Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

ĐỀ TÀI: THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN

ĐỐI VỚI NHẬN THỨC. VẬN DỤNG VAI TRÒ THỰC


TIỄN LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ VÀO
PHƯƠNG THỨC DẠY HỌC TRỰC TUYẾN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.
1.PHẦN MỞ ĐẦU

Trước những đòi hỏi của thiên niên kỉ mới, mục đích của nền giáo dục hiện đại
là hướng đến xây dựng những công dân toàn cầu có khả năng làm chủ, có năng
lực tư duy tốt để thích ứng và giải quyết những vấn đề mới của thời đại. Trong
đó, Triết học đóng vai trò rất quan trọng trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước. Triết học cung cấp cho chúng ta năng lực tư duy trừu
tượng, những nội dung về tri thức và sức tưởng tượng trong nhận thức và cải
tạo thế giới. Muốn làm được điều đó thì ta phải đi từ thực tiễn cuộc sống; xem
xét, nhận thức, đánh giá các sự vật, hiện tượng trong xã hội để ta rút ra được
kinh nghiệm, khắc phuc và rèn luyện để nhận thức trong chúng ta đúng đắn
hơn trong việc xây dựng và phát triển đất nước.

Hiện nay, thực tiễn về dịch COVID 19 luôn là vấn đề sôi nổi của toàn cầu về hậu
quả của nó gây ra rất lớn trong quá trình phát triển đấy nước và Việt Nam
mình cũng không ngoại lệ. Việc bùng phát dịch không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe con người mà còn tác động gián tiếp lên các hoạt động kinh tê-xã
hội. Trong số đó, ngành giáo dục cũng bị tác hại rất lớn, trực tiếp nhất chính là
học sinh, sinh viên và giảng viên. Thế giới giáo dục và đào tạo bị đảo lộn, các
chương trình đào tạo và các khóa học không thực hiện được, việc dạy và học bị
gián đoạn, các kỳ thi và các kỳ đánh giá cũng bị áp lực và việc hoàn thành các
bậc trình độ có khả năng bị trì hoãn và ảnh hưởng đến sự nghiệp trước mắt và
tương lai của hàng triệu người học. Và để thực hiện được phương châm
“không đến trường nhưng không ngừng học" thì xã hội đã nảy sinh ra vấn đề “
Dạy học trực tuyến “ để giảm được những hậu quả mà dịch gây ra cho ngành
Giáo dục. Chính vì thực tiễn như vậy nên nhóm chúng em đã chọn đề tài
“THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC. VẬN DỤNG VAI
TRÒ THỰC TIỄN LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ VÀO PHƯƠNG THỨC DẠY HỌC
TRỰC TUYẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY” cho bài tập lớn của môn Triết học-Mac
Lênin để nói gõ hơn về nguồn gốc, bản chất, mối liên hệ giữa nhận thức và
thực tiễn; từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu để giải quyết các vấn đề khi áp
dụng phương pháp “Dạy học trực tuyến “ nhằm góp phần xây dựng một môi
trường học tập lành mạnh và đạt hiệu quả cao cho ngành Giáo dục Việt Nam
hiện nay.

2. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC

1.1 Nhận thức, nguyên tắc cơ bản của nhận thức

1.1.1Nguồn gốc và bản chất của nhận thức.

Trong triết học, vấn đề nhận thức xuất phát từ vấn đề cơ bản của triết học, tức
là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có
sau, cái nào quyết định cái nào, và con người có thể nhận thức được thế giới
không. Vì vậy, tùy thuộc vào cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà các
nhà triết học có giải đáp khác nhau cho vấn đề nhận thức. Trong lịch sử triết
học đã tồn tại những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vấn
đề này.

Theo đó nhận thức được hiểu là một quá trình,đó là quá trình đi từ trình độ
nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận;từ trình độ nhận thức
thông đến trình độ nhận thức khoa học...
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của nhận thức là quá trình
phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn. Quá trình đó là quá trình đi từ
trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận;từ trình độ
nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học...

Như vậy ta có thể hiểu là nhận thức không chỉ phản ánh những cái đã và đang
tồn tại mà còn phản ánh những cái sẽ tồn tại, có thể giúp con người dự báo
tương lai. Nhận thức không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.

1.1.2 Khái niệm nhận thức.

Lý luận nhận thức là gì?

