Professional Documents
Culture Documents
Triết Học Mác -Lênin
Triết Học Mác -Lênin
2 NGUYÊN LÝ, 3 QUY LUẬT, 6 CẶP PHẠM TRÙ (TRIẾT HỌC TÓM LƯỢC)
Trước tiên, bạn phải hiểu thế nào là chủ nghĩa duy tâm, thế nào là chủ nghĩa duy vật.
Duy tâm là bạn coi trọng ý thức hơn vật chất, xem ý thức có vai trò quyết định vật chất, kiểu
như chỉ cần có niềm tin là có thể sống được.
Còn duy vật là bạn coi trọng vật chất hơn ý thức, xem vật chất có vai trò quyết định vật chất,
điển hình là câu nói “Có thực với vực được đạo”
Từ đó, có khái niệm “duy vật biện chứng”, đó là mọi sự vật tồn tại luôn có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau và nó có vai trò quyết định ý thức.
Phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6 cặp phạm trù:
3 quy luật: Quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định
– Quy luật lượng – chất: Chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển
Lượng là cái thường xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn định, lượng biến đổi đến
một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành chất mới thay thế chất cũ.
Trong quy luật này có dùng một số từ như “độ”, “bước nhảy”, “điểm nút”. Cụ thể: Độ là
khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật,
điểm nút là thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự vật
và bước nhảy là chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật.
Lấy một ví dụ cụ thể cho các bạn về quy luật này như sau:
Sinh viên tích lũy một lượng kiến thức đủ mới trở thành cử nhân. Trong đó: lượng là lượng
kiến thức phải đạt được, chất là sinh viên. Độ là từ năm 1 đến năm 4, còn điểm nút chính là
năm 1 và năm 4, bước nhảy chính là từ sinh viên lên cử nhân. Lúc này, chất là cử nhân.
Rút ra bài học thực tế: Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có thể thay đổi về chất, tránh tư
tưởng nóng vội chưa tích lũy đủ về lượng đã muốn thay đổi về chất (chưa học xong đã
muốn đi làm công việc mình đang học) hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng
nhưng lại không muốn thay đổi về chất (học xong rồi nhưng lại không muốn đi làm)
– Quy luật mâu thuẫn: Chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Trong mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, khuynh
hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng đó.
Và sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguồn gốc tạo nên sự vận động và
phát triển, dẫn đến cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên cần phải phân tích, sự vật, hiện
tượng để tìm ra những mâu thuẫn trong các mặt, khuynh hướng và mối liên hệ giữa chúng
mà giải quyết, tránh việc điều hòa các mâu thuẫn đó.
Đơn cử là câu chuyện không biết thì phải học.
6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên;
Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực
Cái riêng và cái chung: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình.
Ví dụ: mỗi con người là một thực thể riêng biệt, phân tích kỹ bên trong mỗi con người đều
có những điểm chung như đều có khối óc có thể điều khiển được hành vi của mình và trái
tim cảm nhận được thế giới xung quanh.
Nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả, nguyên nhân như thế nào sẽ sinh ra kết quả như thế ấy.
Ví dụ: Gieo nhân nào thì gặt quả nấy.
Tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên vạch ra đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu
nhiên, tất nhiên quy định ngẫu nhiên, đồng thời, ngẫu nhiên bổ sung cho tất nhiên. Do vậy
trong thực tế phải căn cứ vào cái tất nhiên, chứ không phải căn cứ vào cái ngẫu nhiên,
nhưng cũng không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái
ngẫu nhiên.
Ví dụ: Để đạt được kết quả tốt trong học tập thì chăm chỉ, siêng năng học tập là điều tất
nhiên, nhưng nhưng đến ngày thi thì bị vấn đề về sức khỏe làm kết quả thi thấp là điều ngẫu
nhiên.
Nội dung và hình thức: Nội dung và hình thức có mối liên hệ thống nhất, gắn bó chặt chẽ lẫn
nhau. Không có nội dung nào mà lại không có hình thức, cũng không có một hình thức nào
lại không chứa nội dung. Nội dung quyết định hình thức và hình thức cũng tác động trở lại
đối với nội dung. Hình thức phù hợp sẽ thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại.
Ví dụ: Nội dung một quyển sách như thế nào thì mới quyết định phải làm trang bìa như thế
nào, nếu như nội dung vui nhộn nhưng trang bìa có cách bố trí tiêu đề và màu bìa là gam
màu buồn thì không thể tạo sự hứng khởi cho người đọc quyết định đọc quyển sách đó.
Bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng biểu hiện ra thành những hiện tượng nhất
định, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Bản chất
quyết định hiện tượng, bản chất như thế nào thì hiện tượng sẽ như thế ấy.
