ biến những thực tiễn tốt nhất của khu vực trong lĩnh vực này,
và thiết lập các mạng lưới hiệu quả giữa các chủ thể của cả hai khu vực
nhằm đáp ứng những nhu cầu cụ thể vềcơ sữ hạ tầng.
4. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) và phát triển nguồn nhân lực:
Thông qua việc thiết lập một Mạng lưới APEC cho SMEs vào tháng
9/1997 có cơ sữ tại mỗi nền kinh tế, đóng vai trò mạng lưới kết nối điện
tử trong khu vực thông qua Trung tâm Trao đổi Công nghệ và Đào tạo
APEC cho SMEs. Mạng lưới sẽ tập trung vào bốn lĩnh vực chủ đạo, đó
là phát triển nguồn nhân lực, tiếp cận công nghệ và thông tin, tiếp cận
tín dụng và vốn, và tiếp cận các cơ hội thị trường; Thông qua việc tổ
chức các Hội nghị bàn tròn sơ bộ tại mỗi nền kinh tế nhằm tập hợp tất
cả các cơ quan chính phủ có liên quan và đại diện SMEs nhằm giải
quyết những nhu cầu tăng cường và hỗ trợ xuất khẩu của SMEs một
cách cụ thể, và những khuyến nghị từ những Hội nghị này phải được
chính phủ cam kết ủng hộ; Thông qua việc thu thập và báo cáo dữ liệu
về các chỉ số thống kê của SMEs vào tháng 9/1997 nhằm tạo ra cột
mốc để so sánh những tiến bộ đạt được.
5. Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH): Khữi động m ô hình mới vềhợp
tác kinh tế kỹ thuật trong APEC dựa trên trọng tâm chiến lược kết hợp
những nhân tố chủ đạo thông qua trong Chương trình Nghị sự Hành động
Osaka, dựa trên quan hệ đối tác giữa chính phủ và cộng đồng doanh
nghiệp và thiết lập mạng lưới khu vực vềhợp tác kinh tế kỹ thuật.

1997 A P E C là Kinh doanh: Lời kêu gọi hành động của A B A C :

Báo cáo năm 1997 của ABAC đã rà soát Kế hoạch Hành động Manila của
APEC dựa trên quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp và nêu ra những đề
xuất để các Kế hoạch Hành động của APEC trong tương lai tương thích hơn
đối vái cộng đồng doanh nghiệp. Báo cáo đã phát triển hơn nữa những ý tưững
của các khuyến nghị trong Báo cáo năm 1996, và đưa ra một số đềxuất mới
được lựa chọn kỹ lưỡng nhằm giúp APEC giải quyết những mối quan tâm
quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp. Các khuyến nghị cụ thể như sau:
39

1. D i chuyển của doanh nhân: Tất cả các nền kinh tế APEC phải cam kết
tập thể đến cuối năm 1998 hoàn thành một trong các công việc liên
quan đến thị thực đối với cống vụ ngắn hạn của doanh nhân trong khu
vực như sau: nhập cảnh miễn thị thực, Thẻ Đi lại của Doanh nhân
APEC hoờc thị thực nhập cảnh nhiều lần có giá trị 05 năm. Đến cuối
năm 1998 các nền kinh tế APEC phải thiết lập các cửa làm thủ tục nhập
cảnh dành riêng cho doanh nhân thường xuyên đi công vụ trong khu
vực tại các cửa khẩu sân bay chính. Đến cuối năm 1998 các nền kinh tế
APEC phải cam kết về các tiêu chuẩn dịch vụ cấp giấy phép quy chế cư
trú kinh doanh, sổ tay Đi lại của Doanh nhân APEC cần phải được cập
nhật thường xuyên và công bố rộng rãi tại các thành viên. APEC cần
mở rộng hợp tác trong lĩnh vực các hộ thống và công nghệ xử lý thị
thực và quản trị nhập cư qua biên giới và ưu tiên đào tạo và phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật.

2. Quyền sở hữu trí tuệ: Thông qua việc thiết lập các thời hạn để đạt được
những nhân tố then chốt trong chương trình công tác của Nhóm chuyên
gia về Sở hữu trí tuệ được thiết lập nhằm xây dựng Cơ quan Đăng ký
Thương hiệu và Bằng Sáng chếTrung ương APEC. Cần thông qua việc
thiết lập Chương trình Hợp tác Giáo dục Quyền sở hữu trí tuệ và Sáng
kiến Tham gia của Khu vực Tư nhân nhằm hỗ trợ các nền kinh tế
APEC thiết lập và thực thi các thể chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ một
cách hiệu quả. Các nền kinh tế APEC phải thực thi Hiệp định về Quyền
sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (TRIPS) của WTO hoờc các
nghĩa vụ tương tự trong thời gian ngắn nhất có thể, trước năm 2000
3. Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn: Các nền kinh tế APEC phải làm tương thích
các tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế trong các ngành
nghề ưu tiên do APEC đưa ra. APEC phải thiết lập một cơ chế kiểm tra
cấp chứng chỉ được quốc tế thừa nhận vào năm 1998. APEC cần thông
qua những hiệp định thừa nhận lẫn nhau trong các lĩnh vực ưu tiên do
APEC xác định. Cần phải thông qua sự tham gia nhiều hơn nữa của khu
vực tư nhân vào các hoạt động của APEC trong lĩnh vực tiêu chuẩn và
hợp chuẩn. APEC cần phải tạo động lực hài hoa hoa các tiêu chuẩn hơn
nữa thông qua tập trung vào một số lĩnh vực ngành nghề cụ thể trong
giai đoạn đầu. Ư u tiên cho các lĩnh vực ngành nghề m à hài hoa hoa sẽ
đem lại lợi ích cho tất cả các thành viên APEC.

4. Tiêu chuẩn nghề nghiệp: APEC phải thông qua việc tổ chức Hội nghị
khu vực trong năm 1998 về thừa nhận lẫn nhau giữa các tiêu chuẩn
nghề nghiệp trong các nền kinh tế APEC.

5. Thực hiện các Mục tiêu Bôgô - tập trung vào lĩnh vực dịch vụ: APEC
phải hình thành các kế hoạch hành động tập thể giải quyết các vấn đề
chính liên quan đến thương mại dịch vụ áp dụng trong tất cả các ngành
40

dịch vụ như: giảm thiểu những hạn chế về quyền sở hữu của nước ngoài
trong các công ty dịch vụ và loại bỏ những hạn chế về hiện diện thương
mại của các công ty dịch vụ nước ngoài.

6. Mua sắm Chính phủ: APEC cần dựa vào Hiệp định về Mua sắm Chính
phủ trong WTO để hoàn thiện các nguyên tắc không ràng buộc về mua
sắm chính phủ trong năm 1998.

7. Chính sách cạnh tranh và nới lỏng cơ chế quản lý: APEC cần xem xét
quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp đậi với chính sách cạnh tranh
và nới lỏng cơ chế quản lý ở một sậ vấn đề cụ thể.
8. Các dự án Đầu tư Tự nguyện của APEC và Sáng kiến Đầu tư Cơ sở Hạ
tầng: APEC cần phải có cách thức tiếp cận ngành đậi với tự do hoa đầu
tư vào cơ sở hạ tầng thông qua Sáng kiến Đầu tư Cơ sở Hạ tầng, theo đó
áp dụng một sậ nguyên tắc bảo hộ đầu tư theo ngành.
9. Hội nghị bàn tròn về Tài chính cho SMEs: APEC cần phải tiếp tục tổ
chức các Hội nghị này, trong đó các vấn đề then chật được thảo luận và
những thực tiễn tật nhất được đưa ra và chia sẻ. APEC cần ưu tiên tự do
hoa dịch vụ tài chính nhằm hỗ trợ cho SMEs.
10. Thúc đẩy phát triển thị trường vận: APEC cần thông qua các bước
nhằm giúp cho thị trường vận thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là
giải quyết vấn đề bất ổn định tiền tệ, thúc đẩy quản lý và minh bạch,
thiết lập các hệ thậng thanh toán hiện đại, các tiêu chuẩn kế toán và
công khai và hài hoa, mở rộng cơ sở của nhà đầu tư địa phương và mở
cửa thị trường cho nước ngoài. APEC phải thông qua hợp tác khu vực
công - tư để thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán có tài sản đảm
bảo trong khu vực.
li. Hợp tác giữa các Trung tâm giao dịch chứng khoán: Các Trung tâm
giao dịch chứng khoán APEC cần phải họp tác trong việc thiết lập các
quy tắc, các quy định về niêm yết và cơ chế theo dõi giám sát để tăng
niềm tin của nhà đầu tư và phát triển hơn nữa thị trường chứng khoán
trong khu vực APEC. Cần phải có Hội nghị bàn tròn APEC của các
Trung tâm giao dịch chứng khoán giữa các nhà quản lý điều tiết và các
quan chức tài chính. APEC phải thiết lập Hiệp hội các Trung tâm giao
dịch chứng khoán APEC để họp tác. Các Trung tâm giao dịch chứng
khoán và cơ quan điều tiết có thể thúc đẩy hoạt động mua bán chứng
khoán của SMEs.

12. Các vấn đề thuế: APEC cần đặt ra mục tiêu vào năm 2010 các hiệp đinh
song phương về thuế sẽ được thực thi và có hiệu lực giữa các nền kinh tế
APEC. Các nền kinh tế APEC cần phải thông báo về mục tiêu đậi với các
hiệp đinh song phương về thuế trong các Kế hoạch Hành động Quậc gia
của họ.
41

13. Quan hệ đối tác nhằm phát triển công bằng: APEC cần thống qua việc
thiết lập một tổ chức phân phối phi lợi nhuận đóng vai trò là một chất
xúc tác sự tham gia của khu vực doanh nghiệp/tư nhân vào các sáng
kiến hợp tác kinh tế - k ỹ thuật (ECOTECH) trong APEC.

14. Gắn kết ECOTECH và TILF: APEC cần phải thông qua Sáng kiến về
Giáo dọc Công nghệ Thông tin của APEC theo đó thu hút các nguồn
lực trong khu vực để cung cấp giáo dọc và đào tạo trong các lĩnh vực
quan trọng để phát triển công nghệ thông tin. Những nhà sản xuất và
đổi mới Công nghệ thông tin hàng đầu cần phải được khuyến khích
tham gia vào các dự án nhằm đảm bảo nguồn cung cấp liên tọc nhân
lực có chất lượng trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các cơ hội để
phát triển công nghệ thông tin.
15. Mạng lưới của các Mạng lưới APEC phọc vọ SMEs: APEC cần phải
thúc đẩy và tăng cường việc sử dọng Mạng lưới của các Mạng lưới
APEC phọc vọ SMEs. APEC cần phải kêu gọi các Bộ trưởng về SMEs
và khu vực tư nhân và các hiệp hội kinh doanh đảm bảo, duy trì nội
dung tương thích, phù hợp và cập nhật của các trang web nhằm thúc
đẩy sự tăng trưởng và các cơ hội xuất khẩu của SMEs. APEC cần phải
kêu gọi các Bộ trường có liên quan đảm bảo khả năng tiếp cận Internet
đơn giản và hiệu quả về mặt chi phí cho SMEs để họ có thể tận dọng
Mạng lưới của các Mạng lưới APEC phọc vọ SMEs.

1998 A P E C là Kinh doanh: Khôi phục Lòng tin, Tạo lập Tăng trưởng

Chương trình công tác của ABAC năm 1998 được thực hiện bởi các Lực
lượng đặc trách và Uy ban trực thuộc ABAC với kết quả là các báo cáo
công tác của các diễn đàn này. Những báo cáo này đã được đưa vào trong
báo cáo thường niên của ABAC nhằm thiết lập thông tin nền tảng phọc vọ
công tác thảo luận giữa ABAC với các nhà lãnh đạo kinh tế và các Quan
chức Cao cấp APEC
Dưới đây là một số khuyến nghị trong báo cáo thường niên 1998:
1. Giải quyết khủng hoảng tài chính, bao gồm: Thiết lập một cơ chế tăng
cường tín dọng của trái phiếu chính phủ phát hành bằng tiền tệ cố định
và bởi các nền kinh tế bị ảnh hưởng của khủng hoảng thông qua bảo
lãnh, trái phiếu chính phủ có thể trao đổi được hoặc các nghĩa vọ chứng
chỉ bổ sung; Thiết lập cơ chế giảm bớt tác động của bất ổn tiền tệ đối
với khu vực tư nhân, bao gồm các cấu trúc swap tiền tệ đa phương
trong trường hợp được phép phối hợp chính sách; Đặt trọng tâm lên
IMF để mở rộng khả năng tác động xã hội của các chương trình của
IMF; Tạo ra một diễn đàn khu vực để thúc đẩy và phối hợp hợp tác
chống khủng hoảng tài chính; tăng cường cơ sở hạ tầng thị trường vốn
nội địa; giảm thiểu nợ doanh nghiệp; thúc đẩy xuất khẩu.
42

2. Thúc đẩy hợp tác kinh tế kỹ thuật, bao gồm: Thiết lập quan hệ đối tác để
tăng trưởng công bằng thành nhóm hạt nhân độc lập; Đẩy mạnh dự án
Mạng lưới Khí Châu Á và Sáng kiến APEC về Giáo dục Công nghệ Thông
tin

3. Liên quan đến SMEs, các khuyến nghị bao gồm: Thiết lập các tễ chức
tài chính hỗ trợ SMEs; Thiết lập các thực tiễn cung cấp tín dụng cho
SMEs; Khuyến khích các ngân hàng cho vay để tái cơ cấu; Cấp túi
dụng trên cơ sở mở và bình đẳng; Cấp tui dụng nhỏ lẻ; Sử dụng Các
khoản cho vay nhằm điều chỉnh cơ cấu của IMF để cho SMEs vay với
lãi suất thấp; Cho phép SMEs được miễn thuế ngắn hạn; Khuyến khích
các hợp đồng thầu phụ đối với SMEs; Chính phủ tận dụng SMEs trong
mua sắm hàng hoa và dịch vụ; Thúc đẩy thực hiện dự án cơ sở hạ tầng
có sử dụng SMEs...
4. Về lĩnh vực Thương mại điện tử, các khuyến nghị bao gồm: Sử dụng tối
đa công nghệ trong các hoạt động của chính phủ, bao gồm cả thuế,
thanh toán và mua sắm; thiết lập các chương trình đảm bảo tính tương
thích với Y2K, đặc biệt cho SMEs.
5. Về lĩnh vực theo dõi thực thi Chương trình Hành động, APEC cần phải:
quy định cụ thể các mức thuế quan trung bình cuối cùng vào năm 2010
đến 2020; các Chương trình Hành động cần phải cụ thể hơn đối với các
kế hoạch của từng nền kinh tế thành viên để đạt được các Mục tiêu
Bôgô; công bố danh sách các biện pháp phi thuế quan của APEC, bao
gồm đầu tư và dịch vụ; cắt giảm hoặc loại bỏ các biện pháp phi thuế
quan ngoài khuôn khễ cam kết WTO; ưu tiên tự do hoa các dịch vụ tài
chính; có kế hoạch cụ thể 05 năm nhằm giảm thiểu các rào cản và phát
triển các dịch vụ, bao gồm các nguyên tắc và định hướng tự do hoa
thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ; thông qua các Nguyên tắc
đầu tư không ràng buộc năm 1994; vạch ra các Kế hoạch Hành động
bao gồm các cam kết và mục tiêu loại bỏ các rào cản cản trở sự phát
triển của thị trường vốn nội địa và khu vực; vạch ra các Kế hoạch Hành
động thể hiện các cam kết góp phần khôi phục SMEs, bao gồm cả việc
thực thi các khuyến nghị trước đây của ABAC về SMEs.

