Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 55

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

2 NGUYÊN LÝ, 3 QUY LUẬT, 6 CẶP PHẠM TRÙ (TRIẾT HỌC TÓM LƯỢC)

Trước tiên, bạn phải hiểu thế nào là chủ nghĩa duy tâm, thế nào là chủ nghĩa duy vật.
Duy tâm là bạn coi trọng ý thức hơn vật chất, xem ý thức có vai trò quyết định vật chất, kiểu
như chỉ cần có niềm tin là có thể sống được.
Còn duy vật là bạn coi trọng vật chất hơn ý thức, xem vật chất có vai trò quyết định vật chất,
điển hình là câu nói “Có thực với vực được đạo”
Từ đó, có khái niệm “duy vật biện chứng”, đó là mọi sự vật tồn tại luôn có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau và nó có vai trò quyết định ý thức.
Phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6 cặp phạm trù:

2 nguyên lý: mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

– Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:


Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại luôn có mối quan hệ tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau,
không có sự vật hiện tượng nào mà chỉ tồn tại một cách độc lập, tách rời nhau, từ đó, rút ra
được bài học thực tế:
+ Muốn nhận xét đúng một sự việc hoặc sự vật, hiện tượng cần phải xem xét chúng ở các
mặt, các phương diện và yếu tố để đánh giá chính xác, tránh quan điểm phiến diện, chỉ nhìn
vào một sự việc mà đánh giá chung cho toàn bộ. Điển hình đó là câu chuyện “Thầy bói xem
voi”
+ Đồng thời, cần phải đặt các sự việc hoặc sự vật, hiện tượng đó trong những điều kiện
hoàn cảnh lịch sử khác nhau để đánh giá. Điển hình là khi đưa ra bản án cho một kẻ phạm
tội trộm cắp cần phải xem xét rằng tiền sử của người đó đã từng phạm tội hay chưa, nếu
chưa thì lý do gì mà người đó phạm tội, có thể vì lý do đang túng thiếu cần tiền chữa bệnh
cho con để thực hiện hành vi chẳng hạn, từ đó mới xem xét giảm án thích hợp cho người
này.

– Nguyên lý về sự phát triển:


Mọi sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong trạng thái vận động và phát triển theo đường xoắn
ốc, cái mới ra đời thay thế cái cũ, trên cơ sở cái cũ. Nhận thức được nguyên lý này, bạn
phải hiểu rằng mọi thứ luôn cần phải có thời gian tích lũy, khi tích lũy đạt đến một mức độ
nhất định thì đòi hỏi bạn phải bước tiến lên một bậc mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn.
Từ đó cần phải tránh tâm lý ù lì, không chấp nhận sự phát triển như một quy luật tất yếu
hoặc nôn nóng, chưa tích lũy đủ mà đã muốn tiến lên bậc mới.

3 quy luật: Quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định
– Quy luật lượng – chất: Chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển
Lượng là cái thường xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn định, lượng biến đổi đến
một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành chất mới thay thế chất cũ.
Trong quy luật này có dùng một số từ như “độ”, “bước nhảy”, “điểm nút”. Cụ thể: Độ là
khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật,
điểm nút là thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự vật
và bước nhảy là chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật.
Lấy một ví dụ cụ thể cho các bạn về quy luật này như sau:
Sinh viên tích lũy một lượng kiến thức đủ mới trở thành cử nhân. Trong đó: lượng là lượng
kiến thức phải đạt được, chất là sinh viên. Độ là từ năm 1 đến năm 4, còn điểm nút chính là
năm 1 và năm 4, bước nhảy chính là từ sinh viên lên cử nhân. Lúc này, chất là cử nhân.
Rút ra bài học thực tế: Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có thể thay đổi về chất, tránh tư
tưởng nóng vội chưa tích lũy đủ về lượng đã muốn thay đổi về chất (chưa học xong đã
muốn đi làm công việc mình đang học) hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng
nhưng lại không muốn thay đổi về chất (học xong rồi nhưng lại không muốn đi làm)

– Quy luật mâu thuẫn: Chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Trong mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, khuynh
hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng đó.
Và sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguồn gốc tạo nên sự vận động và
phát triển, dẫn đến cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên cần phải phân tích, sự vật, hiện
tượng để tìm ra những mâu thuẫn trong các mặt, khuynh hướng và mối liên hệ giữa chúng
mà giải quyết, tránh việc điều hòa các mâu thuẫn đó.
Đơn cử là câu chuyện không biết thì phải học.

– Quy luật phủ định của phủ định:


Cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng trên nền tảng kế thừa cái cũ. Cái mới này trong quá
trình phát triển tiếp theo lại dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi một cái mới
cao hơn. Cứ như thế mà thông qua số lần phủ định kế tiếp nhau mà sự vật, hiện tượng sẽ
phát triển không ngừng theo đường xoắn ốc.
Điển hình là văn bản pháp luật mới ra đời luôn dựa trên nền tảng của văn bản pháp luật cũ,
giữ lại những điểm hay của văn bản pháp luật cũ, đồng thời bãi bỏ những điểm chưa hay,
chưa tốt để thay thế bằng điểm mới hay hơn, tốt hơn tại văn bản pháp luật mới.
Rút ra được bài học thực tế: Cái mới ra đời là tất yếu, cái mới thay thế cái cũ, nhưng dựa
trên nền tảng cái cũ, tránh phủ định sạch trơn cái cũ hoặc là không đón nhận sự ra đời của
cái mới.

6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên;
Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực

Cái riêng và cái chung: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình.
Ví dụ: mỗi con người là một thực thể riêng biệt, phân tích kỹ bên trong mỗi con người đều
có những điểm chung như đều có khối óc có thể điều khiển được hành vi của mình và trái
tim cảm nhận được thế giới xung quanh.

Nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả, nguyên nhân như thế nào sẽ sinh ra kết quả như thế ấy.
Ví dụ: Gieo nhân nào thì gặt quả nấy.

Tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên vạch ra đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu
nhiên, tất nhiên quy định ngẫu nhiên, đồng thời, ngẫu nhiên bổ sung cho tất nhiên. Do vậy
trong thực tế phải căn cứ vào cái tất nhiên, chứ không phải căn cứ vào cái ngẫu nhiên,
nhưng cũng không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái
ngẫu nhiên.
Ví dụ: Để đạt được kết quả tốt trong học tập thì chăm chỉ, siêng năng học tập là điều tất
nhiên, nhưng nhưng đến ngày thi thì bị vấn đề về sức khỏe làm kết quả thi thấp là điều ngẫu
nhiên.

Nội dung và hình thức: Nội dung và hình thức có mối liên hệ thống nhất, gắn bó chặt chẽ lẫn
nhau. Không có nội dung nào mà lại không có hình thức, cũng không có một hình thức nào
lại không chứa nội dung. Nội dung quyết định hình thức và hình thức cũng tác động trở lại
đối với nội dung. Hình thức phù hợp sẽ thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại.
Ví dụ: Nội dung một quyển sách như thế nào thì mới quyết định phải làm trang bìa như thế
nào, nếu như nội dung vui nhộn nhưng trang bìa có cách bố trí tiêu đề và màu bìa là gam
màu buồn thì không thể tạo sự hứng khởi cho người đọc quyết định đọc quyển sách đó.

Bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng biểu hiện ra thành những hiện tượng nhất
định, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Bản chất
quyết định hiện tượng, bản chất như thế nào thì hiện tượng sẽ như thế ấy.
Ví dụ: bản chất của nước là chất lỏng được thể hiện bằng hiện tượng

Khả năng và hiện thực: Khả năng và hiện thực tồn tại thống nhất, không tách rời nhau và
luôn chuyển hóa lẫn nhau; khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ biến thành hiện
thực. Vì thế mà trong thực nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực và để khả năng
biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người trong nhận
thức và thực tiễn.
Ví dụ: Trước mắt, là giấy, bút và thước kẻ là hiện thực thì khả năng có thể tạo ra hộp đựng
quà.

-Lý luận nhận thức duy vật biện chứng là nhận thức và thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử và xã hội của con người
nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn bao gồm hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động
khoa học, trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, chi phối đối với các
hoạt động còn lại. (Có tiền và tài sản rồi thì mới nghĩ đến chuyện đảm bảo ổn định an ninh
xã hội và phát triển khoa học là tiền đề để tạo ra của cải, vật chất mới)
Nhận thức là quá trình phản án tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo ra tri thức về thế giới khách quan đó. Nhận
thức gồm nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác và biểu tượng) và nhận thức lý tính (khái
niệm, phán đoán và suy lý)
Mối liên hệ giữa thực tiễn và nhận thức: Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,
động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình
nhận thức. Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức. Đồng thời, qua hoạt động thực
tiễn đem lại cho con người những tài liệu cho nhận thức, giúp nhận thức nắm bắt được bản
chất, quy luật vận động của thế giới.
Ví dụ: Khi học các môn vật lý, hóa học, học sinh thường được tham gia các buổi thí nghiệm
song song với các buổi học lý thuyết, các buổi thí nghiệm này chính là thực tiễn để kiểm tra
lại đúng đắn của lý thuyết mình vừa học. Đồng thời, trước khi đưa ra các chân lý thì các nhà
khoa học đã có quá trình nghiên cứu thực tiễn để đưa ra quy luật.

Hết phần chủ nghĩa duy vật biện chứng, giờ đến phần chủ nghĩa duy vật lịch sử
– Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất
tạo ra của cải, vật chất, bao gồm: người lao động (thể lực, trí lực và sức lao động) và tư liệu
sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động)
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, bao
gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối. (ai nắm quyền sở
hữu thì người đó cũng có quyền tổ chức, quản lý và phân phối)
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, cụ thể, trong quá trình sản xuất, lực lượng
sản xuất không ngừng phát triển, đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ đã lỗi
thời, cần phải đổi mới để phù hợp với lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất cũng có
tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, nếu phù hợp nó sẽ là động lực để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, bằng không sẽ kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ví dụ: nguyên nhân tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa của các nước Đông Âu đó chính là
không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, và ở nước ta cũng vậy,
đã mắc phải sai lầm nóng vội, chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu quan hệ sản xuất bao cấp
tập trung dân chủ, dẫn đến người lao động ỷ lại, trì trệ trong lao động sản xuất, không phát
huy được sáng kiến mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau này, tại Đại hội Đảng
lần thứ VI, chúng ta mới dám nhìn thẳng nhìn đúng vào vấn đề để giải quyết tình trạng này,
tuân thủ theo đúng quy luật.
– Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ các quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu
kinh tế của xã hội đó. Bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã
hội trước và quan hệ sản xuất mầm mống, trong đó quan hệ sản xuất thống trị đóng vai trò
quyết định, chi phối các quan hệ sản xuất còn lại.
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội (ý thức chính
trị, pháp quyền, tôn giáo) cùng với các thiết chế chính trị xã hội (nhà nước, đảng phái, giáo
hội) tương ứng được hình thành trên cơ sở kiến trúc thượng tầng nhất định.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối liên hệ thống nhất với nhau, trong đó, cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, song kiến trúc thượng tầng cũng tác động trở lại
đối với cơ sở hạ tầng.
Ví dụ: Tầng lớp nào nắm giữ quyền lực về kinh tế thì cũng sẽ nắm giữ quyền lực về chính trị
xã hội.

– Tồn tại xã hội và ý thức xã hội:


Tồn tại xã hội: Toàn bộ đời sống vật chất của xã hội và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của nó, bao gồm: môi trường tự nhiên, điều kiện dân số.
Ý thức xã hội: toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, tâm tư, tình cảm, tập tục truyền thống…
của xã hội phản ánh lại tồn tại xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, bao gồm:
ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận (tâm lý xã hội và hệ tư tưởng)
Tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào sẽ
sinh ra ý thức xã hội như thế ấy, tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư tưởng trong
đầu óc con người mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội.
Ví dụ: Mình không thể tìm ra ý tưởng để viết bài này khi không có sự tồn tại những ám ảnh
khi học môn này của các bạn sinh viên.
Các hình thái kinh tế xã hội
Lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội, bao gồm:

– Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thủy.


– Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ.

– Hình thái kinh tế xã hội phong kiến

– Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa tư bản

– Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa xã hội

Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ tương ứng với lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất khác nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng khác nhau.
Như vậy, về cơ bản các bạn chỉ cần nắm những nội dung cơ bản sau:

1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận

3. Phép biện chứng duy vật

2 nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

3 quy luật: Quy luật lượng chất; quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định.

6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên;
Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