Lý luận nhận thức là một bộ phận của triết học; nghiêm cứu những bản chất,
hình thức và các giai đoạn của nhận thức, con đường để đạt đến chân lý và
tiêu chuẩn của chân lý. Lý luận nhận thức còn là khía cạnh thứ hai của vấn đề
cơ bản của triết họ. Nó được biểu hiện cụ thể thành những vấn đề phong phú
khác nhau. Có thể thấy trong lịch sử triết học, xuất phát từ lập trường thế giới
quan khác nhau, các trào lưu triết học khác nhau đã đưa ra các quan điểm khác
nhau về vấn đề lý luận nhận thức.

Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về nhận thức: Không thừa nhận thế giới vật
chất tồn tại độc lập với ý thức, do đó không thừa nhận nhận thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan.
Theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp
những cảm giác của con người. Do đó, nhận thức, theo họ, chẳng qua là sự
nhận thức cảm giác, biểu tượng của con người.

Theo chủ nghĩa duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới, song coi nhận thức cũng không phải là sự phản ánh hiện thực
khách quan mà chỉ là sự tự nhận của ý niệm, tư tưởng tồn tại ở đâu đó ngoài
con người.

Quan điểm của chủ nghĩa hoài nghi: nghi ngờ tính xác nhận của tri thức, biến
sự nghi ngờ thành một nguyên tắc nhận thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ
sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài.

Quan điểm của thuyết không thể biết: lại phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới. Đối với họ, thế giới không thể biết được, lý trí của con người có tính chất
hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác ra, con người không thể biết được gì
nữa. Quan điểm của thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết đã bị bác bỏ bởi
thực tiễn và sự phát triển của nhận thức loài người.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

Thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới và coi nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Tuy nhiên, do hạn chế bởi
tính siêu hình, máy móc và trực quan nên chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã
không giải quyết được một cách thực sự khoa học những vấn đề của lý luận
nhận thức. Nhìn chung chủ nghĩa duy vật trước C.Mác chưa thấy đầy đủ vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức.

1.1.3 Nguyên tắc cơ bản của nhận thức

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng các nguyên tắc xây dựng lý luận nhận thức
bao gồm:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc
lập với cảm giác, tư duy và ý thức của con người.

Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc,
không có cái gì là không thể biết.

Tức là nhận thức là quá trình chủ thể đi tìm hiểu khách thể. Không có cái gì mà
con người không thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận
thức được, nếu quyết tâm đến cuối cùng, con người sẽ nhận thức được.

Ba là, trong quá trình nhận thức, sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc
con người là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.Quá trình
phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết
nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu
sắc hơn.

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

1.2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

1.2.1 Khái niệm thực tiễn

Phạm trù của thực tiễn:

Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Trong lịch sử
triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn
về phạm trù này.
Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần
sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là
hoạt động lịch sử xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã
hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là
hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Nó không có vai trò gì đối với nhận thức
của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố
hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực
tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận
thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã tạo nên một bước
chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói
riêng.

Theo quan điểm của triết học Mác_Lênin:

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến
bộ.

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thực tiễn gồm các đặc trưng sau:

Thứ nhất, Thực tiễn chỉ là những hoạt động vật chất - cảm tính của con người
hay nói khác đi là những hoạt động vật chất mà con người cảm giác được,
quan sát được trực quan được. Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt
động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động
vào các đối tượng vật chất để biến đổi chúng; trên cơ sở đó, con người làm
biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính bản thân mình.

Thứ hai, Thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia đông
đảo của mọi người, luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể
và cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể. Do vậy, thực tiễn là
những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người.

Thứ ba, Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội để phục vụ con người. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác
cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của
động vật.

Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song
có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị-xã
hội và hoạt động thực nghiệm khoa học:

Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan
trọng nhất. Ngay từ khi xuất hiện, con người đã phải tiến hành sản xuất vật
chất, dù là đơn giản, để đáp ứng nhu cầu tồn tại. Sản xuất vật chất biểu thị mối
quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và là phương thức tồn tại cơ bản
của con người và xã hội loài người. Sản xuất vật chất cũng là cơ sở cho sự tồn
tại các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của
con người.

Hoạt động sản xuất vật chất phổ biến khắp mọi nơi trong cuộc sống, rất dễ
nhận diện như hoạt động trồng lúa, hoạt động trồng rau, trồng hoa màu hay
các hoạt động dệt vải, sản xuất giày dép, hoạt động sản xuất ô tô, xe máy…

Hoạt động chính tri-xã hội: Đây là hoạt động nhằm biến đổi, cải tạo, phát triển
các thiết chế xã hội, quan hệ xã hội... thông qua các hoạt động như: đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ
xã hội, cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội.

