Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

Câu 1: Trình bày khái niệm và các hình thức cơ bản của thế giới quan.

Khái
quát lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
a. Khái niệm và các hình thức cơ bản của thế giới quan:
- Thế giới quan: là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy
+ Nguồn gốc của thế giới quan: là kqua trực tiếp của quá trình nhân thức, suy đến
cùng nó là kết quả của cả những yếu tố chủ quan và khách quan, của cả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn
+ Nd của thế giới quan: phản ảnh thế giới qua ba góc độ: các đối tượng khách
quan bên ngoài chủ thể, bản thân chủ thể, mqh giữa chủ thể và khách thể
+ Hình thức của thế giới quan: có thể là những quan điểm rời rạc hay hệ thống lý
luận chặt chẽ
+ Cấu trúc của thế giới quan: gồm 2 yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin. Tri thức
là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan và chỉ gia nhập vào thế giới quan khi
nó thống nhất với niềm tin để hình thành lý tưởng-động cơ thôi thúc con người hoạt
động
- Các hình thức cơ bản của thế giới quan: sự phát triển của thế giới quan đã được
thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
+ thế giới quan huyền thoại: là thế giới quan có nội dung pha trộn 1 cách k tự
giác giữa thực và ảo, nó giải thích nguồn gốc các hiện tượng tự nhiên và xh bằng sự
sáng tạo và quy ddinh của thần thánh. TGQ huyền thoại đặc trưng cho tư duy nguyên
thủy, được thể hiện rõ nét qua các câu chuyện thần thoại, phản ảnh nhận thức về thế
giới của con người trong XH công xã nguyên thủy. TGQ huyền thoại thể hiện trình độ
nhân thức thấp, chủ yếu là sản phẩm của nhân thức cảm tính nên những gì trừu tượng
thường được con người hình dung dưới những dạng sự vật cụ thể. TGQ huyền thoại là
cái thực tế đã qua phản ánh hoang tưởng vào những câu chuyện của người nguyên
thủy.
+ Thế giới quan tôn giáo: là TGQ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực
lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối vs con người, được thể hiện qua các hoạt động
có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. TGQ tôn giáo chủ yếu thể
hiện qua các giáo lý của các tôn giáo. Đặc trưng của TGQ này là niềm tin cao hơn lý
trí, tuyệt đối hóa yếu tố thần thánh và hạ thấp vai trò của con người. TGQ tôn giáo ra
đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp,
thể hiện sự yếu đuối, bất lực, sợ hãi của con người trước những lực lượng tự nhiên
cũng như lực lượng xã hội dẫn đến con người thần thánh chúng, quy chúng về những
sức mạnh siêu nhiên và tôn thờ chúng.
TGQ tôn giáo vừa là biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, vừa là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn ấy. Lenin cho rằng: “sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong
cuộc đấu tranh chống bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào 1 cuộc đời tốt đẹp hơn ở TG
bên kia, cũng như sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ
ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu…”
+ Thế giới quan triết học: là TGQ được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua
hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan
điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người mà còn chứng
minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận
TGQ triết học được thể hiện chủ yếu qua các học thuyết triết học, triết học là hạt
nhân lý luận của TGQ. TGQ triết học đề cao chân lý và tính chất của nó là do các học
thuyết triết học quy định. TGQ triết học chỉ hình thành khi nhận thức của con người đã
đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa và khi các lực lượng xh đã ý
thức được sự cần thiết phải có định hướng đề chỉ đạo cuộc sống
TGQ còn có thể chia thành TGQ duy tâm và TGQ duy vật, TGQ khoa học và
TGQ phản khoa học
b. Lịch sử phát triển của TGQ duy vật
TGQ duy vật là TGQ thừa nhận bản chất của TG là vật chất, thừa nhận vai trò
quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí,
vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực
Sự pt của TGQ thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của những nhà
duy vật. Tương ứng với 3 hình thức cơ bản củ CNDV là 3 hình thức cơ bản của
TGQDV:
- TGQDV chất phác:
Đây là TGQ thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của những nhà duy
vật
TGQDV chất phác thể hiện rõ nét ở thời cổ đại. Tuy thừa nhận bản chất của TG
là vật chất nhưng các nhà duy vật đã quan niệm vật chất là 1 hay 1 số chất đầu tiên
sinh ra vũ trụ như: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ theo phái ngũ hành, nước theo Talet,
nguyên tử theo Democritus… và con người là hiện thân của 1 số chất đầu tiên ấy. Sự
ra đời của TGQDV thời cổ đại đã đánh dấu bước chuyển từ giải thích TG dựa trên thần
linh sang giải thích TG dựa vào giới TN, định hướng cho con người nhân thức TG
phải xuất phát từ chính bản thân TG.