4. Chủ nghĩa duy vật lịch sử

– Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

– Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

– Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

5. Các hình thái kinh tế xã hội

1. Vật chất và ý thức


1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về
phạm trù vật chất.
- Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm:
Thừa nhận sự tồn tại của sự vật hiện tượng vật chất nhưng phủ định đặc tính tồn tại
khách quan của vật chất
- Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
* Quan niệm của CNDV thời cổ đại:
+ Phương Đông cổ đại: . Thuyết tứ đại (Ấn Độ): đất, nước, lửa, gió
. Thuyết Âm - Dương cho rằng có hai lực lượng âm – dương đối lập nhau nhưng lại
gắn bó, cố kết với nhau trong mọi vật, là khởi nguyên của mọi sự sinh thành, biến
hóa.
. Thuyết Ngũ Hành coi năm yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là những yếu tố khởi
nguyên cấu tạo nên mọi vật.
+ Phương Tây cổ đại: Talet, Anaximen, Hêraclít, ‘Vật chất là nguyên tử’
– Đêmôcrit…
Mặt tích cực và hạn chế của CNDV thời cổ đại:
-Tích cực:
+Xuất phát từ chính thế giới vật chất để giải thích thế giới.
+Là cơ sở để các nhà TH duy vật về sau phát triển quan điểm về thế giới VC
=> Vật chất được coi là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan
- Hạn chế:
+Họ đã đồng nhất vật chất với một dạng vật thể cụ thể=> Lấy một vật chất cụ thể để
giải thích cho toàn bộ thế giới vật chất ấy.
+Những yếu tố khởi nguyên mà các nhà tư tưởng nêu ra đều là các giả định, còn
mang tính chất trực quan cảm tính, chưa được chứng minh về mặt khoa học.
*Quan niệm về vật chất của CNDV thời cận đại:
- Chứng minh sự tồn tại thực sự của nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất vĩ
mô thông qua thực nghiệm của vật lý học cổ điển.
- Đồng nhất vật chất với khối lượng; giải thích sự vận động của TGVC trên nền tảng
cơ học; tách rời VC – VĐ, không gian và thời gian.
=> Không đưa ra được sự khái quát triết trong quan niệm về thế giới vật chất -> Hạn
chế phương pháp luận siêu hình.
b) Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX , và
sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
- Năm 1896, Béc-cơ-ren phát hiện được hiện tượng phóng xạ.
- Năm 1897, Tôm Xơn phát hiện ra điện tử.
- Năm 1901, Kaufman chứng minh khối lượng biến đổi theo vận tốc của điện tử.
- Năm 1905, 1916 A.Anhxtanh: Thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối tổng quát.
+ Các nhà khoa học, triết học duy vật tự phát hoài nghi quan niệm vật chất của
CNDV trước đó.
+ CNDT kinh nghiệm tấn công và phủ nhận quan niệm vật chất của CNDV.
+ Một số nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang
chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
* V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ:
-Vật lý không bị khủng hoảng, mà đó chính là dấu hiệu của một cuộc cách mạng
trong khoa học tự nhiên.
- Cái bị tiêu tan không phải là nguyên tử, không phải “vật chất tiêu tan” mà chỉ có giới
hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan.
- Những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ vật chất
mà chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chế của con người về vật chất.
c) Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất.
* Quan niệm của Ph.Ăngghen:
- Để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa
vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học, một sáng tạo của tư duy con
người trong quá trình phản ánh hiện thực chứ không phải là sản phẩm của tư duy.
- Các sự vật, hiện tượng của thế giới, dù rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn
có một đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại, độc lập không lệ
thuộc vào ý thức.
*Quan niệm của V.I.Lênin:
-V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học,
đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm.
-V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất duy tâm.
- Lênin đã tìm kiếm phương pháp định nghĩa mới cho phạm trù vật chất thông qua
đối lập với phạm trù ý thức.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc và cảm giác”.
Phương pháp ý nghĩa:
-Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách đem đối lập với phạm
trù ý thức trên phương diện nhận thức luận cơ bản.
- Quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm khác rộng hơn, đồng thời chỉ ra
đặc điểm riêng của nó.
Nội dung định nghĩa:
-Thứ nhất, phân biệt khái niệm khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học
với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành.
-Thứ hai, Thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là Tồn tại
khách quan.
-Thứ ba, “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác,…”
-Thứ tư, “Vật chất …… được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Ý nghĩa của định nghĩa:
+ Giải quyết một cách đúng đắn và triệt để cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
+ Triệt để khắc phục hạn chế của CNDV cũ, bác bỏ CNDT, bất khả tri
+ Khắc phục được khủng hoảng, đem lại niềm tin trong khoa học tự nhiên
+ Tạo tiền đề xây dựng quan điểm duy vật về xã hội, và lịch sử loài người. Là cơ sở
để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự liên minh ngày càng chặt chẽ giữa triết học
duy vật biện chứng với khoa học
d) Các hình thức tồn tại của vật chất.
* Vận động:
“Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại
của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy” – Ph. Ăngghen.
-Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất:
+ Vật chất chỉ tồn tại bằng cách vận động và chỉ thông qua vận động mà vật chất
biểu hiện sự tồn tại của mình.
+ Con người chỉ nhận thức sâu sắc về sự vật thông qua trạng thái vận động của giới
vật chất.
-Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất:
+ Vận động của vật chất là vận động tự thân
(chống quan điểm DT và siêu hình về vận động)
+ Vận động sinh ra cùng với sự vật và chỉ mất đi khi SV mất đi => chuyển hóa thành
sự vật và hình thức vận động khác (vận động nói chung là vĩnh viễn)
* CÁC HÌNH THỨC VẬN ĐỘNG CỦA VẬT CHẤT:
+ Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất, từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động.
+ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp
hơn. Trong khi các hình thức vận động thấp hơn không có khả năng bao hàm các
hình thức vận động ở trình độ cao.
+ Trong sự tồn tại của mình mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận
động khác nhau. Tuy nhiên bản thân sự tồn tại của sự vật bao giờ cũng đặc trưng
bởi hình thức vận động cao nhất.
* Mối quan hệ giữa vận động và đứng im:
+ Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn
+ Đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im,
cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
+ Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan
hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ
+ Đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra
với tất cả các hình thức vận động
+ Đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất
định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn
diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
+ Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dạng, kết cấu của sự
vật.
* Hình thức tồn tại của vật chất:
+ Không gian: là đặc tính kích thước, trật tự phân bố của SVHT
+ Thời gian: là đặc tính diễn biến, kế tiếp trước sau của SV
* Tính chất: Vật chất có 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian
+ Tính khách quan
+ Tính vĩnh cửu và vô tận
+ Không gian luôn có 3 chiều
Thời gian chỉ có 1 chiều
d) Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó
+ Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, có trước, quyết định ý thức con
người
+ Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không tự nhiên sinh ra, không mất đi.
+ Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều là những dạng cụ thể của vật chất, nên chúng
có mối liên hệ qua lại, tác động qua lại lẫn nhau
2. Nguồn gốc bản chất và kết cấu của ý thức.
a) Nguồn gốc của ý thức
CNDT: Ý thức là bản thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi
phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất
CNDVSH: Xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc của ý thức; coi ý thức
cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.
CNDVBC: Ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự
nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử
của con người.
Nguồn gốc của ý thức:
- Nguồn gốc tự nhiên:
+ Bộ óc người và chức năng phản ánh
+ Thế giới KQ
- Nguồn gốc xã hội:
+ Lao động:
Tạo ra của cải vật chất đồng thời là nhân tố quyết định hình thành bộ óc người.
Thông qua LĐ các giác quan hoàn thiện Con người nhận dạng và phân loại thông tin
Phương pháp tư duy khoa học được hình thành từ cảm tính đến lý tính
Hình thành ngôn
+ Ngôn ngữ:
. Chuyển tải tư duy, ý thức
. Đỡ lệ thuộc vào các đối tượng vật chất cụ thể -> Tư duy phát triển
Bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo.
=> Là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
b) Bản chất của ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
+ Ý thức là "hình ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người; Nội dung phản ánh
là khách quan Hình thức phản ánh là chủ quan.
+ Ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo gắn với thực tiễn xã hội:
. Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh
. Xây dựng các học thuyết Lý thuyết khoa học
. Vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn
- Ý thức mang bản chất lịch sử - xã hội:
+ Điều kiện LS
+ Quan hệ xã hội
c) Kết cấu của ý thức
Theo chiều ngang:
-Tri thức
-Tình cảm
- Ý chí
Theo chiều dọc
-Tự ý thức
-Tiềm thức
-Vô thức
Vấn đề trí tuệ nhân tạo:
Phân biệt ý thức và máy tính điện tử là 2 quá trình khác nhau về bản chất.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Quan điểm của CNDT và CNDVSH
* Chủ nghĩa duy tâm:
-Ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, có tính quyết định; còn thế giới vật chất chỉ là
bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh
ra
- Phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, hành
động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
* Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
-Tuyệt đối hoá yếu tố vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức
- Phủ nhận tính độc lập tương đối và tính năng động, sáng tạo của ý thức trong hoạt
động thực tiễn; rơi vào trạng thái thụ động, ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu quả
trong hoạt động thực tiễn
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Vai trò của vật chất đối với ý thức:
-Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
-Vật chất quyết định nội dung của ý thức
-Vật chất quyết định bản chất của ý thức
-Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, ý thức tác động trở lại thế giới vật chất, thường thay đổi chậm so với sự
biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay
Ý nghĩa phương pháp luận
+ Tôn trọng quy luật khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, có thái
độ tôn trọng hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật; nhận thức và
hành động theo quy luật khách quan.
+ Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và
phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa học...trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
+ Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng
tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng
động, sáng tạo ấy.