1999 Báo cáo ABAC năm 1999 bao gồm một bức thư gửi các nhà lãnh đạo kinh
tế APEC và các báo cáo cơ sở cùng các khuyến nghị của ABAC. Trong báo
cáo ABAC thúc đẩy tất cả các nền kinh tế APEC thực hiện các hành động
cụ thể, kể cả tập thể và đơn phương, nhằm đạt được mục tiêu về thương mại
và đầu tư tự do và mở vào năm 2010/2020. ABAC kêu gọi các Bộ trưởng
Thương mại và Nhà Lãnh đạo APEC cùng làm việc để thúc đẩy chương
trình nghị sự trong WTO. Tất cả các thành viên APEC phải đảm bảo nền
kinh tế của mình có thị trường nội địa mở, minh bạch và hiệu quả. APEC
có thể hỗ trợ các nền kinh tế xây dựng năng lực của mình đương đầu với và
43

thu lợi từ những thách thức của một thị trường cạnh tranh toàn cầu.
Báo cáo của ABAC đã đưa ra một số khuyến nghị sau:

1. Về các Kế hoạch Hành động Quốc gia của APEC, APEC cần phải tham
vọng hơn nữa về nội dung cũng như thời gian biểu để thực hiện các
Mởc tiêu Bôgô.

2. Về xây dựng năng lực, các động thái nhằm tự do hoa thương mại và
đầu tư trong khu vực cần phải được hỗ trợ bởi một chương trình xây
dựng năng lực và cơ sở hạ tầng cho các nền kinh tế thành viên APEC
chuyển đổi sang các thị trường cạnh tranh và mở hơn. ABAC đã
khuyến nghị một chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật toàn diện và
chặt chẽ hơn với sự đóng góp của doanh nghiệp.
3. Về tài chính, ABAC đã đưa ra một số đề xuất cở thể nhằm thúc đẩy
sớm phởc hồi kinh tế trong khu vực và đặt nền móng cho sự ổn định dài
lâu và tăng trưởng bền vững.
4. Về lĩnh vực lương thực, ABAC tái khẳng định khuyến nghị của ABAC
năm 1998 về việc thiết lập Hệ thống Lương thực APEC và đưa ra một
số đề xuất cở thể tiếp theo nhằm thực thi Hệ thống Lương thực APEC
bao gồm việc thiết lập một khu vực không có trợ cấp xuất khẩu lương
thực trong APEC.

5. Về Thương mại điện tử, ABAC sẽ tiếp tởc làm việc với khu vực tư nhân
và chính phủ trong khu vực để thiết lập các nguyên tắc điều chỉnh
thương mại điện tử và một mỏ hình hỗ trợ các nền kinh tế phát triển
thương mại điện tử. ABAC khuyến nghị APEC tìm kiếm thoa thuận
trong WTO về việc không áp đặt bất cứ thuế quan bổ sung nào lên các
giao dịch điện tử qua Internet.
6. Về tự do hoa dịch vở hàng không, ABAC ủng hộ một mạng lưới vận tải
hàng không quốc tế cạnh tranh và mở. ABAC kêu gọi APEC thực hiện
các khuyến nghị của Nhóm công tác về Vận tải của APEC và tiếp tởc
thực hiện các biện pháp loại bỏ các rào cản thương mại và đầu tư trong
lĩnh vực dịch vở hàng không .

7. Về sự cố Y2K, ABAC kêu gọi hợp tác khu vực APEC về các vấn đề
Y2K.

2000 Đối mặt với Toàn cầu hoa: Phương hướng của APEC:

Trong báo cáo năm 2000 ABAC tập trung vào vấn đề cách thức để các nền
kinh tế APEC được hưởng lợi từ toàn cầu hoa. Quan điểm của ABAC là
phương thức tiếp cận của APEC đối với quá trình tự do hoa thị trường cộng
với xây dựng năng lực là đặc biệt phù hợp trước thách thức tăng trưởng và
phát triển của toàn cầu hoa.
44

ABAC đã gửi lên các nhà lãnh đạo kinh tế APEC hai thông điệp chính. Thứ
nhất, ABAC cho rằng APEC phải tiếp tục tự do hoa thương mại và đầu tư
và thuận lợi hoa bởi thương mại và đầu tư là hai lĩnh vực trung tâm của sự
thịnh vượng của khu vực và thế giới. Cần thúc đọy mạnh mẽ hệ thống
thương mại đa phương (WTO), thúc đọy thực hiện các Mục tiêu Bôgô. Thứ
hai, ABAC cho rằng APEC phải đặc biệt chú trọng tới xây dựng năng lực,
trong đó tập trung vào các sáng kiến thúc đọy ổn định tài chính trong nước,
khu vực và thế giới và tăng cường khả năng tiếp cận tiến bộ công nghệ của
tất cả các thành viên APEC, đặc biệt chú trọng tới các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.

Báo cáo năm 2000 của ABAC đã đưa ra một số khuyến nghị sau:
1. Về thúc đọy tự do hoa và thuận lợi hoa thương mại và đầu tư: APEC
cần ủng hộ WTO và Vòng đàm phán mới của WTO; Cải thiện hình
thức, nội dung và khả năng tiếp cận của tiến trình Kế hoạch Hành động
Quốc gia (IAP), bao gồm thúc đọy Thực thi LÁP điện tử, giải quyết vấn
đề đang nổi lên về các biện pháp phi thuế quan trong IAP và sử dụng
IAP để thúc đọy khả năng sẵn sàng cho thương mại điện tử; Đảm bảo
các Khu vực thương mại tự do bổ trợ cho Hệ thống thương mại đa biên;
Thực thi Hệ thống Lượng thực APEC.
2. Về tạo thuận lợi kinh doanh: Loại bỏ các rào cản liên quan đến tiêu
chuọn và hợp chuọn; ủ n g hộ các đối thoại doanh nghiệp và chính
phủ theo ngành nhằm thúc đọy chương trình nghị sự thuận lợi hoa
kinh doanh trong APEC.
3. Về xây dựng năng lực: Xây dựng các hệ thống tài chính vững mạnh;
ủng hộ sự phát triển một tổ chức mạng lưới các giám đốc; Thúc đọy
phát triển thị trường trái phiếu; Tăng cường cơ sở hạ tầng tài chính;
thúc đọy phát triển các thị trường thứ cấp; Tăng cường khả năng tiếp
cận các cơ hội mới thông qua tiến bộ công nghệ; Thực hiện Sáng kiến
Đánh giá Khả năng sẵn sàng về Thương mại điện tử; Thiết lập các Kế
hoạch Hành động về Thương mại điện tử; Thực thi Chính phủ điện tử;
Thông qua Khuôn khổ Điều tiết tạo thuận lợi cho phát triển thương mại
điện tử; sử dụng Internet để phát triển nguồn nhân lực; Thông qua
phương thức tiếp cận trên cơ sở khoa học đối với Công nghệ sinh học.

2001 Sự Phát triển chung thông qua M ở cửa Thị trường, Xây dựng năng lực
và Tham gia toàn diện:

Trong báo cáo năm 2001 ABAC để chuyển tải đến các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC bốn thông điệp chính sau: Thứ nhất, APEC phải thúc đọy tiến trình
tự do hoa thương mại và đầu tư như đã được nêu trong các Mục tiêu Bôgô;
Thứ hai, APEC cần thể hiện sự ủng hộ khởi động một vòng đàm phán mới
tại WTO tại Hội nghị Bộ trưởng WTO ở Đôha tháng 11/2001; Thứ ba,
45

APEC cần phải giải quyết sự bất ổn định vềkinh tế hiện tại nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và cải cách tài chính; T h ứ tư, APEC cần có cách tiếp
cận cân bằng đối với toàn cầu hoa, bao gồm sự kết hờp giữa m ở cửa thị
trường, xây dựng năng lực và tham gia toàn diện.

Dựa trên những thông điệp này, A B A C đã đềxuất một số khuyến nghị sau:

1. Thúc đẩy cải cách ngân hàng và thị trường vốn phù hờp với các tiêu
chuẩn tài chính quốc tế, cải thiện quản trị doanh nghiệp và tiếp tục tự
do hoa đầu tư và thương mại dịch vụ tài chính.

2. Tăng cường xây dựng năng lực để thúc đẩy cải cách hệ thống tài chính.

3. Tăng cường hệ thống tài chính khu vực và quốc tế thông qua việc tham
gia vào các chương trình vềchỉ số tài chính nhằm tăng cường các biện
pháp khảo sát, các nỗ lực giảm thiểu những tác động tiêu cực của các
dòng đầu tư ngắn hạn.

4. Khuyến khích các quan hệ đối tác công tư khu vực trong lĩnh vực thuận
lời hoa thương mại và xây dựng năng lực.

5. Khuyến khích thực thi H ệ thống Lương thực APEC.

6. Chuẩn hoa các tiêu chuẩn và họp chuẩn thông qua các hiệp định thừa
nhận lẫn nhau và thông qua các tiêu chuẩn quốc tế.

7. Tăng cường khả năng tiếp cận và tính toàn diện của các K ế hoạch Hành
động Quốc gia (ìÁP).

8. Gỡ bỏ những rào cản đối với thương mại thông qua việc tập trung tăng
cường thực t h i quyền sở hữu trí tuệ và loại bỏ các rào cản đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài.

9. Thông qua các chính sách cho phép sử dụng phổ biến học tập qua
mạng (e-learning) nhằm phát triển các kỹ năng và rút ngắn khoảng
cách công nghệ.

10. Đưa lên mạng nhiều hơn các thông t i n và dịch vụ của chính phủ để tăng
tính hiệu quả và khả nâng tiếp cận và khuyến khích đầu tư của k h u vực
tư nhân vào lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông.

11. Tạo thuận lời tiếp cận một cửa đối với các chương trình và dịch vụ dành
cho SMEs thống qua việc hình thành cổng SMEs của APEC để cung cấp
các thông tin vềtài chính, công nghệ và những cơ hội thị trường mói.

12. Thông qua các chính sách "thân thiện với doanh nghiệp nhỏ".

2002 Chia sẻ Phát triển nhằm củng cô A n ninh Toàn cầu:

Chương trình công tác của A B A C năm 2002 chủ yếu tập trung vào việc đối
phó với những thách thức nhằm đưa Châu Á - Thái Bình Dương trở thành
46

một địa điểm an toàn hơn để sinh sống, phát triển đầu tư và tăng trưởng
kinh doanh. D ư ớ i đây là một số thông điệp chính A B A C gửi đến các nhà
lãnh đạo kinh tế APEC:

Thứ nhất, đây chính là thời điểm để APEC tái khẳng định những cam kết
của mình đối với các M ợ c tiêu Bốgỏ và đưa ra các sáng kiến nhằm đạt
được các kết quả mong muốn từ các vòng đ à m phán trong W T O càng sớm
càng tốt. Các hành động này phải cân bằng với một chương trình xây dựng
năng lực có trọng tâm hơn nhằm thúc đẩy tăng trưởng và khả năng cạnh
tranh của các nền kinh tế thành viên đang phát triển trong APEC;

Thứ hai, thuận l ợ i hoa thương mại và đầu tư là nhiệm vợ hàng đầu của
APEC. Hài hoa hoa các tiêu chuẩn và loại bỏ các rào cản đối với hoạt động
kinh doanh qua biên giới là đặc biệt quan trọng nhằm thúc đẩy dòng lưu
chuyển con người, hàng hoa, dịch vợ, đầu tư dài hạn và bí mật công nghệ;

Thứ ba, APEC phải tăng cường an ninh, cắt đứt nguồn cung cấp tài chính
cho khủng bố, và thiết lập các quy trình quản trị có hiệu quả để chống đỡ,
phản ứng và phợc hồi k h ỏ i khủng hoảng. Cả khu vực công và tư phải giải
quyết những thách thức này và thực hiện các giải pháp an ninh có hiệu quả
đồng thời tính đến những quyền l ợ i của kinh doanh hợp pháp;

Thứ tư, APEC phải tăng cường năng lực quản trị doanh nghiệp để phợc hồi
niềm tin và thúc đẩy phợc hồi kinh tế trong khu vực;

Thứ năm, APEC phải tự do hoa tinh thần kinh doanh thông qua việc loại bỏ
các rào cản đối với hoạt động kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp
nhỏ. APEC phải khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp siêu nhỏ.

Đ ể chi tiết hoa những thông điệp này, A B A C kêu gọi APEC:

1. Thiết lập một K ế hoạch Hành động d ự kiến các thành viên APEC sẽ
tuân thủ trong Vòng đ à m phán Đôha.

2. Hành động khẩn cấp để khôi phợc niềm t i n của nhà đầu tư thông qua
các biện pháp tăng cường tiêu chuẩn và thực tiễn quản trị doanh nghiệp
và thúc đẩy minh bạch hoa chính sách liên quan đến đầu tư và thương
mại.

3. Thiết lập khuôn k h ổ điều tiết và thực thi các sáng kiến xây dựng năng
lực sao cho hàng hoa, doanh nhân, dịch vợ tài chính, thông t i n và ý
tưởng lưu chuyển tự do trong khu vực đồng thời đáp ứng được các m ố i
quan tâm về an ninh.

4. Hành động phối hợp công tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, k h ỏ i
phợc niềm t i n và tính gắn kết của các hệ thống tài chính, thị trường và
các công ty, tăng cường thể chế tài chính quốc tế và hợp tác khu vực và
tiểu khu vực để giải quyết các thách thức về tài chính, và thực hiện các
biện pháp xây dựng năng lực nhằm hỗ trợ các nền kinh tế và các công
47

ty thông qua các tiêu chuẩn và thực tiễn quốc tế.

5. Loại bỏ các rào cản trong môi trường kinh tế vàkinh doanh nhằm tự do
hoa tinh thần kinh doanh thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
vừa, nhỏ và siêu nhỏ.

6. Nghiên cứu thực thi luật pháp cần thiết vàcác sáng kiến xây dựng năng
lực nhằm thiết lập mởt môi trường thuận lợi để phát triển thương mại
điện tử, thúc đẩy sự tham gia rởng rãi hơn và hưởng lợi nhiều hơn từ
nền kinh tế kỹ thuật số.

7. Khuyến khích hơn nữa quan hở đối tác công tư để thực thi viễn cảnh
APEC.

8. Tăng cường tuyên truyền về lợi ích của tự do hoa thương mại và hởi
nhập khu vực tới các cởng đồng để có thêm sự ủng hở và tạo ra xung
lực hoàn thành các Mục tiêu Bôgô.
2003 Hài hoa trong Đ a dạng: Đ ạ t được Tăng trưởng C â n bằng và Công
bằng:

Trong báo cáo năm 2003, ABAC tái khẳng định quan điểm rằng các Mục
tiêu Bôgô vẫn có giá trị và có tính thời đại. APEC cần phải tiếp tục cương
quyết thực hiện các cam kết của mình. Nếu các khuyến nghị cụ thể của
ABAC được thực hiện đầy đủ APEC sẽ đóng vai trò dẫn dắt thế giới và tạo
đởng lực cho Vòng Đôha. Ngoài ra, các khuyến nghị của ABAC còn góp
phần khôi phục niềm tin của giới kinh doanh, thúc đẩy hoạt đởng kinh
doanh, tăng cường an ninh khu vực và các hệ thống tài chính.
Báo cáo của ABAC bao gồm năm thông điệp chính gửi lên các nhà lãnh
đạo kinh tế APEC như sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ suy thoái và bấtổn kinh tế, các nền kinh tế APEC
cần phải kiên trì quyết tâm thực hiện các Mục tiêu Bỏgô và dẫn dắt thúc
đẩy Vòng đàm phán Đôha;
Thứ hai, APEC cần phải tiếp tục tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách
đạt được mục tiêu giảm 5 % chi phí giao dịch vào năm 2006;
Thứ ba, APEC phải đảm bảo đạt được những kết quả trông thấy trong xây
dựng năng lực ở cấp thể chế, tổ chức và nhân lực;

Thứ tư, APEC phải tiếp tục làm việc với khu vực tư nhân để thúc đẩy việc
thông qua quản trị doanh nghiệp tốt và minh bạch hoa ở các cấp đở quốc
tế, khu vực và nởi địa;
Thứ năm, APEC phải đảm bảo sự tham gia và đóng góp của cởng đồng
doanh nghiệp được rởng mở chào đón nhiều nhất có thể.

Đ ể chi tiết hoa những thông điệp này, ABAC kêu gọi APEC:
48

1. Dẫn dắt thúc đẩy Vòng đàm phán Đôha và hành động phù hợp với các
Mục tiêu Bôgô và tăng cường hệ thống thương mại đa biên.

2. ủng hộ Việt Nam và Nga gia nhập WTO để các nền kinh tế này cùng
được hưởng l ợ i từ tứ do hoa thương mại đa phương và hệ thống thương
mại đa biên hoạt động trên cơ sở các quy tắc.

