Professional Documents
Culture Documents
Dự đoán bệnh tật PDF
Dự đoán bệnh tật PDF
Quan hệ đối ứng giữa Bát quái với thân thể con người
Dự đoán cát hung của tật bệnh là thông qua sự vượng suy của Dụng
Thần mà quyết định. Mà phán đoán bệnh chứng ta dùng quái cung, lục
thân, hào vị, ngũ hành, lục thần… Tiến hành phân tích tống hợp mới có
thể cho ra kết luận chính xác. Quái cung cho ta tin tức cơ bản nhất của
bệnh chứng.
Cung Càn: Bệnh phổi, khí quan hô hấp, bệnh ở đầu, bệnh của phái nam,
bệnh ở xương, ngực, đại tràng, táo bón, bệnh người già…
Cung Khôn: Tỳ vị, bụng, tiêu hóa xấu, thực quản, phụ khoa, bệnh thời kỳ
mãn kinh, bệnh ngoài da…
Cung Chấn: Can, đảm, chân, hệ thống thần kinh, bệnh tâm thần, suy
nhược thần kinh, bệnh động kinh…
Cung Tốn: Can, đảm, phong hàn, bệnh ở đùi, chân, giang môn, bán thân
bất toại, ruột, bệnh truyện nhiễm, bạch huyết, suyễn…
Cung Khảm: Thận, bàng quang, huyết dịch, cao huyết áp, đi tiểu, tiểu
đường, lưng, ta, kiết lỵ, bệnh lây qua đường sinh dục, trúng độc, cơ quan
sinh dục…
Cung Ly: Tâm tạng, tiểu trường ( ruột non), bệnh huyết dịch, huyết áp
thấp, phát nhiệt, cảm nắng, kinh nguyệt, ảo giác phụ khoa, thiếu máu…
Cung Cấn: Tỳ vị, lưng, lỗ mũi, da, cánh tay, bả vai, tay tuyến giáp trạng,
vú, bệnh sởi…
Cung Đoài: Bệnh phổi; bệnh lao phổi, ruột, khoang miệng, đầu lưỡi, cổ
họng, giang môn, hàm răng, ngực, ngoại thương (thương tổn vì nguyên
nhân bên ngoài), khí quản; cuống phổi, thực quản..
Nếu Quan Quỷ là Dụng Thần hoặc nguyên thần thì bị khắc hưu tù là bệnh,
vượng tương không phải là bệnh. Ngược lại Quan Quỷ là kỵ thần hoặc
cừu thần thì hưu tù không luận là bệnh mà vượng tướng mới luận là bệnh.
Quan Quỷ nếu không phải các dạng trên thì vượng tướng là bệnh, hưu
tù không phải là bệnh. Mặt Khác, Quan Quỷ là mộ khố cũng có thể luận
là bệnh táo
Kỵ thần là bệnh, bị khắc, hóa thối không phải là bệnh. Dụng Thần bị khắc
là bệnh, hóa thối là bệnh. Nguyên thần bị khắc, nguyên thần không vong,
động mà hóa thối, bị hợp không thể sinh Dụng Thần cũng là bệnh. Dụng
Thần quá vượng cũng là bệnh
Dụng Thần phục dưới hào Quan Quỷ là bệnh nhân bị tật bệnh giày vò
thời gian dài. Dụng Thần hưu tù hóa Quan Quỷ là đại hung.
Tử Tôn chủ ngũ quan, cơ quan sinh dục, ruột, thực quản, đường hô hấp,
vú, mạch máu
Thê Tài chủ huyết dịch, hô hấp, phân và nước tiểu, đi tiểu, kinh nguyệt,
tuỷ xương, mắt, tinh trùng, trứng, trung tiện, mồ hôi, lông; tóc
Lục Thần chủ yếu là dùng để nói rõ tính chất nguyên nhân của bệnh tật
Thanh long: đau nhức, ngứa, hậu sản phong, trúng độc, say rượu, tình dục
quá độ, bệnh lây qua đường sinh dục, vì thăm người thân mà bị bệnh.
Chu tước: nói mê sảng, cuồng ngôn loạn ngữ, chứng viêm, phát sốt, vì ăn
uống mà bị bệnh, cãi lộn dẫn đến bệnh, đi tiểu, ù tai.
Câu Trần: u; bướu, ung thư, kết sỏi, ngã, bị bệnh do phong thủy, trì trệ, trí
nhớ suy giảm, phồng lên; trướng lên, năng lực kém, mơ hồ,
Đằng Xà: ruột, quái bệnh, nghi vấn là tạp chứng, kinh sợ, ác mộng, thiếu
máu, tà khí, tạng phủ bất toàn, tinh thần không tốt.