2. Học thuyết hình kinh tế - xã hội


1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì? Và học thuyết hình thái kinh tế là 1 nội dung
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của
triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội
và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong ba bộ phận hợp thành
triết học Mác Xít. Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người
bằng sự phát triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ
sản xuất cũng thay đổi dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan
hệ sản xuất đó cùng với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó
cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị. Trước Mác đã có
những quan điểm triết học mặc dù rất có giá trị và được Mác kế thừa thế nhưng đều
có 1 sai lầm chung là thiếu tính thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã lần đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng triết học chỉ ra những quy luật, động lực phát triển xã hội một
cách thực tiễn, đúng đắn. Học thuyết hình thái kinh tế -xã hội là một nội dung cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát
triển xã hội, là phương pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội. Ngày nay
thế giới chứng kiến những sự biến đổi chóng mặt về khoa học, kéo theo đó là sự
thay đổi của các hệ thống pháp lý, chính trị thế nhưng lý luận hình thái kinh tế -xã hội
vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và giá trị thời đại. Đây là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học chỉ đạo cho các chính đảng và nhà nước xã hội chủ
nghĩa vận dụng sáng tạo trong xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính
sách xây dựng chủ nghĩa xã hội; là cơ sở khoa học của việc xác định con đường
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam
hiện nay. Học thuyết hình thái kinh tế -xã hội của Chủ nghĩa Mác – Lênin bao gồm
một hệ thống các quan điểm cơ bản:
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, phát triển của xã hội.
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
2. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Để tồn tại và phát triển con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất là hoạt động
không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người. Sản xuất là hoạt động đặc trưng của xã hội
loài người mà không một loài nào khác có được. Ví dụ các loài vật khác mặc dù
cũng có những hoạt động tạo ra giá trị vật chất như con ong xây tổ nhưng hành
động “xây tổ” của con ong lại hoàn toàn dựa vào bản năng giống loài, nó khác với
hoạt động “xây dựng” của con người đòi hỏi có sự sáng tạo. Quá trình sản xuất diễn
ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội – sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực. Ph. Ăngghen từng khẳng định: “Theo quan điểm duy vật về lịch
sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực. Cả Mác và tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn. Nếu như có ai
xuyên tạc khiến cho câu trên có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là nhân tố duy nhất
quyết định, thì họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, vô nghĩa”. Sự sản xuất
xã hội, nghĩa là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm ba phương
diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản
thân con người. Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác nhau. Sản xuất vật chất giữ
vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, và xét đến cùng
quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, con
người còn tiến hành sản xuất tinh thần. Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra
các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người
và xã hội. Đồng thời con người còn sản xuất ra bản thân con người. Sản xuất ra bản
thân con người trong phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái.
Còn trong phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tính
cách là thực thể sinh học – xã hội. Trong các loại sản xuất trên, theo em, sản xuất
vật chất là loại sản xuất quan trọng nhất trong suốt tiến trình phát triển của con
người từ thời nguyên thủy đến nay. Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con
người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải
biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Thuở sơ khai, hoạt động sản xuất vật
chất của con người dừng lại ở những việc vô cùng đơn giản như nhóm lửa, hái
lượm, săn thú, chặt cây,… thế nhưng thời điểm hiện tại hoạt động này đã phức tạp
hơn, mang nhiều sức sáng tạo hơn rất nhiều ví dụ như sản xuất thiết bị điện tử
thông minh, xây nhà, làm đường,…Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát
triển xã hội loài người. Vai trò của sản xuất vật chất được thể hiện, trước tiên, sản
xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người” nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói
riêng. Nhờ có sản xuất vật chất nên con người tạo ra giá trị thặng dư là tiền đề để
phân chia giai cấp từ đó hình thành nên các cấu trúc xã hội, điều mà không hề có ở
các loài khác. Sản xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho
hoạt động tinh thần của con người và duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh
thần của xã hội. C.Mác chỉ rõ: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực
tiếp ... tạo ra một cơ sở từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước , các
quan điểm pháp quyền , nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của
con người ta". Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó. Sản xuất vật chất là
điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt động sản xuất vật chất
mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo đức,
phẩm chất xã hội của con người. Ph. Ăngghen khẳng định rằng, “lao động đã sáng
tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động sản xuất mà con người vừa tách khỏi tự
nhiên, vừa hoà nhập với tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và
tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản thân con người. Xét đến cùng, không thể
dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần, để phát triển xã hội phải bắt đầu từ
phát triển đời sống kinh tế - vật chất.
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
3.1. Phương thức sản xuất.
a. Lực lượng sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động
giữa con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của
cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất
định. “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách
nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được,
người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và quan hệ của
họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất.” (C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập 1993,
nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Người lao động là con người có tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất
của xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. ngày nay,
trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao
động trí tuệ ngày càng tăng lên. Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ
chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao
động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao
động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con
người. Đối tượng lao động gồm 2 loại là: có sẵn trong tự nhiên và qua chế biến
(nguyên liệu). Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người
dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm
công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố
vật chất của sản xuất cùng với công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động
Công cụ lao động là phương tiện con người dùng trực tiếp tác động lên đối tượng
lao động, là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn giữa người lao động và đối
tượng lao động. Người xưa dùng công cụ lao động “rìu đá” để tác động lên đối
tượng lao động “thân cây” để biến đổi chúng thành những thanh gỗ nhỏ đáp ứng nhu
cầu làm nhà. Ngày nay thì công cụ lao động “rìu đá” đã biến thành “cưa máy” tác
động vào đối tượng lao động “thân cây” cũng để lấy gỗ làm nhà giống người thời tiền
sử thế nhưng với năng suất và chất lượng gỗ thu được vượt trội hơn nhiều. Thế nên
C. Mác từng khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao
động nào”. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất
của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực
lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế -kỹ thuật (tư liệu sản
xuất) và mặt kinh tế -xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết
hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất. Như vậy, lực
lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố “người lao động” và “tư liệu sản
xuất” cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản
xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con
người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất -năng lực hoạt động sản
xuất vật chất của con người. Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan
hệ giữa người lao động và công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao
động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì người lao động
là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Người lao động tạo ra tư liệu sản
xuất chứ tư liệu sản xuất ko thể tạo ra người lao động được. Trình độ của tư liệu sản
xuất được quyết định bởi người lao động tạo ra chúng. Năng suất của tư liệu sản
xuất cũng được quyết định bởi người lao động sử dụng chúng.
Cùng với sự phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất cũng không ngừng phát
triển theo. Sự phát triển này thể hiện ở 2 tính chất là tính chất cá nhân và tính chất
xã hội trong sử dụng tư liệu sản xuất. Trong thời điểm hiện tại lực lượng sản xuất có
tính xã hội hóa ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng được thể
hiện trên khía cạnh trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của
người lao động, công cụ lao động, ứng dụng lao động vào sản xuất,...Ngày nay khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học trở thành nguyên nhân của mọi
biến đổi trong lực lượng sản xuất,làm cho năng suất không ngừng gia tăng. Khoa
học cũng đã giải quyết các mâu thuẫn lực lượng sản xuất đặt ra nó thâm nhập vào
mọi yếu tố và các khâu quan trọng của quá trình sản xuất, ngày nay không có quá
trình sản xuất nào không nhờ đến khoa học.
b. Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế -vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện trong 3 khía cạnh: Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ giữa người với người trong tổ chức quản lý
sản xuất, quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. Quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu, sử
dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế -xã hội của
các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản lý và phân phối.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của
quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác. Bởi vì, lực lượng xã
hội nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định
việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm. Quan hệ về tổ chức quản lý
sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người việc tổ chức sản xuất và phân công lao
động. Quan hệ này có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của
nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất
xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có tầm quan trọng đặc
biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất .Quan hệ về phân phối sản phẩm lao
động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩm lao động
xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được
hưởng.Quan hệ này có vai trò đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con
người, là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất,làm năng động
hoá toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Hoặc ngược lại, nó có thể làm trì trệ, kìm hãm
quá trình sản xuất.
3.2. quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể hiện ở 3 khía cạnh: Lực lượng
sản xuất nào quan hệ sản xuất đó, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản
xuất cũng thay đổi, nội dung quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quyết định. Ví
dụ khi lực lượng sản xuất dựa vào công cụ thô sơ thì các quan hệ sản xuất đi kèm
cũng chủ yếu chỉ là quản lý nhỏ, phân tán, hình thức phân phối chủ yếu theo hiện
vật. Còn khi lực lượng sản xuất dựa vào công cụ lao động hiện đại thì các quan hệ
sản xuất cũng lớn hơn đa dạng hơn như sở hữu lớn, quản lý theo phong cách hiện
đại, hình thức phân phối đa dạng. Quan hệ sản xuất lại tác động ngược lại lực lượng
sản xuất theo 2 chiều hướng: Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
thì sẽ tạo đà phát triển cho LLSX, ngược lại nếu QHSX không phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX thì sẽ cản trở LLSX phát triển. Để xét sự phù hợp giữa QHSX và
LLSX ta xét các khía cạnh sau:
- Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành LLSX.
- Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành QHSX
- Sự kết hợp đúng đắn giữa LLSX với QHSX.
-Tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX.
-Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ
thành quả vật chất, tinh thần của lao động.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX là quy luật quyết định sự vận động,
phát triển nội tại của bản thân PTSX và là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ tiến
trình lịch sử nhân loại.
3.3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
- Muốn phát triển kinh tế phải phát triển lực lượng sản xuất trước.
- Ở Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường thành nhiều thành phần.
-Ở Việt Nam xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm để phát
triển lực lượng sản xuất.
4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
4.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong Sự vận động
hiện thực của chúng, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cơ sở hạ tầng được
hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đây là
toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó
hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ
bản, đầu tiên, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội khác. Ví dụ nền kinh tế Việt
Nam hiện nay có 4 thành phần kinh tế là: Kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế
100% vốn nước ngoài, kinh tế tập thể. Các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ cấu
nền kinh tế Việt Nam. Cấu trúc CSHT bao gồm: QHSX tàn dư, QHSX thống trị,
QHSX mầm mống. Trong đó QHSX tàn dư là QHSX của xã hội cũ, QHSX thống trị
giữ vai trò chủ đạo quyết định xu hướng chung của cơ sở hạ tầng, QHSX mầm
mống là QHSX của xã hội tương lai.
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết
chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định. Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ
những quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
triết học... cùng những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố về điểm tư tưởng và thiết chế
xã hội có quan hệ với nhau, cùng với những quan hệ nội tại trong các yếu tố đó hợp
thành kiến trúc thượng tầng của xã hội quan. Trong đó thì nhà nước là quan trọng
nhất vì nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật cái mà có sự
cưỡng chế các bộ phận còn lại. Chính nhờ nhà nước mà tư tưởng của giai cấp
thống trị trở thành thống trị trong xã hội.
4.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
a. Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng.
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội là 1 trong 2 quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển lịch sử xã hội
loài người. Trong mối quan hệ này cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến
cùng tính tất yếu chính trị -xã hội. CSHT như thế nào thì KTTT như thế đó, QHSX
nào là thống trị thì nó sẽ tạo ra một KTTT như thế ấy, giai cấp nào mà thống trị trong
xã hội thì toàn bộ tư tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị trong xã hội.
CSHT mà mất đi, CSHT mới ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũng mất đi để ra đời
một KTTT mới. Nội dung của KTTT do CSHT quy định. Ví dụ trong xã hội tư bản
quan hệ sở hữu là tư hữu thì kiến trúc thượng tầng là nhà nước tư sản ban hành
pháp luật bảo vệ chế độ tư hữu, khi xã hội tư hữu chuyển thành công hữu, nhà nước
tư sản thành nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành pháp luật bảo vệ chế độ công
hữu.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Suy
cho cùng vẫn là bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, ngăn chặn CSHT mới, xóa bỏ
tàn dư CSHT cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế.
Nếu KTTT tác động đến CSHT cùng chiều với quy luật kinh tế thì sẽ đẩy xã hội phát
triển, hoặc ngược lại. KTTT chính trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp CSHT,
là biểu hiện tập trung của kinh tế.
4.3. ý nghĩa trong đời sống xã hội của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Giúp nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
- Giúp Đảng ta xác định được chủ trương đổi mới.
5. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
5.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và với một KTTT tương ứng được
xây dựng trên kiểu QHSX đó. Phạm trù hình thái kinh tế -xã hội chỉ ra kết cấu xã hội
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng), kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản
xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại
kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình
thái kinh tế -xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và
quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt
bản chất các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối
quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần
của đời sống xã hội.
5.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người.
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội: Cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện tại là đang tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển này là 1 quá trình lịch sử tự nhiên do các lý do
sau:
- Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan
-Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên nhân trực
tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX xã hội.
-Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội còn chịu sự tác động của các
nhân tố chủ quan khác nên xu hướng chung của các HTKT – XH là sự phát triển từ
thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó được diễn ra bằng nhiều cách.
-Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ quan)
II. QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ -XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM.
1. Các nội dung đã áp dụng.
a. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa
xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn làm được điều
đó thì cách mạng vô sản phải thành công, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản đã tiến hành cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp
thống trị và các nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Hơn
thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế -xã hội đã khẳng định: các
quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ của các hình thái
kinh tế -xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song
căn cứ vào điều kiện lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài
hình thái kinh tế -xã hội. Theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá
độ gián tiếp. Lê-nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản
chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Nước ta là nước lạc hậu về
kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tiến từ bản chủ
nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ sau đây.
Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc
lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại
mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN,
không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin. Trong điều
kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ
TBCN. Con đường CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản
xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát
triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân dân lao
động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là chế độ người bóc
lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người…Từ tất cả những lí do trên,
nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó khăn, thử
thách. Dân số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ
nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách
rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù
hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của
đất nước.
b. Hướng đi xây dựng xã hội.
Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có
một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải
phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh em
chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế
giới. Đây là chính là nội dung “sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
của xã hội” và “vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng”. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) của Đảng ta đã khẳng định: “Xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Mục tiêu đó chính là
sự cụ thể hóa từ nội dung “biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội”.
2. Các thành tựu đạt được.
Nếu như giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm chỉ đạt 4,4% thì đến năm 2019 con số này đã đạt 7,02%, quy mô nền kinh tế đạt
hơn 262 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đã lên gần 2.800 USD. Danh sách
do Forbes Asia 2019 công bố, trong 200 công ty có doanh thu trên 1 tỷ USD tốt nhất
tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã có tới 7 doanh nghiệp của Việt Nam. Ngoài
ra, Việt Nam còn xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm
2019, tăng 15 bậc so với năm 2018. Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, tính
đến năm 2019, Việt Nam đã có quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia của Liên
hợp quốc; có quan hệ kinh tế -thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh
thổ; có 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; 71 nước đã công nhận
Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.Việt Nam đã tham gia thiết lập một nền kinh tế
thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện đại, đáp ứng yêu cầu của hội nhập; xây dựng
cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương,
doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế cũng đưa Việt Nam trở
thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới liên kết kinh tế với các nền kinh tế
hàng đầu thế giới.
Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, tính đến năm 2019, Việt Nam đã có quan hệ
chính thức với 189/193 quốc gia của Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế -thương mại
và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ; có 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác
chiến lược toàn diện; 71 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
3. Các hạn chế.
Trình độ lực lượng sản xuất của Việt Nam hiện nay rất không đồng đều. Đây là đặc
trưng rất rõ nét. Sự không đồng đều của trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở cả
hai yếu tố cấu thành là người lao động và công cụ lao động. Về trình độ của người
lao động ở nước ta rất rõ là vừa có người lao động với trình độ cao ở cấp độ quốc tế
vừa có người lao động với trình độ lao động giản đơn bằng chân tay, vừa có người
lao động vừa có trình độ tay nghề cao ở lĩnh vực này nhưng lại có tay nghề thủ công
ở công đoạn khác của chuỗi sản xuất. Đối với công cụ lao động cũng tương tự, có
sự đan xen của công cụ lao động thủ công, cơ khí, hiện đại, tự động hóa. Đầu vào
của sản xuất vật chất cũng vậy, vừa hiện đại, vừa không hiện đại, vừa có đầu vào
vật thể, vừa có đầu vào phi vật thể. Các điều kiện của sản xuất vật chất như sân
bay, bến cảng, đường xá, cầu cống cũng tương tự vừa hiện đại vừa bán hiện đại và
có khi còn thô sơ. Từ đây cho thấy đặc trưng về trình độ lực lượng sản xuất ở Việt
Nam là không đồng đều; hiện đại, bán hiện đại và thô sơ đan xen, kết hợp.
Đối với quan hệ trao đổi.
Một hạn chế là chúng ta dường như không để ý tới quan hệ trao đổi trong nền kinh
tế thị trường -điều mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin luôn đề cập. Cũng
giống như quan hệ sản xuất, quan hệ trao đổi của Việt Nam hiện nay cũng không
thuần nhất, chúng không hoàn toàn là tuân theo quy luật của thị trường và cũng
không hoàn toàn là tuân theo những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.
Các thiết chế của kiến trúc thượng tầng của chúng ta như Nhà nước, Đảng, quân
đội, tòa án, v.v.. vẫn còn những hạn chế yếu kém nhất định.
4. Biện Pháp giải quyết.
Với tình trạng không đồng đều trong lực lượng lao động ta nên thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần, chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa dạng hóa hình thức
phân phối, tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi. Từ quan hệ sản xuất đa dạng nhiều
thành phần cũng như quan hệ trao đổi đan xen như vậy chúng ta phải chấp nhận
kiến trúc thượng tầng của chúng ta cũng chưa thể có đặc trưng thuần nhất xã hội
chủ nghĩa ngay được. Nếu không nhận rõ điều này sẽ làm cho chúng ta chủ quan,
nóng vội, duy ý chí. Chúng ta phải chấp nhận kiến trúc thượng tầng của chúng ta
cũng có sự không thuần nhất cả về các yếu tố cấu thành, cả về các khía cạnh trong
nội bộ từng yếu tố. Để hoàn thiện quan hệ trao đổi, trước hết chúng ta phải hoàn
thiện cơ sở pháp lý của trao đổi để giải quyết hài hòa các bên của quan hệ trao đổi.
Trên cơ sở đó hình thành cơ chế vận hành cho quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế
thị trường, quan hệ trao đổi phải dựa trên quy luật giá trị, quy luật cung -cầu, quy luật
thị trường nói chung. Những nền kinh tế thị trường của chúng ta là kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa -một mô hình kinh tế thị trường mới đặc biệt, khác với
các mô hình kinh tế thị trường đã có. Do vậy, đối với Việt Nam, một trong những
biện pháp quan trọng để hoàn thiện quan hệ trao đổi là giải quyết tốt quan hệ: nhà
nước -thị trường -xã hội và quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị
trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản sản Việt Nam
đã nhận thức rõ. Đồng thời phải hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường. Chúng ta
phải chủ động xây dựng kiến trúc thượng tầng của chúng ta theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cụ thể, nhà nước bằng các chính sách của mình có thể thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, trên cơ sở đó hậu thuẫn, hỗ trợ, thúc đẩy quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ trao đổi xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện. Theo đó,
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện, củng cố.
KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế -xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện
nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó đưa ra một phương pháp hữu hiệu để phân
tích các hiện tượng trong cuộc sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải
pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Lí luận về hình thái kinh tế -xã hội đã chỉ ra
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra
những hướng đi đúng đắn. Từ đó chỉ rõ những giải pháp đưa đất nước ta phát triển
lên một tầm cao mới. Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa
học để ta phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu
của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình
hình khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng của xã hội
vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ
nguyên giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực sự
khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước hiện đại
ở Việt Nam.