Tuy nhiên, TGQDV chất phác còn nhiều hạn chế:
+ Nhân thức mang nặng tính trực quan, phỏng đoán, chưa có được những căn cứ
KH vững chắc
+ Các nhà duy vật thời kỳ này đã đồng nhất vật chất với vật thể, mà vật thể chỉ là
1 dạng cụ thể của vật chất. Từ đó, k hiểu đc bản chất của các hiện tượng tinh thần cũng
như mqh giữa tình thần với vật chất. K có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi
giải quyết các vấn đề xh, dẫn đến quan điểm duy vật k triệt để.
+ Chỉ dừng lại ở việc giải thích TG chứ chưa đóng đc vai trò cải tạo TG
- TGQDV siêu hình:
Biểu hiện rõ nét vào TK XVII-XVIII ở các nước Tây Âu, với các đại diện như:
Bacon, Descartes, Holbach… Khi các ngành khoa học phát triển, đặc biệt là cơ học đòi
hỏi chia ra nhiều ngành để nghiên cứu.
Các nhà duy vật siêu hình phủ nhân vai trò của đấng sáng tạo, thừa nhận bản chất
của TG là vật chất. TG là vô số những sự vật cụ thể tồn tại cạnh nhau trong 1 khoảng
không gian trống rỗng, vĩ đại. Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh, k vận động, k biến
đổi và hoàn toàn cô lập, tách rời với các sự vật khác
QT phát triển được xem như là sự tăng trưởng đơn thuần về mặt số lượng chứ k
có sự thay đổi về chất lượng. Tìm nguồn gốc của sự vận động và pt ở bên ngoài chứ k
tìm trong sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật
Các nhà duy vật siêu hình đề cao con người, đề cao gt của con người song quan
niệm con người cũng chỉ như 1 cỗ máy
Tuy góp phần chống thế giới quan duy tâm, giúp con người đạt được 1 số hiệu
quả trong nhận thức từng lĩnh vực hẹp nhưng vì phát triển tư tưởng về vật chất của các
nhà duy vật thời cổ đại và pp nhận thức siêu hình nên các duy vật thời này còn mang
nặng tư duy máy móc
- TGQDVBC:
TGQDVBC được Karl Max và Engels xây dựng vào giữa TK XIX, sau đó Lenin
và những người kế tục ông phát triển
TGQDVBC là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về TG trc đó, trực tiếp
nhất là quan điểm duy vật của Feuerbach và phép biện chứng của Hegel; là kết quả sd
tối ưu thành tựu khoa học và tổng kết các sự kiện lịch sự diễn ra ở các nước Tây Âu
TGQDVBC không chỉ đem lại cho con người 1 bức tranh trung thực về TG mà
còn đem lại cho con người 1 định hướng, 1 phương pháp tư duy khoa học để con
người tiếp tục nhận thức và cải tạo TG
TGQDVBC được thể hiện ở nd và bản chất của CNDVBC, bao gồm các quan
điểm duy vật về TG nói chung và các quan điểm duy vật về XH nói riêng; CNDVBC
giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống
nhất hữu cơ giữa TG quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để
và ở tính thực tiễn-CM của nó.
