liên hệ

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

Trách nhiệm bản thân trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

Phương hướng của bản thân trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
– Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn luôn gương mẫu rèn luyện
phẩm chất tư cách, làm tròn nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Sống cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã thân ái với mọi người, hết lòng vì nhân dân phục
vụ. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong của người Đảng viên.

– Về ý thức trách nhiệm tâm huyết với công việc nghề nghiệp. Luôn tham gia các hoạt
động chuyên môn của nhà trường cũng như của Ngành. Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

+ Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn cập nhật thông tin trên
mọi thông tin đại chúng để chắt lọc, tìm kiếm những tấm gương đạo đức tốt để học hỏi.

+ Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ
người tốt; Chân thành, khiêm tốn, không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che,
giấu khuyết điểm ….

+ Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết cơ quan đơn vị. Luôn nêu gương trước đảng viên quần
chúng. Nêu cao ý thức trách nhiệm công việc.

– Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh:

+ Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc,
pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.

+ Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những biểu hiện xuất
phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân trong gia đình giữ gìn
đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.

Những mặt chưa làm được hoặc còn tồn tại, hạn chế.
Bên cạnh những ưu điểm, bản thân tôi nhận thấy mình cũng còn những nhược điểm như
đôi lúc làm việc còn chưa khoa học, chưa hệ thống. Và tinh thần làm việc đôi lúc chưa thật
sự sâu sát, tỉ mỉ. Làm việc còn nhiều lúc hình thức chưa lắng nghe ý kiến góp ý của đồng
nghiệp. Trong công tác chuyên môn nhiều lúc phê bình đồng nghiệp còn nóng nảy, gay gắt
chưa khéo léo.

Phương hướng phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo
gương chủ tịch Hồ Chí Minh:
Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn là người gương mẫu
xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo
trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức, giữ vững lập
trường.
Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng
sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Song
song với việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng
cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều
kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của
mình như: Tập trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong
cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.

Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân.
Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật
của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu
dưỡng đạo đức phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.

Liên hệ bản thân

2.4.3.1. Thực hành tiết kiệm


Là sinh viên, tôi luôn đảm bảo chi sài hợp lý, không dùng vào những việc vô ích. Không
tiêu sài hoang phí, ăn chơi lêu lỏng.
2.4.3.2. Về tham nhũng, lãng phí, quan liêu

Tôi sẽ cùng mội người dân sống và làm việc theo pháp lu ật, lành mạnh, sống có trách
nhiệm, không phung phí trong cuộc số ng hằng ngày, khi thấy người nào có tư tưởng quan
liêu , sống lãng phí, bản thân phải cùng với nhân dân đóng góp ý kiến, giúp nhau cùng sữa
chữa với hướng tích cực, không lợi dụng đê trù dập.
2.4.3.3. Hướng phấn đấu
Thường xuyên trao dồi, học tập và làm theo Tắm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Luôn giữ gìn phâm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tập thê phần đấu vì lợi ích chung, có
lối sống lành mạnh, trong sáng, giản dị, không phô trương hình thức, nói đi đôi với làm,
không quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Luôn nâng cao trình độ, phần đấu không ngừng