3. Thúc đẩy thương mại, đầu tư và d i chuyển của doanh nhân đồng thời
đáp ứng các m ố i quan tâm về an ninh thông qua việc ứng dụng các hệ
thống công nghệ và thông t i n mới để tăng cường quản trị r ủ i ro.

4. M ở rộng sứ tham gia vào Chương trình Thẻ đi lại của Doanh nhân.

5. Tăng cường an ninh trong các hệ thống tài chính thông qua việc tăng
cường phối hợp giữa các cơ quan công cộng và các thể chế tài chính.

6. Thông qua phương thức tiếp cận mang tính cơ cấu đối với xây dứng
năng lức và đối với ba cấp độ: xây dứng kỹ năng thể chế, tổ chức và
con người.

7. Tăng cường các hệ thống tài chính khu vức thông qua cải thiện quản trị
r ủ i r o trong lĩnh vức ngân hàng; thiết lập các diễn đàn công tư trong
khu vức nhằm ban hành các quy định và chính sách tài chính khu vức;
cải cách các tình trạng bất cập của luật pháp và bảo vệ pháp lý đối với
quyền của bên cho vay; thúc đẩy sứ phát triển của chứng khoán hoa,
đảm bảo tín dụng và các thị trường đầu tư mạo hiểm.

8. Thúc đẩy sứ đóng góp của cộng đồng kinh doanh vào APEC thông qua
cơ chế phản hồi tăng cường đối vói các khuyến nghị của A B A C và
thông qua sứ tham d ứ của khu vức tư nhân vào quá trình rà soát LÁP.

2004 G á n kết Thái Bình Dương: Đương đầu với những Thách thức Toàn cầu
hoa:

Trong báo cáo n ă m 2004, A B A C kêu gọi các nhà lãnh đạo kinh tế APEC
nhanh chóng và quyết đoán thức thi các hành động nhằm thúc đẩy thương
mại tứ do khu vức và toàn cầu, bảo đảm sứ tăng trưởng của các thị trường
tài chính và duy trì ổn định kinh tế tại tất cả các nền kinh tế thành viên.

A B A C đã nêu các khuyến nghị trong 6 lĩnh vức then chốt như sau:

Ì. Về D D A Ạ V T O , A B A C kêu gọi các thành viên APEC tiếp tục cùng làm
việc để đạt được một kết quả đáng kể và sớm về Chương trình Nghị sứ
Phát triển Đôha. Cụ thể, A B A C khuyến nghị các thành viên APEC:
Đưa ra phương thức tiếp cận tập thể nhằm thúc đẩy các đàm phán về
nông nghiệp trong WTO; Thiết lập một công thức cắt giảm thuế quan
chi tiết bao quát toàn diện tiếp cận thị trường phi nông nghiệp và tuân
thủ các quy định của Đỏha; Đưa ra các bản chào dịch vụ trước thời hạn
tháng 5/2005; ủ n g hộ sửa đổi Hiệp định Chống bán phá giá WTO;
49

Thúc đẩy chương trình nghị sự thuận l ợ i hoa thương mại của APEC để
đưa vào đ à m phán trong WTO.

2. Về các M ú c tiêu Bôgô, A B A C khuyến nghị các thành viên: Đ ả m bảo


các thoa thuận thương mại tự do song phương và khu vực đóng vai trò
hỗ trợ thực hiện các M ụ c tiêu Bôgô; Phát triển đề xuất về một thị
trường khu vực liên kết; Tiếp tục nghiên cứu về tính khả thi và phạm v i
và nhống đặc điểm của K h u vực Thương mại tự do Châu Á - Thái Bình
Dương (FTAAP).

3. Về vấn đề an ninh, A B A C khuyến nghị các thành viên: Thông qua một
loạt các biện pháp cụ thể nhằm giảm 5 % chi phí giao dịch; Cân đối yêu
cầu về an ninh và thương mại thông qua tham vấn và chia sẻ thông t i n
với cộng đồng doanh nghiệp k h i áp dụng các quy định an ninh mới;
Thúc đẩy đầu tư thông qua tăng cường họp tác giốa các cơ quan thực
thi trong việc bảo hộ quyền sở hốu trí tuệ, thiết lập cơ sở hạ tầng pháp
lý k i n h tế vống chắc, thông qua khuôn k h ổ k ế toán chung và tăng
cường tính m i n h bạch trong các quy định về đầu tư; Thúc đẩy thiết lập
Khuôn k h ổ Bảo mật APEC và khuyến khích tất cả thành viên APEC
thông qua và thực thi.

4. Về lĩnh vực tài chính, A B A C khuyến nghị các thành viên APEC: Tăng
cường các hệ thống tài chính; Cải thiện an ninh của hệ thống tài chính;
Thiết lập U y ban Bộ trưởng APEC m ớ i về Hợp tác K ỹ thuật K h u vực.

5. Về lĩnh vực xây dựng năng lực, A B A C khuyến nghị các nền kinh t ế
APEC: Tăng cường phối họp giốa các đoàn đàm phán về y tế vàthương
mại trong APEC; Tăng cường các nỗ lực xây dựng năng lực trong lĩnh
vực tiêu chuẩn và hợp chuẩn; Xác định nhống khó khăn trong các chuỗi
dây chuyền cung ứng của khu vực; Thúc đẩy hợp tác giốa các cơ quan
thực thi để bảo hộ quyền sở hốu trí tuệ; Tăng cường nhống nỗ lực xây
dựng năng lực để h ỗ trợ SMEs trong ngành dịch vụ; ủ n g hộ việc thiết
lập Mạng lưới các Trường K i n h doanh APEC (ABSN).

6. APEC cần phải tăng cường các nỗ lực và chiến lược của mình nhằm
duy trì tính phù hợp và hiệu quả của diễn đàn trong một môi trường
đang thay đổi. APEC phải tiếp tục duy trì định hướng thực hiện các
Mục tiêu Bôgô. APEC phải tăng cường cơ chế đảm bảo thực t h i hơn
nốa các sáng kiến của mình. Đặc biệt là APEC phải thực hiện một số
biện pháp trong các lĩnh vực như chống tham nhũng trong mua sắm
chính phủ, các nguyên tắc đầu tư không ràng buộc của APEC, tự do
hoa vận chuyển hàng hoa đường hàng không, Tuyên bố về Nền K i n h tế
K ỹ thuật số, an ninh năng lượng, và bảo vệ môi trường.

2005 Thiết lập Mạng lưới Châu Á - Thái Bình Dương: Con đường hướng tới
sự Thịnh vượng Chung:
50

Trong báo cáo năm 2005 ABAC tiếp tục thể hiện sự tin tưởng vào APEC
như là một thể chế có thể hiện thực hoa tầm nhìn kinh doanh về một cộng
đồng Châu Á - Thái Bình Dương có sự lưu chuyển hoàn toàn tự do về hàng
hoa, dịch vụ, tài chính và con nguôi, APEC có thể đảm bảo tất cả mọi
người trong khu vực APEC đều được hưởng lợi từ tiến trình hội nhập và
APEC có thể tớo ra một khuôn khổ phù họp để ứng phó với khủng hoảng
khu vực. ABAC tin tưởng rằng bối cảnh kinh tế thế giới sẽ tớo cơ hội cho
các nền kinh tế APEC thực hiện cải cách cần thiết để đẩy mớnh phát triển
kinh tế.
Các khuyến nghị ABAC đưa ra trong báo cáo cụ thể như sau:
1. Dẫn dắt kết thúc thành công Vòng Đôha trong các lĩnh vực: nông
nghiệp, tiếp cận thị trường phi nông nghiệp (NAMA), thuận lợi hoa
thương mới và dịch vụ.
2. Phản hồi trước Sáng kiến Santiago: Khởi động Chương trình Nghị sự
Kinh doanh Xuyên Thái Bình Dương và phương thức tiếp cận phối họp
đối với thuận lợi hoa thương mới và đầu tư trong APEC trong các lĩnh
vực ưu tiên như thủ tục hải quan, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, tiêu chuẩn
nghề nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ; Thiết lập một lực lượng đặc trách
cao cấp nghiên cứu tính khả thi của Khu vực Thương mới Tự do Châu
Á - Thái Bình Dương (FTAAP) và thiết lập một chương trình công tác
toàn diện hơn tập trung đưa ra các biện pháp khuyến khích thương mới
tự do và mở và chuyển hướng trong khu vực về hình thức và nội dung
của các hiệp định thương mới tự do song phương và khu vực.
3. Tiếp tục hướng APEC tới các Mục tiêu Bôgô: Tái khẳng định cam kết
về các Mục tiêu Bôgô; Cố gắng trở thành "WTO cộng" bằng cách vượt
ra ngoài các cam kết hoặc khuôn khổ WTO, đặc biệt trong lĩnh vực
thuận lợi hoa thương mới và đầu tư; Thiết lập những cơ chế có hiệu quả
hơn nhằm hoớch định và thực thi các chương trình ECOTECH để hỗ trợ
chương trình nghị sự TILF với sự tham gia của khu vực doanh nghiệp
và các thể chế tài chính quốc tế; Thực hiện các hành động phối hợp
nhằm tăng cường các hệ thống tài chính và phát triển vững chắc các thị
trường vốn; Cải cách phương thức hoớt động của APEC theo hướng các
cam kết ràng buộc, bao gồm nghiên cứu tính khả thi của một FTAAP,
cải cách quy trình rà soát IAP và tăng cường quyền hành cho Ban Thư
ký APEC.

4. Thích ứng trước môi trường an ninh mới: thông qua Khuôn khổ APEC
về A n ninh và Thuận lợi hoa Thương mới Toàn cầu.

5. Tớo lập môi trường thuận lợi cho kinh doanh: Thúc đẩy đớo đức kinh
doanh tốt và loới bỏ tham nhũng trong khu vực, cụ thể là tiếp tục cải
cách điều tiết và tăng cường tính minh bớch của luật pháp; Thực thi luật
pháp một cách khách quan và công bằng khi giải quyết các tranh chấp
51

kinh doanh; Ung hộ các biện pháp khuyên khích doanh nghiệp tự
nguyện thực hành các quy tắc đạo đức trong quản trị và thực hiện khích
lệ nhằm đảm bảo tính tương thích với luật pháp; Tham gia Công ước
Liên Hợp quốc về Chống Tham nhũng; Loại bỏ nơi cư trú an toàn cho
các quan chức và cá nhân tham nhũng và thiết lập các chương trình
huấn luyện và hỗ trợ kờ thuật đổi mói và hiệu quả cho những người
chống tham nhũng.
6. Củng cố các hệ thống tài chính: Thông qua các biện pháp giúp nền
kinh tế cứng cáp hơn trước tác động của các luồng vốn biến đổi nhanh
chóng: ủng hộ các sáng kiến xây dựng năng lực công tư nhằm củng cố
và phát triển các hệ thống và thị trường tài chính; Cho phép mở rộng
hoạt động của khu vực tư nhân trên thị trường trái phiếu khu vực; Thực
thi Basel 2; Thông qua các tiêu chuẩn kế toán quốc tế; Thúc đẩy quản
trị doanh nghiệp tốt và đạo đức kinh doanh; Củng cố an ninh của các hệ
thống tài chính và khuyến khích các dòng chuyển tiền thông qua các
kênh tài chính chính thống; Rà soát các khuôn khổ chính sách liên
quan đến hưu trí và tăng cường ngân sách liên quan đến hưu trí và tiết
kiệm; Huy động vốn tư nhân đáp ứng yêu cầu cung cấp tài chính cho cơ
sở hạ tầng đang tăng trưởng của khu vực.
7. Hình thành khả năng ứng phó trong trường hợp khẩn cấp ví dụ như các
khủng hoảng và thảm hoa tự nhiên và nhân tạo: sóng thần, tấn công
khủng bố, dịch SARS... APEC cần phải thiết lập Mạng lưới Phản ứng
trước Thảm hoa trong Khu vực.
8. Đ ố i phó với tình hình bất ổn nâng lượng: các nền kinh tế APEC cần
phải hoạch định dài hạn về cách thức tăng cường nguồn cung cấp năng
lượng, đa dạng hoa các nguồn năng lượng, khai thác các lựa chọn mới
khác và khuyến khích tiết kiệm và sử dụng có trách nhiệm.

9. Khuyến khích Đ ổ i mới: APEC cần khởi động thực thi các sáng kiến về
hợp tác và hài hoa hoa bằng sáng chế, lựa chọn công nghệ và các biện
pháp cụ thể thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

10. Thúc đẩy công nghệ môi trường và công nghệ liên quan đến khoa
học đời sống.

2006 Vươn tới một Cộng đồng A P E C Thịnh vượng và Hài hoa:

Trong báo cáo ABAC năm 2006, ABAC đã đưa ra một khuyến nghị lên các
nhà lãnh đạo kinh tế APEC như sau :

1. Dẫn dắt kết thúc thành công Vòng Đ à m phán Đôha trong WTO: Giống
như các Vòng Đ à m phán khác, Vòng Đỏha là một cơ hội hiếm có để
thúc đẩy tiến trình tự do hoa thương mại và phải kết thúc với một kết
quả tích cực đối với cộng đồng kinh doanh trên thế giới. ABAC kêu gọi
52

các nền kinh tế APEC đánh giá lại và cải thiện bản chào của mình, tập
trung nỗ lực thúc đẩy đàm phán trong các lĩnh vực có khả năng đạt
được tiến bộ rõ rệt nhất như thuận lợi hóa thương mại. Hơn nữa, quan
trọng là các nền kinh tế phải hành động kịp thời sau khi đưa ra các bản
chào.

2. Thúc đẩy các Thoa thuận thương mại song phương và khu vực
(RTAs/FTAs) có chất lượng cao: ABAC quan ngại rằng sự phát triụn
của các thoa thuận thương mại song phương và khu vực gây khó khăn
cho hoạt động kinh doanh và vì vậy, ABAC ủng hộ mạnh mẽ ưu tiên
thiết lập các biện pháp mẫu được đề cập trong Lộ trình Busan. ABAC
kêu gọi APEC thiết lập sáng kiến thúc đẩy sự thống nhất và hội tụ của
các hiệp định đã ký kết và đang đàm phán. ABAC cho rằng một thoa
thuận K h u vực Thương mại tự do Châu Á - Thái Bình Dương
(FTAAP) sẽ là mức độ cao nhất của sự thống nhất và hoa đồng các
thoa thuận này, tuy nhiên kết quả nghiên cứu về FTAAP do A B A C
tiến hành cùng PECC cho thấy rằng thời điụm hiện tại vẫn còn nhiều
khó khăn và trở ngại đối với việc đàm phán một thoa thuận mang tính
toàn khu vực như vậy.

3. Triụn khai Chương trình nghị sự Kinh doanh Busan: ABAC kêu gọi
APEC cam kết hành động mạnh mẽ nhằm thúc đẩy tính minh bạch và
cải thiện môi trường điều tiết đối với doanh nghiệp tại các nền kinh tế.
4. Thúc đẩy một môi trường an toàn và thuận lợi cho thương mại và đầu
tư: ABAC cho rằng đảm bảo an toàn thương mại có tầm quan trọng đối
với sự thịnh vượng dài lâu trong APEC. ABAC kêu gọi APEC duy trì
cam kết đảm bảo an toàn thương mại bên cạnh tự do hoa và thuận lợi
hoa thương mại và đầu tư. Các biện pháp đề xuất bao gồm việc triụn
khai Khuôn khổ Tiêu chuẩn APEC nhằm Đảm bảo A n toàn và Tạo
Thuận lợi cho Thương mại Toàn cầu và Kế hoạch Hành động Thuận lợi
hoa Thương mại 2006-2010, trao đổi dữ liệu điện tử một cửa, quản trị
rủi ro trên cơ sở thanh tra... APEC cần nỗ lực triụn khai các Tiêu chuẩn
Minh bạch hoa APEC. APEC cần mở rộng Chương trình Thẻ đi lại của
Doanh nhân đối với các nền kinh tế thành viên còn lại.