Ví dụ: bản chất của nước là chất lỏng được thể hiện bằng hiện tượng
Khả năng và hiện thực: Khả năng và hiện thực tồn tại thống nhất, không tách rời nhau và
luôn chuyển hóa lẫn nhau; khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ biến thành hiện
thực. Vì thế mà trong thực nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực và để khả năng
biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người trong nhận
thức và thực tiễn.
Ví dụ: Trước mắt, là giấy, bút và thước kẻ là hiện thực thì khả năng có thể tạo ra hộp đựng
quà.
-Lý luận nhận thức duy vật biện chứng là nhận thức và thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử và xã hội của con người
nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn bao gồm hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động
khoa học, trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, chi phối đối với các
hoạt động còn lại. (Có tiền và tài sản rồi thì mới nghĩ đến chuyện đảm bảo ổn định an ninh
xã hội và phát triển khoa học là tiền đề để tạo ra của cải, vật chất mới)
Nhận thức là quá trình phản án tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo ra tri thức về thế giới khách quan đó. Nhận
thức gồm nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác và biểu tượng) và nhận thức lý tính (khái
niệm, phán đoán và suy lý)
Mối liên hệ giữa thực tiễn và nhận thức: Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,
động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình
nhận thức. Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức. Đồng thời, qua hoạt động thực
tiễn đem lại cho con người những tài liệu cho nhận thức, giúp nhận thức nắm bắt được bản
chất, quy luật vận động của thế giới.
Ví dụ: Khi học các môn vật lý, hóa học, học sinh thường được tham gia các buổi thí nghiệm
song song với các buổi học lý thuyết, các buổi thí nghiệm này chính là thực tiễn để kiểm tra
lại đúng đắn của lý thuyết mình vừa học. Đồng thời, trước khi đưa ra các chân lý thì các nhà
khoa học đã có quá trình nghiên cứu thực tiễn để đưa ra quy luật.
Hết phần chủ nghĩa duy vật biện chứng, giờ đến phần chủ nghĩa duy vật lịch sử
– Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất
tạo ra của cải, vật chất, bao gồm: người lao động (thể lực, trí lực và sức lao động) và tư liệu
sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động)
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, bao
gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối. (ai nắm quyền sở
hữu thì người đó cũng có quyền tổ chức, quản lý và phân phối)
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, cụ thể, trong quá trình sản xuất, lực lượng
sản xuất không ngừng phát triển, đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ đã lỗi
thời, cần phải đổi mới để phù hợp với lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất cũng có
tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, nếu phù hợp nó sẽ là động lực để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, bằng không sẽ kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ví dụ: nguyên nhân tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa của các nước Đông Âu đó chính là
không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, và ở nước ta cũng vậy,
đã mắc phải sai lầm nóng vội, chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu quan hệ sản xuất bao cấp
tập trung dân chủ, dẫn đến người lao động ỷ lại, trì trệ trong lao động sản xuất, không phát
huy được sáng kiến mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau này, tại Đại hội Đảng
lần thứ VI, chúng ta mới dám nhìn thẳng nhìn đúng vào vấn đề để giải quyết tình trạng này,
tuân thủ theo đúng quy luật.
– Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ các quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu
kinh tế của xã hội đó. Bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã
hội trước và quan hệ sản xuất mầm mống, trong đó quan hệ sản xuất thống trị đóng vai trò
quyết định, chi phối các quan hệ sản xuất còn lại.
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội (ý thức chính
trị, pháp quyền, tôn giáo) cùng với các thiết chế chính trị xã hội (nhà nước, đảng phái, giáo
hội) tương ứng được hình thành trên cơ sở kiến trúc thượng tầng nhất định.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối liên hệ thống nhất với nhau, trong đó, cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, song kiến trúc thượng tầng cũng tác động trở lại
đối với cơ sở hạ tầng.
Ví dụ: Tầng lớp nào nắm giữ quyền lực về kinh tế thì cũng sẽ nắm giữ quyền lực về chính trị
xã hội.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ tương ứng với lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất khác nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng khác nhau.
Như vậy, về cơ bản các bạn chỉ cần nắm những nội dung cơ bản sau:
Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận
2 nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
3 quy luật: Quy luật lượng chất; quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định.
6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên;
Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực
Vận dụng:
*Tại sao nói định nghĩa “vật chất và ý thức” của lênin là
một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học?
-Nói định nghĩa vật chất và ý thức của Lênin là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học vì nó đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết
học một cách khoa học và toàn diện. Định nghĩa này đã khẳng định tính
khách quan và thống nhất của vật chất, phản bác các hướng tiên tiến
và duy tâm(*) trong triết học cổ điển và hiện đại. Đồng thời, định nghĩa
này đã phát hiện ra nguồn gốc khách quan của ý thức con người, là sự
phản ánh của thực tại khách quan. Đây là một định nghĩa có ý nghĩa thế
giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người.