2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực nước ta hiện nay
2.3.1 Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục
Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng ở nước ta hiện nay. Từ tất cả các cấp
học, đặc biệt là từ cấp trung học phổ thông, giáo viên và phụ huynh phải
lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai phù hợp với năng lực và sở trường của
con em mình. Từ đó, tập trung đào tạo và phát triển chuyên sâu về ngành
hoặc lĩnh vực bạn yêu thích và hoàn thành khóa học với đầy đủ kiến thức
và kỹ năng.
Các trường cao đẳng, đại học nói riêng cần làm tốt công tác lựa
chọn, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh, đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ của xã hội và quá trình hội nhập, mở
cửa và phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay. Chú trọng các quy trình,
bước thực hành lắp ráp, sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ; ứng
lOMoARcPSD|9865893
dụng thành thạo các thiết bị kỹ thuật, đặc biệt là máy móc hiện đại, điều
khiển từ xa và tự động hóa.
Trên thực tế, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta chưa nhiều,
chủ yếu là nguồn lực trung bình, tức là lao động giản đơn, phổ thông và
rất ít lao động có trình độ tay nghề cao. Do đó hầu hết trong quá trình sản
xuất và sử dụng công nghệ, máy móc, thiết bị đều tất cả đều được nhập
khẩu từ nước ngoài và liên hệ với các chuyên gia nước ngoài để được hỗ
trợ. Vì vậy, hãy tiến hành rà soát lại chương trình đào tạo ở các trường:
Tăng thời gian thực hành, rút ngắn thời gian học lý thuyết; Gắn quá trình
đào tạo với thực tập, thăm quan và thực tập trong từng ngành nghề đào
tạo; Đẩy mạnh hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường, các khóa đào
tạo, cụ thể là với các công ty, nhà sản xuất, nhà đầu tư...Việc tuyển dụng
sinh viên đi đào tạo phải đảm bảo chất lượng chứ không phải số lượng.
Các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng
cao: như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu
mới, công nghệ sinh học... để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc
cách mạng số hóa bùng nổ như hiện nay.
2.3.2 Tăng cường sự quản lí của nhà nước đối với nguồn
nhân lực
Trong bất kỳ điều kiện và hoàn cảnh nào, phải bảo đảm sự quản lý
của nhà nước điều hành của chính phủ đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước là người ban
hành cơ chế, chính sách đãi ngộ và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng
cao, do đó, Nhà nước phải phân cấp nhiệm vụ và giao cho các cơ quan,
ban, ngành thực hiện quản lý nguồn nhân lực chất lượng cao một cách
hiệu quả, không để xảy ra hiện tượng đào tạo nguồn nhân lực cao, nhưng
không phải phục vụ nhà nước mà là phục vụ cho các công ty nước ngoài.
Xây dựng và ban hành các quy định, yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo
lOMoARcPSD|9865893
nguồn nhân lực có chất lượng; Họ cần nguồn nhân lực có trình độ cao nếu
được đào tạo nhưng họ phải làm việc trong nước, nếu vi phạm thì phải bồi
thường hoặc yêu cầu cơ quan khác không tuyển dụng; đặt yêu cầu cao về
nguồn nhân lực chất lượng cao, phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên
hết, toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân chủ,
văn minh, giàu đẹp, có vị thế ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế. ;
Thường xuyên kiểm tra quá trình làm việc của nguồn nhân lực chất lượng
cao, nếu không đạt yêu cầu sẽ bị cho thôi việc hoặc điều động làm việc ở
những nơi khác
Tạo ra những cơ chế khuyến khích hợp tác doanh nghiệp với nhà
trường để đào tạo đúng và phù hợp, gần sát nhất với nhu cầu của thị
trường. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo
dục, gắn đào tạo kiến thức với thực tập, thực hành nghề tại các cơ sở
doanh nghiệp; Có biện pháp để cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên
thu nhận thông tin phản hồi về mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối
với “sản phẩm” đầu ra của các cơ sở đào tạo.
Đồng thời, cần đổi mới quản lý của nhà nước. Tức là, Tập trung
hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương thức quản
lý, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý phát triển
nhân lực. Đổi mới chính sách, cơ chế, công cụ phát triển và quản lý nguồn
nhân lực, trong đó có nội dung về môi trường lao động và chính sách việc
làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, nhà ở và điều kiện sống, định cư,
quan tâm đến chính sách nguồn nhân lực và nhân tài chất lượng cao.
2.3.3 Đảm bảo nguồn lực tài chính
Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách Nhà nước dành cho phát triển
nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân
sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình,
dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội. Đẩy
lOMoARcPSD|9865893
mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển
nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức
Đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể
dục, thể thao; Tạo quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động và phát
huy vai trò, đóng góp của doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực;
Thúc đẩy và thiết lập cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam. Sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); Thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) để phát triển nguồn nhân lực (đầu tư trực tiếp vào xây
dựng các cơ sở giáo dục và đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao,...
2.3.4 Chủ động hội nhập cũng là cơ hội để nâng cao nguồn
nhân lực
Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh doanh và phát triển
quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực chúng ta cần chủ
động hội nhập với những định hướng cơ bản là:
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển
nguồn nhân lực phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng
không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta
tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới.
Xây dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào
tạo để đạt được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc
tế và đặc thù Việt Nam
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh
giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo
dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa
học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới.