5. Úng phó khẩn cập trước tình hình khủng hoảng năng lượng: ABAC kêu
gọi APEC dẫn đầu trong việc giải quyết những thách thức do mất cân
đối năng lượng và mất ổn định giá đem lại. Các sáng kiến ưu tiên bao
gồm việc tăng cường và đa dạng hoa các nguồn cung, tăng cường sử
dụng hiệu quả, thúc đẩy các nguồn thay thế và ổn định, khuyến khích
thương mại qua biên giới, xác định các tiêu điụm và triụn khai các
chính sách nhằm giảm tính không chắc chắn về điều tiết và thị trường
trong đầu tư thương mại đối với công nghệ năng lượng sáng tạo.
53

6. Củng cố hệ thống tài chính: A B A C cho rằng các nền kinh tế APEC cần
phải củng cố các khuôn khổ vĩ m ô và độ t i n cậy nhằm tăng cường năng
lực chịu đựng và chống trả trước các cú sốc từ bên ngoài và sự bất ổ n
của hệ thống kinh tế toàn cầu. Các biện pháp cần thiết bao gồm củng
cố quản trị r ủ i ro và quản lý điều hành hệ thống ngân hàng trong khu
vực và các lĩnh vực tài chính khác, tăng cường khả năng điều tiết tài
chính và thúc đứy họp tác hơn nữa giữa các cơ quan điều tiết quản lý
quốc gia và các tổ chức k h u vực và quốc tế nhằm giảm thiểu rủi ro đối
vói hệ thống tài chính toàn cầu. A B A C cũng nhấn mạnh vai trò quan
trọng của F D L A B A C kêu gọi APEC thực hiện các biện pháp m ở rộng
thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu trong k h u vực và tăng
cường hơn nữa các sáng kiến xây dựng năng lực để củng cố hệ thống
tài chính.

7. Thúc đứy phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs): A B A C nhấn
mạnh tầm quan trọng loại bỏ các rào càn điều tiết đối với sự phát triển
của SMEs và tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, công nghệ và
thông t i n của SMEs và các biện pháp tăng cường năng lực và năng lực
cạnh tranh của SMEs. A B A C khuyến khích những nỗ lực toàn khu vực
phát triển các cơ quan xếp hạng túi dụng, thiết lập các hiệp hội và
mạng lưới kinh doanh nhằm trao đổi thông tin và chính sách, khuyến
khích ngành tài chính hỗ trợ SME.

8. Sẵn sàng ứng phó trước dịch cúm gia cầm: A B A C kêu gọi APEC rà
soát các chương trình và hoạt động liên quan đến việc chuứn bị đối phó
với dịch c ú m gia cầm nhằm xác định các lĩnh vực có thể tăng cường
hợp tác và phối hợp giữa giới doanh nghiệp và chính phủ, đặc biệt là
các sáng kiến liên quan đến hỗ trợ SMEs tiếp tục duy trì hoạt động k i n h
doanh.

9. Tăng cường các T ổ chức Tiêu chuứn và Đ ố i thoại Điều tiết: A B A C cam
kết ưu tiên xây dựng năng lực về các tiêu chuứn và đang thiết lập một
chương trình nghị sự tăng cường và hỗ trợ các cơ quan tiêu chuứn trong
APEC. A B A C kêu gọi đối thoại nhiều hơn giữa các cơ quan điều tiết
thiết lập tiêu chuứn trên cơ sở theo ngành.

10. Triển khai các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ trong APEC: ABAC kêu
gọi các chính phủ thành viên APEC tăng cường nỗ lực ngăn chặn và
loại bỏ sản xuất và buôn bán hàng giả và hàng ăn cắp bản quyền, tăng
cường cấp phép nội dung hợp pháp và tôn trọng bản quyền đối với việc
cấp phép và thúc đứy chia sẻ công nghệ m ớ i thông qua giảm thiểu rào
cản đối với xây dựng năng lực trong khu vực APEC.

li. Thúc đứy sáng tạo công nghệ: ABAC kêu gọi các nhà lãnh đạo kinh tế
54

APEC tái khẳng định cam kết bảo hộ tài sản trí tuệ và quan tâm đặc
biệt và khẩn cấp đối với việc đề ra các biện pháp hiệu quả nhằm xử lý
vấn đề hàng giả và ăn cắp bản quyền.

12. Khoa học đòi sống và môi trường: ABAC kêu gọi APEC ưu tiên thực
thi các khuyến nghị trong Kế hoậch Chiến lược về Khoa học Đ ờ i sống
về vấn đề nghiên cứu, tiếp cận vốn, hài hoa hoa tiêu chuẩn và quy trình
điều tiết và các dịch vụ sức khoe.

13. Thúc đẩy quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa ABAC và APEC: ABAC kêu
gọi APEC xây dựng quy trình APEC chặt chẽ hơn, từ các nhóm còng
tác đến các kỳ họp Bộ trưởng, để có thể tiếp nhận và xử lý ý kiến đóng
góp từ phía doanh nghiệp và tiếp tục cải thiện đối thoậi và củng cố hợp
tác hai bên.

Nhìn chung, mặc dù các báo cáo thường niên của A B A C gửi lên các nhà
lãnh đậo k i n h tế A P E C qua các n ă m khác nhau về hình thức, cấu trúc báo cáo
cũng như các khuyến nghị cụ thể đề r a trong đó, dựa trên điều kiện tình hình
khách quan và ý chí chủ quan của m ỗ i nền k i n h tế chủ trì đăng cai APEC đồng
thời là chủ trì A B A C , có thể thấy n ộ i dung của các báo cáo thường niên của
A B A C thường bao g ồ m những n ộ i dung sau: phân tích về tình hình k i n h tế,
thương m ậ i và đầu tư, đặc biệt là tình hình hoật động k i n h doanh trong k h u vực và
trên thế giới; đánh giá các hoật động của APEC và ABAC, những thành tựu, khó
khăn và thuận l ợ i ; và đưa ra những khuyến nghị đối với APEC và các nhà lãnh
đậo kinh tế APEC vì mục tiêu tăng trưởng và phát triển, vì sự thịnh vượng chung

của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Các khuyến nghị trong các báo cáo thường niên của A B A C thường tập trung
vào các vấn đề sau: ủng hộ và thúc đẩy hệ thống thương mậi đa phương, cụ thể là
W T O và các vòng đ á m phán trong WTO; hoàn thành các M ụ c tiêu Bôgô về thương
mậi và đầu tư tự do và m ở trong khu vực với mốc thời gian 2010/2020; thúc đẩy sự
phát triển và kiểm soát các thoa thuận thương mậi tự do song phương và khu vực
(RTAs/FTAs); tậo m ọ i điều kiện thuận l ợ i cho hoật động kinh doanh của cộng
đồng doanh nghiệp trong k h u vực, bao gồm: thuận l ợ i hoa thương mậi và đầu tư,
xây dựng năng lực, trao đổi thông t i n và chuyển giao khoa học công nghệ, đào tậo
và phát triển nguồn nhân lực..; đẩy mậnh phát triển và tậo điều kiện thuận l ợ i cho
55

các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs); củng cố và phát triển các thị trường tài chính
và hệ thống tài chính, duy trì sự ổn định tài chính trong khu vực, chống khủng
hoảng tài chính; sẵn sàng ứng phó và giải quyết các nguy cơ và hiểm hoa như cúm
gia cầm, sóng thần, khủng hoảng năng lượng, khủng bố nhằm tọo ra một môi
trường an ninh, an toàn cho hoọt động kinh doanh, thương mọi - đầu tư trong khu
vực và một số nội dung khác.

2.2.3. Hội nghị Thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Doanh nghiệp A P E C
(APEC C E O Summit)

Hội nghị Thượng đỉnh thường niên của các Lãnh đọo Doanh nghiệp APEC
(APEC CEO Summit) là sự kiện quan trọng bậc nhất của các Lãnh đọo Doanh
nghiệp trong khu vực APEC cũng như các nhà lãnh đọo kinh tế APEC, những

người có ảnh hưởng quyết định đối với tương lai của khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương và thế giới.

APEC CEO Summit đã trở thành biểu tượng của sự hợp tác giữa khu vực
công và khu vực tư trong APEC với tư cách là một hội nghị duy nhất bao gồm các
nhà lãnh đọo kinh tế và giới doanh nhân của các doanh nghiệp thuộc mọi ngành
nghề sản xuất - kinh doanh và đọi diện của các cộng đồng xã hội. APEC CEO
Summit có những đóng góp lớn lao vào quá trình phát triển của mục tiêu APEC
nhằm tiến tới sự thịnh vượng chung.

Hình thành và phát triển từ năm 1997, Hội nghị là cơ hội để các nhà lãnh
đọo Doanh nghiệp (CEO) tham gia vào Hội nghị các nhà lãnh đọo kinh tế APEC
(AELM). H ộ i nghị Thượng định đã phát triển thành một trong những sự kiện
thường niên có uy tín cao nhất khu vực, tọo cơ hội cho các Lãnh đọo Doanh nghiệp

trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương được gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với các
nhà lãnh đọo kinh tế APEC, các nhà hoọch định chính sách, giới học giả và các
Lãnh đọo Doanh nghiệp khác về những vấn đề kinh tế và kinh doanh quan trọng,
nổi cộm nhất m à khu vực đang đối mặt.

Thòi gian tổ chức APEC CEO Summit là vào cuối mỗi năm, thông thường
vào tháng 10 hoặc tháng li, gói gọn trong 3 ngày làm việc, vào trước hoặc đồng
thời với Hội nghị Thượng đỉnh các nhà lãnh đọo kinh tế APEC (AELM).
56

Cho đến nay APEC CEO Summit đã tổ chức được 9 Hội nghị qua các năm,
cụ thể như sau:

- APEC CEO Summit năm 1997 được tổ chức tại Vancouver, Canada

- APEC CEO Summit năm 1999 được tổ chức tại Auckland, Niu Dilân

- APEC CEO Summit năm 2000 được tổ chức tại Bandar Seri Begawan,
Brunây gồm hơn 400 đại biểu với chủ đề "Quay trở lại nền tảng: Phục sinh
và Đặt trọng tâm vào Chương trình nghị sự Kinh doanh APEC " ("Gettiĩig
Back to Basics: Revitalising and Reíocusing APECs Business Agenda")

- APEC CEO Summit năm 2001 được tổ chức tại Thượng Hải, Trung Quốc
với hơn 500 đại biểu và chủ đề 'Thế kỷ mới, Nền Kinh tế mới: Phát triển
trong Thế giới Toàn cầu " ("New Century, New Economy: Developing in the
Globalizing World")

- APEC CEO Summit năm 2002 được tổ chức tại Los Cabos, Mêhicô với chủ
đề 'Tăng cường Lợi ích Hợp tác vì Tăng trưởng và Phát triển Kinh tế -
Hiện thực hoa Tầm nhìn' ("Expanding the Benefits of Cooperation for
Economic Growth and Development - Implementing the Vision")

- APEC CEO Summit năm 2003 được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan có chủ
đề "Mục đích, Tiến bộ, Thịnh Vượng: Tăng cường mạng lưới APEC để tăng
trưởng bền v
ng" ("Purpose, Progress, Prosperity: Strengthening the APEC
network for sustainable growth")

- APEC CEO Summit năm 2004 được tổ chức tại Santiago, Chile với hơn 400
đại biểu và mang chủ đề 'Thành công trong Nền Kinh tếToàn cầu: Nh
ng
Thách thức mới đối với Doanh nghiệp" ("Succeeding in a Global World:
New Challenges for Business")

- APEC CEO Summit năm 2005 được tổ chức tại Busan, Hàn Quốc. V ớ i chủ
đề "Kinh doanh và Thịnh vượng: Xây dựng Quan hệ đối tác Thành công

trong Khu vực Châu A - Thái Bình Dương*' ("Entrepreneurship and


Prosperity: Building a Successful Partnership in the Asia - Paciíic Region")
và sự tham gia của hơn 800 đại biểu. Hội nghị đã bàn luận về các vấn đề như
57

những thách thức toàn cầu về năng lượng, năng lực cạnh tranh toàn cầu
trong một nền kinh tế phi biên giới, những thiên tai, thảm hoa và trách
nhiệm toàn cầu, công nghệ thông tin và truyền thông và những thách thức
của toàn cầu hoa. Đ ạ i diện cộng đổng*doanh nghiệp khu vực tham dự Hội
nghị là CEO của các tập đoàn đa quốc gia lớn như: e-Bay, Qualcomm, AIG,
Citigroup, DHL...

- APEC CEO Summit năm 2006 được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam. Số lượng
đại biểu tham dự kừ lục: hơn 1.200 người, trong đó có khoảng 500 đại biểu
đến từ Việt Nam (bao gồm đại diện doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) cùng 12 vị lãnh đạo các nền
kinh tế APEC tham gia Hội nghị. Chủ đề Hội nghị là "Hướng tới một cộng
đồng — tạo ra những cơ hội mới để phát triển" (Towards One Community:
Creating New Opportunities for Shared Development"). Hội nghị có 15
phiên thảo luận với 7 nội dung hợp tác chủ yếu: thúc đẩy sáng tạo để phát
triển kinh tế - xã hội, thách thức duy trì cải cách kinh tế, tăng cường hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy phát triển công nghệ thông tin
và truyền thông, quản trị công ty, cơ hội và thách thức, bài học thu hút vốn
đầu tư từ các nền kinh tế thành viên vàđặc biệt là chủ đề "Việt Nam - điểm
đến của đầu tư". Trong số các đại biểu tham dự phải kể đến những ông chủ
hay lãnh đạo của các tập đoàn thuộc trong danh sách 500 công ty hàng đầu
thế giới như Boeing, Gazprom, Lukoil, Fedex, GM, AIG, Microsolf,
Citigroup, DHL, HSBC, AT&T, Qualcomm, Visa, CINOPEC... Hội nghị đã
đánh dấu sự thành công tốt đẹp trong công tác tổ chức, cho thấy rõ tiềm
năng, sức hấp dẫn của Việt Nam với tư cách là một điểm đến về kinh doanh
và đầu tư trong khu vực và trên thế giới.

Có thể nói, APEC CEO Summit là một Hội nghị độc đáo duy nhất trong khu
vực và trên thế giới được tổ chức thường niên, nơi có sự tham gia của hàng trăm

CEO của các doanh nghiệp hàng đầu trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
được hậu thuẫn mạnh mẽ bởi các nhà lãnh đạo kinh tế APEC. APEC CEO Summit
đem lại cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực nói lên tiếng nói, quan
58

điểm, lập luận của mình với các nhà lãnh đạo kinh tế cao nhất của khu vực Châu A
- Thái Bình Dương, với giới học giả trong khu vực, với toàn bộ công dân của Cộng

đồng Châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, APEC CEO Summit cũng tạo điều
kiện cho cộng đồng kinh doanh trong khu vực gặp gỡ, trao đổi, tìm kiếm, thiết lập
các mối quan hệ làm ăn, kinh doanh, buôn bán, thiết lập các mạng lưới đối tác -
bạn hàng, ký kết các hờp đồng hờp tác chiến lườc v.v...

2.2.4. Các Đôi thoại Ngành trong A P E C (ôtô, hoa chất, kim loại m à u )

Tham vấn chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp thông qua các Đ ố i thoại
Ngành là một công cụ hiệu quả nhằm theo đuổi các mục tiêu tự do hoa trong
APEC. Các Đ ố i thoại này tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về những vấn đề then
chốt phục vụ cho việc hoạch định chính sách trong tương lai cũng như nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh của các ngành.

Hiện tại, các Đ ố i thoại Ngành nhằm thúc đẩy tự do hoa 2 trong số 15 lĩnh
vực đườc APEC xác định tự do hoa từng ngành tự nguyện sớm, theo chương trình
EVSL. Đ ó là các ngành ôtô và hoa chất. Các quan chức chính phủ hoạt động trong
lĩnh vực thương mại, chính sách điều tiết và quản lý thuộc ngành nghề có liên quan
trong APEC sẽ tham gia bàn luận cùng các đại diện từ cộng đồng doanh nghiệp của
các ngành về các vấn đề tăng cường năng lực cạnh tranh cho từng ngành cụ thể.
Bên cạnh đó, APEC còn thiết lập cơ chế đối thoại kim loại màu nhằm thiết
lập quan hệ hờp tác và kênh thông tin qua lại giữa các đại diện của khu vực công và
tư trong lĩnh vực điều tiết chính sách liên quan đến thương mại và đẩy mạnh phát
triển buôn bán kim loại màu, năng lực cạnh tranh cũng như sự phát triển bền vững

của ngành này trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương.