3. Triết học về con người


1.1. Khái niệm
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
+ Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng
bản chất để phân biệt con người với động vật.
+ Mặt sinh học là cơ sở để hình thành mặt xã hội
+ Mặt xã hội tác động lớn đến mặt sinh học, chúng kiềm chế, định hướng các hành
vi sinh học của con người. Vì vậy, các hành vi sinh học của con người luôn diễn ra
một cách có văn hóa.
1.2 Bản chất của con người
b. “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”(C. Mác)
+ Năng lực sáng tạo lịch sử của con người và các điều kiện phát huy năng lực sáng
tạo của con người.
+ Giải phóng con người - động lực cơ bản của sự phát triển xã hội.
c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự
nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử.
- Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người làm ra lịch sử của mình.
- Không có hoạt động của con người thì không có quy luật xã hội, và do đó không có
sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
- Bản chất của con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn vận
động, biến đổi cũng thay đổi cho phù hợp.
(*) Con người tự quyết định bản chất của mình.
Con người có thể tự do lựa chọn đi xuống tới những thang bậc thấp kém nhất của
thế giới thú vật, nhưng cũng có thể nâng cao bản thân mình lên tới phạm vi cao cả
nhất của thần thánh. Là nhân vị tự do nên con người phải chịu trách nhiệm với lựa
chọn của mình. Khi Một người chối bỏ tự do (để đổi lấy miếng ăn hay sự an toàn
chẳng hạn), thì anh ta cũng mất đi phẩm giá làm người để rơi xuống hàng "sự vật".
Nhưng việc chối bỏ tự do suy đến cùng thì cũng vẫn là một lựa chọn, và anh ta phải
chịu trách nhiệm với lựa chọn ấy của mình. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì con
người tự tạo nghiệp cho mình bằng những lựa chọn mà anh ta thực hiện trong cuộc
đời; mọi sinh linh tự quyết định bản chất và hiện hữu cho chính nó bằng các hành
động của nó. Hệ quả là: sự đa dạng là bản chất của con người chứ không phải là
điều kiện nhất thời. (Nguồn: Nguyễn Văn Trọng)
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về quần chúng nhân dân
Xuất phát từ quan điểm quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, cách mạng
phải là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin, ngay từ khi xây dựng học thuyết cách mạng, đã đặt trọng tâm vào công tác
nghiên cứu, xây dựng, phát triển lý luận về công tác vận động quần chúng. Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đảng Mácxít luôn trung thành và lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận vận động quần chúng của chủ nghĩa
Những quan điểm cơ bản về công tác vận động quần chúng của chủ nghĩa Mác -
Lênin là:
Một là, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo nên lịch sử.
Lịch sử cho thấy, quần chúng nhân dân là chủ thể tạo ra mọi của cải vật chất đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chính quần chúng là
người làm nên lịch sử.
Hai là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản:
Là chủ thể của lịch sử, nhưng quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy tối đa sức
mạnh và vai trò sáng tạo một khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã
luận chứng một cách khoa học về vai trò của Đảng Cộng sản như một điều kiện chủ
quan có ý nghĩa quyết định đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tiến
trình cách mạng XHCN.
Ba là, công tác vận động quần chúng phải xuất phát từ nhu cầu, lợi ích nhằm tạo sự
thống nhất hành động của quần chúng
Nhu cầu chính là sự tự ý thức được giá trị của sự vật, hiện tượng, quá trình để từ đó
thôi thúc con người hành động. Theo C.Mác, tất cả cái gì mà con người đấu tranh để
giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ. Ph.Ăngghen cho rằng, không phải là ở
những lý tưởng, những chân lý mà chính là lợi ích kinh tế, động lực thúc đẩy con
người hành động: “ Rõ ràng và cụ thể rằng nguồn gốc và sự phát triển của hai giai
cấp lớn đó là những nguyên nhân thuần túy kinh tế. Và, cũng rõ ràng là trong cuộc
đấu tranh giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tư sản, cũng như trong cuộc
đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thì trước hết, vấn đề là ở những
lợi ích kinh tế -để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử
dụng làm một phương tiện đơn thuần”.
Bốn là, công tác vận động phải biết đoàn kết, tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm
vụ chính trị:
Muốn vận động quần chúng thì phải đoàn kết và tập hợp quần chúng trong một tổ
chức.
Sự đoàn kết của GCCN được tập hợp trong một tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản là điều kiện cho sự thắng lợi của cách mạng vô sản. Trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Mục đích trước mắt
của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản
khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”.
ộng quần chúng phải có phương pháp phù hợp, đặc biệt là phương pháp nêu gương
và giúp đỡ:
Trong công tác vận động quần chúng, Ph.Ăngghen căn dặn, phải có phương pháp,
đặc biệt là phương pháp nêu gương và giúp đỡ, không được dùng phương pháp
mệnh lệnh, áp đặt.
Phương pháp nêu gương đặc biệt có giá trị trong công tác tuyên truyền, giáo dục,
vận động quần chúng.
Để đạt được hiệu quả trong việc giáo dục ý thức chính trị cho GCCN đòi hỏi Đảng
phải có phương pháp tuyên truyền, giáo dục quần chúng để đưa quần chúng lên địa
vị của những người tự giác trong đấu tranh cho tự do: “ Phải sử dụng vào việc tuyên
truyền và cổ động chính trị, tất cả những hiện tượng và biến cố trong đời sống xã hội
và chính trị có quan hệ đến giai cấp vô sản, hoặc một cách trực tiếp như đối với một
giai cấp riêng biệt, hoặc như đối với đội tiền phong của tất cả các lực lượng cách
mạng đang đấu tranh cho tự do”.
Trong điều kiện hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, bên cạnh
những thời cơ, thuận lợi cũng không ít những khó khăn, thách thức, để công tác vận
động quần chúng tạo động lực cho công cuộc đổi mới, bên cạnh việc tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận, đòi hỏi chúng ta phải trở về với những quan điểm gốc của chủ
nghĩa Mác-Lênin, để từ đó vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể,
góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2. Vai trò của quần chúng nhân dân
2.1 Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là một cộng đồng người có tổ chức, có lãnh đạo nhằm giải
quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội.
Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lê-nin đã
từng khẳng định rằng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bởi vì,
trong hoạt động đấu tranh xã hội, thì trước hết quần chúng nhân dân là động lực cơ
bản của cách mạng đóng vai trò quyết định đến thắng lợi của các cuộc cách mạng
xã hội.
Trong hoạt động đấu tranh xã hội vai trò của quần chúng nhân dân còn được thể
hiện đối với quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng đồng dân tộc.
Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích cuối cùng
của sự nghiệp cách mạng. Điều này có nghĩa là lợi ích chung của toàn bộ xã hội
luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân dân.
-Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của
mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.2 Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của
lịch sử.
*Biểu hiện:
-Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã
hội
-Quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh
thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp “kiểm chứng” các giá trị tinh thần
đã được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử.
-Quần chúng nhân nhân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
và các cuộc cải cách trong lịch sử.
3. Vai trò của cá nhân
3.1 Khái niệm con người:
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội ở trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất
cả các thành tựu của văn minh và văn hoá. Về phương diện sinh học, con người là
một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. Theo
chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của
con người thành những phương diện biệt lập.
Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan
hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn.
3.2 Quan điểm giữa cá nhân và xã hội
Khái niệm cá nhân chỉ con người cụ thể sống trong xã hội nhất định với tư cách một
cá thể, một thành viên của xã hội ấy, do những đặc điểm riêng biệt của mình mà
phân biệt với thành viên khác trong xã hội.
Xã hội bao giờ cũng do những cá nhân hợp thành. Bất cứ xã hội nào cũng được cấu
thành không bởi những con người trừu tượng mà bởi những con người cụ thể,
những cá nhân sống. Trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội, xã hội giữ vai trò quyết
định còn vai trò cá nhân ảnh hưởng đến xã hội tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
nhân cách. Quan hệ cá nhân và xã hội biến đổi và phát triển tuỳ thuộc vào văn minh
khác nhau của chế độ đó.
Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất mang những đặc điểm riêng phân biệt với các cá
nhân khác không chỉ về mặt sinh hoạt mà chủ yếu về những quan hệ xã hội. Mỗi cá
nhân đều có đời sống thiêng liêng, có những quan hệ xã hội riêng. Tuy nhiên các cá
nhân trong một xã hội nhất định dù khác biệt đến đâu đều mang cái chung: họ đều là
thành viên của giai cấp hợp thành. Mỗi cá nhân trong mọi giai cấp, vừa mang bản
chất chung của con người và loài người, vừa mang bản chất của giai cấp nhất định,
đồng thời có những đặc điểm riêng làm cho cá nhân này không giống với các cá
nhân khác.
3.3 Vai trò của cá nhân trong lịch sử xã hội:
Theo quan điểm duy vật lịch sử, vai trò sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát
triển lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể
của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ
nhân của cộng đồng nhân dân.
Theo V.I. Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính
trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo ra lịch sử, mỗi cá nhân tùy theo vị trí,
chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá trình
sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng
đồng nhân dân đều “in dấu ấn” của nó vào quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức
độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng, để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong
tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ
nhân.
Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm
vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện
những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.
Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của cá
nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem
thường vai trò của quần chúng nhân dân đều là không biện chứng trong nghiên cứu
về lịch sử và do đó không thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch
sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân
đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử
nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người.
Lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một
phương pháp luận khoa học để các Đảng Cộng sản nghiên cứu và phân tích lịch sử
cũng như vai trò của thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ, các lực lượng xã hội, tổ chức xây
dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đó là, sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể
tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi
tới thắng lợi cuối cùng.
Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, từ đó xây dựng quan điểm
quần chúng: tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh và khả năng to lớn của quần
chúng, dựa vào quần chúng, phát huy nguồn sức mạnh tiềm tàng của quần chúng.
Hiểu được quan điểm của Hồ Chủ tịch và Đảng ta: “Coi sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, người cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân”.
PHẦN 3 : LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội, bên cạnh những thuận lợi, con người
ta luôn phải đối diện với những khó khăn, thách thức từ nhiều nguyên nhân từ chủ
quan đến khách quan. Và đặc biệt hiện nay ở nước ta, dịch Covid-19 đã và đang đe
dọa đến an toàn và sức khỏe của toàn thể nhân dân.
Đại dịch đã thay đổi sâu sắc thế giới, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về các mặt xã
hội, văn hóa, tập quán người dân trong sinh hoạt tiêu dùng, quan hệ giữa các quốc
gia tại tất cả các nước không có loại trừ. Thống kê dịch tễ ban đâu cho thấy dịch
cúm này khác với các loại dịch cúm khác, vì nó ảnh hưởng nhiều nhất đến đối tượng
người già từ 60 tuổi trở lên hay người có thể trạng yếu (hoặc đã có các bệnh như áp
huyết cao, tiểu đường hay tim mạch). Một báo cáo mới đây cho thấy tỷ lệ tử vong ở
các bệnh nhân Miễn tăng dần theo độ tuổi. Tỉ lệ này là 0% cho nhóm dưới 19 tuổi,
dưới 1% cho nhóm 20-54 tuổi, nhưng tăng lên ít nhất là 2.7% cho nhóm 65-74 tuổi
và ít nhất là 10% cho nhóm 85 tuổi trở lên.1 Nhưng quan trọng hơn là lúc đó chưa có
loại vaccine nào có thể chữa khỏi bệnh. Do vậy, đa số chính phủ các nước đều phải
dùng đến giải pháp cách ly dân số, giảm thiểu các mối giao tiếp xã hội (social
distancing) để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh
Các biện pháp cách ly phòng chống dịch đều có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế,
nhất là các ngành dịch vụ, giải trí, du lịch, và bất động sản. Các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực này (nhà hàng, khu vui chơi giải trí, hay các hãng máy bay) điều
phải cắt giảm hoạt động và sa thải bớt nhân viên. Bị ảnh hưởng nhiều nhất là các
doanh nghiệp nhỏ có ít vốn,ắ không thể kéo dài được chi phí sản xuất, tiền thuế mặt
bằng cửa hàng, nhân viên trong khi nguồn thu bị cắt giảm. Chưa kể đến tâm lý sợ
hãi bất an của người tiêu dùng khiến sức mua bị giảm sút. Các hoạt động này lại tác
động dây chuyền đến nền kinh tế nói chung. Ví dụ, trong đợt cách ly toàn quốc vào
tháng 4/2020, khoảng 81% doanh nghiệp cho biết bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng,
khiến cho doanh xoắn của họ giảm 52% so với cùng kỳ năm 2019. Từ đó suy ra, tình
hình tài chính của nhiều doanh nghiệp chắc chắn đã xấu đi kể từ đợt dịch bùng phát
gần đây, khi họ phải đóng cửa, gánh chịu đứt gãy chuỗi cung ứng, hoặc không thể
giữ lao động làm việc tại cơ sở sản xuất kinh doanh do phải cách ly ở nhà.
Tác động kéo dài của đại dịch đến các hộ gia đình đã trở nên rõ nét, thậm chí, ngay
từ trước khi đợt dịch COVID-19 bùng phát vào tháng 4, vào thời điểm tháng 3 năm
2021, 30% hộ gia đình có thu nhập thấp hơn so với tháng 3 năm 2020. Khoảng 12%
các hộ gia đình này rơi vào tình trạng khó khăn tài chính khi họ bị mắt ít nhất 50%
thu nhập. Nữ giới và các hộ ở nhóm 20% có thu nhập thấp nhắt trải qua quá trình
phục hồi thu nhập chậm nhất. Khu vực kinh tế phi chính thức thường gắn liền với an
ninh thu nhập thấp hơn, nắng suất lao động thấp hơn, và khả năng tiếp cận tài chính
hạn chế, mặc dù ít nhiều đã được tiếp cận mạng lưới an sinh xã hội.
Ngoài ra, như ở nhiều quốc gia khác, khủng hoảng có tác động liên quan đến giới ở
Việt Nam do nữ giới thường phải gánh trách nhiệm chăm sóc trẻ em nhiều hơn, và
đại dịch COVID-19 càng làm tăng áp lực về thời gian cho nữ giới phải chăm sóc con
cái nhiều hơn, nhât là khi trường học bị đóng cửa, con em của họ phải học online tại
nhà. Các nhóm càng nghèo thì càng dễ bị tổn thương vì họ ít có khoản tiết kiệm hơn
và khả năng tiếp cận tài chính hạn chế hơn. Ngoài ra, có thể thấy chênh lệch vùng
miền trong xu hướng thu nhập hộ gia đình, trong đó khu vực duyên hải Nam Trung
Bộ (khu vực có thành phô Đà Năng) và thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng nhiều
hơn bởi các biện pháp y tế dự phòng và hạn chế đi lại quốc tế do du lịch và kinh
doanh dịch vụ chiếm một phần lớn trong quy mô kinh tế các tỉnh này.
Khủng hoảng kéo dài đã chỉ ra thêm những thách thức mang tính câu trúc trong
nước, đòi hỏi các chính sách ứng phó của Chính phủ phải xử lý hệ quả xã hội của
khủng hoảng. Tác động của COVID-19 đến thị trường lao động và các hộ gia đình
tiếp tục diễn ra trong năm 2021, và càng trở nên trầm trọng sau đợt dịch bùng phát
vào tháng 2 và tháng 4, nhât là trong những tháng gần đây của quý III. Và chính phủ
phải xác định đúng mục tiêu và nguồn lực của đất nước để bảo vệ đất nước trước
sự bùng phát của dịch bệnh.
Trong tình hình đó, vai trò của quần chúng nhân dân chính là nguồn lực quan trọng
nhất và có ý nghĩa quyết định trong việc phòng chống dịch Covid-19 giúp nước ta
sớm chiến thắng dịch bệnh, trở lại cuộc sống thường ngày. Tùy vào điều kiện lịch sử
nến vai trò của quần chúng nhân dân ta cũng biểu hiện khác nhau. Trong lịch sử
quần chúng nhân dân đã chứng minh việc dựng nước và giữ nước.
Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp. Sản xuất ra của cải
vật chất quyết định đến sự tồn tại, phát triển của xã hội. Tuy khoa học kỹ thuật hiện
nắng có vai trò quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng chỉ
được phát huy thông qua vai trò của quần chúng nhân dân, nhất là đội ngũ công
nhân hiện đại, trí thức.
Vai trò của quần chúng nhân dân thông qua quan điểm tiến bộ của lịch sử đã khẳng
định sức mạnh tiềm tàng, không có lực lượng nào có thể chiến thắng được. Sức
mạnh ấy có được đến ngày hôm nay nhờ vào việc thực hiện các biện pháp giáo dục,
vận động, tổ chức và rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh.
Quần chúng nhân dân là động lực của mọi cuộc cách mạng xã hội. Nhìn vào lịch sử,
ta thấy được không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động
đông đảo của quần chúng nhân dân. Đây là lực lượng cơ bản của cách mạng, giữ
vai trò quyết định vào sự thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Nhìn từ thực tiễn giặc
Covid-19, một lần nữa đã nói lên sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ, chấp
hành nghiêm các biện pháp phòng chống dịch bệnh của quần chúng nhân dân. Với
tinh thần “chống dịch như chống giặc” người có tiền góp tiền, người có hiện vật góp
hiện vật, người có sức giúp sức, người có lý tưởng góp lý tưởng, cùng nhau ngăn
chặn
VD Sự lây lan của dịch Covid-19 trong cộng đồng đã hạn chế thiệt hại, tổn thất do
dịch bệnh gây ra, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội và giúp đất nước từng bước
khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành những nhiệm vụ phát triển kinh tế
-xã hội.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Các
sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo
đức… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để góp phần thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa của đất nước trong mọi thời đại. Các giá trị về văn hóa tinh
thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và
truyền bá sâu rộng để trở thành giá trị phổ biến. Sự thành công lớn trong cuộc chiến
chống dịch Covid-19 sẽ là kết tinh từ những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự lực, tự cường, đồng cam cộng
khổ, khoan dung nhân ái của cả dân tộc. Trong những lúc đất nước gặp khó khăn thì
những hình ảnh đẹp, những hành động nhân văn, những ứng xử có trách nhiệm của
quần chúng nhân dân sẵn lòng “nhường cơm sẻ áo” làm tăng sức mạnh và tạo động
lực to lớn để đất nước vượt qua khó khăn hiện tay và hiểm họa trước mắt từ đó
hướng đến một cuộc sống khỏe mạnh, an toàn
Mỗi người dân chính là một chiến sĩ trên mặt trận phòng chống dịch bệnh, tất cả đã
vì cái chung mà cho đi, mà hy sinh cái riêng của bản thân mình. Tuy rằng cuộc chiến
còn lâu dài và ngày càng phức tạp, nhưng lòng tin tưởng vào sức mạnh của quần
chúng nhân dân, vào sức mạnh của con người Việt Nam kết hợp với sự “đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu” của quần chúng nhân dân đó là một nhân tố quan
trọng đến nước ta đẩy lùi dịch bệnh, xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ
nước nhà.
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Loài người đã trải qua hàng nghìn năm tiến hóa và phát triển để trở thành giống loài
vượt bật nhất trên Trái Đất. Quá trình này đòi hỏi rất nhiều sự đấu tranh giữa con
người với thiên nhiên và giữa con người với con người. Kết quả của quá trình đó
chính là một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần như ngày hôm nay. Trong
quá trình gian khổ đó, tất nhiên là có sự xuất hiện của các cá nhân kiệt xuất, tuy
nhiên, quần chúng nhân dân cũng đã góp phần không nhỏ vào quá trình này.
Có thể nói, quần chúng nhân dân chính là những nhân tố cốt lõi sáng tạo nên lịch
sử, vì vậy cần phải nhận thức đúng đắn được vai trò và sức mạnh của quần chúng
nhân dân để làm nền tảng cho mục tiêu dựng nước và giữ nước. Con người luôn có
ý thức đấu tranh để vươn lên. Con người cổ xưa đã trải qua vô số cuộc đấu tranh để
có được ngày hôm nay. Đó chính là những thành tựu to lớn của loài người. Chúng ta
ngày hôm nay đang được kế thừa những giá trị quý báu ấy. Với vai trò là “quần
chúng nhân dân” trong thời đại mới, ta phải kế thừa đồng thời phát huy những giá trị
mà ông cha ta để lại, bên cạnh đó, phải không ngừng sáng tạo để tạo ra những giá
trị mới đóng góp cho nền văn minh nhân loại.
Bên cạnh đó, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh cho
đất nước, kế thừa và phát huy được sức mạnh trọng yếu của quần chúng nhân dân,
lực lượng công an phải làm tốt công tác vận động quần chúng, đoàn kết và liên kết
quần chúng thành một thể thống nhất, chỉ có như vậy thì mới tạo ra được lực lượng
đông đảo, phát huy được sức mạnh to lớn.
Chung quy lại, xét về mọi mặt, quần chúng nhân dân luôn là những bản thể chân
chính kiến tạo ra lịch sử. Quan niệm trên của triết học Mác-Lênin đã nhận thức đúng
đắn vai trò của quần chúng nhân dân, bù lấp những sai lầm của các trường phái triết
học trước đó, vạch ra con đường đưa quần chúng nhân dân trở lại vị trí vốn có của
nó. Và việc nắm vững và vận dụng quan niệm của triết học Mác-Lênin về vai trò của
quần chúng nhân dân có một ý nghĩa vô cùng to lớn cho sự nghiệp cách mạng và sự
nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc.
Thêm: Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng
lý luận cho việc phát huy vai trò của con người trong cách mạng và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con
người của chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam hiện
đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người bao hàm nhiều nội dung khác nhau,trong đó có
các nội dung cơ bản là: tư tưởng về giải phóng nhân dân lao động,giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, tư tưởng về con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực của
cách mạng, tư tưởng về phát triển con người toàn diện.Giải phóng nhân dân lao
động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, bởi ở Việt Nam quyền lợi
của nhân dân lao động thống nhất với quyền lợi của giai cấp và dân tộc. Đấu tranh
giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp vô sản, giai cấp nông dân và toàn
thể dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Chỉ bằng
cách đó, thì việc giải phóng giai cấp vô sản mới có thể thực hiện được triệt để và
đảm bảo thắng lợi hoàn toàn.
Do bối cảnh lịch sử của quốc gia dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tư tưởng
giành độc lập, tự do cho quốc gia dân tộc, tư tưởng giải phóng dân tộc phải được
thực hiện do chính các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh rằng
sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng đều là của dân, do dân và vì dân. Con
người, nhân dân lao động không chỉ là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng mà còn là
động lực của cách mạng.
Việc phát huy vai trò con người ở Việt Nam đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chú
trọng nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, trong các văn kiện của Ban Chấp hành
Trung ương, trong các chủ trương, chính sách, quản lý và điều hành sự phát triển
kinh tế, xã hội nói chung. Một mặt, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu tranh không khoan
nhượng chống thoái hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, chống
lại những thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con người Việt Nam đang cản
trở sự phát triển của chính con người và xã hội. Mặt khác, nhấn mạnh đến việc xây
dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay với những
đức tính về tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung;
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái; Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật,
sáng tạo,năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội…
Sự thành công của công cuộc đổi mới nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung
phụ thuộc rất lớn vào việc phát huy vai trò của nhân tố con người.
Một số mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030
- Giảm ít nhất một nửa tO lệ nghèo theo tiêu chí nghèo đa chiều của quốc gia.
- Triển khai trên toàn quốc các hệ thống và các biện pháp an sinh xã hội thích hợp
cho mọi người, bao gồm cả các chính sách sàn an sinh xã hội và đến năm 2030 đạt
được diện bao phủ đáng kể cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương.
- Chấm dứt tình trạng thiếu đói và đảm bảo tất cả mọi người, đặc biệt những người
nghèo và những người dễ bị tổn thương, bao gồm cả người cao tuổi và trẻ sơ
sinh,được tiếp cận với thực phẩm an toàn, đủ dinh dưỡng và đầy đủ quanh năm
- Giảm tất cả các hình thức suy dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho các
đối tượng là trẻ em, trẻ em gái vị thành niên, phụ nữ mang thai và đang cho con
bú,người cao tuổi.
(Nguồn: Thủ tướng chính phủ, Quyết định 681/QĐ-TTg về việc ban hành Lộ trình
thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030)