lOMoARcPSD|9865893
Môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa
học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước
ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa
học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy
động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường
đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
2.3.5 Có cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ để thu hút, sử
dụng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao
Mọi giai đoạn, vấn đề cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ để thu
hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp cách mạng là
rất quan trọng. Nếu không thu hút, lôi cuốn được nguồn nhân lực chất
lượng cao, đất nước kém phát triển và ngược lại. Có thể thấy, cơ chế,
chính sách sử dụng hợp lý, phù hợp với nguồn nhân lực chất lượng cao là
sự ghi nhận, đánh giá của Đảng, Nhà nước và các tổ chức, lực lượng có
liên quan. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách đó là sự vận dụng linh hoạt, sáng
tạo vào từng lĩnh vực, ngành nghề ở các vùng, miền và sự đóng góp đó
cho sự phát triển ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương không phải là sự
mặc định, có sẵn theo một khung nhất định. Trên cơ sở nền tảng những
quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về chính sách tiền
lương, trọng dụng nhân tài, mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương căn cứ vào
tình hình cụ thể của mình để hỗ trợ phần nào điều kiện vật chất, hoặc tạo
điều kiện thuận lợi về môi trường công tác cho nguồn nhân lực chất lượng
cao được phát huy thế mạnh, sở trường. Vấn đề đặt ra là, cần phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong việc phối kết hợp để xây
dựng, ban hành quy chế sử dụng, làm việc đối với nguồn nhân lực chất
lượng cao, đặc biệt là các phòng, ban, sở nội vụ ở các cơ quan, đơn vị và
địa phương; xây dựng môi trường văn hoá trong sáng, lành mạnh giữa
lOMoARcPSD|9865893
người đứng đầu với cấp dưới; duy trì và thực hiện nghiêm túc các chế độ,
quy định, nề nếp sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; quan tâm
đến đời sống của cán bộ, công nhân thuộc quyền quản lý
 liên hệ bản thân về đại đoàn kết dân tộc.
– Mỗi cá nhân cần phải luôn phấn đấu, tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo gương
của chủ tịch Hồ Chí Minh
Luôn cố gắng học tập rèn luyện, hoàn thành tốt những công việc và nhiệm vụ được giao;
gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong việc giải quyết công việc,
gương mẫu về mặt đạo đức và giữ vững lập trường.
– Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá nhân luôn nâng cao tinh thần cảnh giác,
chống những luận điệu xuyên tạc về Đảng, về chủ tịch Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng
cao trình độ của bản thân để có thể thích ứng được với điều kiện xã hội mới.
– Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn
của bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước đến quần chúng nhân dân.
– Cần phải có tư tưởng chính trị vững vàng, xác định phấn đấu vì một mục tiêu chung là
hiệu quả công việc, không gây mất đoàn kết trong nội bộ.
– Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, đoàn kết nhưng không có nghĩa là bao che
cho khuyết điểm của đồng chí đồng nghiệp mà mỗi cá nhân cần nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình.
– Mỗi cá nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của đồng
nghiệp và thẳng thắn góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt và loại bỏ
dần những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm
túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc.

 Bản thân mỗi sinh viên Việt Nam

Thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư" nêu cao phẩm giá con
người Việt Nam trong thời kỳ mới
Mỗi sinh viên cần hiểu rõ mối quan hệ gắn kết giữa “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”.
“Cần” mà không “kiệm” thì như cái thùng không đáy, làm bao nhiêu hết cần đấy;
không “kiệm” ắt sẽ không “liêm”, vì cần tiền để xa xỉ nên mới sinh tham lam, bòn rút
của tập thể; không “liêm” tức là sẽ làm những việc tà, bất “chính”.
Phấn đấu nỗ lực học tập và rèn luyện với tinh thần lao động sáng tạo, thu lượm kiến
thức đạt chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập
thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng
tài sản của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
Mỗi sinh viên Việt Nam phải góp phần xây dựng một nền giáo dục trong sạch cho
nước nhà. Không chỉ “liêm” cho bản thân mà còn phải “liêm” cho người khác. Đi
“chùa thầy”, “chùa cô” là đã làm cho thầy cô không “liêm” mà bản thân mình là đã làm
những việc không “chính”. Mỗi sinh viên cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại tình
trạng đó. Phải “cần” để có kết quả tốt chứ không được làm việc “tà” để có những điểm
số không phải của mình.
Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng.
Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng,
bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không
bao che, giấu giếm khuyết điểm.
Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười
biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói
lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi,
việc gì có lợi cho mình thì "hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì không "kiếm chác"
được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời
sống xã hội.
 Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Hội viên, sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư tưởng
và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, góp
phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.
Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều
vào sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai của cá nhân và đất
nước.
Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm,
đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng,
càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
- Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần:
 Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương
Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.
 Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo
lời Bác dạy.
 Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung
thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.
 Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các
tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.
- Hội viên, sinh viên không chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác về trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm mà còn phải:
 Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng đắn,
đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô trách
nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì dở"
đối với bản thân, gia đình và xã hội.
 Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh
viên hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả
trong thực hành theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm,
trung thực nói đi đôi với làm.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của mình
đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy sinh vì
sự nghiệp chung của đất nước:
 Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút nào
được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập,
cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới".
 "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi
nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng
nào?".
 Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ và
có trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm
vụ, không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người khác. Sẵn
sàng nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình không hoàn
thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.

 Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm,
trước hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân
cách:
 Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.
 Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.
 Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa
chữa khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và
mặt tích cực.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
 Mỗi hội viên, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình.
 Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân,
bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân.
 Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối
Đảng, dối dân.
 Phải chống lại thói Ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vô cảm,
"đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn.
 Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua
bán tri thức...
 Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình.
 Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội.
 Để làm được như vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung
thực, trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cân thiết
và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên gắn tinh thần trách nhiệm, được tính
trung thực, nói đi đôi với làm và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công việc chuyên
môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức đoàn, hội, đội:
 Hội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức,
rèn luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội,
không nói dối thầy cô, cha mẹ.
 Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan, trò giỏi.
 Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày, vào công việc.
 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân trong tình hình mới
 Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa
chọn ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết
định những công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực
tiễn đã chỉ rõ, chừng nào và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân
thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực
đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy
chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản
trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
 Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi
dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo,
xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân
trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm
chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
 Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của
các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân
chủ”, “nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài,
gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
 Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ
giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt
nào. Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân,
trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi
với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp
luật và thoái hóa đạo đức, làm hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công
quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý
kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh
nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
 Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của
Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo
Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào
tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo
đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những
biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn
trong sạch, vững mạnh.
 Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong
cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản
lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công
chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp
luật, quản lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý,
v.v.
 Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi,
thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố
quyết định để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất
nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa

 Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về các hội
Thứ nhất, cần phải đổi mới nhận thức một cách đầy đủ, chính xác về bản chất, đặc điểm,
đặc thù, tính chất của hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước hết, phải quan niệm: hội là
tổ chức tự nguyện của quần chúng nhân dân cùng ngành, nghề, cùng sở thích, cùng giới
tính, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, của cộng đồng.
Hội không phải là tổ chức nhà nước, không có tính quyền lực nhà nước hay quyền lực
chính trị. Nếu nhà nước hoá và hành chính hoá tổ chức và hoạt động của các hội, sẽ “biến”
các hội thành các cơ quan hành chính nhà nước, đánh mất bản chất của các hội là tổ chức
quần chúng nhân dân, các tổ chức phi chính phủ. Hoặc nếu hội phụ thuộc vào Chính phủ
thì hội không còn là hội với ý nghĩa và vai trò đích thực của nó.
Bên cạnh đó, cũng cần phải đổi mới nhận thức một cách đầy đủ về các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của các hội, như: nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải về kinh
phí; không vì mục tiêu lợi nhuận; tuân thủ pháp luật và điều lệ hội. Việc nhận thức sâu sắc,
đúng đắn và tuân thủ các nguyên tắc đó là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự hình thành,
tồn tại và phát triển của các hội, đồng thời cũng là điều kiện để bảo đảm sự quản lý thống
nhất, bình đẳng của Nhà nước đối với các hội.
Thứ hai,cần quán triệt sâu sắc và chính xác các quan điểm của Đảng về hội, các nguyên tắc
về tổ chức và hoạt động của hội được thể chế hoá thành hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách. Nghiên cứu,đề xuất với các cấp có thẩm quyền bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
các văn bản QPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hội và các chế độ, chính sách
đối với hội theo tinh thần khắc phục triệt để tình trạng nhà nước hoá, hành chính hoá tổ
chức và hoạt động của hội; bãi bỏ những quy định pháp luật có tính chất đặc thù về chế độ
chính sách đối với hội; tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý hội; khẩn trương nghiên cứu,
hoàn thiện dự án luật trình Quốc hội thông qua tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng để
quản lý, tạo điều kiện cho các hội phát triển.
Trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, sửa đổi bổ sung hoàn thiện quy định pháp lý theo
hướng chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng về việc cho phép thành lập, chia tách, sáp nhập, giải thể, đổi
tên và phê duyệt điều lệ của các hội. Trong điều lệ của tất cả các hội phải quy định về cam
kết thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội. Hội nào vi phạm các
nguyên tắc trên đều buộc phải giải thể. Nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ
chế, chính sách để nâng cao tính tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí, không vì
mục tiêu lợi nhuận của hội quần chúng.
Thứ ba,tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và người dân về
vị trí, vai trò, bản chất, đặc điểm, đặc thù tính chất của các hội trong điều kiện mới. Đồng
thời, hướng dẫn thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về hội, để các cá nhân,
tổ chức tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội không vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần khuyến khích, động viên các hội quần chúng phát huy vai trò,
vị trí của mình, góp phần xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Hướng dẫn,
tạo điều kiện và yêu cầu các hội hoàn thiện các quy định, quy chế hoạt động của các hội
phù hợp với các quy định chung của pháp luật, như: quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế
quản lý tài sản, tài chính nhằm bảo đảm tính dân chủ, công khai minh bạch, đúng pháp luật.
Thứ tư, kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về hội. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Nội vụ về quản lý hội theo hướng tập trung vào một
đầu mối,vào một cơ quan thực hiện chức năng tham mưu cho cho Chính phủ về lĩnh vực
này,cụ thể: đề cao trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong việc tham mưu cho Chính phủ ban
hành cơ chế,thể chế hoá chính sách về hội.
Khắc phục tình trạng hành chính hoá tổ chức và hoạt động của các hội, “biến” các hội
thành “cái đuôi kéo dài”, “sân sau” của các cơ quan hành chính nhà nước cần nghiên cứu
xoá bỏ chế độ bộ chủ quản về các hội. Đồng thời, cần tiến hành mở các lớp bồi dưỡng,
tuyên truyền, phổ biến chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm quản lý cho cán bộ lãnh đạo
các hội; mở rộng hợp tác quốc tế với các hội, tổ chức phi chính phủ nước ngoài để trao đổi,
học tập kinh nghiệm và phát huy vai trò của các hội trong mở rộng quan hệ ngoại giao nhân
dân. Đặc biệt, quan tâm xây dựng các hội vững vàng đủ sức đề kháng, “tương kế tựu kế”
chống lại những âm mưu của các thế lực thù địch chống phá chế độ Nhà nước ta, phát huy
vai trò của các hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm,Chính phủ, các bộ, ban, ngành khi ban hành cơ chế, chính sách cần tạo điều
kiệnthuận lợi để các hội thực hiện tốt chức năng tư vấn, phản biện, giám định xã hội cho
các chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo điều kiện để các hội tham gia các
chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước. Đẩy mạnh việc chuyển giao những
việc các cơ quan nhà nước không nhất thiết phải làm và các nhiệm vụ xã hội hoá các hoạt
động sự nghiệp, dịch vụ công cho các hội thực hiện, nhằm phát huy tối đa vai trò của các
hội vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ sáu,tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm hoặc đột xuất đối
với tình hình tổ chức và hoạt động của các hội để kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các
vi phạm pháp luật và điều lệ hội.
 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Một là, bảo đảm nhận thức đúng đắn 
Hồ Chí Minh luôn thấm nhuần quan điểm của V.I. Lênin, xem nhà nước là vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng. Vấn đề đặt ra là nhà nước như thế nào? Câu trả lời của Hồ Chí
Minh: Đó là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Người xác lập nhận thức này từ
rất sớm, trước cả khi trở thành người cộng sản; kiên định và bổ sung phát triển nhận thức
này trong suốt quá trình hoạt động cách mạng sau đó, cả khi ở nước ngoài và trong nước,