Những khuyến nghị đưa ra bởi các Đ ố i thoại Ngành đườc báo cáo lên Uy
ban Thương mại và Đầu tư (CTI), tiếp đó Uy ban này chuyển những thông tin phù
hờp lên Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SÒM), Hội nghị cấp Bộ trưởng ( A M M
và các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành) và Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC (AELM). Các nền kinh tế thành viên APEC sẽ xem xét việc thực hiện
những khuyến nghị này phù hờp với các nguyên tắc linh hoạt, tự nguyện và đồng
59

thuận trong A P E C đối v ớ i hoạt động thuận lợi hoa thương mại và hợp tác k i n h tế

kỹ thuật.

2.2.4.1. Đôi thoại ôtô

Ngành công nghiệp ôtô là một ngành đóng vai trò quan trọng trong thương
mại toàn cầu. Theo số liệu của Ban Thư ký APEC, những n ă m gần đây, các sản

phẩm ôtô đã chiếm t ớ i 1 0 % k i m ngạch thương mại toàn cầu. Đ ố i thoại ôtô trong
APEC là một diễn đàn nơi các quan chức chính phủ và đại diện cểp cao ngành công
nghiệp ôtô của nền kinh tế thành viên APEC trao đổi, bàn luận nhằm thiết lập
những chiến lược tăng khả năng h ộ i nhập và phát triển của ngành công nghiệp ôtô
trong khu vực. Đ ố i thoại ôtô cũng được thiết lập bởi tính ảnh hưởng bao trùm và
liên đới của ngành công nghiệp ôtô và những lợi ích to lớn m à nó đem đến cho

nhiều nền kinh tế k h i tự do hoa và thuận lợi hoa thương mại công nghiệp ôtô.
Đ ố i thoại ôtô họp lần đầu tiên vào n ă m 1999 tại Inđônêxia và hằng n ă m họp
Ì lần. T ừ k h i thiết lập cho đến nay, các bên tham gia Đ ố i thoại ôtô đã thảo luận về

tình hình hiện tại của ngành công nghiệp ôtô trong khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương, xác định những rào cản đối với sự phát triển của ngành nghề, và thiết lập
những cơ chế hợp tác hiệu quả cho các nền kinh tế APEC nhằm giải quyết và giảm

thiểu những trở ngại.


Mục tiêu của Đ ố i thoại ôtô là nhằm tăng cường nỗ lực hợp tác của các bên
tham gia để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của ngành công nghiệp ôtô trong
khu vực và đưa ra những khuyến nghị mang tính thực tiễn cao cho H ộ i nghị Bộ
trưởng Thương mại APEC (MRT). Kể từ n ă m 2001 Đ ố i thoại đã tái cơ cểu thành
các N h ó m công tác về các vển đề cụ thể để có thể đưa ra những khuyên nghị ngành

nghề có tính thực tiễn cao hơn và tập trung hơn vào các lĩnh vực cần quan tâm.
Đ ố i thoại ôtô hiện có bảy nhóm công tác, đó là: Quyền sở hữu trí tuệ; Hài

hoa hoa các quy định và an toàn đường bộ; Hải quan và Thuận lợi hoa thương mại;

Hợp tác k i n h tế - kỹ thuật; Công nghệ thông tin; Tiếp cận thị trường; và Các V ể n

đề về môi trường.
N ă m 2006 Inđônêxia là nền kinh tế đăng cai tổ chức Đ ố i thoại ôtô tại Bali.

Ôxtrâylia là thành viên đăng cai tổ chức Đ ố i thoại ôtô n ă m 2007.


60

2.2.4.2. Đối thoại hoa chất

Ngành công nghiệp hoa chất là một liên ngành đóng góp cho hầu hết các

ngành công nghiệp và phi công nghiệp. Những sản phẩm của ngành hoa chất được

kinh doanh vượt ra k h ỏ i phạm v i biên giới và đó là một trong những ngành kinh tế

quan trọng trong các nền kinh tế thành viên APEC. Theo số liệu của Ban Thư ký

APEC, về mặt giá trị đầu vào vẫt chất cho các ngành khác, ngành hoa chất chiếm

1 6 % tổng giá trị đầu vào đối với các loại ôtô, 2 8 % giá trị đầu vào đối với trang thiết

bị y tế, 1 2 % đầu vào đối với máy v i tính, 3 3 % đầu vào đối với các đồ bán dẫn, 2 1 %
đầu vào của đồ đạc văn phòng, 2 8 % đầu vào của quần áo, và 3 0 % đầu vào của các
sản phẩm nông nghiệp...

Đ ố i thoại hoa chất trong APEC là một diễn đàn nơi các quan chức chính phủ

và các đại diện của ngành công nghiệp hoa chất bàn luẫn về các thách thức thương

mại và k i n h tế m à ngành hoa chất và những người sử dụng hoa chất phải đối mặt.

Các vấn đề thảo luẫn bao gồm: tự do hoa và thuẫn lợi hoa ngành công nghiệp hoa

chất, xây dựng năng lực, các thực tiễn tốt nhất về chính sách và điều tiết trong

ngành công nghiệp hoa chất. Gần đây, Đ ố i thoại tẫp trung vào huấn luyện việc thực

thi H ệ thống Hài hoa hoa Toàn cầu (GHS) để Phân loại và Dán nhãn các hoa chất

công nghiệp và truyền thông cảnh báo r ủ i ro - một hệ thống hướng dẫn của Liên

hợp quốc nhằm tạo ra sự rõ ràng và tính thống nhất trong việc xử lý các hoa chất

của nhà sản xuất, người tiêu dùng và công nhân.

Ngoài ra, Đ ố i thoại hoa chất cũng bàn luẫn về các vấn đề ảnh hưởng đến các

nhà sản xuất trong các ngành nghề có liên quan xuất phát từ việc E U đưa ra một hệ

thống đăng ký, đánh giá và cấp phép các hoa chất, và đánh giá những vấn đề môi

trường có liên quan đến các sản phẩm hoa chất khác đưa ra bởi các diễn đàn khác.

Đ ố i thoại hoa chất là một trong số các đối thoại ngành nghề của APEC phản ánh

việc APEC coi trọng sự tham gia của khu vực tư nhân và xây dựng hợp tác đối

thoại công - tư vì l ợ i ích chung trong ngành hoa chất.

Đ ố i thoại hoa chất đầu tiên được tổ chức tại Mêhicô n ă m 2002 và tiếp tục tổ

chức hàng n ă m v ớ i Ì cuộc họp của N h ó m điều hành Đ ố i thoại hoa chất nhằm thúc

đẩy các hoạt động có liên quan. Đ ố i thoại lần thứ 4 được tổ chức tại Jeju, H à n
61

Quốc tháng 5/2005. Đ ố i thoai lần thứ 5 đươc tổ chức tại H ồ Chí Minh, Việt Nam

tháng 5/2006. T â m điểm của Đ ố i thoại là tiến bộ đạt được và các bước tiếp theo

liên quan đến các vấn đề như GHS, Đăng ký, Đánh giá, Cấp chứng chỉ cho các hoa

chất của E U - "REACH" (Registration, Evaluation, Authorisation o f Chemicals),

Tiếp cận chiến lược đối với quản trự hoa chất quốc tế ( S A I C M (Strategic Approach

to International Chemical Management)) - một hệ thống hướng dẫn m ớ i được hình


thành của Liên hợp quốc.

Đ ố i thoại hoa chất cũng tiếp tục thảo luận cách thức đóng góp cho Chương

trình nghự sự của Vòng đàm phán Đôha, những vấn đề mới trong chương trình công

tác của Đ ố i thoại và đóng góp cho những n ỗ lực tự do hoa và thuận l ợ i hoa trong

APEC, cụ thể là trong phạm v i ngành công nghiệp hoa chất. Đ ố i thoại đang xem

xét những bước thực tiễn trong các lĩnh vực như: các biện pháp phi thuế, trự giá hải
quan, quy tắc xuất xứ, buôn lậu/hàng giả, hàng nhái, và bảo vệ dự liệu mật đối với

các hoa chất nông nghiệp.

2.2.43. Đối thoại kim loại màu

Đ ố i thoại k i m loại m à u được khởi xướng bởi N g a vào n ă m 2003. Đ â y là

đối thoại chính phủ - doanh nghiệp thứ ba trong APEC. M ụ c đích ban đầu của

Đ ố i thoại là nhằm tập hợp các đại diện của k h u vực công và tư để thúc đẩy hợp

tác và tương tác trong lĩnh vực chính sách điều tiết liên quan đến thương m ạ i

và thuận l ợ i hoa thương m ạ i k i m loại màu, tăng k h ả năng cạnh tranh và phát

triển bền vững của ngành trong k h u vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đ ố i thoại

bàn luận và xác đựnh các ưu tiên thích hợp để thúc đẩy thương m ạ i và sự phát

triển của ngành k i m loại màu. L à m như vậy sẽ tăng cường chia sẻ thông t i n và

các thực tiễn t ố t nhất trong việc sử dụng cơ chế điều tiết n ộ i đựa và quốc t ế

thông qua tham vấn và chia sẻ quan điểm.

Đ ố i thoại k i m loại m à u đầu tiên được tổ chức tháng 5/2005. Đ ố i thoại K i m

loại m à u lần thứ hai được tổ chức tháng 5/2006 tại Việt Nam. Đ ố i thoại lần thứ ba

dự kiến sẽ được tổ chức bên lề S Ò M 2 năm 2007 tại Ôxtrâylia. M ộ t số hoạt động

đã và đang thực hiện của Đ ố i thoại này bao gồm: Thiết lập m ộ t mạng lưới các
62

ngành kim loại màu trong APEC; Hình thành một bản câu hỏi cho các ngành để
xác định những lĩnh vực hợp tác quan trọng nhất; Thiết lập một danh mục các
khuyến nghị kinh doanh đối với ngành công nghiệp kim loại màu; Thiết lập một
nhóm bạn cồa Chồ tịch Đ ố i thoại kim loại màu (FOTC)...

2.3. MỘT S Ố THÀNH Tựu VÀ HẠN CHÊ CỦA VIỆC THAM GIA HỢP
TÁC APEC CỦA CỘNG ĐỔNG DOANH NGHIỆP KHU vực

2.3.1. Một sô thành tựu

Nhìn tổng thể, tiến trình tham gia APEC cồa cộng đồng doanh nghiệp trong
khu vực đã gặt hái được một số kết quả cụ thể và không thể phồ nhận được. Cộng
đồng doanh nghiệp trong khu vực đã và đang từng bước khẳng định được vị thế, vai
trò và tầm quan trọng cồa mình, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển vì
thịnh vượng chung cồa toàn thể nhân dân trong khu vực APEC nói riêng, khu vực

Châu A - Thái Bình Dương nói chung. Dưới đây là một số thành tựu nổi bật từ tiến
trình tham gia hợp tác APEC cồa cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực.
Thứ nhất, từ chỗ không tồn tại bất cứ hình thức đại diện nào cồa cộng đổng
doanh nghiệp khu vực trong các hoạt động hợp tác APEC nay cộng đồng doanh
nghiệp khu vực đã thiết lập được đại diện chính thức cồa mình là ABAC và thông
qua ABAC đã tích cực tham gia sâu rộng vào tất cả các hoạt động trong APEC.
Hơn thế nữa, cộng đồng doanh nghiệp khu vực còn tham gia hơp tác APEC dưới
nhiều hình thức phong phú khác. Đ ó có thể là các hoạt động thường niên như
APEC CEO Summit và các Đ ố i thoại Ngành, hoặc là các hoạt động vụ việc theo
từng ngành, từng lĩnh vực như các Đ ố i thoại Công - Tư trong một số lĩnh vực hợp
tác cụ thể: thồ tục hải quan, thuận lợi hoa thương mại, chống tham nhũng, an toàn
thương mại, thương mại phi giấy tờ, các thoa thuận thương mại tự do song phương
và khu vực (RTAs/FTAs)...
Thứ hai, từ chỗ cộng đồng doanh nghiệp khu vực chỉ tổ chức các cuộc họp
riêng biệt thường niên để thông qua báo cáo duy nhất gửi lên các nhà lãnh đạo kinh
tế APEC vào cuối mỗi năm nay giới doanh nghiệp đã, đang và ngày càng được
khuyên khích tham gia nhiều hơn vào hầu hết các diễn đàn trong APEC. Đ ạ i diện
63

của cộng đồng doanh nghiệp khu vực được mời tham dự hầu hết các cuộc họp quan
trọng của các diễn đàn chính trong APEC, thể hiện tiếng nói, quan điểm của mình
về các vấn đề cóliên quan, tham gia đóng góp ý kiến vào các chương trình, kế
hoạch hành động, báo cáo, rà soát của các diễn đàn khác. Như vậy, đã có sự phối
hợp, liên kết giữa các diễn đàn trong APEC vửi cộng đồng doanh nghiệp trong khu
vực và sự phối hợp này đang ngày càng phát triển đa dạng hơn, chặt chẽ hơn, có hệ
thống hơn.
Thứ ba, báo cáo thường niên của ABAC - đại diện chính thức của cộng
đồng doanh nghiệp khu vực trong hợp tác APEC gửi lên các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC hàng năm đã ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nội dung và hình thức. Kết
cấu của báo cáo ngày càng hợp lý hơn, vửi các phân tích, nghiên cứu, đánh giá tình
hình sâu sắc và thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra các khuyên nghị ngày càng thiết thực
hơn, có tính khả thi cao và được các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đánh giá cao.
Ngoài ra, các khuyên nghị đề ra trong các báo cáo thường niên của ABAC thường
xuyên được các nhà lãnh đạo kinh tế APEC chỉ đạo các diễn đàn nghiên cứu, xem
xét cẩn trọng để lồng ghép vào các chương trình công tác, kế hoạch hành động của
APEC.
Thứ tư, chính tiến trình tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
khu vực đã đem lại một số lợi ích hiện hữu cho hoạt động sản xuất - kinh doanh và
cộng đồng doanh nghiệp nói riêng, toàn thể người dân trong khu vực APEC nói
chung. Đ ó là: những cam kết ở cấp cao nhất được thực hiện đầy đủ và đúng thời
hạn đối vửi các Mục tiêu Bôgô về thương mại và đầu tư tự do và mở vào năm
2010/2020, trên cơ sở đó thúc đẩy mạnh mẽ thực hiện tự do hoa thương mại và đầu
tư, dẫn đến cắt giảm các rào cản thuế quan và phi thuế quan trong khu vực, góp
phần tăng trưởng kim ngạch trao đổi thương mại và đầu tư trong và ngoài khu vực,
tăng trưởng và phát triển kinh tế; Kế hoạch Hành động về Thuận lợi hoa Thương
mại giai đoạn Ì (TFAP 1) cắt giảm 5% chi phí giao dịch kinh doanh trong khu vực
giai đoạn 2001 - 2006 đã thành công tốt đẹp, là cơ sở để tiếp tục thực thi Kế hoạch
Hành động về Thuận lợi hoa Thương mại giai đoạn 2 (TFAP 2) tiếp tục cắt giảm
5 % chi phí giao dịch kinh doanh từ năm 2006 đến năm 2010; thông qua Chương
64

trình Thẻ đi lại của Doanh nhân (ABTC) với sự tham gia của hầu hết các nền kinh
tế thành viên APEC các doanh nhân trong khu vực được tạo điều kiện di chuyển
nhanh chóng và thuận tiện tại các điểm xuất nhập cảnh ở các sân bay quốc tế
chính; các trang web, mạng lưới liên kết, trao đổi thông tin, các trung tâm nghiên
cứu, trung tâm đào tạo phỏc vỏ giới doanh nghiệp trong khu vực đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ...
Và cuối cùng, sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp khu vực vào tiến
trình hợp tác APEC đã đem đến một xung lực mới cho diễn đàn này. Sự tham gia
của cộng đồng doanh nghiệp khu vực đã khiến cho APEC trở nên năng động hơn,
tích cực hơn, có tinh thần cầu tiến hơn, đặc biệt là cân bằng và toàn diện hơn khi
hầu hết các vấn đề quan trọng trong APEC đều có sự tham vấn với đại diện của giới
doanh nghiệp trong khu vực. Chính đặc điểm này làm nên sự khác biệt giữa APEC
với các diễn đàn và tổ chức khu vực và quốc tế khác, tạo nên sức hấp dẫn riêng của
APEC cũng như tính bền vững của diễn đàn.