Một số ví dụ về sự khác biệt giữa định nghĩa vật chất của Lênin và các
nhà triết học khác là:
+ Đối với các nhà triết học cổ điển, vật chất là cái có hình thức và
cấu tạo riêng biệt, có thể được quan sát và đo lường bằng các
giác quan. Đối với Lênin, vật chất không chỉ bao gồm những cái có
hình thức và cấu tạo riêng biệt mà còn bao gồm những cái không
có hình thức và cấu tạo riêng biệt nhưng vẫn tồn tại khách quan.
Ví dụ: ánh sáng, điện từ trường, năng lượng…
+ Đối với các nhà triết học duy tâm, vật chất là cái phụ thuộc vào ý
thức hoặc do ý thức tạo ra. Đối với Lênin, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức. Ví
dụ: mặt trăng tồn tại dù con người có nhìn thấy hay không.
+ Đối với các nhà triết học tiên tiến, vật chất là cái không đổi và
không biến động. Đối với Lênin, vật chất là cái luôn luôn đổi và
biến động theo quy luật của nó. Ví dụ: nước có thể ở ba trạng thái
rắn, lỏng và khí tùy thuộc vào nhiệt độ.
Một số ví dụ về ứng dụng của định nghĩa vật chất và ý thức của Lênin
trong cuộc sống hiện nay là:
+ Định nghĩa này giúp chúng ta nhận ra rằng vật chất là nguồn gốc
khách quan của cảm giác và ý thức con người. Do đó, chúng ta
phải dựa vào cảm giác để nhận thức thế giới khách quan một
cách chính xác và khoa học. Ví dụ: khi chúng ta muốn biết một vật
có màu gì, hình dạng gì, kích thước gì…chúng ta phải sử dụng
các giác quan như mắt, tai, mũi…để quan sát và cảm nhận vật đó.
+ Định nghĩa này cũng giúp chúng ta hiểu rằng ý thức con người là
sự phản ánh của thực tại khách quan. Do đó, chúng ta phải luôn
luôn kiểm tra và so sánh ý thức của mình với thực tế để khắc phục
những sai lầm và thiếu sót. Ví dụ: khi chúng ta có một ý kiến hay
một quan điểm về một vấn đề nào đó, chúng ta không nên tự mãn
hay cố chấp mà phải lắng nghe và tôn trọng các ý kiến khác biệt
của người khác để bổ sung hoặc sửa đổi ý kiến của mình cho phù
hợp hơn với sự thật.
+ Định nghĩa này còn giúp chúng ta nhận ra rằng vật chất và ý thức
có quan hệ biện chứng qua lại với nhau. Do đó, chúng ta phải kết
hợp hài hòa giữa lý trí và cảm xúc trong cuộc sống. Ví dụ: khi
chúng ta làm việc hay học tập, chúng ta không chỉ cần có kiến
thức và kỹ năng (lý trí) mà còn cần có niềm say mê và yêu thích
(cảm xúc) để tạo ra những sản phẩm hay kết quả tốt nhất.
(*) Nguồn gốc của các hướng tiên tiến và duy tâm trong triết học có
thể được trả lời như sau:
+ Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi
thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về ý thức. Nguồn gốc
của chủ nghĩa duy tâm có thể truy nguyên về các nhà triết học Ấn
Độ và Hy Lạp cổ đại, như Phật giáo, Brahman giáo, Platon…2.
Các nhà triết học này cho rằng ý thức (tâm) là nguồn gốc của thế
giới vật chất và có khả năng biến đổi hay tạo ra sự vật hiện tượng.
+ Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ
đều tồn tại bên ngoài ý thức và thuộc về vật chất. Nguồn gốc của
chủ nghĩa duy vật có thể truy nguyên về các nhà triết học Hy Lạp
cổ đại, như Thales, Anaximander, Democritus…3. Các nhà triết
học này cho rằng vật chất là tính thứ nhất và quyết định của sự
tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng.
1. Tại sao nói định nghĩa “vật chất” của lênin là một cuộc
cách mạng trong lịch sử triết học?
-Định nghĩa vật chất của Lênin được coi là một cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học vì nó đã thay đổi cách tiếp cận của triết học đối với vấn
đề vật chất và vị trí của nó trong thế giới. Đây là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học cũng vì nó đã khẳng định tính khách quan và
thống nhất của vật chất, phản bác các hướng tiên tiến và duy tâm trong
triết học cổ điển và hiện đại
Trước đó, các triết gia chủ yếu coi vật chất là thực thể tồn tại độc lập với
ý thức và không có sự tương tác giữa hai thực thể này. Lênin đã phản
đối quan điểm này và cho rằng ý thức và vật chất không thể tách rời
nhau và tương tác với nhau theo một cách phức tạp. Theo định nghĩa
này, vật chất còn là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác. Đây là một định nghĩa khoa
học và toàn diện của vật chất, không bị giới hạn bởi các thuộc tính cụ
thể hay các hình thức tồn tại của vật chất.