cả trước và sau khi ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trên cương vị người “đứng đầu”, Hồ Chí Minh thường xuyên phổ biến những vấn đề về
nhà nước pháp quyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân - lực lượng xây dựng, bảo vệ Nhà
nước, để bảo đảm lực lượng này có nhận thức đúng đắn. Lãnh đạo tổ chức Tổng tuyển cử
đầu tiên để xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, Hồ Chí Minh quan tâm đến “việc
tuyên truyền và cổ động cho cuộc Tổng tuyển cử” (9). Các tác phẩm “Ý nghĩa tổng tuyển cử”
(Báo Cứu quốc số 130, 31-12-1945), “Lời kêu gọiquốc dân đi bỏ phiếu” (Báo Cứu quốc số
134, ngày 5-1-1946),... là nhằm “Tuyên truyền cho dân chúng hiểu cái bổn phận của mỗi
người trong cuộc Tổng tuyển cử thế nào”(10).
Học tập tư tưởng, phương pháp của Người, các cấp ủy đảng phải thực hiện tốt việc quán
triệt Nghị quyết Đại hội XIII sao cho đường lối, quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp
quyền thấm vào nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân theo phương châm được Hồ
Chí Minh chỉ dẫn: Biết - Hiểu - Nhớ - Làm.
Xây dựng lực lượng chuyên trách báo cáo, tuyên truyền có trình độ, năng lực, đạo đức, bản
lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín để làm nòng cốt nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo
dục nhận thức. Ứng dụng thành tựu công nghệ, đổi mới, đa dạng hóa các loại hình tuyên
truyền, giáo dục. Tăng cường khả năng thích ứng của công tác tuyên truyền trước những
đối tượng, bối cảnh cụ thể. Tuyên truyền để nhân dân nhận thức được mối liên quan giữa
xây dựng Nhà nước pháp quyền với quyền và lợi ích chính đáng của mỗi người, từ đó hăng
hái tham gia. phải luôn quán triệt tinh thần: “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai
lầm”(11).
Hai là, xác định nội dung chính xác và lựa chọn cách làm phù hợp, có sức thuyết
phục
Quan điểm Đại hội XIII có tính nguyên tắc, định hướng, đòi hỏi phải được cụ thể hóa, thể
chế hóa. Về vấn đề này, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, Người luôn chú trọng
xác định đúng nội dung và lựa chọn cách làm phù hợp.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân; có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc. Nội dung này được cụ thể hóa: xây dựng nhà nước dân chủ
nhân dân; bảo đảm và phát huy quyền là chủ và vai trò làm chủ của nhân dân; nhà nước đại
diện cho toàn dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu phục vụ; nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của giai cấp công nhân, quản lý phát
triển đất nước theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;...
Nhà nước hợp hiến và hợp pháp, thượng tôn pháp luật; được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật; quản lý xã hội bằng pháp luật theo tinh thần “trăm điều
phải có thần linh pháp quyền”. Cụ thể hóa nội dung này là tổng tuyển cử; xây dựng và thực
thi hiến pháp, pháp luật; kết hợp pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội;...
Nhà nước có tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Nội dung này được cụ thể hóa qua công tác xây dựng, tổ chức bộ
máy nhà nước (vị trí, vai trò, mối quan hệ, yêu cầu,... các cơ quan có chức năng lập pháp,
hành pháp, tư pháp, chính quyền địa phương,...); công tác cán bộ (tuyển dụng, huấn luyện,
sử dụng, đánh giá,...).
Với các nội dung trên, phương pháp xây dựng Nhà nước được hình thành trên nền tảng vận
dụng phương pháp mácxít kết hợp với kinh nghiệm của các quốc gia và điều kiện cụ thể
của đất nước. Hồ Chí Minh luôn khẳng định nguyên tắc bảo đảm các bước đi mang tính
phổ quát của nhân loại, tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng Hiến pháp và pháp luật, thượng
tôn pháp luật.
Ở mỗi bước đi, Người lựa chọn cách làm phù hợp với điều kiện dân trí, lịch sử - văn hóa
truyền thống, nguyện vọng... của đồng bào. phương châm trong lựa chọn cách làm của Hồ
Chí Minh là “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Từ cách làm chung, thiên biến vạn hóa thành
nhiều cách làm cụ thể phù hợp với mỗi đối tượng, địa bàn; mọi cách làm cụ thể không xa
rời mà quay trở về cách làm chung.
Học tập, làm theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay phải xác định rõ, cụ thể hóa nội dung và phải đa dạng hóa
cách làm, vừa bảo đảm tính thống nhất chú ý yếu tố đặc thù. Những mô hình mới, cách làm
hay mang lại hiệu quả phải được tổng kết, nhân rộng, khen thưởng nhằm tạo động lực trong
thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Ba là, tổ chức tốt lực lượng thực hiện
Hồ Chí Minh chỉ dẫn cách thức để xác định và tổ chức lực lượng thực hiện các yêu cầu
nhiệm vụ: (1) ai là chủ thể của công việc thì đó là lực lượng thực hiện; (2) Công việc vì ai
thì đó là lực lượng thực hiện; (3) Đối tượng đấu tranh là ai thì phía “đối diện” sẽ là lực
lượng thực hiện.
Như vậy, lực lượng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chính là hệ thống
chính trị và nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều này đã được Đảng
khẳng định rõ ràng và nhất quán. Vấn đề là cần tổ chức lực lượng như thế nào để phát huy
cao nhất khả năng, mang lại hiệu quả tốt nhất. Tư tưởng và thực tiễn lãnh đạo xây dựng
Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh cho thấy tổ chức lực lượng thực hiện cần theo hai
hướng: (1) phát huy mỗi cá nhân, thành phần; (2) Tổ chức, liên kết cá nhân, thành phần
trong bộ máy.
Để phát huy sự tham gia của các chủ thể, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước tiên khâu xây
dựng nhận thức đúng đắn, từ người giữ cương vị lãnh đạo đến toàn thể nhân viên: “Tôi yêu
cầu các cán bộ thấm nhuần kế hoạch rồi phải giải thích tuyên truyền cho mọi chiến sĩ, mọi
người thấm nhuần kế hoạch, để thực hiện kế hoạch cho kỳ được”(12).
 Giải pháp cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh :
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị
và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh
đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp Nhân dân thực hiện các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm
của công dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư về “Giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng
viên”, góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.