Bạch hổ: sinh dục, huyết dịch, té bị thương, tai nạn giao thông, ngoại
thương, kinh nguyệt không đều, đẻ non, gãy xương, nổi giận dẫn tới bệnh.
Huyền vũ: bệnh lây qua đường sinh dục, phụ khoa, nan ngôn chi ẩn ( việc
khó nói; nỗi niềm khó nói), kết hạch, loét; lở, phong hàn, phong thấp, u
buồn
Dùng lục hào dự đoán tật bệnh là ta từ nhiều phương diện mà luận thông
tin, tìm ra chỗ tương đồng để tổng hợp phán đoán. Nếu như từ mấy chỗ
đều phản ảnh cùng một cái tin tức chứng tỏ tin tức này rất rõ ràng, có
thể không chút do dự mà phán đoán. Phán đoán Cát hung là từ sự vượng
suy của Dụng Thần mà luận ra, nhưng muốn luận được chính xác bệnh
chứng một cách chi tiết phải từ quái cung, hào vị, lục thân, lục thần để
luận. Tuy nhiên lục thân có rất nhiều hàm nghĩa, mà muốn luận chính xác
thông tin cần tham khảo hào vị. Hào vị bất đồng thì ý nghĩa của lục thân
cũng thay đổi.
Quan Quỷ ở hào sơ là bệnh mụn cơm, chai chân, chai tay, đi lại bất tiện,
cước bộ bị thương, đau chân
Quan Quỷ hào hai là bệnh ở chân, đầu gối, khớp xương, viêm khớp
xương, bộ phận sinh dục, bệnh nam giới, phụ khoa, ruột, giang môn, can,
đảm
Quan Quỷ hào ba là can đảm, bụng, lưng; eo, rốn, dạ dày, thận, bàng
quang, tử cung
Quan Quỷ hào bốn là gan, tâm tạng, tỳ vị, ngực, phế, lưng, vú
Quan Quỷ hào năm là phế, tâm tạng, đường hô hấp, thực quản, lỗ tai,
mũi, yết hầu, răng, cổ bả vai
Quan Quỷ hào sáu là đầu, xuất huyết não, tắc động mạch não, cao
huyết áp, huyết áp thấp, choáng váng đầu, suy nhược thần kinh, xơ cứng
động mạch não, tay, bả vai
Phụ Mẫu ở hào sơ bởi vì giao thông mà gặp tai nạn, vì mệt nhọc dẫn tới
bệnh, vì mộ cổ, hài cốt đưa tới bệnh, bệnh do vật phóng xạ dưới đất…
Phụ Mẫu ở hào hai là vì việc nhà đưa tới bệnh, ngủ không đủ, bệnh do
phong thủy, vì ăn uống dinh dưỡng không đầy đủ, gia đình bất hòa đưa
tới bệnh
Phụ Mẫu ở hào ba là ác mộng, bất an, đau bụng, kiết lỵ, không khí không
lưu thông đưa tới bệnh
Phụ Mẫu ở hào bốn là vì tuổi cao mà dẫn tới bệnh, hoặc do quần áo mà
cảm lạnh, hoặc ngực có bệnh có bệnh, táo bón, đại tiểu tiện không
thông
Phụ Mẫu ở hào năm là do sự cố giao thông, bị bệnh ở bên ngoài, bị bệnh
vì đi du lịch, bệnh phổi, khó thở
Phụ Mẫu hào sáu là có bệnh ở đầu, tâm tình buồn bực, tính khí không tốt,
bị kích thích dẫn tới bệnh
Huynh đệ ở hào sơ là bệnh trên chân, bệnh mụn cơm, chai chân; chai
tay, bệnh phù chân, đi lại bất tiện, nếu không vong là tượng không thể
dậy được
Huynh đệ ở hào hai là bệnh ở đùi, đầu gối, tiêu hóa, kiết lỵ, sinh hoạt quá
độ, đại tiểu tiện bất hảo
Huynh đệ hào ba là bắp đùi, lưng; eo, tiêu hóa không tốt, dạ dày có bệnh
Huynh đệ ở hào sáu là do gây gổ đưa tới bệnh, ngoại thương, tay, bả vai
Tử Tôn hào sơ là do động vật, trẻ con đưa tới bệnh, huyết mạch ở chân
không thông đưa tới bệnh
Tử Tôn hào hai là cơ quan sinh dục, ruột, đại tiểu tiện hữu bệnh, liệt dương,
không thể có thai, xuất tinh sớm, đẻ non, kinh nguyệt không đều, bệnh sa
nang
Tử Tôn hào ba là không thể có thai, sinh hoạt quá độ, cơ quan sinh dục,
ruột có bệnh