Điều này đã đưa ra quan điểm mới về vật chất và ý thức, cho phép các
triết gia cải cách và phát triển các lý thuyết mới về sự tồn tại của thế
giới. Định nghĩa vật chất của Lênin đã đưa ra những quan điểm mới về
sự tồn tại của vật chất và ý thức, và đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực
triết học và khoa học khác. Vì vậy, nó được coi là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học.
Một ví dụ cụ thể về sự ảnh hưởng của định nghĩa vật chất của Lênin có
thể là ảnh hưởng đến triết học hiện đại về tư duy và nhận thức.
Theo định nghĩa của Lênin, ý thức và vật chất không thể tách rời và luôn
tương tác với nhau theo một cách phức tạp. Điều này đã mở ra một
cánh cửa cho các triết gia khác để nghiên cứu các mối quan hệ giữa tư
duy và thế giới vật chất.
Ví dụ, triết gia Mỹ Daniel Dennett đã sử dụng định nghĩa vật chất của
Lênin để phát triển lý thuyết về nhận thức và tư duy. Ông cho rằng tư
duy là một quá trình tương tác phức tạp giữa não bộ và thế giới vật
chất, và ý thức là một phần của quá trình này.
Điều này cho phép các triết gia hiện đại phát triển các lý thuyết mới về
tư duy và nhận thức, và đưa ra những giải thích khác nhau về cách con
người hiểu và tương tác với thế giới xung quanh mình.
2. Hiện nay học tập và rèn luyện tại trường bản thân e có
mâu thuẫn không, đó là những mâu thuẫn nào. Mâu thuẫn
nào nổi lên hàng đầu cần giải quyết và bằng cách nào?
-Việc học của sinh viên là một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức và
đồng thời ta cũng học cách áp dụng những tri thức đó vào đời sống thực
tế. Vậy nên quá trình học tập của sinh viên cũng không ngoại lệ mà nó
chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn.
Chính vì thế, ta cần phải biết áp dụng quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn
đời sống nói chung và sự học nói riêng để có thể thúc đẩy sự phát triển
của bản thân sinh viên:
+ Phải biết tôn trọng mâu thuẫn:
Con người cần luôn luôn cố gắng tìm hiểu để phát hiện mâu thuẫn, phân
tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất và khuynh hướng phát
triển.
Đối với sinh viên, tôn trọng mâu thuẫn chính là tìm hiểu đầy đủ những
môn học của nhà trường, chọn ra các môn phù hợp với định hướng,
mục tiêu tương lai; vạch ra kế hoạch học tập, tham gia các hoạt động
đoàn thể và thực hiện kế hoạch đó để đạt được mục tiêu bản thân.
+ Không sợ mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn:
Khi gặp vấn đề không được tránh né, mà cần tìm ra giải pháp khắc
phục, như thế mới có thể phát triển bản thân, có thêm tự tin và kinh
nghiệm để giải quyết mâu thuẫn phát sinh sau này.
Sinh viên cũng vậy, khi gặp bài giảng không hiểu, hay bài tập không giải
được, cần phải tìm tòi trên các trang mạng, diễn đàn học vấn, hỏi và tiếp
thu từ các giảng viên, các đàn anh, đàn chị hay cả những bạn học. Sinh
viên không được ngại việc học lại, học bổ sung để củng cố kiến thức
của mình. Bên cạnh đó, sinh viên cũng cần phải biết chia sẻ kiến thức
của mình cho những người cần chúng. Chia sẻ và học hỏi là cách tốt
nhất để giải quyết các mâu thuẫn gặp phải đối với sự học của một sinh
viên.
+ Vận dụng quy luật mâu thuẫn liên tục tìm tòi, đổi mới và sáng tạo
trong tri thức:
Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao giờ được
nghĩ mình có đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới
để giải quyết các vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người cần phải
luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới. Đồng thời, quy luật mâu
thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ
những cái cũ, không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa
quen thuộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền tảng cho kho
tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày
của nhân loại.
Quy luật này đòi hỏi sinh viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới chứ
không được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất định nào đó. Điều đó
giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc
học lẫn sự nghiệp sau này. Cũng bởi vì thế mà qua mỗi năm, các
trường đại học, học viện phải tái bản một số cuốn sách để đổi mới kiến
thức cho các sinh viên.
+ Quy luật mâu thuẫn đòi hỏi con người tiếp thu kiến thức một cách
có hệ thống:
Bởi vì, kiến thức không đi riêng lẻ, mà ta phải nhìn nhận được sự tương
tác, tương hỗ giữa các kiến thức, của các ngành nghề khác nhau để bổ
trợ cho sự thiếu sót của nhau, đồng thời loại bỏ những kiến thức thừa
thãi.