Ba là, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong
tham gia xây dựng và hoàn thiện một số chính sách để củng cố và phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Mặt trận phải đoàn kết rộng rãi mọi thành viên trong xã hội.
Mặt trận phải đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên các tầng lớp Nhân dân để tạo
sự đồng thuận trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.

Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức thành viên phát động, tổ chức động viên Nhân dân tham gia các phong
trào thi đua làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; vận
động Nhân dân chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Bên cạnh đó, tăng cường công tác đối ngoại Nhân dân, tích cực vận động, thu
hút kiều bào hướng về Tổ quốc, góp sức xây dựng quê hương, đất nước; chủ động phối hợp
với các cơ quan chức năng nước sở tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của kiều bào,
đồng thời, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân có thành tích tiêu biểu.

Năm là, nắm bắt kịp thời để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân và
nỗ lực chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp Nhân
dân. Phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân
tộc, tôn giáo; cùng với việc giải quyết đúng đắn và hợp lý các quan hệ lợi ích, không ngừng
bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh
thần tự lực tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố và phát triển khối đại đoàn
kết dân tộc, coi đó là những yếu tố quan trọng để không chỉ phòng và chống âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi
nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Hiện nay, chúng ta đang đứng trước những vận hội mới, đồng thời cũng có những thách
thức mới. Những vận hội và thách thức đó tác động hàng ngày, hàng giờ đến khối Đại đoàn
kết dân tộc. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần
phải luôn luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết để
huy động tối đa sức mạnh toàn dân tộc thực hiện thành công khát vọng dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

 Liên hệ vai trò của con người Việt Nam


+Xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, tính cộng đồng, kỷ luật, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần
cù ,sáng tạo trong lao động, có lối sống giản dị, giàu trí tuệ, có sức khỏe, có phẩm chất đạo
đức, lối sống lành mạnh, văn minh, cần kiệm, trung thực, tuân thủ pháp luật.
+Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị
truyền thống và hiện đại, tập trung xây dựng nếp sống mới, những chuẩn mực văn hóa
mới…
+Nâng cao thể lực, trí lực,bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của
nền tri thức và xã hội học tập.Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
 Liên hệ xây dựng con người Việt Nam
Thứ nhất, về xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống.Chăm lo xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo
đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân
tộc. Xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây
dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã
hội học tập. Mặt khác, cần đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam
thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi
người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá
nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã
hội. Mặt khác, cần khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân
rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. 
Thứ hai, chú trọng vấn đề an ninh con người, với những nhiệm vụ cụ thể như: Đấu tranh
phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái,
tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp
ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của
con người Việt Nam. Đồng thời, phải quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong
mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,
khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách,
đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị
truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng
mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người. Xây dựng
nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao
chất lượng, hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Từng
bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn
giáo, tín ngưỡng.
Thứ ba, bồi dưỡng, giáo dục những giá trị nhân văn cho con người, thông qua việc tăng
cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là
thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm
hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người
dân và của cộng đồng. 
Thứ tư, nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho con người, gắn với việc giáo dục thể chất
với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
 Quan điểm của HCM về vai trò của văn hóa. Sự vận dụng và liên hệ bản thân
Tích cực học tập để hiều sâu sắc hơn về bản sắc, truyền thống dân tộc
Chủ động, tích cực phổ biến nền văn hóa VN đến bạn bè quốc tế=> Hòa nhập, không hòa
tan
Luôn có cái nhìn biện chứng về cái truyền thống và cái hiện đại=> Không phiến diện, siêu
hình…; không lai căng kệch cỡm, không bảo thủ lạc hậu…
Phê phán đấu tranh với quan điểm sai trái xét lại lịch sử, phù nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chống chiến lược”DBHB”, khắc phục mặt
trái của toàn cầu hóa văn hóa…
 Học tập, rèn luyện theo tấm gương và tư tương đạo đức Hồ Chí Minh
Trước hết cán bộ, đảng viên, nhân dân phải nhận thức, quán triệt đầy đủ và rèn luyện đạo
đức theo những nguyên tắc đã được Hồ Chí Minh nêu lên.
Rèn luyện trong thực tiễn, nêu gương đạo đức, “người tốt việc tốt”, “xây” đi liền với
“chống”, tự phê bình và phê bình tạo ra phong trào thi đua rèn luyện đạo đức mới là những
biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình hiện nay.
Không thể chỉ giản đơn đòi hỏi xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhưng rõ ràng chủ
nghĩa xã hội muốn thành công cần có đạo đức. Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc học tập và thực hành theo tấm gương và tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ:
Mở rộng trong Đảng và trong nhân dân phong trào học tập và làm theo tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, trước hết phải thấm
nhuần tư tưởng của Người về vai trò và các phẩm chất đạo đức. Điều quan trọng nhất là
mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, không ngừng nâng cao
bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng
như những tiêu cực trong xã hội theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là một quá trình tạo
ra những chuẩn giá trị đạo đức mới phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
 Đề xuất những phương hướng giúp tăng tính đoàn kết dân tộc
Phải coi đại đoàn kết dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, của hệ thông chính tri (Nhà nước,
Đảng, Hội….) Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu cần quán triệt, thực hiện tốt một
số nội dung:
Tăng cường lãnh đạo, giáo dục và vận động làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trong mọi chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng, đối ngoại. Các chủ trương, chính sách, pháp luật đó phải tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi nhằm khai thác mọi tiềm năng, khuyến khích mọi người, mọi tổ chức
phát huy cao độ mọi nguồn lực và tài năng sáng tạo, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước, không ngừng cải
thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà
nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, thật sự là
công bộc của nhân dân, có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; tích
cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm,
quyết tâm tạo cho được chuyển biến mạnh mẽ, thiết thực trong cuộc đấu tranh hết sức khó
khăn này.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân
thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Thấm nhuần tư tưởng đại
đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng, đoàn kết, tập hợp
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam yêu quý.
Tiếp tục đổi mới chinh sách giai cấp tôn giáo để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc
Phải triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ tiếp tục phát huy dân chủ
và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong lĩnh vực này, quan điểm và chủ trương
của Đảng ta là : Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất trong bối
cảnh mới; Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng;
tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi
ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, tăng cường
đồng thuận xã hội. Bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng nâng cao tinh thần
yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây
dựng đất nước. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Coi đại đoàn kết dân tộc là động lực đảm bảo thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội. Phát huy sức mạnh dân tộc: Khơi dậy và phát huy cao
độ sức manh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để
xây dựng, phát triển đất nước. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường đinh
hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự
cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của
mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh,
học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao.