Tử Tôn ở hào bốn là vú, thực quản, đường hô hấp, khí quản có bệnh
Tử Tôn ở hào năm là tai, cổ họng, khoang miệng, lỗ mũi, mắt, thực quản,
đường hô hấp
Tử Tôn ở hào sáu là máu cung cấp không đủ, huyết quản, xuất huyết não,
tắc động mạch não, thiếu máu
Thê Tài ở hào sơ là cấp dưới đưa tới bệnh, thực vật, sông ngòi đưa tới
bệnh
Thê Tài ở hào hai là giang môn, đại tiểu tiện, ăn uống, trúng độc thức ăn,
kinh nguyệt
Thê Tài ở hào ba là lưng; eo, bụng, giang môn, dạ dày, kinh nguyệt, bao
tinh hoàn
Thê Tài hào bốn là tỳ vị, thận, vú, đường hô hấp, tiêu hóa
Thê Tài ở hào năm là tiêu hóa, thiếu sữa, hô hấp không thông, suyễn
Thê Tài hào sáu là huyết dịch tuần hoàn không tốt, đầu có bệnh
Tôi trong thực tiễn đã từng tiếp xúc qua nhiều loại bệnh ung thư, tích lũy
được không ít kinh nghiệm dự đoán. Nay xin nói rõ về sự khác nhau giữa
bệnh ung thư và u bướu cho mọi người tham khảo.
Trong việc luận đoán tính chất cùng triệu chứng bệnh cần thông qua sự
vượng suy của Dụng Thần và trường sinh thập nhị cung để lấy thông tin.
Câu Trần có đầy đủ ý nghĩa về phù thũng, khối u, u cục. Vì vậy ta dung
làm tiêu chí phán đoán về bệnh ung thư cùng các bệnh về u cục. Nếu
Câu Trần lâm Dụng Thần, kỵ thần, nguyên thần thì rất nhiều khả năng là
có bệnh như trên. Tuy nhiên không thể chỉ bằng Lục Thần mà kết luận,
cần phải xem sự vượng suy của Dụng Thần cùng nguyên thần. Dụng Thần
hưu tù, Dụng Thần hoặc nguyên thần bị tử mộ tuyệt là có khả năng bị ung
thư. Dụng Thần vượng tướng thì chỉ là bệnh về khối u bình thường hoặc
phù thũng.
Ví dụ 1: Năm 1995 tháng tý ngày Nhâm Ngọ, một người nam xem về bệnh
của cha được quẻ Thủy Hỏa Ký Tế biến Phong Lôi Ích
Phán đoán: Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Phụ Mẫu thân kim lâm Câu
Trần chẳng những không được nhật nguyệt sinh phù, còn bị nhật khắc
thương thành hưu tù. Nguyệt Kiến cùng hào động Tý thủy là tử địa của
Dụng Thần. Đây chính là thông tin rõ rệt về bệnh ung thư. Là ung thư gì,
chúng ta tổng hợp phán đoán từ những phương diện khác.
Quẻ thuộc cung khảm, khảm là bàng quang, thận, tai…. Hào ba huynh
đệ Hợi thủy phát động hóa xuất Quan Quỷ Thìn thổ, Hợi thủy là bệnh địa
của Dụng Thần, Quan Quỷ lại chủ tật bệnh. Cho nên vị trí này trên thân
thể có bệnh. Thủy ở hào ba chủ thận, bàng quang, Thìn là thủy mộ, thủy
là nước tiểu, mộ thủy là cơ quan tích trữ nước nên có thể hiểu là bàng
quang. Vậy luận là ung thư bàng quang.
Dụng Thần không vong là bệnh ung thư diễn ra đã lâu, bệnh lâu phùng
không là chết, hơn nữa dụng thần hưu tù vô cứu, cho nên bệnh này rất
hung. Năm 1996 là Bính Tý dụng thần tử địa, năm này rất hung.
Ví dụ 2: Ngày Giáp Thân tháng mão, một người nữ xem bệnh được quẻ
Trạch Sơn Hàm
Phụ Huyền
Đinh Mùi Ứng
Mẫu vũ
Huynh Đinh
Bạch hổ
Đệ Dậu
Phán đoán: Hào Thế là hào ba lâm Câu Trần bị hào hai Quan Quỷ Ngọ
hỏa khắc chế, hào ba là tử cung, hào thế lại là đất trường sinh của tử
tôn, là nơi sinh con cho thấy thông tin về tử cung rất rõ ràng. Câu Trần là
sưng trướng, nhưng hào thế được nhật phù mà vượng cho nên đoán là
khối u tử cung.