2.3.2. Một số hạn chế

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, tiến trình tham gia hợp tác APEC của
cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực cũng gặp phải một số khó khăn, bất lợi và
cũng tổn tại một số mặt hạn chế của nó.
Mặt hạn chế thứ nhất cần được đề cập đó là sự tham gia của cộng đồng

doanh nghiệp khu vực vào hoạt động hợp tác của Diễn đàn Kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương là một hoạt động hoàn toàn mới và chưa từng có tiền lệ ở các tổ chức,
diễn đàn kinh tế - thương mại trong khu vực cũng như trên thế giới khác. Vì vậy,
hoạt động tham gia hợp tác của giới doanh nghiệp khu vực phải có những bước đi
mang tính thăm dò, thận trọng, vừa tham gia vừa đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn
hoạt động để phát triển hơn nữa các khả năng họp tác, phối hợp và đóng góp vào
tiến trình chung trong APEC.
Thứ hai, cộng đổng doanh nghiệp khu vực tham gia vào hợp tác APEC phải
liên tỏc tìm kiếm, phát triển và hoàn thiện các vấn đề về hình thức và nội dung
tham gia hợp tác, cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện cho giới doanh nghiệp khu
65

vực, cơ chế gây quỹ tài trợ cho các hoạt động hợp tác của giới doanh nghiệp trong
khuôn khổ diễn đàn, quan hệ giữa giới doanh nghiệp với các diễn đàn và tiểu diễn
đàn trong APEC theo hướng sao cho sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào
hoạt động hợp tác của APEC ngày càng hiệu quả hơn, có ý nghĩa thiết thực hơn
đồng thời cũng phải phù hợp hơn với các điều kiện khách quan. Điều này cũng gây
ra một số khó khăn nhứt định đối với tiến trình hợp tác của cộng đổng doanh
nghiệp khu vực bởi APEC là một diễn đàn hết sức độc đáo, đa dạng và phong phú,
với nhiều phương thức, cơ chế và lĩnh vực hợp tác khác nhau.

Thứ ba, bởi phần lớn các doanh nghiệp trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nên
cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực gặp phải không ít khó khăn trong việc chọn
lựa các đại diện tham gia hoạt động hợp tác trong APEC sao cho vừa đảm bảo tính
đại diện cho toàn thể hoặc phần lớn cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực vừa
đảm bảo tính lâu dài, bền vững, liên tục, không đứt quãng của sự đại diện này.
Thứ tư, giới doanh nghiệp trong khu vực cũng gặp một số khó khăn nhứt
định, đặc biệt là sự thiếu hụt các nguồn lực để thực hiện công tác truyền thông,
phổ biến hoạt động hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp trong APEC tới toàn bộ
các doanh nghiệp trong khu vực, trong đó trọng tâm là lôi kéo sự tham gia của
các doanh nghiệp này, bao gồm các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ và chia sẻ
những lợi ích gặt hái được từ quá trình hợp tác để tứt cả các doanh nghiệp trong
khu vực cùng hưởng lợi.

2.4. THỰC TRẠNG THAM GIA HỢP TÁC APEC CỦA CỘNG ĐỔNG
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu tham gia hợp tác APEC kể từ
khi Việt Nam gia nhập APEC tháng 11/1998. Trong năm 1998, Thủ tướng Chính
phủ nước Cộng hoa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định đề cử các đại diện
của Việt Nam tham gia vào Hội đồng Tư vứn Kinh doanh APEC (ABAC), cụ thể là
Ong Lâm Hoàng Lộc - Nguyên Phó Chủ tịch Ngân hàng á Châu (ACB), Ong Đào
Duy Chú - Nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) và Ong Đ ỗ Trung Tá - Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Tập đoàn
66

Bưu chính Viễn thông Việt Nam, đánh dấu bước khởi đầu tham gia hợp tác APEC
của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Đến tháng 4/2003 nhằm đẩy mạnh hơn
nữa sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vào tiến trình hợp tác
APEC Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định sể 365/QĐ-TTg cử ba thành viên mới
tham gia ABAC, cụ thể là Ông Lê Quểc  n - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt
Nam, Ông Vũ Viết Ngoạn - Tổng Giám đểc Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
(Vietcombank) và Ông Ngô Văn Thoăn - Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại
Việt Nam (Vietrade). Từ năm 2005 cho đến nay Ông Ngô Văn Thoăn được thay
thế bởi Ông Hoàng Văn Dũng - Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), kiêm Chủ tịch ABAC Việt Nam, Chủ tịch ABAC 2006 và Đổng
Chủ tịch ABAC 2007.
Thực trạng tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam
có thể được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ khi Việt Nam gia nhập
APEC đến hết năm 2005 và giai đoạn thứ hai từ năm 2006 trở đi.
Trong giai đoạn đầu tham gia hợp tác APEC hoạt động của cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn mang tính thụ động, nội dung và hình thức hợp
tác sơ sài, kém phóng phú, chủ yếu thông qua việc tham gia vào các cuộc họp định
kỳ cũng như các hoạt động không thường kỳ khác của ABAC với sự hiện diện của
ABAC Việt Nam gồm ba người đại diện cho toàn thể cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam. Đ ể i với các hoạt động hợp tác khác trong APEC đòi hỏi sự tham gia của
cộng đồng doanh nghiệp khu vực thì cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tham gia
một cách manh mún, phân tán nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thểng và liên tục. Phần lớn các
doanh nghiệp Việt Nam không có khái niệm hoặc có hiểu biết rất m ơ hồ về APEC,
chưa nói đến các hoạt động tham gia hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp khu vực
và Việt Nam trong APEC.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả trên. Một trong sể đó là do Việt
Nam tiến hành chính sách đổi mới và mở cửa từ năm 1986 và khởi đầu tiến trình
hội nhập kinh tế khu vực và quểc tế từ năm 1995 khi gia nhập Hiệp hội các Quểc
gia Đông Nam á (ASEAN), ngay sau đó năm 1996 Việt Nam gia nhập Diễn đàn
Hợp tác á - Â u (ASEM) và hai năm sau, năm 1998, chính thức là thành viên của
APEC. Trong một thời gian tương đểi ngắn như vậy, việc chuyển đổi từ cơ chế một
67

nền kinh tế kế hoạch hoa tập trung kín sang một nền kinh tế thị trường mở cửa và
hội nhập khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể thích nghi nhanh chóng
và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào sân chơi khu vực và toàn cầu.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp có
quy m ô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, tiềm lực tài chính hạn hẹp, khố năng ngoại ngữ yếu
kém cũng hạn chế khố năng tham gia hợp tác APEC nói riêng, hợp tác khu vực và
quốc tế nói chung.
Cuối cùng, một số mặt khó khăn và tồn tại về cơ chế chính sách, định hướng
phát triển doanh nghiệp từ phía Chính phủ và Nhà nước cũng đã hạn chế phần nào
tiến trình tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Bước sang giai đoạn thứ hai của tiến trình tham gia hợp tác APEC, tức là từ
năm 2006 trở đi, cộng đổng doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước chủ động, tích
cực tham gia hầu hết các hoạt động hợp tác trong APEC có liên quan đến cộng
đồng doanh nghiệp khu vực. Ngay từ cuối năm 2005, đầu năm 2006 Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) với tư cách là đơn vị chủ trì đầu mối tham
gia các hoạt động hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt
là hoạt động ABAC Việt Nam trong năm 2006 đã triển khai một loạt các hoạt động
quống bá, phổ biến thông tin tuyên truyền về APEC và các hoạt động liên quan đến
giới doanh nghiệp trong khu vực APEC. Nhờ đó, năm 2006 đánh dấu bước đột phá
trong tiến trình hội nhập APEC của cộng đổng doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh
nghiệp Việt Nam đã nhận thức và nắm bắt nhiều hơn về APEC và những lợi ích
APEC đem lại cho cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực nói chung, cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Giới doanh nghiệp đã tích cực, chủ động và trực
tiếp tham gia vào hầu hết các cuộc họp, hội nghị, diễn đàn, dự án, chương trình hợp
tác, xúc tiến thương mại đầu tư có sự tham gia của đại diện cộng đồng doanh
nghiệp, đưa ra quan điểm riêng, trao đổi thông tin, kinh nghiệm với cộng đồng
doanh nghiệp các nền kinh tế thành viên APEC khác về các vấn đề quan trọng của
khu vực gắn liền với hoạt động sốn xuất kinh doanh, với các hoạt động kinh tế -
thương mại - đầu tư trong khu vực và trên thế giới.
Cụ thể, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia 3 sự kiện trung tâm, quan
trọng nhất đối với giới doanh nghiệp trong khu vực năm 2006 : APEC CEO
68

Summit, các hội nghị, hoạt động của ABAC và Diễn đàn "Làm ăn Kinh doanh với
Việt Nam" ("Doing Business with Viet Nam").
Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam còn tham gia một số hội
nghị khác rất quan trọng đối với giới kinh doanh trong năm APEC, có thể kể đến
Hội nghị các Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), Hội nghị Vườn ươm Doanh
nghiệp, Hội nghị Sáng tạo Việt Nam, Diễn đàn về Thương mại trong khối APEC và
nhiều diễn đàn song phương với các nền kinh tế trong khu vực, đó là Diễn đàn
Doanh nghiệp Việt - Trung, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt - Nhỉt... Những hoạt
động này đều thu hút đông đảo các doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp trong và
ngoài APEC tham gia. Chỉ riêng trong APEC CEO Summit 2006, trong tổng số
khoảng 1200 đại biểu tham dự Hội nghị có gần 500 đại biểu đại diện cho cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam và đây là số lượng đã được giới hạn.
Việc tham gia vào các sự kiện trên là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam
tham gia vào các trao đổi có tính chất toàn khu vực, đó là các chiến lược phát triển,
xu hướng thương mại đầu tư trong khu vực. Thông qua đó, các doanh nghiệp Việt
Nam có được tầm nhìn chiến lược khu vực và toàn cầu trong quá trình phát triển
của mình. Bên cạnh đó, khi tham gia vào các sự kiện này, cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam cũng đã góp phần trực tiếp quảng bá hình ảnh của nền kinh tế Việt Nam,
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Và đây cũng là dịp để giới doanh nghiệp Việt
Nam tiếp nhỉn, sàng lọc và phân tích những thông tin từ những người đứng đầu các
nền kinh tế thành viên - các nhà lãnh đạo kinh tế APEC, của giới doanh nghiệp,
giới học giả bàn về những xu hướng, xu thế lớn trong đời sống kinh tế - chính trị -
xã hội khu vực. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp Việt Nam được tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạch định và thiết lỉp chính sách kinh tế - thương mại, các khuyến
nghị đối với các Chính phủ trong việc hình thành các chính sách kinh tế - thương
mại khu vực và toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội để gặp gỡ các
đối tác, các nhà đầu tư kinh doanh hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Ngay
tại các hội nghị và diễn đàn này, các doanh nghiệp Việt Nam có thể ký kết được
ngay những hợp đổng, thoa thuỉn hợp tác kinh doanh chiến lược, hoặc có cơ hội
làm quen, gặp gỡ, thiết lỉp quan hệ với cộng đổng doanh nghiệp khu vực và thế
giới để tiến tới những phi vụ hợp tác làm ăn trong tương lai.
69

CHƯƠNG 3
TRIỂN VỌNG THAM GIA HỢP TÁC APEC VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG sự THAM GIA
HỢP TÁC APEC CỦA CỘNG ĐỔNG DOANH NGHIỆP
TRONG KHU vực

3.1. TRIỂN VỌNG THAM GIA HỢP TÁC APEC CỦA CỘNG ĐỔNG
DOANH NGHIỆP KHU vực

3.1.1. Triển vọng tham gia hợp tác APEC của c


ng đồng doanh nghiệp
khu vực

Nhìn chung, tiến trình tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp
khu vực đã tạo ra một số thành tựu đáng kể và có tính ảnh hưởng dài lâu, và nếu
được phát huy hơn nữa sẽ đem lại nhiều kết quả khả quan hơn. Những kết quả này
vừa góp phần khẳng định và nâng cao vai trò, vị thế của cộng đồng doanh nghiệp
khu vực đối vời tiến trình chung APEC nhằm mục tiêu tăng trưởng, phát triển và

thịnh vượng của người dân trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, vừa đem lại

cho diễn đàn APEC những nét đặc trưng riêng, tạo ra xung lực, tính năng động và
sáng tạo cho diễn đàn uy tín nhất khu vực này. Những mặt hạn chế của quá trình
tham gia hợp tác APEC của giời doanh nghiệp trong khu vực chỉ mang tính chất
tạm thời và có khả năng được giải quyết triệt để nếu tập trung tốt các nguồn lực.

Trong thời gian tời, hoạt động tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh
nghiệp trong khu vực sẽ tập trung vào một số định hường sau:

Thứ nhất, về mặt nội dung các hoạt động sẽ đi sâu hơn vào các vấn đề
chuyên ngành đã triển khai như thuận lợi hoa thương mại, thủ tục hải quan, an toàn
thương mại, thương mại phi giấy tờ, các thoa thuận thương mại tự do song phương
và khu vực (RTAs/FTAs), chống tham nhũng... và mở rộng sang các lĩnh vực khác
như trong lĩnh vực đầu tư, tài chính ngân hàng, xây dựng năng lực, hợp tác kinh tế
70

- kỹ thuật (ECOTECH), đảm bảo nguồn năng lượng, sẵn sàng ứng phó trước thiên
tai, hiểm hoa, dịch bệnh, chống khủng bố v.v...

Thứ hai, về mặt cơ chế tổ chức và hình thức, bên cạnh việc độy mạnh hơn
nữa kênh tham gia hợp tác thường xuyên như thông qua hoạt động của ABAC, của
tiến trình APEC CEO Summit và các Đ ố i thoại Ngành, các hoạt động hợp tác sẽ tập
trung phát triển các Đ ố i thoại Công - Tư trong một loạt các lĩnh vực hợp tác của
APEC. Có thể thiết lập các dự án trong các lĩnh vực có liên quan do APEC và cộng
đồng doanh nghiệp khu vực đồng tài trợ. Cơ chế theo dõi, giám sát việc thực thi các
khuyến nghị đề ra trong các báo cáo thường niên của ABAC gửi các nhà lãnh đạo
kinh tế APEC có thể được tăng cường. Việc thể chế hoa cơ chế các cuộc họp có sự
tham gia của đại diện từ phía cộng đồng doanh nghiệp có thể được xúc tiến. Đồng
thời, có thể thiết lập một số Đ ố i thoại Ngành mới như Đ ố i thoại hàng không, các
sản phộm và thiết bị công nghệ thông tin.
Thứ ba, cộng đồng doanh nghiệp khu vực sẽ lôi kéo ngày càng nhiều hơn
các doanh nghiệp trong khu vực, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ
tham gia vào tiến trình hợp tác APEC. Thông qua nhiều hình thức khác nhau, đặc
biệt là các kênh phương tiện truyền thông: các trang web, các tờ rơi, hiệp hội ngành
hàng để phổ biến thông tin về APEC và hợp tác doanh nghiệp khu vực trong APEC.
Ngoài ra, cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực cũng sẽ thực hiện các biện pháp
khác nhau nhằm mở rộng đối tượng hưởng lợi các kết quả và thành tựu của họp tác
APEC nói chung, hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp khu vực trong APEC nói
riêng tới toàn thể cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực.