Câu 2: Nội dung cơ bản và vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Tại sao
nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học
TGQKH phản ánh thế giới và định hướng cho hoạt động của con người trên cơ
sở tổng kết những thành tưu của quá trình nghiên cứu khoa học, thực nghiệm khoa học
và dự báo khoa học
Triết học là hạt nhân lý luận của TGQ. CNDVBC là 1 hình thái triết học KH
nhất, CM nhất, và nd, bản chất của CNDVBC k phải là 1 kqua của sự sáng tạo thuần
túy mà là thành tựu của hoạt động thực tiễn, thành tựu khái quát khoa học, tư duy khoa
học của nhân loại trong QT phản ánh TG. Do đó, có thể khẳng định CN DVBC là hạt
nhân lý luận của TGQ khoa học
* Nd cơ bản của CNDVBC
Nd của CNDVBC chủ yếu thể hiện qua quan điểm duy vật về TG nói chung và
quan điểm duy vật về xh nói riêng
- Quan điểm duy vật về TG:
CNDVBC khẳng định rằng: bản chất của TG là vật chất, TG thống nhất ở tính
vật chất
+ Vật chất là phạm trù triết học dùng đề chỉ thực tại khách quan đc đem lại cho
con người trong cảm giác, đc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại k lệ thuộc vào cảm giác. Như vậy, vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với
ý thức, quyết định ý thức và đc ý thức phản ánh
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung, thông qua vận
động mà biểu hiện sự tồn tại của mình, vận động của vật chất là tự thân và nó k tách
rời vật chất. Có 5 hình thức cơ bản của vận động đc sắp xếp từ thấp đến cao: vận động
cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động XH. Hình
thức vận động cao bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn và các hình
thức của vận động luôn có xu hướng chuyển hóa lẫn nhau. Đứng im chỉ là sự vận động
trong thăng bằng khi sự vật còn là nó mà chưa chuyển thành sự vật khác, đứng im là
tương đối còn vận động mới là tuyệt đối
Kgian và tgian là các hình thức tồn tại của vật chất. Mọi sự vật tồn tại khách
quam đều có độ dài ngắn, kết cấu… những thuộc tính đó gọi là kgian. Mọi sự vật tồn
tại khách quann đều có QT diễn biến nhanh, chậm, kế tiếp… những thuộc tính đó gọi
là tgian. Kgian thực có 3 chiều còn tgian có 1 chiều. kgian và tgian đều là thuộc tính
của sự vật hiện tượng, gắn liền với sự vật hiện tượng. Kgian và tgian cũng khách quan,
vĩnh viễn và k tách rời vật chất vận động
“Trong tgioi, k có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động k
thể vận động ở đâu ngoài kgian và tgian”
Vậy, chỉ có 1 TG duy nhất và thống nhất là TG vật chất, TG vật chất tồn tại
khách quan, vĩnh viễn, vô hại, k sinh ra và k mất đi. Tất cả các sự vật hiện tượng trên
TG đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất hay nguồn gốc vật chất. Các sự vật,
hiện tượng trong TG vật chất thống nhất chặt chẽ với nhau, vận động theo các quy luật
khách quan, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, là nguyên nhân và kqua của nhau
+ Ý thức là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Ý thức là 1
spham đặc biệt, là sự phản ánh của TG quan vào não người trên cơ sở của lao động và
ngôn ngữ, là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, là TG khách quan đc di chuyển
vào não người và đc cải biến đi trong nó
Ý thức vật chất sinh ra và quyết định, sau khi ra đời thì ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông quan hoạt động của
con người. Ý thức của con người có tác động tích cực,làm biến đổi hiện thực, vật chất
khách quan theo nhu cầu của mình. Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình
- Quan điểm duy vật về XH:
Xã hội theo quan điểm của CNDVBC là tổng hợp những con người hiện thực
cùng với tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ. Sự phát triển của xã hội loài người
cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định. Nd của quan điểm duy vật về
xh thể hiện:
+ XH là 1 bộ phân đặc thù của tự nhiên. Chính sự phát triển lâu dài của giới TN