Vận dụng:
*Tại sao nói định nghĩa “vật chất và ý thức” của lênin là
một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học?
-Nói định nghĩa vật chất và ý thức của Lênin là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học vì nó đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết
học một cách khoa học và toàn diện. Định nghĩa này đã khẳng định tính
khách quan và thống nhất của vật chất, phản bác các hướng tiên tiến
và duy tâm(*) trong triết học cổ điển và hiện đại. Đồng thời, định nghĩa
này đã phát hiện ra nguồn gốc khách quan của ý thức con người, là sự
phản ánh của thực tại khách quan. Đây là một định nghĩa có ý nghĩa thế
giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người.
Một số ví dụ về sự khác biệt giữa định nghĩa vật chất của Lênin và các
nhà triết học khác là:
+ Đối với các nhà triết học cổ điển, vật chất là cái có hình thức và
cấu tạo riêng biệt, có thể được quan sát và đo lường bằng các
giác quan. Đối với Lênin, vật chất không chỉ bao gồm những cái có
hình thức và cấu tạo riêng biệt mà còn bao gồm những cái không
có hình thức và cấu tạo riêng biệt nhưng vẫn tồn tại khách quan.
Ví dụ: ánh sáng, điện từ trường, năng lượng…
+ Đối với các nhà triết học duy tâm, vật chất là cái phụ thuộc vào ý
thức hoặc do ý thức tạo ra. Đối với Lênin, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức. Ví
dụ: mặt trăng tồn tại dù con người có nhìn thấy hay không.
+ Đối với các nhà triết học tiên tiến, vật chất là cái không đổi và
không biến động. Đối với Lênin, vật chất là cái luôn luôn đổi và
biến động theo quy luật của nó. Ví dụ: nước có thể ở ba trạng thái
rắn, lỏng và khí tùy thuộc vào nhiệt độ.
Một số ví dụ về ứng dụng của định nghĩa vật chất và ý thức của Lênin
trong cuộc sống hiện nay là:
+ Định nghĩa này giúp chúng ta nhận ra rằng vật chất là nguồn gốc
khách quan của cảm giác và ý thức con người. Do đó, chúng ta
phải dựa vào cảm giác để nhận thức thế giới khách quan một
cách chính xác và khoa học. Ví dụ: khi chúng ta muốn biết một vật
có màu gì, hình dạng gì, kích thước gì…chúng ta phải sử dụng
các giác quan như mắt, tai, mũi…để quan sát và cảm nhận vật đó.
+ Định nghĩa này cũng giúp chúng ta hiểu rằng ý thức con người là
sự phản ánh của thực tại khách quan. Do đó, chúng ta phải luôn
luôn kiểm tra và so sánh ý thức của mình với thực tế để khắc phục
những sai lầm và thiếu sót. Ví dụ: khi chúng ta có một ý kiến hay
một quan điểm về một vấn đề nào đó, chúng ta không nên tự mãn
hay cố chấp mà phải lắng nghe và tôn trọng các ý kiến khác biệt
của người khác để bổ sung hoặc sửa đổi ý kiến của mình cho phù
hợp hơn với sự thật.
+ Định nghĩa này còn giúp chúng ta nhận ra rằng vật chất và ý thức
có quan hệ biện chứng qua lại với nhau. Do đó, chúng ta phải kết
hợp hài hòa giữa lý trí và cảm xúc trong cuộc sống. Ví dụ: khi
chúng ta làm việc hay học tập, chúng ta không chỉ cần có kiến
thức và kỹ năng (lý trí) mà còn cần có niềm say mê và yêu thích
(cảm xúc) để tạo ra những sản phẩm hay kết quả tốt nhất.
(*) Nguồn gốc của các hướng tiên tiến và duy tâm trong triết học có
thể được trả lời như sau:
+ Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi
thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về ý thức. Nguồn gốc
của chủ nghĩa duy tâm có thể truy nguyên về các nhà triết học Ấn
Độ và Hy Lạp cổ đại, như Phật giáo, Brahman giáo, Platon…2.
Các nhà triết học này cho rằng ý thức (tâm) là nguồn gốc của thế
giới vật chất và có khả năng biến đổi hay tạo ra sự vật hiện tượng.
+ Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ
đều tồn tại bên ngoài ý thức và thuộc về vật chất. Nguồn gốc của
chủ nghĩa duy vật có thể truy nguyên về các nhà triết học Hy Lạp
cổ đại, như Thales, Anaximander, Democritus…3. Các nhà triết
học này cho rằng vật chất là tính thứ nhất và quyết định của sự
tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng.

1. Tại sao nói định nghĩa “vật chất” của lênin là một cuộc
cách mạng trong lịch sử triết học?
-Định nghĩa vật chất của Lênin được coi là một cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học vì nó đã thay đổi cách tiếp cận của triết học đối với vấn
đề vật chất và vị trí của nó trong thế giới. Đây là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học cũng vì nó đã khẳng định tính khách quan và
thống nhất của vật chất, phản bác các hướng tiên tiến và duy tâm trong
triết học cổ điển và hiện đại
Trước đó, các triết gia chủ yếu coi vật chất là thực thể tồn tại độc lập với
ý thức và không có sự tương tác giữa hai thực thể này. Lênin đã phản
đối quan điểm này và cho rằng ý thức và vật chất không thể tách rời
nhau và tương tác với nhau theo một cách phức tạp. Theo định nghĩa
này, vật chất còn là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác. Đây là một định nghĩa khoa
học và toàn diện của vật chất, không bị giới hạn bởi các thuộc tính cụ
thể hay các hình thức tồn tại của vật chất.
Điều này đã đưa ra quan điểm mới về vật chất và ý thức, cho phép các
triết gia cải cách và phát triển các lý thuyết mới về sự tồn tại của thế
giới. Định nghĩa vật chất của Lênin đã đưa ra những quan điểm mới về
sự tồn tại của vật chất và ý thức, và đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực
triết học và khoa học khác. Vì vậy, nó được coi là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học.
Một ví dụ cụ thể về sự ảnh hưởng của định nghĩa vật chất của Lênin có
thể là ảnh hưởng đến triết học hiện đại về tư duy và nhận thức.
Theo định nghĩa của Lênin, ý thức và vật chất không thể tách rời và luôn
tương tác với nhau theo một cách phức tạp. Điều này đã mở ra một
cánh cửa cho các triết gia khác để nghiên cứu các mối quan hệ giữa tư
duy và thế giới vật chất.
Ví dụ, triết gia Mỹ Daniel Dennett đã sử dụng định nghĩa vật chất của
Lênin để phát triển lý thuyết về nhận thức và tư duy. Ông cho rằng tư
duy là một quá trình tương tác phức tạp giữa não bộ và thế giới vật
chất, và ý thức là một phần của quá trình này.
Điều này cho phép các triết gia hiện đại phát triển các lý thuyết mới về
tư duy và nhận thức, và đưa ra những giải thích khác nhau về cách con
người hiểu và tương tác với thế giới xung quanh mình.

2. Hiện nay học tập và rèn luyện tại trường bản thân e có
mâu thuẫn không, đó là những mâu thuẫn nào. Mâu thuẫn
nào nổi lên hàng đầu cần giải quyết và bằng cách nào?
-Việc học của sinh viên là một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức và
đồng thời ta cũng học cách áp dụng những tri thức đó vào đời sống thực
tế. Vậy nên quá trình học tập của sinh viên cũng không ngoại lệ mà nó
chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn.
Chính vì thế, ta cần phải biết áp dụng quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn
đời sống nói chung và sự học nói riêng để có thể thúc đẩy sự phát triển
của bản thân sinh viên:
+ Phải biết tôn trọng mâu thuẫn:
Con người cần luôn luôn cố gắng tìm hiểu để phát hiện mâu thuẫn, phân
tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất và khuynh hướng phát
triển.
Đối với sinh viên, tôn trọng mâu thuẫn chính là tìm hiểu đầy đủ những
môn học của nhà trường, chọn ra các môn phù hợp với định hướng,
mục tiêu tương lai; vạch ra kế hoạch học tập, tham gia các hoạt động
đoàn thể và thực hiện kế hoạch đó để đạt được mục tiêu bản thân.
+ Không sợ mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn:
Khi gặp vấn đề không được tránh né, mà cần tìm ra giải pháp khắc
phục, như thế mới có thể phát triển bản thân, có thêm tự tin và kinh
nghiệm để giải quyết mâu thuẫn phát sinh sau này.
Sinh viên cũng vậy, khi gặp bài giảng không hiểu, hay bài tập không giải
được, cần phải tìm tòi trên các trang mạng, diễn đàn học vấn, hỏi và tiếp
thu từ các giảng viên, các đàn anh, đàn chị hay cả những bạn học. Sinh
viên không được ngại việc học lại, học bổ sung để củng cố kiến thức
của mình. Bên cạnh đó, sinh viên cũng cần phải biết chia sẻ kiến thức
của mình cho những người cần chúng. Chia sẻ và học hỏi là cách tốt
nhất để giải quyết các mâu thuẫn gặp phải đối với sự học của một sinh
viên.
+ Vận dụng quy luật mâu thuẫn liên tục tìm tòi, đổi mới và sáng tạo
trong tri thức:
Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao giờ được
nghĩ mình có đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới
để giải quyết các vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người cần phải
luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới. Đồng thời, quy luật mâu
thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ
những cái cũ, không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa
quen thuộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền tảng cho kho
tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày
của nhân loại.
Quy luật này đòi hỏi sinh viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới chứ
không được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất định nào đó. Điều đó
giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc
học lẫn sự nghiệp sau này. Cũng bởi vì thế mà qua mỗi năm, các
trường đại học, học viện phải tái bản một số cuốn sách để đổi mới kiến
thức cho các sinh viên.
+ Quy luật mâu thuẫn đòi hỏi con người tiếp thu kiến thức một cách
có hệ thống:
Bởi vì, kiến thức không đi riêng lẻ, mà ta phải nhìn nhận được sự tương
tác, tương hỗ giữa các kiến thức, của các ngành nghề khác nhau để bổ
trợ cho sự thiếu sót của nhau, đồng thời loại bỏ những kiến thức thừa
thãi.
Cũng như vậy, sinh viên cần tìm hiểu sự tương tác qua lại giữa các môn
học, ngành học, qua đó đánh giá và chọn lọc được một chỉnh thể những
môn học phù hợp với bản thân. Cần biết vận dụng khả năng tổng hợp,
phân tích để tiếp thu và ghi nhớ những kiến thức cần thiết.
Vậy, qua những điều đã nói ở trên, có thể thấy việc vận dụng nhuần
nhuyễn quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn đời sống nói chung và việc học
tập nói riêng là cực kì cần thiết đối với sinh viên. Điều đó là nền tảng sự
phát triển của bản thân mỗi sinh viên, và cũng quyết định thành bại
trong sự nghiệp sau này. Là sinh viên, ta cần phải biết cách áp dụng
những điểm có lợi của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập vào học tập để hoàn thành mục tiêu của mình.