LỊCH SỬ ĐẢNG
 Bài học rút ra từ sinh viên ngày nay
Là một người sinh viên, chúng ta cần:
Luôn có tư tưởng, ý thức “hiếu học”, phải luôn đề cao sự học hỏi, học tập ở mọi
nơi mọi lúc. Tấm gương tự học của Bác không chỉ ở tinh thần, thái độ cầu tiến
mà còn thể hiện ở tư duy học tập, có nền tảng, có khoa học, có mục tiêu, kế
hoạch cụ thể, có hành động rõ ràng, có sự kiên trì, bền bỉ, có nỗ lực sáng tạo đổi
mới.
Cần tự học một cách chủ động, sáng tạo chứ không mang tính đối phó hay chạy
theo thành tích. Ngoài việc tự học các kiến thức chuyên môn thì cần trang bị
cho bản thân các kiến thức nền tảng về chính trị, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, lớp
trẻ cần có những hiểu biết vững chắc về lịch sử, truyền thống, phong tục, tập
quán và văn hóa Việt Nam.
Không để mặt trái của mạng internet, công nghệ lôi kéo, phân tán, ảnh hưởng
đến thời gian, năng suất, kết quả học tập, lao động. Đây thực sự là một vấn đề
rất đáng lưu tâm của toàn xã hội, trong đó có giới trẻ. Do đó, một thế hệ trẻ
thông minh, bản lĩnh cần biết khai thác mặt ưu của công nghệ, của hệ thống
thông tin đại chúng, mạng xã hội để phục vụ cho học tập, đặc biệt là việc tự học,
cũng như phục vụ cho công việc và cuộc sống của mình, đồng thời biết kiểm
soát, giới hạn bản thân để không bị lôi kéo, sa đà và bị ảnh hưởng tiêu cực của
những kênh thông tin, trò chơi, trào lưu không
tốt trên mạng xã hội.
Từ những bài học của ông cha ta, những bậc tiền bối đi trước chúng ta cần phát
huy hết khả năng của bản thân để học tập, phát huy và tìm hiểu để đưa đất nước
sánh vai với các cường quốc, đưa Việt Nam thành một dân tộc vững mạnh.
Xứng đáng với những hy sinh to lớn của thế hệ đi trước

You might also like