Cũng như vậy, sinh viên cần tìm hiểu sự tương tác qua lại giữa các môn
học, ngành học, qua đó đánh giá và chọn lọc được một chỉnh thể những
môn học phù hợp với bản thân. Cần biết vận dụng khả năng tổng hợp,
phân tích để tiếp thu và ghi nhớ những kiến thức cần thiết.
Vậy, qua những điều đã nói ở trên, có thể thấy việc vận dụng nhuần
nhuyễn quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn đời sống nói chung và việc học
tập nói riêng là cực kì cần thiết đối với sinh viên. Điều đó là nền tảng sự
phát triển của bản thân mỗi sinh viên, và cũng quyết định thành bại
trong sự nghiệp sau này. Là sinh viên, ta cần phải biết cách áp dụng
những điểm có lợi của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập vào học tập để hoàn thành mục tiêu của mình.
4. Vận dụng nội dung mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
-Vận dụng nội dung mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay có thể được thực hiện như sau:
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, không bị ảnh hưởng bởi các
quan điểm chủ quan hay định kiến. Ví dụ: Khi xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế
của đất nước, các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa…
+ Thay đổi ý thức để phù hợp với sự biến đổi của vật chất. Ví dụ:
Khi đất nước đã có những bước tiến trong công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, cần phải có những ý thức mới về sự sáng tạo, khởi
nghiệp, cạnh tranh…
+ Phát huy vai trò tích cực của ý thức trong việc biến đổi vật chất. Ví
dụ: Khi có những ý tưởng mới về sản xuất hay kinh doanh, cần
phải áp dụng vào thực tiễn để kiểm tra và hoàn thiện.
Một số ví dụ khác về vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là:
+ Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật
chất, như khi đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Khi có những biến đổi trong tự nhiên hay xã hội, cần phải có
những thay đổi trong ý thức để thích ứng và phát triển. Ví dụ: Khi
có biến đổi khí hậu, cần phải có ý thức bảo vệ môi trường.
+ Khi có những kiến thức mới hay kỹ năng mới, cần phải áp dụng
vào hoạt động sản xuất hay học tập để nâng cao hiệu quả. Ví dụ:
Khi học được cách sử dụng máy tính hay internet, cần phải áp
dụng vào việc tìm kiếm thông tin hay làm bài tập.
*Một số nguyên lý biện chứng giữa vật chất và ý thức:
-Vật chất có trước, ý thức có sau.
-Vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức.
-Ý thức có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động thực tiễn của con
người.
=> Ý nghĩa phương pháp luận của những nguyên lý này là:
+ Con người phải tôn trọng khách quan và xuất phát từ hiện thực
khách quan trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
+ Con người phải phát huy tính năng động chủ quan và sáng tạo
trong việc áp dụng kiến thức vào hoạt động sản xuất, xã hội và
văn hóa.
Một số ví dụ khác về vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là:
+ Trong giáo dục chính trị và tư tưởng, cần gắn liền việc khuyến
khích lợi ích vật chất (như phần thưởng, danh hiệu) với việc nâng
cao ý thức trách nhiệm và đạo đức của người lao động.
+ Trong kinh tế và chính trị, cần phát huy vai trò của ý thức trong
việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng khoa
học và tiến bộ.
+ Trong cuộc sống hàng ngày, cần có một lối sống lành mạnh, tích
cực và có ý thức tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật và xã
hội.
5. Tại sao nói vận động của vật chất là tuyệt đối vĩnh viễn,
đứng im là tương đối tạm thời?
Đáp án 1: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương
thức tồn tại của vật chất, là bản tính cố hữu của vật chất. Vận động
không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi vì nó tồn tại vĩnh viễn.
Nguồn gốc của vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định (tự
thân vận động), do mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật hay giữa các
sự vật.
Vì thế, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối và tạm thời. Điều
này không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im hay cân bằng của các sự
vật, nhưng chỉ là hiện tượng bề ngoài và có tính chất biến thiên. Thực
chất, mọi sự vật hiện tượng luôn luôn ở trạng thái biến đổi liên tục và
phát triển.
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất.
+ Vận động không do ai tạo ra và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra ở một quan hệ xác định chứ không
phải trong mọi quan hệ .
+ Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra với hình thức vận động nhất định
chứ không phải tất cả các hình thức vận động .
+ Hiện tượng đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó
là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Một ví dụ minh họa cho nguyên lý này là trái đất. Trái đất có thể được
coi là một hệ quả học cân bằng khi nó xoay quanh mặt trời và quay
quanh trục của nó. Tuy nhiên, điều này chỉ là một trạng thái tương đối và
tạm thời. Thực ra, trái đất luôn luôn ở trong sự biến dạng do các yếu tố
như lực triều cường của mặt trăng, va chạm của các thiên thể khác hay
hoạt động nội lực của lõi trái đất. Do đó, trái đất không bao giờ ở trong
sự yên ổn hay dừng lại hoàn toàn.