3. Từ nội dung quan hệ giữa vật chất và ý thức, liên hệ vào


việc học tập của sinh viên hiện nay.
Đáp án 1: Quan hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ phản ánh và tác
động lẫn nhau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức, ý thức phản ánh vật
chất và tác động lại vào vật chất để biến đổi nó. Trong việc học tập của
sinh viên hiện nay, quan hệ này có thể được hiểu như sau:
+ Sinh viên cần phải tiếp xúc với vật chất để có cảm giác và nhận
thức về nó. Ví dụ: đọc sách, xem video, thực hành thí nghiệm…
+ Sinh viên cần phải sử dụng ý thức để phản ánh vật chất một cách
khoa học và toàn diện. Ví dụ: suy luận logic, phân tích bài toán, so
sánh các lập luận…
+ Sinh viên cần phải dùng ý thức để tác động lại vào vật chất để
biến đổi nó theo mục tiêu đã đề ra. Ví dụ: viết báo cáo, thiết kế sản
phẩm, giải quyết vấn đề…
Như vậy, quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc học tập của sinh
viên hiện nay là một quan hệ song phương và sáng tạo. Sinh viên không
chỉ là người tiếp nhận kiến thức mà còn là người tạo ra kiến thức mới.
Đáp án 2: Theo quan điểm của V.I. Lenin, ý thức không phải là một thực
thể độc lập, mà là một sản phẩm của vật chất, đặc biệt là của hoạt động
vật chất. Ông cho rằng tư duy của con người, bao gồm cả kiến thức và ý
niệm, là sản phẩm của tác động của thế giới vật chất bên ngoài đến bộ
não và giác quan của con người.
Vì vậy, trong việc học tập, sinh viên cần phải tập trung vào hoạt động
vật chất, bao gồm việc đọc sách, viết bài, giải bài tập, tham gia thực
hành, thực tập, v.v. để có thể hiểu và tiếp nhận thông tin một cách chính
xác và nhanh chóng. Đồng thời, sinh viên cần phải có tư duy sáng tạo
và phản biện để đưa ra những ý tưởng mới và đưa ra những giải pháp
thích hợp cho các vấn đề trong quá trình học tập.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các công nghệ và thiết bị học tập như máy
tính, điện thoại, bảng trắng, v.v. cũng là một phần của hoạt động vật
chất và có thể giúp cho sinh viên tăng cường hiệu quả trong việc học
tập. Tuy nhiên, điều quan trọng là sinh viên cần phải sử dụng các công
nghệ này một cách hợp lý và đúng mức, không để nó trở thành một yếu
tố phân tán và ảnh hưởng đến tập trung và chú ý của mình trong quá
trình học tập.

4. Vận dụng nội dung mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
-Vận dụng nội dung mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay có thể được thực hiện như sau:
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, không bị ảnh hưởng bởi các
quan điểm chủ quan hay định kiến. Ví dụ: Khi xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế
của đất nước, các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa…
+ Thay đổi ý thức để phù hợp với sự biến đổi của vật chất. Ví dụ:
Khi đất nước đã có những bước tiến trong công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, cần phải có những ý thức mới về sự sáng tạo, khởi
nghiệp, cạnh tranh…
+ Phát huy vai trò tích cực của ý thức trong việc biến đổi vật chất. Ví
dụ: Khi có những ý tưởng mới về sản xuất hay kinh doanh, cần
phải áp dụng vào thực tiễn để kiểm tra và hoàn thiện.
Một số ví dụ khác về vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là:
+ Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật
chất, như khi đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Khi có những biến đổi trong tự nhiên hay xã hội, cần phải có
những thay đổi trong ý thức để thích ứng và phát triển. Ví dụ: Khi
có biến đổi khí hậu, cần phải có ý thức bảo vệ môi trường.
+ Khi có những kiến thức mới hay kỹ năng mới, cần phải áp dụng
vào hoạt động sản xuất hay học tập để nâng cao hiệu quả. Ví dụ:
Khi học được cách sử dụng máy tính hay internet, cần phải áp
dụng vào việc tìm kiếm thông tin hay làm bài tập.
*Một số nguyên lý biện chứng giữa vật chất và ý thức:
-Vật chất có trước, ý thức có sau.
-Vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức.
-Ý thức có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động thực tiễn của con
người.
=> Ý nghĩa phương pháp luận của những nguyên lý này là:
+ Con người phải tôn trọng khách quan và xuất phát từ hiện thực
khách quan trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
+ Con người phải phát huy tính năng động chủ quan và sáng tạo
trong việc áp dụng kiến thức vào hoạt động sản xuất, xã hội và
văn hóa.
Một số ví dụ khác về vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là:
+ Trong giáo dục chính trị và tư tưởng, cần gắn liền việc khuyến
khích lợi ích vật chất (như phần thưởng, danh hiệu) với việc nâng
cao ý thức trách nhiệm và đạo đức của người lao động.
+ Trong kinh tế và chính trị, cần phát huy vai trò của ý thức trong
việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng khoa
học và tiến bộ.
+ Trong cuộc sống hàng ngày, cần có một lối sống lành mạnh, tích
cực và có ý thức tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật và xã
hội.

5. Tại sao nói vận động của vật chất là tuyệt đối vĩnh viễn,
đứng im là tương đối tạm thời?
Đáp án 1: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương
thức tồn tại của vật chất, là bản tính cố hữu của vật chất. Vận động
không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi vì nó tồn tại vĩnh viễn.
Nguồn gốc của vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định (tự
thân vận động), do mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật hay giữa các
sự vật.
Vì thế, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối và tạm thời. Điều
này không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im hay cân bằng của các sự
vật, nhưng chỉ là hiện tượng bề ngoài và có tính chất biến thiên. Thực
chất, mọi sự vật hiện tượng luôn luôn ở trạng thái biến đổi liên tục và
phát triển.
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất.
+ Vận động không do ai tạo ra và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra ở một quan hệ xác định chứ không
phải trong mọi quan hệ .
+ Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra với hình thức vận động nhất định
chứ không phải tất cả các hình thức vận động .
+ Hiện tượng đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó
là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Một ví dụ minh họa cho nguyên lý này là trái đất. Trái đất có thể được
coi là một hệ quả học cân bằng khi nó xoay quanh mặt trời và quay
quanh trục của nó. Tuy nhiên, điều này chỉ là một trạng thái tương đối và
tạm thời. Thực ra, trái đất luôn luôn ở trong sự biến dạng do các yếu tố
như lực triều cường của mặt trăng, va chạm của các thiên thể khác hay
hoạt động nội lực của lõi trái đất. Do đó, trái đất không bao giờ ở trong
sự yên ổn hay dừng lại hoàn toàn.
Nguyên lý vận động là tuyệt đối đứng im là tương đối có thể được áp
dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, kỹ thuật, xã hội và
triết học. Một số ví dụ cụ thể như sau:
+ Trong vật lý, nguyên lý này giúp giải thích các hiện tượng như sự
biến dạng của các chất rắn do nhiệt độ hay áp suất, sự phân rã
của các nguyên tử hay phân tử, sự chuyển hóa của các dạng
năng lượng hay sự biến thiên của các hệ quả học.
+ Trong kỹ thuật, nguyên lý này giúp thiết kế và cải tiến các máy
móc hay thiết bị để tăng hiệu suất và tuổi thọ. Ví dụ như việc bảo
trì và sửa chữa xe máy hay ô tô để tránh hỏng hóc do mài mòn
+ Trong xã hội, nguyên lý này giúp phân tích và đánh giá các quá
trình biến đổi và phát triển của con người, tự nhiên và xã hội. Ví
dụ như việc nghiên cứu sự tiến hoá của loài người hay sự thay đổi
của các chế độ chính trị.
+ Trong triết học, nguyên lý này giúp khẳng định tính duy vật biện
chứng của thế giới và phản bác các quan điểm duy tâm hoặc siêu
hình. Ví dụ như việc bác bỏ ý kiến cho rằng vận động là do ý thức
quyết định hay do một thực thể siêu nhiên gây ra.
Đáp án 2: Tuyệt đối vĩnh viễn và tạm thời là hai khái niệm liên quan đến
quan điểm triết học về vật chất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo quan
điểm này, vật chất là một sự tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của
con người, và vận động của nó là tuyệt đối vĩnh viễn.
Trong khi đó, ý thức là một sự tồn tại chủ quan, phụ thuộc vào vật chất,
và vận động của nó là tạm thời và có giới hạn. Ý thức được hình thành
và phát triển dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của con người trong mối
quan hệ với vật chất, và nó có thể bị thay đổi và phát triển thông qua sự
tiếp thu kiến thức mới.
Việc nói rằng vận động của vật chất là tuyệt đối vĩnh viễn là do vật chất
luôn luôn vận động, không bao giờ đứng im hoặc ngừng vận động. Tất
cả các vật chất đều vận động và thay đổi liên tục theo quy luật tự nhiên.
Mọi sự tồn tại đều phụ thuộc vào vận động của vật chất, từ các tế bào
trong cơ thể con người cho đến các hành tinh trong vũ trụ.
Trong khi đó, ý thức chỉ có thể tồn tại trong khoảng thời gian tạm thời và
phụ thuộc vào vật chất. Ý thức không thể tồn tại nếu không có vật chất,
và nó có giới hạn vì sự tiếp thu kiến thức mới và phát triển của con
người có giới hạn.
Tóm lại, vận động của vật chất được coi là tuyệt đối vĩnh viễn vì nó là
một đặc trưng bản chất của vật chất, trong khi đó ý thức là một sự tồn
tại tạm thời và phụ thuộc vào vật chất.

6. Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là quá trình lịch sử tự nhiên? Việt Nam có bỏ qua hình
thái kinh tế - xã hội nào không? Có tuân theo quá trình tự
nhiên lịch sử loài người không?
-Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên vì nó do tác động của quy luật khách quan mà con người không
thể thay đổi. Các hình thái kinh tế - xã hội vận động và thay thế nhau từ
thấp lên cao trong lịch sử.
Theo quan điểm của Các Mác, lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua
nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai
đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái kinh tế - xã hội chính
là: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Ví dụ cụ thể của các hình thái kinh tế - xã hội:
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ: Là hình thái kinh
tế - xã hội đầu tiên của loài người. Lực lượng sản xuất rất yếu
kém và quan hệ sản xuất là sở hữu chung.
+ Hình thái kinh tế - xã hội nô lệ: Là hình thái kinh tế - xã hội phát
triển sau khi loài người có nông nghiệp và chăn nuôi. Lực lượng
sản xuất được cải tiến và quan hệ sản xuất là sở hữu cá nhân.
+ Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến: Là hình thái kinh tế - xã hội
phát triển từ sự suy thoái của nô lệ. Lực lượng sản xuất được phát
triển và quan hệ sản xuất là sở hữu địa chủ.
+ Hình thái kinh tế - xã hội tư bản: Là hình thái kinh tế - xã hội phát
triển từ cuộc cách mạng công nghiệp. Lực lượng sản xuất được
hiện đại hoá và quan hệ sản xuất là sở hữu vốn.
+ Hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa xã hội: Là một trong ba ý thức
chính trị lớn của nhân loại. Lực lượng sản xuất được công nhân
kiểm soát và quan hệ sản xuất là sở hữu công cộng
Đặc điểm của từng hình thái kinh tế - xã hội được xác định bởi lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quá trình chuyển tiếp của từng
hình thái kinh tế - xã hội được chi phối bởi tính phổ biến và tính đặc thù.
Tính phổ biến là những quy luật khách quan chung cho mọi nước. Tính
đặc thù là những điều kiện cụ thể của từng nước.
Việt Nam đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa để quá độ lên chủ nghĩa xã hội vì những lý do sau:
+ Việt Nam là một nước thuộc địa của thực dân Pháp và Mỹ trong
nhiều thế kỷ, không có điều kiện để phát triển tư bản chủ nghĩa.
+ Việt Nam đã có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ
Chí Minh, những người tiếp thu và phát huy tư tưởng của C.Mác
và V.I.Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Việt Nam đã được ảnh hưởng và hỗ trợ bởi Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng CNXH.
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi
lên chủ nghĩa xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ
nghĩa. Muốn làm được điều đó thì cách mạng vô sản phải thành công,
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành
cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các
nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Hơn thế
nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế -xã hội đã khẳng
định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước
quá độ của các hình thái kinh tế -xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản
nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự
cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế -
xã hội. Theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá độ
gián tiếp. Lê-nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát
triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại,
những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián
tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa. Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế
quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một
nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2
căn cứ sau đây.
Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức, bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân
dân.
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra
một thời đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến
lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên của XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của chủ
nghĩa Mác Lênin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa
chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho
phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng
ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển
xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân
dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết
là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với
người…Từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân
số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ
nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch
sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình quá độ lên CNXH,
ví dụ như:
+ Xây dựng và phát triển một mô hình CNXH phù hợp với điều kiện
của nước ta.
+ Đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
+ Bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, duy trì hòa bình và ổn định
khu vực.
+ Tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc tế, góp phần
vào sự tiến bộ của nhân loại

7. Tại sao VN quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN vẫn


tuân theo quá trình lịch sử tự nhiên?
-Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi
lên chủ nghĩa xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ
nghĩa. Muốn làm được điều đó thì cách mạng vô sản phải thành công,
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành
cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các
nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Hơn thế
nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế -xã hội đã khẳng
định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước
quá độ của các hình thái kinh tế -xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản
nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự
cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế -
xã hội. Theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá độ
gián tiếp. Lê-nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát
triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại,
những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián
tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa. Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế
quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một
nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2
căn cứ sau đây.
Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức, bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân
dân.
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra
một thời đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến
lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên của XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của chủ
nghĩa Mác Lênin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa
chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho
phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng
ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển
xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân
dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết
là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với
người…Từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân
số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ
nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch
sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước.