3.1.2. Triển vọng tham gia hợp tác A P E C của cộng đồng doanh nghiệp

Việt Nam

Dựa trên thực tiễn đúc kết từ tiến trình tám năm tham gia hợp tác APEC,
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vững bước tiến vào một giai đoạn mới trong
hợp tác APEC - chủ động tham gia hợp tác toàn diện, đầy đủ và liên tục để tận
dụng những cơ hội hợp tác APEC đem lại nhằm thúc độy sự tăng trưởng và phát
triển doanh nghiệp ngang tầm khu vực và quốc tế.
71

Trước hết, định hướng tham gia APEC của cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới sẽ tập trung tham gia có chọn lọc các sự kiện đem lại lợi
ích trực tiếp, có tính thiết thực cao đối với doanh nghiệp như các hội chợ - triển
lãm giao lưu và xúc tiến thương mại và đầu tư, các diễn đàn doanh nghiệp trong
khu vực, bao gồm cổ các APEC CEO Summit, các dự án hỗ trợ xây dựng và nâng
cao năng lực cho doanh nghiệp, các dự án liên kết sổn xuất kinh doanh, trao đổi
thông tin, huấn luyện đào tạo, xúc tiến quổng bá.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thông qua ABAC Việt Nam,
trong đó VCCI nắm giữ cương vị Chủ tịch ABAC Việt Nam, đại diện chính thức
cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các hoạt động hợp tác chính
thức của cộng đồng doanh nghiệp khu vực trong APEC. ABAC Việt Nam sẽ nói
lên tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, khai thác và bổo vệ quyền lợi
và lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam khi làm ăn kinh doanh trong khu vực.
ABAC Việt Nam sẽ quổng bá về APEC cũng như các hoạt động tham gia hợp tác
APEC của cộng đồng doanh nghiệp khu vực cho giới doanh nghiệp Việt Nam và,
ngược lại, quổng bá về cộng đồng kinh doanh Việt Nam, cơ hội làm ăn kinh doanh

tại Việt Nam cho tất cổ các đối tượng có liên quan trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương.
Và cuối cùng, giới kinh doanh Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động
làm ăn kinh doanh với cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực APEC trên cơ sở phát
huy những mối quan hệ, những thoa thuận đã và đang có được từ tiến trình hợp tác
APEC, đạc biệt của năm 2006 và tìm kiếm, khai thác những cơ hội mới, mối quan hệ
mới, đối tác mói để mở rộng thị trường, nâng cao khổ năng cạnh tranh, liên doanh,
liên kết, hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường khu vực và toàn cầu.

3.2. GIẢI PHÁP NHẰM TẢNG CƯỜNG sự THAM GIA HỢP TÁC APEC
CỦA CỘNG ĐỔNG DOANH NGHIỆP KHU vực

3.2.1. Các giải pháp từ phía A P E C

Cơ chế tham gia hợp tác APEC của cộng đổng doanh nghiệp trong khu vực
ra đời ngay từ những năm đầu thành lập APEC và chính sự tham gia của khối
72

doanh nghiệp khu vực đã giúp APEC duy trì, củng cố được vai trò, vị thế của một
cơ chế liên kết chính phủ và diễn đàn tham vấn chính sách có uy tín và năng động
nhất khu vực. Do vậy, một trong những định hướng ưu tiên hàng đầu đặt ra cho
APEC hiện nay là việc tăng cường hơn nữa vai trò và sự tham gia của cộng đồng
doanh nghiệp khu vực vào các hoằt động của mình. Trên cơ sở đó, APEC cần thực
thi một số giải pháp sau nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả tham gia họp tác
APEC của cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực.
Thứ nhất, tăng cường hơn nữa phằm vi và quyền hằn tham gia vào các hoằt
động trong APEC của ABAC, đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến việc hoằch
định chính sách, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế, thương mằi và đầu tư.
Hiện nay, mặc dù cơ chế tham gia APEC của ABAC đã được thể chế hoa trong các
văn bản của APEC và mở rộng sang hầu hết các lĩnh vực hợp tác trong APEC, cơ
chế này vẫn còn tương đối lỏng lẻo và ít nhiều mang tính hình thức, khó có thể đem
lằi những kết quả thiết thực. ABAC cần được tham gia vào tất cả các vấn đề liên
quan trong APEC, trong cơ chế tham vấn và báo cáo thường niên giữa ABAC với
các nhà lãnh đằo kinh tế APEC cần phải làm rõ những khuyến nghị của ABAC:
những khuyến nghị nào là thích hợp, những khuyến nghị nào là không phù họp, tằi
sao, nếu thích hợp thì cách thức triển khai thực thi như thế nào, việc giám sát và
báo cáo kết quả thực thi được thực hiện ra sao, bởi các bên có liên quan nào. Công
việc này có thể giao cho Ban Thư ký APEC thực hiện. Tương tự như vậy, quan hệ
tham vấn đối thoằi và phối hợp giữa ABAC và các diễn đàn trực thuộc APEC như
cấp Bộ trưởng, cấp S Ò M , cấp Uy ban và các cấp khác cũng cần phải được tăng
cường, tránh tình trằng đóng góp ý kiến và chỉ được ghi nhận.
Thứ hai, bộ máy tổ chức của ABAC, đặc biệt là Ban Thư ký ABAC cũng cần
phải được củng cố nhằm hỗ trợ tốt hơn nữa ABAC trong việc hoàn thành chức năng
nhiệm vụ quan trọng của mình với tư cách là đằi diện chính thức của cộng đồng
doanh nghiệp trong khu vực. Hiện tằi Ban Thư ký ABAC được đặt tằi Manila,
Phillipin với thành phần cơ bản bao gồm có 5 nhân viên: một Giám đốc Điều hành
- Do Chủ tịch ABAC bổ nhiệm, là cố vấn cao cấp của Chủ tịch và luân phiên thay
đổi hàng năm cùng cương vị Chủ tịch và cùng điều hành Văn phòng Ban Thư ký
73

vói Chủ tịch; một Giám đốc Tác nghiệp do ABAC chỉ định, có nhiệm vụ giám sát
công việc hàng ngày của Ban Thư ký và làm việc tại Vãn phòng Ban Thư ký; hai
nhân viên Chương trình/Phụ trách Hành chính chịu sự điều hành trực tiếp của Giám
đốc Tác nghiệp thực hiện mọi hoạt động liên quan đến công việc của ABAC; một
nhân viên tài chính - kế toán. Như vậy, so sánh về số lượng nhân viên và cơ sở vật
chất, Ban Thư ký ABAC nhỏ bé hơn rất nhiều so với Ban Thư ký APEC. Đ ả đáp
ứng khối lượng và tính chất phức tạp của công việc ngày càng gia tăng, cần phải
tăng cường cơ sở vật chất và số lượng nhân viên cho Ban Thư ký ABAC sao cho
phù hợp với những trọng trách sẽ đảm đương trong thời gian tới, giúp ABAC hoạt
động có hiệu quả hơn.
Thứ ba, tạo ra cơ chế thiết lập và triản khai các dự án hợp tác trong APEC có
sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực về mọi mặt: nội dung, tài
chính, vất chất - hậu cần... Hiện tại, các dự án hợp tác trong APEC đang gặp phải
một số khó khăn do nguồn tài chính có hạn trong khi có rất nhiều công việc cần
phải triản khai đòi hỏi kinh phí thực hiện. Ngoài ra, các dự án, chương trình hợp tác
trong APEC cũng sẽ thiếu đi tính năng động và thực tiễn nếu không có sự tham gia
của giới doanh nghiệp - đầu tàu kiến tạo tăng trưởng và phát triản kinh tế - xã hội
trong khu vực. Do vậy, một cơ chế kêu gọi, khuyên khích sự tham gia của khối
doanh nghiệp khu vực vào các chương trình, dự án họp tác sẽ khiến APEC duy trì
và phát triản hoạt động của các diễn đàn, đồng thời cũng giúp cho cộng đồng
doanh nghiệp khu vực tham gia hợp tác APEC sâu rộng và hiệu quả hơn.
Và cuối cùng, bên cạnh cơ chế đại diện chính thức cho cộng đồng doanh
nghiệp khu vực là ABAC, APEC cần tăng cường tổ chức các sự kiện khác như:
các diễn đàn kinh doanh, diễn đàn xúc tiến thương mại và đầu tư, các Đ ố i thoại
Công - Tư trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong
APEC, các hội chợ - triản lãm... APEC cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho
hoạt động kinh doanh, công tác di chuyản và tác nghiệp trong khu vực của các
doanh nhân thuộc các nền kinh tế APEC. Điều đó vừa quảng bá APEC với các
doanh nghiệp, khiến cho các hoạt động hợp tác trong APEC trở nên phong phú
74

và đa dạng hơn trong con mắt cộng đồng doanh nghiệp khu vực, vừa đem lại
những kết quả thiết thực gắn liền với chi phí - doanh thu - lợi nhuận của giới
kinh doanh khu vực APEC.

3.2.2. Các giải pháp từ phía từng nền kinh tê thành viên A P E C

Bên cạnh những nỗ lực chung từ phía Diễn đàn nhằm tăng cưẩng hiệu quả
tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực, từng nền kinh
tế thành viên cũng cần phải có những nỗ lực riêng.
Trước hết, các nền kinh tế thành viên cần phải coi trọng, ưu tiên và đẩy
mạnh tiến trình tham gia hợp tác và hội nhập trong APEC toàn diện ở tất cả các
lĩnh vực: thương mại, đầu tư, vãn hoa, chống tham nhũng, chống khủng bố, niềm
tin tôn giáo, hợp tác y tế, thanh niên, phụ nữ, liên kết doanh nghiệp, chuỗi giá trị,
dây chuyền cung ứng... Có như vậy, trong xu thế của tiến trình hợp tác APEC
chung, sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp của từng nền kinh
tế thành viên mới có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tăng cưẩng và cải thiện hơn nữa
nhằm đem lại hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, từng nền kinh tế thành viên trong phạm vi các nguồn lực cho phép
cần tăng cưẩng hơn nữa cơ cấu tổ chức, vị trí và vai trò của ABAC Quốc gia và Ban
Thư ký ABAC Quốc gia tại nền kinh tế của mình. Hiện tại hầu hết các ABAC Quốc
gia hoạt động bị động, hình thức, thiếu tính liên tục, các nhân viên của các Ban Thư
ký ABAC Quốc gia hoạt động kiêm nhiệm. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến
hiệu quả của các ABAC Quốc gia nói riêng, ABAC Quốc tế nói chung. Vì vậy, cần
phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức ABAC Quốc gia và Ban Thư ký ABAC Quốc gia
sao cho bên cạnh cơ chế kiêm nhiệm là một cơ chế chuyên trách nhưng vẫn đảm
bảo tính gọn nhẹ, tinh giản, và quan trọng là hiệu quả.
Thứ ba, các nền kinh tế thành viên cần tạo điều kiện thuận lợi không những
về mặt chủ trương đưẩng lối chính sách m à còn về mặt cơ chế, vật chất, tài chính
để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong các nền kinh tế thành viên. Hầu hết các

doanh nghiệp trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương là các doanh nghiệp vừa,
nhỏ và siêu nhỏ, vì vậy những hỗ trợ thiết thực, có tính đến điều kiện khách quan
75

và trên cơ sở không phân biệt đối xử là rất cần thiết để các doanh nghiệp này có thể
hội nhập thành công vào thị trường khu vực và quốc tế.
Và cuối cùng, chính việc các nền kinh tế thành viên ủng hộ hệ thống thương
mại đa biên mở, mở cửa thị trường hoa nhập với khu vực và thế giới, tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho hoạt động đầu tư, sẩn xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua
đó nâng cao mức độ hội nhập của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, giúp cộng đồng doanh nghiệp tăng trưởng nhanh và mạnh cũng góp
phần gián tiếp vào việc thúc đẩy giới doanh nghiệp của nền kinh tế thành viên đó
tham gia hợp tác APEC một cách có hiệu quẩ hơn. Và đó cũng chính là một trong
những giẩi pháp có tính chiến lược dài hạn và có ý nghĩa quyết định giúp tăng
cường hiệu quẩ tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp khu vực nói
chung, cộng đồng doanh nghiệp từng nền kinh tế thành viên APEC nói riêng.

3.2.3. Các giẩi pháp từ phía cộng đồng doanh nghiệp k h u vực

Những nỗ lực từ bên ngoài nhằm tăng cường hiệu quẩ tham gia hoạt động
hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực sẽ ít có giá trị hoặc trở thành vô
nghĩa nếu không có những cố gắng nội tại từ phía bẩn thân cộng đồng doanh
nghiệp khu vực. Với những đặc điểm và vai trò, vị thế của mình trong khu vực

Châu A - Thái Bình Dương, cộng đồng doanh nghiệp khu vực APEC hoàn toàn có
khẩ năng đẩy mạnh hội nhập APEC, đẩy mạnh phát triển APEC để hướng tới một

Cộng đồng Châu Á - Thái Bình Dương phát triển bền vững và thịnh vượng.
Trước hết, cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực cần nhận thức được tầm
quan trọng, trách nhiệm và nghĩa vụ của việc tham gia hợp tác APEC. Cộng đổng
doanh nghiệp khu vực với vai trò là lực lượng đầu tàu trong tăng trưởng và phát

triển kinh tế của Châu Á - Thái Bình Dương và là một trong các bên hưởng lợi từ
tiến trình APEC với mục tiêu hướng tới tự do hoa và thuận lợi hoa thương mại và
đầu tư. Do vậy, tham gia hợp tác trong APEC là một hiện tượng khách quan, phẩn
ẩnh đầy đủ mối quan hệ, tính gắn kết giữa cộng đồng doanh nghiệp và cộng đồng

Châu A - Thái Bình Dương vì một mục tiêu chung. Từ thông nhất trong nhận thức
sẽ dẫn đến định hướng đúng đắn trong hành động để tham gia hợp tác APEC có
hiệu quẩ nhất.
76

Bên cạnh đó, để tham gia hợp tác APEC có hiệu quả cộng đồng doanh
nghiệp trong khu vực cần tăng cường liên doanh, liên kết với nhau, tăng cường giao
lưu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, kỹ thuật khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý
để thiết lập các chuỗi dây chuyền giá trố, các dây chuyền sản xuất, dây chuyền
cung ứng đạt hiệu quả tối ưu, có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Cộng
đồng doanh nghiệp khu vực cũng cần mở rộng tầm nhìn và hoạt động hợp tác ra
ngoài khuôn khổ APEC để học hỏi những thành tựu và rút ra những bài học kinh
nghiệm của các khu vực khác và thế giới, phục vụ cho việc triển khai hoạt động
hợp tác trong APEC sau này. Điều này phù hợp với xu thế toàn cầu hoa và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay cũng như tính chất "hệ thống mở" của APEC.
Ngay trong các hoạt động họp tác APEC, cộng đồng doanh nghiệp cần phải
chủ động, tích cực, linh hoạt, sáng tạo, tăng cường các chương trình dự án hợp tác
cũ, nỗ lực tìm kiếm các cơ hội hợp tác mới, tập trung vào các vấn đề trọng tâm đối
với cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực như tự do hoa và thuận lợi hoa thương
mại và đầu tư, an toàn thương mại, tăng cường xây dựng năng lực cho các doanh
nghiệp, đồng thời cũng không bỏ sót các vấn đề có liên quan như chống tham
nhũng, chống khủng bố, hiểm hoa thiên tai, sóng thần, các dốch bệnh... Hiệu quả
hợp tác cao nhất có thể đạt được nếu cộng đồng doanh nghiệp khu vực thực sự năng
động và cầu thố.
Cuối cùng, nhận được và tận dụng tối đa sự ủng hộ và hỗ trợ từ phía APEC,
của từng nền kinh tế thành viên trong APEC để tiếp tục hoàn thiện cơ chế tham gia
hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp cũng là một điều kiện quan trọng để
nâng cao tính hiệu quả của tiến trình này. Với những nỗ lực chung và sự phối hợp
chặt chẽ của các bên hưởng lợi có liên quan trong APEC tiến trình hợp tác APEC
của cộng đồng doanh nghiệp khu vực sẽ vươn tới một tầm cao mới.

3.3. GIẢI PHÁP NHẰM TẢNG CƯỜNG sự THAM GIA HỢP TÁC APEC
CỦA CỘNG ĐỔNG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Cũng như cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực, cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam hoàn toàn có thể triển khai thực hiện các giải pháp nêu trên nhằm tăng
cường hiệu quả tham gia hợp tác APEC trong thời gian tới. Tuy nhiên, do cộng
77

đồng doanh nghiệp Việt Nam có những nét đặc trưng tương đối khác biệt so với
cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực: tuyệt đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam
là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, môi trường kinh doanh của Việt Nam
còn nhiều bất cập và đang trong quá trình hoàn thiện theo thể chế kinh tế thầ trường
mang đầnh hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế
về các nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh và yếu kém về khả năng liên doanh
liên kết..., nên cần thiết phải có một số giải phápriêngđể thúc đẩy các doanh
nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác APEC một cách hiệu quả hơn.