Quan Quỷ là kỵ thần, Tử Tôn khắc quan mà lâm thủy là Đông y, cho nên
đoán là uống thuốc Đông y có thể chữa trị được.
Ứng nghiệm: quả nhiên một ngày trước ( ngày Quý Mùi) đau bụng, đến
bệnh viện khám ra bệnh u tử cung, sau uống thuốc đông y mà khỏi bệnh
Ví dụ 3: Nam xem bệnh, ngày Canh Tuất tháng Thìn được quẻ Sơn Hỏa
Bí biến Phong Lôi Ích
Phán đoán: Hào thế không được nhật nguyệt sinh phù mà lại không vong
thành ra hưu tù.
Trong quẻ nguyên thần lưỡng hiện hơn nữa đều phát động, nhưng vì bị
nhật nguyệt khắc thương mà lực lượng sinh thế không lớn. Hào năm
nguyên thần lâm Câu Trần động mà hóa tuyệt, Nguyệt Kiến lại là mộ khố
nên khẳng định là ung thư.
Hào năm về hào vị là ngũ quan, Sơn Hỏa Bí thuộc cung cấn, cấn là mũi,
tỳ vị, … Kết hợp hào vị luận là ung thư mũi. Thê Tài hào năm động mà hóa
tuyệt là tượng nước mũi không thể chảy ra, hô hấp bất tiện.
Thế lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là dao kéo, là tượng phẫu thuật. Nhưng Dụng
Thần hưu tù nên rất khó chữa khỏi hoàn toàn.
Ứng nghiệm: quả nhiên là ung thư mũi. Sau giải phẫu đang duy trì
Ví dụ 4: Một người xem bệnh cho chú, ngày Bính Thân tháng Sửu năm
Canh Thìn được quẻ Địa Phong Thăng biến Lôi Sơn Tiểu Quá
Phán đoán: Lấy Hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Dụng Thần lưỡng hiện lấy
hào động Phụ Mẫu Hợi thủy làm Dụng Thần. Dụng Thần nguyệt khắc nhật
sinh nên lực lượng suy vượng tương đương. Nhưng không nên kỵ thần Thê
Tài Sửu thổ động tới khắc, hơn nữa còn làm nguyên thần nhập mộ, khắc
nhiều sinh ít tất hung.
Dụng Thần lâm Câu Trần, nguyên thần nhập mộ là tin tức về ung thư.
Dụng Thần bị Bạch Hổ lâm Thê Tài khắc thương, Bạch Hổ chủ máu nên có
bệnh ở máu huyết. Kim chủ xương cốt, thủy chủ dịch thể, ở chỗ này có
thể hiểu là tuỷ xương. Kim nhập mộ không thể sinh thủy là tuỷ xương có
vấn đề không thể tạo máu, là ung thư máu.
Sang năm Tân Tị, Dụng Thần phùng xung tất hung.
Ứng nghiệm: sau chết vì ung thư máu, thời gian vào ngày Bính Thìn tháng
dần năm Tân Tị.
Ví dụ 5: Có người nam xem bênh cho mẹ, ngày Canh Tý tháng dậu năm
2001 được quẻ Phong Trạch Trung Phu biến Phong Thủy Hoán
Phán đoán: Dụng Thần tuy động hóa sinh, nhưng Dụng Thần tuần không
nên không được sinh, tỵ hỏa hưu tù ở tháng, bị nhật khắc. Hơn nữa Bạch
Hổ lâm Dụng Thần mang ý nghĩa tử vong là tượng rất hung hiểm. Dụng
Thần lâm thái tuế động hóa Quan Quỷ chính là tượng trong năm biến
quỷ, tất có hung hiểm trong năm. Tháng Hợi hợp trụ nguyên thần không
sinh Dụng Thần, Dụng Thần phùng xung bất cát.
Phán đoán bệnh chứng: hai Dụng Thần đều cần tham khảo. Một dụng
thần lâm Câu Trần, tử tại Nguyệt Kiến là tượng của ung thư. Dụng Thần tử
tại dậu kim, kim là Tử Tôn cho nên Tử Tôn đối ứng cũng là bệnh. Tử Tôn là
ruột, đường hô hấp, thực quản, vú, kết hợp Dụng Thần lâm hào năm đoán
là người mẹ bị ung thư thực quản.
Ứng nghiệm: quả nhiên là ung thư thực quản, tuy nhiên kết quả cuối cùng
như thế nào vì không có gặp lại lần nữa nên không rõ.