8. Suy nghĩ về câu nói “ nghèo nàn về vật chất dễ chữa,


nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”
Đáp án 1: Nếu có một ít tiền, bạn sẽ mua thứ gì, ổ bánh mì thơm
phức, bó hoa hồng cũng rất đẹp hay chia số tiền ít ỏi đó làm đôi để
mua mỗi thứ một chút? Câu trả lời sẽ cho tôi biết bạn là người có
tâm hồn như thế nào? Nhưng dù đói thật bạn hãy cứ chia số tiền
đó để mua được, cả hai, bởi lẽ - như nhà văn Pháp Misen Ê-ken
đơ Mông-te-nhơ nói: “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn
về tâm hồn rất khó chữa”.
Vật chất và tinh thần là hai mặt trọng yếu trong đời sống con người.
Cả hai thứ đó đều góp phần mang lại cảm giác hạnh phúc cho con
người. Nếu vật chất và tâm hồn viên mãn, con người sẽ thấy cuộc
đời ý nghĩa. Nhưng không phải ai cũng may mắn giàu có về vật
chất và dạt dào về tình cảm. Mặc dù vậy, không phải không khắc
phục được những nghèo nàn đó.
Nghèo nàn về vật chất tức là sự thiếu thốn về của cải, tiền bạc, tài
chính. Họ là những người không có ăn, có mặc, vô gia cư, không
nơi nương tựa. Hoặc những mảnh đời không còn khả năng lao
động được. Những hoàn cảnh ấy vô cùng đáng thương, tội nghiệp.
Nghèo về vật chất thật ra cũng khiến ta phải suy nghĩ. Những hoàn
cảnh đáng thương ngoài kia hằng ngày phải vật vã để kiếm sống.
Nhiều người làm việc cật lực, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời
cũng chỉ mong rằng chiều nay gia đình không bị đói; chắt chiu từng
đồng để đóng tiền cho con đi học. Cái nghèo bám lấy cuộc sống
làm cho họ không thể sống thoải mái được. Họ làm sao có thể tận
hưởng sự bình thản cho tâm hồn khi tận hưởng một bữa ăn ngon
vẫn còn là một điều quá xa vời.
Tâm hồn là một phần quan trọng khiến con người được là người
với nghĩa đầy đủ nhất chứ không phải là một cỗ máy không cảm
xúc, không niềm tin, hy vọng…Nghèo nàn về tâm hồn là sự đơn
điệu, tẻ nhạt và cô độc của tâm hồn con người. Dường như họ
thường nghiêng về xu hướng tiêu cực hay còn gọi là ích kỉ, vô cảm.
Khác với những tâm hồn phong phú và dạt dào lòng yêu thương,
tâm hồn khô cằn thường sống khép kín, ngại tiếp xúc, giao tiếp và
hòa đồng với mọi người xung quanh. Họ thờ ơ trước sự biến thiên
của thế giới, ít quan tâm suy nghĩ đến mọi người thậm chí là sự
buông thả chính mình. Điều này cực kỳ nguy hiểm và cần phải
chữa trị.
Bạn biết không? Nhiều người vẫn muốn suy nghĩ lạc quan, muốn
có một tâm hồn yêu đời và tràn đầy hạnh phúc. Nhưng sự thiếu
thốn về vật chất đã khiến họ phải kiệm đi những nụ cười, sống ích
kỷ một chút để dành được cái ăn, cái mặc. Còn một số người lại
quá vô cảm thờ ơ với mọi thứ xung quanh dần dà sẽ dẫn đến trầm
cảm, cuộc đời sẽ mất ý nghĩa đi nhiều. Vật chất và tâm hồn đều
quan trọng cả. Nhưng tại sao nhà văn Pháp Misen Ê Ken Đơ Mông
Te Nhơ lại cho rằng: “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn
về tâm hồn rất khó chữa”?
Tâm hồn là một phần quan trọng khiến con người được là người
với nghĩa đầy đủ nhất chứ không phải là một cỗ máy không cảm
xúc, không niềm tin, hy vọng…
Hiện nay, nhà nước đã có những biện pháp để giúp đỡ cho những
người vô gia cư, không nơi nương tựa, những trẻ em mồ côi,
người già neo đơn hoặc khuyết tật. Chính sự giúp đỡ của nhà hảo
tâm, tổ chức từ thiện đã giúp họ có thêm động lực để sống và tiếp
tục cố gắng. Những trẻ em mồ côi kia biết đâu sau này sẽ trở thành
người có ích, thành đạt. Khi đó, cái nghèo sẽ không còn nữa, thay
vào đó sẽ là cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn. Chỉ cần con người có
sự cố gắng, biết nắm bắt cơ hội, thêm một chút may mắn thì nhất
định sẽ thành công.
Nhưng sẽ thật bất hạnh nếu như tâm hồn bị lụi tàn. Nếu như trong
thời đại dịch Covid đang hoành hành, sự thờ ơ của mọi người sẽ
khiến cho thế giới trở nên hoảng loạn. Sống mà thiếu sự yêu
thương thì thật là vô nghĩa. Một số người có thói quen sống khép
kín, từ bỏ nhiều mối quan hệ và đóng cửa trái tim. Một ngày nào đó
cánh cửa ấy sẽ mãi mãi đóng chặt và chẳng có chiếc chìa khóa
nào có thể mở được. Trái tim sẽ bị nhốt mình trong sự cô độc. Hay
có những người ban đầu rất lạc quan, yêu đời nhưng vì chuyện gì
đó mà trở nên thay đổi. Đó có thể là một cú sốc lớn về tinh thần.
Bạn biết không. Trái tim chúng ta cũng từng chan chứa tình yêu
thương. Nó âm thầm nuôi dưỡng hạnh phúc bằng tình cảm chân
thành. Nhưng bỗng một ngày hạnh phúc bị gió cuốn đi, trái tim bất
lực gục ngã. Lúc đó nó nhận ra có những việc không thể đến từ
một phía mà thành. Khi ấy, con người sẽ thế nào. Chán nản, suy
nghĩ tiêu cực, chán ghét mọi người cũng như cuộc sống. Ta có cố
gắng thế nào cũng khó có thể thoát ra được cái quẩn quanh của
những tiêu cực trong cuộc sống. Bởi một tấm gương đã vỡ dù đã
gắn lại nhưng những gì phản chiếu vào mắt ta vẫn là những vết nứt
chằng chịt.
Khó khăn là vậy nhưng cũng chưa hẳn không có cách để chữa trị.
Trước hết ta cần phải lan tỏa yêu thương. Nếu như ta tồn tại trên
cõi đời này với một tâm hồn sắt đá thì khi chết đi chẳng để lại gì
cho đời. Nhưng nếu ta dùng tình thương để lan tỏa tình thương thì
phải chăng ta đã để lại cho đời một chút vị ngọt của tâm hồn. Hận
thù lúc nào cũng kéo theo hận thù, bạo động sẽ sinh ra bạo động,
chỉ có tình yêu mới làm phát sinh tình yêu. Mỗi chúng ta hãy đóng
góp một phần nhỏ để giúp cho những con người đang đi vào ngõ
cụt có thể tìm đường giải thoát. Và rồi sau tất cả, hãy yêu thương
chính bản thân và nuôi dưỡng tâm hồn ta trở nên phong phú. Nếu
ta không tự yêu thương bản thân mình thì sao dám đòi hỏi tình
thương từ người khác. Hãy sống chậm lại và thưởng thức những
giá trị tinh túy, thiết thực nhất của cuộc đời để thấy rằng thế giới
này thật đáng sống.
Giá trị vật chất và tâm hồn đều đáng quý. Chúng cần được đi đôi
với nhau và không thể tách rời. Muốn nuôi dưỡng một tâm hồn
đẹp, điều cần nhất là phải có đời sống vật chất tương đối đầy đủ.
Đôi khi chính sự chật vật của vật chất sẽ làm cho đời sống tinh thần
của ta bị bó buộc nặng nề. Ta cũng không nên vì tiền bạc, vật chất,
mải mê kiếm tiền mà quên đi những điều ý nghĩa trong cuộc sống,
những người thực sự yêu thương mình. Đừng đề cao vật chất để
rồi chính tâm hồn ta cũng đang tàn lụi ngay khi còn sống. Nhưng
nếu quá đề cao đời sống tinh thần mà không chịu phấn đấu để
cuộc sống trở nên đầy đủ thì chẳng thể nào có một cuộc sống trọn
vẹn.
Người trong khốn cùng vẫn có ngày mai tươi sáng đang đón chờ
phía trước. Hãy sống hết mình, hãy từng giây từng phút hưởng thụ
của cuộc sống. “Hãy sống thật hạnh phúc khi bạn còn đang sống
bởi vì chỉ có một lần sống duy nhất trong đời mà thôi” (Ngạn ngữ
Scotland)
Đáp án 2:

9. Quan điểm cá nhân về nguồn nhân lực con người VN


hiện nay?
I. Ưu điểm của nguồn lực con người ở Việt Nam
1. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, tăng trưởng nhanh
Việt Nam có dân số đông 92,7 triệu người (2016), đứng thứ 13 trên thế
giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN. Trong đó số người trong độ tuổi lao
động là 54,4 triệu người chiếm 58,6% dân số cả nước. Do nguồn lực
tăng nhanh nên hằng năm có thêm 1 triệu người gia nhập vào thị trường
lao động. Vì vậy, có thể nói Việt Nam là một trong các quốc gia sở hữu
nguồn nhân lực trẻ, và đó là một lợi thế trong việc thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
2. Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện
Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn
nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của
nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và
nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số
thành tựu nhất định. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ
số phát triển con người: chỉ số HDI đạt 0,682 cao hơn nhiều nước trong
khu vực.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực không ngừng được
nâng cao. Trong công tác giáo dục nghề nghiệp, cả nước ước tuyển
sinh dạy nghề được 1.974,84 nghìn người, đạt 91,8% kế hoạch năm và
bằng 99,7% so với năm 2015; ước tốt nghiệp học nghề năm 2016 đạt
trên 1.880 nghìn người; tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 53%.
3. Phẩm chất con người lao động Việt Nam
Người lao động Việt Nam giàu lòng yêu nước, cần cù chăm chỉ, có tư
chất thông minh, sáng tạo, khả năng vận dụng và thích ứng nhanh.
Những phẩm chất đó khẳng định năng lực trí tuệ của người Việt Nam có
khả năng theo kịp tốc độ phát triển của thế giới hiện đại
II. Hạn chế của nguồn lực con người Việt Nam
1. Cơ cấu nguồn nhân lực còn bất hợp lý
Cơ cấu phân bố lao động theo ngành nghề mất cân đối. Tỷ lệ lao động
làm việc cho các ngành cần tăng tốc phát triển giai đoạn 2011-2020
phục vụ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước như: Công nghệ thông
tin, công nghiệp phụ trợ, y tế, giáo dục – đào tạo.... chỉ xấp xỉ 1% mỗi
ngành, trong khi có tới 47,4% lao động làm việc trong khu nông-lâm-ngư
nghiệp hoặc lao động giản đơn.
Nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta phân bố không hợp lý: hơn
92% số cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh; tại Tây Nguyên, Tây Bắc và Nam Bộ tỷ lệ này chưa tới 1%.
2. Nguồn nhân lực hạn chế về chất lượng
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của
Việt Nam đạt mức 3,79/10 điểm, xếp hạng thứ 11 trên 12 quốc gia được
khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91/10 điểm, Ấn Độ đạt
5,76/10 điểm, Malaysia đạt 5.59/10 điểm. Đánh giá này cũng cho biết
nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác
phong lao động công nghiệp
Theo một kết quả điều tra gần đây: số tiến sĩ là hơn 14 nghìn người,
nhưng có tới 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ còn 30% làm công tác
chuyên môn. Có tới hơn 60% số sinh viên tốt nghiệp đại học và thạc sĩ
hằng năm ra trường chưa có việc làm. Đa số sinh viên sau khi tốt
nghiệp cũng phải đào tạo lại và mất một vài năm mới quen việc. số
lượng đào tạo ở trình độ đại học trở lên trong những năm gần đây gia
tăng đáng kể, nhưng chất lượng lao động của đối tượng này phần lớn
chưa đạt các tiêu chí về nguồn nhân lực chất lượng cao như đã đề cập
ở trên. Do vậy, khi họ ra làm việc, nhiều người không đáp ứng yêu cầu
của nhà tuyển dụng.
Hiện có khoảng 400.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại nước
ngoài trong hơn 30 nhóm nghề khác nhau nhưng đa số là lao động giản
đơn, trong khi phải nhập khẩu nguồn lao động có trình độ từ nước ngoài
để làm các công việc mà lao động Việt Nam không thể đảm nhận.
Lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc, thiếu
khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng chế và chia sẻ
kinh nghiệm làm việc, năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới.
3. Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 9 tháng năm nay, tỷ lệ thất nghiệp
của lao động trong độ tuổi là 2,26%, trong đó khu vực thành thị là
3,19%; khu vực nông thôn là 1,79%.
III. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế nguồn nhân lực
Những hạn chế có thể nhìn nhận ở ba góc độ: đào tạo, sử dụng và đãi
ngộ.
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quốc gia và đặt trên
vai các trường đại học. Trong những năm qua, hệ thống giáo dục, đào
tạo, nhất là đào tạo trình độ cao được phát triển và mở rộng, nhưng chất
lượng đào tạo còn nhiều hạn chế và yếu kém. Nguyên nhân là do thiếu
đội ngũ giảng viên trình độ cao; nội dung chương trình đào tạo chưa
thường xuyên cập nhật đáp ứng sự thay đổi của khoa học -công nghệ;
quản lý kinh tế trong môi trường quốc tế hóa; cơ sở vật chất, trang thiết
bị nghèo nàn. Phương pháp giảng dạy và học tập lạc hậu, cũng như ý
chí và quyết tâm vươn lên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của
một bộ phận không nhỏ lớp trẻ hiện nay còn hạn chế.
Công tác quản lý nhà nước, nhất là quy hoạch, kế hoạch định hướng
phát triển nguồn nhân lực của các ngành vẫn còn yếu kém, khá manh
mún và thiếu đồng bộ. Công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài
hạn cho phát triển kinh tế -xã hội cũng rất hạn chế, cơ cấu đào tạo theo
ngành nghề, trình độ đào tạo không được quy hoạch lâu dài. Các cơ sở
đào tạo không đủ thông tin về cung, cầu lao động, nên việc xây dựng
ngành nghề, chỉ tiêu và trình độ đào tạo hằng năm không sát thực tiễn.
Việc sử dụng lao động vẫn còn bất hợp lý. Chế độ đãi ngộ “người tài”
cũng chưa phù hợp và chưa tương xứng; tình trạng thu nhập cào bằng
đang là rào cản lớn cho sức sáng tạo của nhân lực chất lượng cao. Các
chế độ đãi ngộ nhân tài phần nhiều vẫn nằm trong các dự định, dự thảo
của các cấp và các cơ quan có thẩm quyền.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh và hướng tới nền kinh
tế tri thức, các quốc gia đều chú trọng đầu tư đào tạo phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao. Với Việt Nam, để không tụt hậu xa so với trình
độ chung của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, chúng ta
phải thật sự có các chính sách đổi mới công tác đào tạo phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao.
I. Đối với Nhà nước
-Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế -xã hội,
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
-Hình thành khung pháp lý và cơ chế cho đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.
-Xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà
hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị.
-Đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, qua đó huy động tiềm năng
xã hội cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đi cùng
với đó là bổ sung, hoàn thiện quy hoạch hệ thống các trường đại học,
cao đẳng đến năm 2020 và tầm nhìn 2030
-Chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các
cơ sở giáo dục -đào tạo và các cơ quan, doanh nghiệp nơi sử dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao.
-Cải thiện thông tin về thị trường lao động, trong đó cần có hệ thống dự
báo nhu cầu nhân lực quốc gia và cơ sở dữ liệu về đầu tư nguồn lực;
thông tin về cung cầu nhân lực; cung cấp kịp thời các thông tin cho xã
hội về đào tạo, nhân lực, việc làm và quy hoạch chiến lược phát triển
nguồn nhân lực quốc gia.
-Ngoài ra, yếu tố văn hóa, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc trong quá
trình xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phải được nhìn nhận
đúng với tầm quan trọng của nó, để từ đó các chương trình giáo dục -
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được bổ sung các nội dung liên
quan.
II. Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực
-Chú trọng xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trình độ cao; tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất trên cơ sở thực hiện xã hội hóa giáo dục;
đào tạo gắn với việc làm và theo nhu cầu xã hội.
-Nhà trường cần phối hợp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế -xã hội xây
dựng mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, lắng nghe, tiếp nhận sự
đánh giá, góp ý từ các nhà sử dụng lao động về sản phẩm đào tạo của
mình.
-Xây dựng nhà trường với hệ thống tổ chức quản lý hiệu quả cao trên
cơ sở chủ động khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực của
nhà trường và xã hội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Các cơ
sở giáo dục đại học cần chú trọng kiểm soát đầu ra chặt chẽ hơn, nhất
là đào tạo đại học và sau đại học.
-Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp từ bậc phổ thông đến bậc đại học,
đảm đảm cho học sinh, sinh viên có định hướng đúng về nghề nghiệp.
III. Đối với đơn vị sử dụng lao động (bộ máy quản lý nhà nước và
doanh nghiệp)
-Cần tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm
đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân
tộc.
-Thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, thực hiện dân chủ, công
khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất
lượng cao, xóa bỏ các rào cản về tôn giáo, dân tộc trong việc chọn lựa
người tài.
-Chú trọng đào tạo, tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi
dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực chất lượng cao tại
doanh nghiệp.
10. Hãy chỉ ra điểm khác biệt giữa con người với con vật.