Nguyên lý vận động là tuyệt đối đứng im là tương đối có thể được áp
dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, kỹ thuật, xã hội và
triết học. Một số ví dụ cụ thể như sau:
+ Trong vật lý, nguyên lý này giúp giải thích các hiện tượng như sự
biến dạng của các chất rắn do nhiệt độ hay áp suất, sự phân rã
của các nguyên tử hay phân tử, sự chuyển hóa của các dạng
năng lượng hay sự biến thiên của các hệ quả học.
+ Trong kỹ thuật, nguyên lý này giúp thiết kế và cải tiến các máy
móc hay thiết bị để tăng hiệu suất và tuổi thọ. Ví dụ như việc bảo
trì và sửa chữa xe máy hay ô tô để tránh hỏng hóc do mài mòn
+ Trong xã hội, nguyên lý này giúp phân tích và đánh giá các quá
trình biến đổi và phát triển của con người, tự nhiên và xã hội. Ví
dụ như việc nghiên cứu sự tiến hoá của loài người hay sự thay đổi
của các chế độ chính trị.
+ Trong triết học, nguyên lý này giúp khẳng định tính duy vật biện
chứng của thế giới và phản bác các quan điểm duy tâm hoặc siêu
hình. Ví dụ như việc bác bỏ ý kiến cho rằng vận động là do ý thức
quyết định hay do một thực thể siêu nhiên gây ra.
Đáp án 2: Tuyệt đối vĩnh viễn và tạm thời là hai khái niệm liên quan đến
quan điểm triết học về vật chất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo quan
điểm này, vật chất là một sự tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của
con người, và vận động của nó là tuyệt đối vĩnh viễn.
Trong khi đó, ý thức là một sự tồn tại chủ quan, phụ thuộc vào vật chất,
và vận động của nó là tạm thời và có giới hạn. Ý thức được hình thành
và phát triển dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của con người trong mối
quan hệ với vật chất, và nó có thể bị thay đổi và phát triển thông qua sự
tiếp thu kiến thức mới.
Việc nói rằng vận động của vật chất là tuyệt đối vĩnh viễn là do vật chất
luôn luôn vận động, không bao giờ đứng im hoặc ngừng vận động. Tất
cả các vật chất đều vận động và thay đổi liên tục theo quy luật tự nhiên.
Mọi sự tồn tại đều phụ thuộc vào vận động của vật chất, từ các tế bào
trong cơ thể con người cho đến các hành tinh trong vũ trụ.
Trong khi đó, ý thức chỉ có thể tồn tại trong khoảng thời gian tạm thời và
phụ thuộc vào vật chất. Ý thức không thể tồn tại nếu không có vật chất,
và nó có giới hạn vì sự tiếp thu kiến thức mới và phát triển của con
người có giới hạn.
Tóm lại, vận động của vật chất được coi là tuyệt đối vĩnh viễn vì nó là
một đặc trưng bản chất của vật chất, trong khi đó ý thức là một sự tồn
tại tạm thời và phụ thuộc vào vật chất.
6. Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là quá trình lịch sử tự nhiên? Việt Nam có bỏ qua hình
thái kinh tế - xã hội nào không? Có tuân theo quá trình tự
nhiên lịch sử loài người không?
-Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên vì nó do tác động của quy luật khách quan mà con người không
thể thay đổi. Các hình thái kinh tế - xã hội vận động và thay thế nhau từ
thấp lên cao trong lịch sử.
Theo quan điểm của Các Mác, lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua
nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai
đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái kinh tế - xã hội chính
là: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Ví dụ cụ thể của các hình thái kinh tế - xã hội:
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ: Là hình thái kinh
tế - xã hội đầu tiên của loài người. Lực lượng sản xuất rất yếu
kém và quan hệ sản xuất là sở hữu chung.
+ Hình thái kinh tế - xã hội nô lệ: Là hình thái kinh tế - xã hội phát
triển sau khi loài người có nông nghiệp và chăn nuôi. Lực lượng
sản xuất được cải tiến và quan hệ sản xuất là sở hữu cá nhân.
+ Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến: Là hình thái kinh tế - xã hội
phát triển từ sự suy thoái của nô lệ. Lực lượng sản xuất được phát
triển và quan hệ sản xuất là sở hữu địa chủ.
+ Hình thái kinh tế - xã hội tư bản: Là hình thái kinh tế - xã hội phát
triển từ cuộc cách mạng công nghiệp. Lực lượng sản xuất được
hiện đại hoá và quan hệ sản xuất là sở hữu vốn.
+ Hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa xã hội: Là một trong ba ý thức
chính trị lớn của nhân loại. Lực lượng sản xuất được công nhân
kiểm soát và quan hệ sản xuất là sở hữu công cộng
Đặc điểm của từng hình thái kinh tế - xã hội được xác định bởi lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quá trình chuyển tiếp của từng
hình thái kinh tế - xã hội được chi phối bởi tính phổ biến và tính đặc thù.
Tính phổ biến là những quy luật khách quan chung cho mọi nước. Tính
đặc thù là những điều kiện cụ thể của từng nước.
Việt Nam đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa để quá độ lên chủ nghĩa xã hội vì những lý do sau:
+ Việt Nam là một nước thuộc địa của thực dân Pháp và Mỹ trong
nhiều thế kỷ, không có điều kiện để phát triển tư bản chủ nghĩa.
+ Việt Nam đã có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ
Chí Minh, những người tiếp thu và phát huy tư tưởng của C.Mác
và V.I.Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Việt Nam đã được ảnh hưởng và hỗ trợ bởi Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng CNXH.
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi
lên chủ nghĩa xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ
nghĩa. Muốn làm được điều đó thì cách mạng vô sản phải thành công,
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành
cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các
nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Hơn thế
nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế -xã hội đã khẳng
định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước
quá độ của các hình thái kinh tế -xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản
nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự
cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế -
xã hội. Theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá độ
gián tiếp. Lê-nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát
triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại,
những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián
tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa. Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế
quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một
nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2
căn cứ sau đây.
Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức, bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân
dân.
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra
một thời đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến
lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên của XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của chủ
nghĩa Mác Lênin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa
chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho
phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng
ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển
xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân
dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết
là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với
người…Từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân
số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ
nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch
sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình quá độ lên CNXH,
ví dụ như:
+ Xây dựng và phát triển một mô hình CNXH phù hợp với điều kiện
của nước ta.
+ Đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
+ Bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, duy trì hòa bình và ổn định
khu vực.
+ Tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc tế, góp phần
vào sự tiến bộ của nhân loại
Người Vật
Ngôn ngữ Có Có
Mục đích sinh sản Duy trì nòi giống + Duy trì nòi giống
quan hệ xã hội
11. Quan điểm của anh (chị) về “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”
trong xã hội hiện nay.
-Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín là năm chữ đạo làm người của Quân Tử
trong tư tưởng trung dung của Khổng Tử. Nhân là tình yêu con người và
làm lợi cho vật. Nghĩa là sự việc phù hợp với chính thường. Lễ là khiêm
nhường có chừng mực. Trí là năng lực suy nghĩ và giải quyết vấn đề.
Tín là lòng tin cậy và trung thực.
Trong xã hội hiện nay, năm chữ này vẫn có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng nhân cách và xử sự. Ví dụ, một người có nhân thì sẽ biết
yêu thương và giúp đỡ người khác; một người có nghĩa thì sẽ biết trách
nhiệm và công bằng; một người có lễ thì sẽ biết kính trọng và tuân thủ
pháp luật; một người có trí thì sẽ biết học hỏi và sáng tạo; một người có
tín thì sẽ biết giữ lời và thành tâm.
Ở Việt Nam, năm chữ này cũng được coi là những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ liên
quan đến nhân – lễ – nghĩa – trí – tín. Ví dụ: “Làm người nhân-nghĩa xử
xong”, “Lòng tin quý hơn vàng”, “Trọng lễ kính nhơn”, “Trí tuệ không bao
giờ già”
2. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
-Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là:
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương
thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng.
+ Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất cũng
thay đổi để thích ứng với yêu cầu mới.
+ Lực lượng sản xuất cũng bị ảnh hưởng bởi quan hệ sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nó sẽ gây ra sự trì trệ và khủng hoảng cho xã hội
Có nhiều ví dụ về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong lịch sử xã hội loài người. Một ví dụ cụ thể là quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Khi lực lượng sản xuất
phát triển với sự ra đời của các máy móc, công cụ hiện đại, thì quan hệ
sản xuất cũng phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu của sự tăng trưởng
kinh tế. Điều này dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ, sự thay đổi trong quan hệ sở hữu và tổ
chức sản xuất, và sự phát triển của các ngành kinh tế mới như công
nghệ thông tin, khoa học và giáo dục.
9. Triết học duy vật lịch sử quan niệm như thế nào về tồn
tại xã hội và ý thức xã hội? Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa chúng. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
-Theo quan niệm của triết học duy vật lịch sử, tồn tại xã hội là cơ sở vật
chất của xã hội, bao gồm các yếu tố như công cụ sản xuất, quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất. Ý thức xã hội là sự phản ánh tự giác của tồn
tại xã hội vào trong bộ óc con người, bao gồm các yếu tố như ý thức cá
nhân, ý thức giai cấp và ý thức toàn xã hội.