3.3.1. Đ ẩ y mạnh tham gia hợp tác A P E C của Việt Nam

Việt Nam tham gia hợp tác APEC từ tháng 11/1989 khi chính thức trở thành
thành viên của APEC. Trong giai đoạn đầu tham gia APEC Việt Nam với tư cách
thành viên đang phát triển và có một số hạn chế về nguồn lực nên chỉ tham gia
những hoạt động hợp tác Việt Nam cho rằng có tính thiết thực và đem lại hiệu quả
cao, bó hẹp trong phạm vi gắn chặt với đầnh hưởng xuất khẩu, mở rộng thầ trường,
giảm bớt các rào cản xuất khẩu, tham gia chọn lọc một số hoạt động hợp tác APEC
như đầu tư và xây dựng năng lực...
Trong năm APEC 2006 khi Việt Nam là chủ nhà đăng cai APEC, tham gia
hợp tác APEC của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, không những mở rộng ra hầu
hết các lĩnh vực hợp tác trong APEC m à còn đi vào chiều sâu với vai trò là nền kinh
tế thành viên lãnh đạo, dẫn dắt, đầnh hướng và chủ trì, là đầu mối triển khai thành
công nhiều hoạt động hợp tác trong APEC. Nhờ các điều kiện khách quan cũng
như chủ quan, hoạt động hợp tác của Việt Nam trong APEC đã đạt được một trình
độ mới, khẳng đầnh khả năng, năng lực cũng như những nỗ lực của Việt Nam hội
nhập toàn diện APEC, hội nhập khu vực và thế giới.
Từ năm 2007 trở đi Việt Nam cần tiếp tục duy trì và phát triển những kết
quả đạt được, duy trì tính năng động, tích cực trong tất cả các hoạt động hợp tác
của APEC. Cần đặt trọng tâm vào các hoạt động hợp tác có lợi ích trực tiếp đối
với Việt Nam như các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài
chính, trong lĩnh vực xây dựng năng lực, phòng chống thiên tai, bệnh dầch.,.,
78

nhưng cũng không bỏ qua các hoạt động hợp tác khác như văn hoa, thanh niên, y
tế, phụ nữ, tôn giáo...

Đ ể đạt được điều đó nhất thiết phải có sự ủng hộ về mặt đường lối chính
sách, cam kết về mạt chính trị của các cấp cao nhất thuộc Nhà nước và Chính phủ
Viồt Nam, sự quyết tâm và nỗ lực của các cơ quan, bộ, ngành trực tiếp tham gia
vào hoạt động hợp tác trong APEC cũng như sự hỗ trợ, ủng hộ từ phía cộng đồng
doanh nghiồp và nhân dân Viồt Nam. Viồc đẩy mạnh tham gia hợp tác APEC của
Viồt Nam sẽ là nền tảng thuận lợi để tăng cường viồc tham gia hơp tác APEC của
cộng đổng doanh nghiồp Viồt Nam.

3.3.2. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về A P E C cho cộng

đồng doanh nghiệp Việt Nam

Cho đến trước năm 2006 hầu hết các doanh nghiồp Viồt Nam nhận thức rất
m ơ hồ về APEC và các hoạt động hợp tác trong APEC. N ă m 2006 Viồt Nam đăng
cai tổ chức APEC và đã triển khai công tác truyền thông, thông tin tuyên truyền
sâu rộng về APEC và các hoạt động có liên quan đến toàn thể nhân dân, bao gồm
cả cộng đồng doanh nghiồp Viồt Nam. Tuy nhiên, những hiểu biết về APEC chỉ
dừng lại ở những thông tin sơ lược như APEC là gì, các cuộc họp, hội nghị trong
APEC, cơ cấu tổ chức APEC, các hoạt động hợp tác chung nhất trong APEC...
Viồc phổ cập thông tin chuyên sâu về APEC, đặc biồt là các hoạt động hợp tác của
cộng đồng doanh nghiồp khu vực trong APEC cho các doanh nghiồp Viồt Nam
đang đặt ra đối nhiồm vụ đối với Chính phủ và Nhà nước Viồt Nam, cũng như cộng
đồng doanh nghiồp Viồt Nam.

Đ ể thực hiồn công viồc trên, cần phải có sự phối hợp thống nhất giữa chính
phủ và cộng đồng doanh nghiồp Viồt Nam để thực hiồn công tác truyền thông trên
tất cả các phương tiồn thông tin đại chúng có thể có như trang web, đài truyền hình,
đài phát thanh, các báo, tạp chí, tập san ở trung ương và địa phương, tuyên truyền
phổ biến thông qua các kênh hội nghị, cuộc họp, các lớp bồi dưỡng, lớp học, gắn
kết giữa nội dung APEC và hợp tác doanh nghiồp trong APEC với các nội dung
khác về hội nhập kinh tế quốc tế như WTO, ASEAN, ASEM, OECD...
79

Có nhận thức, nắm bắt đầy đủ và toàn diện những thông tin về APEC và hợp

tác doanh nghiệp trong APEC, cộng đồng doanh nghiệp V i ệ t Nam m ớ i có thể khai

thác và tận dụng tốt những cơ hội, hạn chế những thách thức APEC đ e m lại k h i

Việt N a m ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế k h u vực và thế giới.

3.3.3. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng doanh

nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác A P E C

Sự ủng hộ về mẩt chủ trương, đường l ố i chính sách của các cấp, ban ngành
là hết sức cần thiết để đẩy mạnh tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh

nghiệp V i ệ t Nam. Tuy nhiên, để hợp tác được triển khai một cách hiệu quả trong

thực tiễn, cần thiết phải có các nguồn lực hỗ trợ công tác triển khai này, trong đó

quan trọng nhất phải đề cập đến là nguồn nhân lực và nguồn lực tài chính.

Thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác APEC chính

là thúc đẩy các doanh nghiệp V i ệ t Nam quảng bá hình ảnh của mình với k h u vực

và thế giới, tìm kiếm thị trường và đối tác kinh doanh, thúc đẩy liên doanh liên kết,

tăng trưởng và m ở rộng hoạt động của mình, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh

và thích ứng trên trường quốc tế. Chính vì vậy, trong phạm v i có thể cần thiết phải

hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam các điều kiện thuận l ợ i để tạo ra các đội ngũ cán

bộ viên chức, nhân viên công ty vừa giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vừa có kiến

thức vĩ m ô về các vấn đề kinh tế, thương mại, đầu tư quốc tế và khu vực, có trình

độ ngoại ngữ tiếng A n h thông thạo ở tất cả các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đ ộ i

ngũ này cũng cần phải có tác phong công nghiệp, phong cách năng động, sáng tạo,

linh hoạt, chủ động và có tầm nhìn chiến lược đối v ớ i hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp. Đ ầ u tư vào nguồn nhân lực đòi h ỏ i phải có tầm nhìn

chiến lược và một thời gian dài m ớ i có thể đem lại kết quả, tuy nhiên những l ợ i ích

có được từ việc đầu tư này lại rất đáng kể và có tác dụng tích cực dài lâu, nâng cao

khả năng cạnh tranh và cơ hội hội nhập của cộng đổng doanh nghiệp V i ệ t Nam.

Ngoài ra, các khoản hỗ trợ gián tiếp về mẩt tài chính liên quan đến các chi

phí tham gia các hội chợ - triển lãm, hội thảo, hội nghị, diễn đàn, chi phí cho công

tác xúc tiến thương mại, thăm quan khảo sát thị trường, thành lập trung tâm xúc
80

tiến thương mại, văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài... nếu được sử dụng
với một cơ chế phù hợp, nhanh gọn và linh hoạt sẽ góp phần thúc đẩy đáng kể sự
tham gia hợp tác APEC của cộng đổng doanh nghiệp Việt Nam theo hướng đa dạng
hoa và ngày càng đi vào chiều sâu của quá trình hợp tác. Do các doanh nghiệp Việt
Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa, nhấ và siêu nhấ với các nguồn lực tài chính
thường rất khan hiếm nên chính sự hỗ trợ về mặt tài chính phục vụ tiến trình tham
gia hợp tác APEC nói riêng, hội nhập khu vực và quốc tế nói chung sẽ tạo ra những
bước đột phá trong việc tăng cường tính hiệu quả và tăng cường chiều sâu trong
quan hệ hợp tác đối ngoại của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

3.3.4. Cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội để cộng đồng doanh nghiệp

Việt Nam phát triển và hội nhập

Đ ố i với Việt Nam, một trong những vấn đề then chốt để tăng cường khả
năng cạnh tranh và hội nhập của cộng đồng doanh nghiệp trong nước đó chính là
cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Việc tăng cường năng lực cạnh tranh và hội
nhập của chính các doanh nghiệp Việt Nam cũng góp phần quan trọng để thúc đẩy
các doanh nghiệp tham gia các hoạt động của các tổ chức và diễn đàn khu vực cũng
như quốc tế sâu rộng hơn, trong đó bao gồm hoạt động hợp tác trong APEC.
Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của Việt Nam từ lâu đã được cho là yếu kém,
lạc hậu, còn nhiều bất cập, cả về mặt số lượng cũng như chất lượng, về mặt phần
cứng cũng như phần mềm, gây nhiều thiệt hại về thời gian, công sức, tiền bạc cho
các doanh nghiệp Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư,
kinh doanh tại Việt Nam. Điều này cũng góp phần khiến nền kinh tế Việt Nam đạt
hiệu quả và năng suất thấp và kém cạnh tranh hơn so với một số nền kinh tế tương
đồng trong khu vực. Do vậy, nỗ lực tích cực hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế, giúp doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn, tăng cường khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững, hội
nhập đầy đủ với cộng đồng kinh doanh khu vực APEC và toàn cầu.
81

3.3.5. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phải t ự nhận thức được yêu

cầu thiết thực của việc tham gia hợp tác APEC nói riêng, hội nhập k h u
vực và quốc tế nói chung

V à cuối cùng, các doanh nghiệp V i ệ t N a m cần phải tư duy và nhận thức

được đầy đủ yêu cầu thiết thực của việc tích cực và hiệu quả tham gia hợp tác

A P E C nói riêng, chủ động h ộ i nhập nói chung. Bởi trong nền k i n h tế toàn cầu

hoa và t h ế giới chuyên m ô n hoa cao độ nếu không h ộ i nhập, không tham gia vào

tiến trình chung của toàn cầu hoa, k h u vực hoa và hợp tác quốc tế đồng nghĩa

với việc "bí quan toa cảng" - tự cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, tự huy
diệt chính mình.

Chỉ với nhận thức và tư duy như vậy, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam

mới có thể chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác trong APEC

nh
m đạt được hiệu quả cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp, thúc đẩy nền k i n h tế tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ, đ e m lại sự phồn

thịnh cho cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân V i ệ t Nam.
KẾT LUẬN

Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc tham gia các liên kết
kinh tế khu vực và quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO luôn là chủ trương
đường lối đúng đắn của Đảng, Chính phủ và Nhà nước Việt Nam. Thực tế đã chứng
minh Việt Nam tham gia APEC đã góp phần khẳng định vị thế, tăng cường thế và
lực của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, giúp Việt Nam gia nhập Tụ chức
Thương mại Thế giới (WTO), khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sâu
rộng vào thị trường khu vực và toàn cầu.
APEC với tư cách là một liên kết kinh tế quốc tế có nhiều đặc điểm riêng
biệt khi qui tụ 21 nền kinh tế rất đa dạng và phong phú về mọi mặt: kinh tế - chính
trị - văn hóa - xã hội, trong đó bao gồm sự hiện diện chính thức của cộng đồng
doanh nghiệp khu vực trong các hoạt động hợp tác của APEC.
Đ ề tài nghiên cứu về APEC và sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng
doanh nghiệp khu vực cũng như sự tham gia hợp tác APEC của cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam, thực trạng và triển vọng, từ đó đề xuất một số các giải pháp căn
bản mang tính định hướng chiến lược và có tính khả khi nhằm tăng cường sự tham
gia hoạt động hợp tác APEC của cộng đồng doanh nghiệp khu vực nói chung, cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam nóiriêngtrong thời gian tới.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả hi vọng góp phần nhỏ bé giúp
cộng đụng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ với
nhiều hạn chế về thông tin hiểu rõ hơn về APEC, các hoạt động hợp tác của cộng
đồng doanh nghiệp khu vực trong APEC, hoạt động hợp tác APEC của giới doanh
nghiệp Việt Nam, từ đó có kế hoạch, chiến lược cụ thể để tăng cường tham gia hợp
tác APEC nói riêng, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế nói chung trong thời
gian tới.
Do hạn hẹp về thời gian và trình độ luận văn không thể tránh khỏi những sai
sót, tác giả mong nhận được những đóng góp của các nhà khoa học, bạn đọc để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2007
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Hoàng Anh Tuấn, Trung tâm nghiên cứu APEC, Học viện Quan hệ Quốc tế
(2007), Đánh giá tiến trình APEC và tác động đối với Việt Nam, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Uy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (2006), sổ tay Doanh nghiệp
APEC và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm, NXB Văn hoa - Thông
tin, Hà Nội.
3. Uy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (2004), Việt Nam và các tổ
chức kinh tếquốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Vãn phòng ABAC Việt Nam, Cục Xúc tiến Thương mại (2003), Hội đồng tư
vấn kinh doanh APEC (ABAC), Hà Nội.

5. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương Mại (2003), Hỏi đáp về
APEC-ASEM, Hà Nội.

6. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương Mại (2006), Hỏi đáp về
Diễn đàn Hợp tác Kinh tếChâu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hà Nội.

7. Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao và Vụ Chính sách Thương


mại Đa biên, Bộ Thương mại (2003), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Ả -
Thái Bình Dương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Vụ Tổng hợp Kinh tế, Bộ Ngoại giao (1998), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tiếng Anh

9. Annual Ministerial Statements 1989 - 2006.

10. APEC Business Advisory Council (2006). Driving Forward a Prosperous


and Harmoniied APEC Community.

li. APEC Business Advisory Council (2005). Networking Asia - Pacific: A


Pathway to Common Prosperity.

12. APEC Business Advisory Council (2004). Bridging the Pacific: Coping wừh
the Challenges of Globalixation.

13. APEC Business Advisory Council (2003). Harmony in Diversity: Achieving


Balanced and Equitable Growth: Report to the APEC Economic Leaders.

14. APEC Business Advisory Council (2002). Sharing Development to Rein/orce


Global Security: Report to the ÁP ÉC Economỉc Leaders.

15.APEC Business Advisory Council (2001). Common Development through

Market Openingy Capacity Building and Full Participation: Report to the

APEC Economic Leaders.

16. APEC Business Advisory Council (2000). Facing Gỉobaỉiiation the APEC
Vỉày: Report to the APEC Economic Leaders.

17. APEC Business Advisory Council (2000). Getting Resultsỷor Business.

18. APEC Business Advisory Council (1999). APEC Means Business:

Background Papers & Ministers Report.

19. APEC Business Advisory Council (1998). APEC Means Business: Restoring
Conỷidence, Regenerating Growth.

20. APEC Business Advisory Council (1997). APEC Means Business: ABACs

Call to Action.

21. APEC Business Advisory Council (1996). APEC Means Busìness: Building

Prosperity for our Community.

22. APEC Secretariat (2006). APEC át a Glance.


23. APEC Secretariat (2006). APEC Outcomes and Outlooks 200512006,

24. APEC Secretariat (2006). Trade Facilitation Brochure, 2005/2006.

25. APEC Secretariat (2005). A Mid-term Stocktake of Progress towards the


Bogor Goaỉs.

26. APEC Secretariat (2006). APEC Perspective 2006.

27. Centre for International Economics, Australian Government (2005). Open


Economies delivering to People, 2005.

28. Leaders' Declarations 1993 - 2006.


Trang Web:

29. www.apec.org
30. www.abaconline.org
31. www.apec2006.vn
32. www.apec2007.org
33. www.apecceosummit2006.org

You might also like