Người Vật

Ngôn ngữ Có Có

Tư duy Thông qua các hoạt Có


động sản xuất

Mục đích sinh sản Duy trì nòi giống + Duy trì nòi giống
quan hệ xã hội

Hoạt động xã hội Con người có nhiều Không


hoạt động xã hội
riêng đa dạng và
phong phú: lễ hội,
truyền thống, văn
hóa…

Nhu cầu Ăn ngon, mặc đẹp, Ngủ, ăn (lặp đi lặp lại


ngủ ấm… (nhu cầu ít biến đổi)
biến đổi, thay đổi liên
tục)

Ý thức Phạm vi ý thức càng Phạm vi ý thức vừa


ngày càng mở rộng đủ để tồn tại
nhờ có sự phân công
lao động trong xã hội

11. Quan điểm của anh (chị) về “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”
trong xã hội hiện nay.
-Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín là năm chữ đạo làm người của Quân Tử
trong tư tưởng trung dung của Khổng Tử. Nhân là tình yêu con người và
làm lợi cho vật. Nghĩa là sự việc phù hợp với chính thường. Lễ là khiêm
nhường có chừng mực. Trí là năng lực suy nghĩ và giải quyết vấn đề.
Tín là lòng tin cậy và trung thực.
Trong xã hội hiện nay, năm chữ này vẫn có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng nhân cách và xử sự. Ví dụ, một người có nhân thì sẽ biết
yêu thương và giúp đỡ người khác; một người có nghĩa thì sẽ biết trách
nhiệm và công bằng; một người có lễ thì sẽ biết kính trọng và tuân thủ
pháp luật; một người có trí thì sẽ biết học hỏi và sáng tạo; một người có
tín thì sẽ biết giữ lời và thành tâm.
Ở Việt Nam, năm chữ này cũng được coi là những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ liên
quan đến nhân – lễ – nghĩa – trí – tín. Ví dụ: “Làm người nhân-nghĩa xử
xong”, “Lòng tin quý hơn vàng”, “Trọng lễ kính nhơn”, “Trí tuệ không bao
giờ già”

CÂU HỎI ÔN TẬP (thêm)


1. Phân tích vai trò của nền sản xuất vật chất đối với sự
vận động và phát triển của xã hội.
-Sản xuất vật chất là hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải biến
các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người và xã hội. Sản xuất vật chất có vai trò quan trọng đối với sự
vận động và phát triển của xã hội, ví dụ như:
+ Là cơ sở của sự sinh tồn và phát triển xã hội loài người.
+ Là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan
hệ xã hội của con người.
+ Là yếu tố quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của các
chế độ kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội.
Một số ví dụ về sản xuất vật chất và sự phát triển xã hội là:
+ Sản xuất nông nghiệp là hoạt động cơ bản của con người từ thời
tiền sử. Sản xuất nông nghiệp đã tạo ra các điều kiện để con
người ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế và xây dựng các cộng
đồng xã hội.
+ Sản xuất công nghiệp là hoạt động biến đổi các nguyên liệu thành
các sản phẩm có giá trị cao hơn. Sản xuất công nghiệp đã thúc
đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường sức mạnh quốc gia
và tạo ra các lớp xã hội mới.
+ Sản xuất dịch vụ là hoạt động cung cấp các giá trị phi vật chất cho
khách hàng. Sản xuất dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ
toàn cầu hóa, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo ra
những yêu cầu mới cho xã hội.

2. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
-Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là:
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương
thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng.
+ Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất cũng
thay đổi để thích ứng với yêu cầu mới.
+ Lực lượng sản xuất cũng bị ảnh hưởng bởi quan hệ sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nó sẽ gây ra sự trì trệ và khủng hoảng cho xã hội
Có nhiều ví dụ về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong lịch sử xã hội loài người. Một ví dụ cụ thể là quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Khi lực lượng sản xuất
phát triển với sự ra đời của các máy móc, công cụ hiện đại, thì quan hệ
sản xuất cũng phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu của sự tăng trưởng
kinh tế. Điều này dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ, sự thay đổi trong quan hệ sở hữu và tổ
chức sản xuất, và sự phát triển của các ngành kinh tế mới như công
nghệ thông tin, khoa học và giáo dục.

3. Làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ


tầng và kiến trúc thượng tầng?
-Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai yếu tố quan hệ biện
chứng với nhau trong học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Cơ sở hạ tầng bao gồm lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, là cơ sở sản sinh ra kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc
thượng tầng bao gồm các hiện tượng thuộc phạm vi ý thức xã hội như
chính trị, pháp luật, triết học, nghệ thuật, văn hoá.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có
hai mặt: một mặt là cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của
kiến trúc thượng tầng; mặt khác là kiến trúc thượng tầng có vai trò phản
ánh và ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng.
Một ví dụ về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng trong lịch sử Việt Nam là sự thay đổi của cơ sở hạ tầng từ
nền kinh tế nông nghiệp địa chủ phong kiến sang nền kinh tế công
nghiệp xã hội chủ nghĩa sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Sự thay đổi
này đã dẫn đến những biến đổi lớn trong kiến trúc thượng tầng như: sự
ra đời của Nhà nước Dân chủ Cộng hoà Việt Nam; sự phát triển của các
tổ chức xã hội và các phong trào dân chủ; sự hình thành và phát triển
của văn hóa cách mạng; sự tiếp thu và phát huy các giá trị văn minh
nhân loại.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, như:
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất: là động lực chủ yếu thúc
đẩy sự thay đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Khi
lực lượng sản xuất phát triển vượt qua giới hạn của quan hệ sản
xuất hiện có, nó sẽ gây ra những mâu thuẫn và xung đột trong xã
hội, dẫn đến sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và các quan hệ xã hội
khác.
+ Sự can thiệp của nhà nước: là yếu tố có vai trò tích cực hoặc tiêu
cực trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Nhà nước có thể dùng các biện pháp chính sách
để bảo vệ hoặc phá vỡ những quan hệ sản xuất lạc hậu, để
khuyến khích hoặc ngăn chặn sự phát triển của lực lượng sản
xuất, để ổn định hoặc rung chuyển các quan hệ xã hội khác.
+ Sự ý thức của con người: là yếu tố có ảnh hưởng hai chiều đến
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mặt
một, ý thức của con người được xác định bởi điều kiện vật chất
của xã hội, tức là bởi cơ sở hạ tầng. Mặt khác, ý thức của con
người cũng có vai trò tích cực trong việc biến đổi điều kiện vật
chất của xã hội, tức là trong việc biến đổi cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng.

4. Phân tích tính lịch sử - tự nhiên trong sự phát triển các


hình thái kinh tế - xã hội.
+ Phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại dựa trên cơ sở của lý luận
cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác. Theo đó, mỗi giai đoạn
lịch sử có một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, gồm cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
quy luật khách quan và không thể chối bỏ.
+ Phân tích tính lịch sử của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.
Tức là nhận biết rằng mỗi hình thái kinh tế - xã hội có bản chất và đặc
điểm riêng biệt, phù hợp với điều kiện vật chất và ý thức của con người
ở mỗi giai đoạn lịch sử. Không có một hình thái kinh tế - xã hội nào là
vĩnh viễn hay hoàn thiện.
+ Phân tích tính tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.
Tức là nhận biết rằng quy luật phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội có nguồn gốc từ quy luật tự nhiên, từ quan niệm về vật chất và
chuyển đổi vật chất. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
không phải là do ý muốn hay ý chí của con người mà là do những yếu
tố khách quan.
Một số ví dụ về sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là:
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy: là hình thái đầu tiên
của lịch sử nhân loại, khi con người sống bằng săn bắt và hái lượm.
Quan hệ sở hữu là chung và không có sự phân biệt giàu nghèo hay
quyền lực.
+ Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ: là hình thái phát sinh khi con
người có công cụ sản xuất và bắt đầu canh tác. Quan hệ sở hữu là
riêng và có sự chia rẽ giữa chủ nô và nô lệ.
+ Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến: là hình thái phát sinh khi con
người có công cụ sản xuất tiên tiến và mở rộng địa bàn. Quan hệ sở
hữu là riêng và có sự chia rẽ giữa quý tộc và nông dân.
+ Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa: là hình thái phát sinh khi con
người có công nghiệp hoá và tự do buôn bán. Quan hệ sở hữu là riêng
và có sự chia rẽ giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa: là một trong những mục
tiêu của các nhà lý luận xã hội. Đây là một loại xã hội không có giai cấp,
không có khai thác lao động, không có nhà nước hay quyền lực trung
ương.

9. Triết học duy vật lịch sử quan niệm như thế nào về tồn
tại xã hội và ý thức xã hội? Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa chúng. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
-Theo quan niệm của triết học duy vật lịch sử, tồn tại xã hội là cơ sở vật
chất của xã hội, bao gồm các yếu tố như công cụ sản xuất, quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất. Ý thức xã hội là sự phản ánh tự giác của tồn
tại xã hội vào trong bộ óc con người, bao gồm các yếu tố như ý thức cá
nhân, ý thức giai cấp và ý thức toàn xã hội.
Triết học duy vật lịch sử khẳng định rằng tồn tại xã hội có trước và quyết
định ý thức xã hội. Tuy nhiên, ý thức xã hội không phải là sự phản ánh
đơn thuần mà còn có tính chủ quan và độc lập tương đối. Qua hoạt
động của con người, ý thức xã hội có tác động trở lại tồn tại xã hội.
Một ví dụ về sự biến đổi của tồn tại xã hội do ảnh hưởng của ý thức là
sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông. Nhờ có ý thức
sáng tạo và khám phá của con người, đã có những bước tiến vượt bậc
trong lĩnh vực này. Điều này đã tác động trở lại tồn tại xã hội bằng cách
thay đổi cách thức giao tiếp, học tập, làm việc và giải trí của con người.
Ví dụ như việc chơi game online hay sử dụng các ứng dụng mạng xã
hội
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một mối
quan hệ đồng thời vừa phản ánh vừa tác động. Tức là tồn tại xã hội có
trước và quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội cũng có tính chủ
quan và độc lập tương đối, qua hoạt động của con người, ý thức xã hội
có tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này là giúp ta nhận ra rằng
không thể tìm nguồn gốc của các lý luận, tư tưởng trong đầu óc con
người mà phải tìm trong hiện thực xã hội. Đồng thời cũng giúp ta nhận
ra rằng không nên bị bó buộc bởi các điều kiện tồn tại xã hội mà phải
dựa vào sức mạnh của ý thức để biến đổi tồn tại xã hội.

11. Bản chất của tha hóa con người là gì? Trình bày nội
dung cốt lõi của triết học Mác - Lênin về giải phóng con
người.
-Bản chất của tha hóa con người là quá trình con người mất dần tính
loài và trở thành không phải chính mình. Tha hóa là một hiện tượng xã
hội xuất phát từ lao động bị tha hóa. Lao động bị tha hóa là khi lao động
của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập,
thù địch và thống trị lại con người.
Một số ví dụ về hiện tượng tha hóa của con người là:
+ Những người nổi tiếng như Phúc XO, Khá Bảnh… bị chi phối bởi
những điều tiêu cực và trở nên lệch chuẩn.
+ Những người bán các thiết bị y tế với giá cao gấp nhiều lần để
kiếm lợi.
+ Những người xem thường đạo đức, pháp luật và xâm hại quyền
lợi của người khác.
Nội dung cốt lõi của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người là:
+ Giải phóng con người là trả thế giới con người, những quan hệ
của con người về với bản thân con người.
+ Giải phóng con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao
động bị tha hóa.
+ Giải phóng con người là giải quyết mâu thuẫn xã hội và tạo điều
kiện cho sự phát triển toàn diện của con người.
Một số ví dụ về giải phóng con người theo triết học Mác - Lênin là:
+ Cách mạng Pháp năm 1789 đã giải phóng tư sản khỏi sự đàn áp
của quý tộc và giáo hội.
+ Cách mạng Nga tháng 10 năm 1917 đã giải phóng người lao động
khỏi sự bóc lột của tư bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa.
+ Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp và Mỹ.

12. Trình bày vai trò quần chúng nhân dân như là chủ thể
sáng tạo và động lực phát triển của lịch sử. Liên hệ với
quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, quần chúng nhân dân là những
người lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội. Quần chúng nhân dân có vai trò sáng tạo và động lực phát triển của
lịch sử ở ba khía cạnh sau:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội,
đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển.
+ Quần chúng nhân dân là người tham gia vào các cuộc đấu tranh
giành quyền tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa,
khoa học và nghệ thuật cho xã hội
Một số ví dụ về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử là:
+Quần chúng nhân dân đã tham gia vào các cuộc cách mạng lịch sử
như Cách mạng Pháp năm 1789, Cách mạng Nga tháng 10 năm 1917,
Cách mạng Việt Nam năm 1945.
+ Quần chúng nhân dân đã đóng góp vào sự phát triển của khoa học và
công nghệ bằng cách tạo ra các phát minh và khám phá mới như máy
bay, điện thoại, internet.
+ Quần chúng nhân dân đã tạo ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật
đặc sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Bác Sĩ Zhivago của Boris
Pasternak, Mona Lisa của Leonardo da Vinci
Quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên hệ mật
thiết với vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn tin ở sức mạnh và trí tuệ của quần chúng nhân dân, luôn gần
gũi và biết dựa vào quần chúng nhân dân để giải quyết các vấn đề kinh
tế - xã hội - văn hóa - an ninh - quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
luôn coi trọng việc nâng cao ý thức và vai trò tích cực của quần chúng
nhân dân trong việc xây dựng nước và đảng.

You might also like