Cụ thể như những hoạt động liên quan đến chính trị xã hội như những hoạt
động bỏ phiếu của nhân dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội.; hoạt động bỏ phiếu
tán thành sự ra đời, sửa đổi của các bộ Luật, Nghị định .. của các đại biểu; hoạt
động tình nguyện giúp đỡ nhân dân vùng núi vùng sâu xa xây dựng đường xá,

Hoạt động thực nghiệm khoa học: Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc
biệt; bởi lẽ con người đã chủ động tạo ra những điều kiện không sẵn có trong
tự nhiên để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích đã đề ra; và trên
cơ sở đó áp dụng vào sản xuất vật chất, cải tạo chính trị - xã hội, các mối quan
hệ chính trị - xã hội.

Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát
triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng
khác nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động
sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các
hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thuỷ nhất và tồn tại một cách
khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra
những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và
phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể
có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng
cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản
xuất của con người. Nói như thế không có nghĩa là các hình thức hoạt động
chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một
chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác động kìm hãm
hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động chính
trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm
khoa học mà đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển. Còn nếu
hoạt động chính trị xã hội mà lạc hậu, phản cách mạng và nếu hoạt động thực
nghiệm mà sai lầm, không khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động
sản xuất vật chất.
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm
cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan
trọng đối với nhận thức.

1.2.2 Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.

Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:

Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi
tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay
hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới,
buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con
người nhận thức chúng.

Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý
luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.

Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến
hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản
ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ
đó xây dựng thành các khoa học, lý luận.

Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng
bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.

Thực tiễn là động lực của nhận thức:

Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp
năng lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng
toàn diện và sâu sắc về thế giới. Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến
đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng
lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc
tri thức của mình về thế giới.

Như vậy, thực tiễn chính là nền tảng, cơ sở nhận thức của con người nãy sinh,
tồn tại và phát triển và là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.

Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn con người cần phải “đo đạc
diện tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và
sự chế tạo cơ khí” mà toán học đã ra đời và phát triển.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức:

Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở
lĩnh vực gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà
không phục vụ thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.

Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học
chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực
tiễn.
Ví dụ: ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ
gien người cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ mục đích chữa trị những căn
bệnh nan y và từ mục đích tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con
người…có thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại
không xuất phát từ một mục đích nào đó của thực tiễn, không nhằm vào việc
phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. 

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:

Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm
hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn
toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.

Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn
đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối
với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là mà
thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến  đổi của nhận thức
suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường
xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.

Chính thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa
chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết “vấn đề tìm hiểu tư
duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý”.
Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy
luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì
không nên làm, đâu là cái không hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri
thức đúng, cái hợp quy luật hay là đúng với quy luật.

Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi
nhận thức còn phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của
mình. Vì thế mà thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn mạnh điều này thì V.I. Lênin đã
viết: “Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản của lý luận nhận thức”.

Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu
cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu
phải liên hệ với thực tiễn tức là “học phải đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan
liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó có hợp
quy luật hay không có là tri thức đúng (chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối
hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi
chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý.

Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời mới phù hợp được với hiện
thực khách quan còn tri thức sai, sai lầm thì không thể phù hợp với hiện thực
khách quan được.

Ví dụ: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Vì chỉ độc lập tự do thì những người
dân mới được sống ấm no và hạnh phúc.
Như vậy, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì chỉ có đem những tri thức đã
thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm
mới khẳng định được tính đúng đắn của nó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Nguyễn Văn Phi (17/8/2021), Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức, truy cập từ
https://luathoangphivn.cdn.ampproject.org/v/s/luathoangphi.vn/thuctienlagi/
amp/?amp_js_v=a6&amp_gsa=1&usqp=mq331AQKKAFQArABIIACAw==

By havip (14/1/2020), Theo triết học Mác – Lênin – Bản chất của nhận thức là
gì?, truy cập từ https://havip.com.vn/theo-triet-hoc-mac-lenin-ban-chat-cua-
nhan-thuc-la-gi/

Cổng thông tin điện tử Hoa Tiêu (7/6/2021), Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức?, truy cập từ https://hoatieu.vn/thuc-tien-la-gi-
phan-tich-vai-tro-cua-thuc-tien-doi-voi-nhan-thuc-204192

You might also like