Triết học duy vật lịch sử khẳng định rằng tồn tại xã hội có trước và quyết
định ý thức xã hội. Tuy nhiên, ý thức xã hội không phải là sự phản ánh
đơn thuần mà còn có tính chủ quan và độc lập tương đối. Qua hoạt
động của con người, ý thức xã hội có tác động trở lại tồn tại xã hội.
Một ví dụ về sự biến đổi của tồn tại xã hội do ảnh hưởng của ý thức là
sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông. Nhờ có ý thức
sáng tạo và khám phá của con người, đã có những bước tiến vượt bậc
trong lĩnh vực này. Điều này đã tác động trở lại tồn tại xã hội bằng cách
thay đổi cách thức giao tiếp, học tập, làm việc và giải trí của con người.
Ví dụ như việc chơi game online hay sử dụng các ứng dụng mạng xã
hội
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một mối
quan hệ đồng thời vừa phản ánh vừa tác động. Tức là tồn tại xã hội có
trước và quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội cũng có tính chủ
quan và độc lập tương đối, qua hoạt động của con người, ý thức xã hội
có tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này là giúp ta nhận ra rằng
không thể tìm nguồn gốc của các lý luận, tư tưởng trong đầu óc con
người mà phải tìm trong hiện thực xã hội. Đồng thời cũng giúp ta nhận
ra rằng không nên bị bó buộc bởi các điều kiện tồn tại xã hội mà phải
dựa vào sức mạnh của ý thức để biến đổi tồn tại xã hội.
11. Bản chất của tha hóa con người là gì? Trình bày nội
dung cốt lõi của triết học Mác - Lênin về giải phóng con
người.
-Bản chất của tha hóa con người là quá trình con người mất dần tính
loài và trở thành không phải chính mình. Tha hóa là một hiện tượng xã
hội xuất phát từ lao động bị tha hóa. Lao động bị tha hóa là khi lao động
của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập,
thù địch và thống trị lại con người.
Một số ví dụ về hiện tượng tha hóa của con người là:
+ Những người nổi tiếng như Phúc XO, Khá Bảnh… bị chi phối bởi
những điều tiêu cực và trở nên lệch chuẩn.
+ Những người bán các thiết bị y tế với giá cao gấp nhiều lần để
kiếm lợi.
+ Những người xem thường đạo đức, pháp luật và xâm hại quyền
lợi của người khác.
Nội dung cốt lõi của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người là:
+ Giải phóng con người là trả thế giới con người, những quan hệ
của con người về với bản thân con người.
+ Giải phóng con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao
động bị tha hóa.
+ Giải phóng con người là giải quyết mâu thuẫn xã hội và tạo điều
kiện cho sự phát triển toàn diện của con người.
Một số ví dụ về giải phóng con người theo triết học Mác - Lênin là:
+ Cách mạng Pháp năm 1789 đã giải phóng tư sản khỏi sự đàn áp
của quý tộc và giáo hội.
+ Cách mạng Nga tháng 10 năm 1917 đã giải phóng người lao động
khỏi sự bóc lột của tư bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa.
+ Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp và Mỹ.
12. Trình bày vai trò quần chúng nhân dân như là chủ thể
sáng tạo và động lực phát triển của lịch sử. Liên hệ với
quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, quần chúng nhân dân là những
người lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội. Quần chúng nhân dân có vai trò sáng tạo và động lực phát triển của
lịch sử ở ba khía cạnh sau:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội,
đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển.
+ Quần chúng nhân dân là người tham gia vào các cuộc đấu tranh
giành quyền tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa,
khoa học và nghệ thuật cho xã hội
Một số ví dụ về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử là:
+Quần chúng nhân dân đã tham gia vào các cuộc cách mạng lịch sử
như Cách mạng Pháp năm 1789, Cách mạng Nga tháng 10 năm 1917,
Cách mạng Việt Nam năm 1945.
+ Quần chúng nhân dân đã đóng góp vào sự phát triển của khoa học và
công nghệ bằng cách tạo ra các phát minh và khám phá mới như máy
bay, điện thoại, internet.
+ Quần chúng nhân dân đã tạo ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật
đặc sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Bác Sĩ Zhivago của Boris
Pasternak, Mona Lisa của Leonardo da Vinci
Quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên hệ mật
thiết với vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn tin ở sức mạnh và trí tuệ của quần chúng nhân dân, luôn gần
gũi và biết dựa vào quần chúng nhân dân để giải quyết các vấn đề kinh
tế - xã hội - văn hóa - an ninh - quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
luôn coi trọng việc nâng cao ý thức và vai trò tích cực của quần chúng
nhân dân trong việc xây dựng nước và đảng.