dẫn đến sự ra đời của con người và xh loài người. XH là sản phẩm phát triển cao nhất
của giới TN
+ Sx vật chất là cơ sở của đời sống xh, phương thức sản xuất quyết định QT sinh
hoạt XH, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại XH quyết định ý thức XH. “K phải ý
thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, sự tồn tại XH của họ quyết
định ý thức của họ”
+ Sự pt của XH là 1 QT lịch sử-TN. 1 XH trọn vẹn trong từng giai đoạn ls cụ thể
là 1 hình thái kt-XH; gồm những mặt cơ bản là lực lượng sx, qhsx và kiến trúc thượng
tầng. Khi LLSX pt đến 1 mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi cho phù hợp vs
trình ffooj mới của LLSX, lúc này cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn đến kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi theo. Đến đây, tất cả các mặt cơ bản cấu thành 1 hình thái ktxh đã
thay đổi và chuyển sang 1 hình thái ktxh khác cao hơn. Tính ls của sự pt xh được thể
hiện ở chỗ sự pt xh là sự thay thế các hình thái krxh, từ hình thái này đến hình thái
khác cao hơn. Tính tự nhiên của sự pt xh thể hiện ở chỗ sự pt và thay thế các hình thái
kt xh là khách quan, k phụ thuộc vào ý chí của con người
+ Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra ls. Quần chúng nd là
lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là động lực cơ bản của mọi cuộc
CMXH, là người sáng tạo ra các gt VH tinh thần. Trong mqh với quần chúng nhân dân
thì lãnh tụ có vai trò quan trọng, quần chúng nd có vai trò quyết định.
* Bản chất của CNDVBC
+ Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn. Các
nhà DVBC đã khắc phục đc hạn chế của CNDV trước đó để giải quyết thỏa đáng vấn
đề cơ bản của triết học-mqh giữa vật chất và ý thức. CNDVBC khẳng định chỉ có 1
TG duy nhất và thống nhất là TG vật chất, trong TG vật chất, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định ý thức song ý thức có thể TĐ trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người
+ Sự thống nhất hữu cơ giữa TG quan duy vật với phép biện chứng. Với việc kế
thừa những te tưởng hợp lý của các học thuyết trc đó và tổng kết thành tựu của các nhà
KH đương thời, Marx và Engels đã giải thoát TG quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình
và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên CNDVBC
với sự thống nhất hữu cơ giữa TGDV với phép biện chứng
+ Quan niệm duy vật triệt để. Bằng việc KĐ sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống XH và coi sự pt của các hình thái kt-xh là 1 QT ls-TN, CNDVBC đã khắc phục
đc tính k triệt để của CNDV cũ. “CNDV lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của
tư tưởng KH”
+ Tính thực tiễn-CM. CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, CNDVBC
ra đời đã được giai cấp VS tiếp nhận như 1 công cụ đinh hướng cho hành động, là vũ
khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại.
CNDVBC đã phản ánh đúng TG, định hướng hoạt động của con người phù hợp với
quy luật, sức mạnh cải tạo TG của CNDVBC thể hiện ở mqh mật thiết với hoạt động
thực tiễn của quần chúng nhân dân. CNDVBC KĐ sự tất thắng của cái mới, tính CM
sâu sắc của CNDVBC thể hiện qua việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự
vận động và pt, qua đó, QT xóa bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ
hơn là tất yếu
Câu 3: Phân tích nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ bản
của pháp biện chứng duy vật và sự vận dụng nó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Nội dung cơ bản của phép BCDV: được thể hiện qua 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6
cặp phạm trù. 3 quy luật của phép BCDV nói lên động lự của sự phát triển, hình thức
pt và xu hướng của sự pt của sv hiện tượng
Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại của
các sự vật hiện tượng
* Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại (hay quy luật lượng-chất)
Quy luật này chỉ ra tính chất và cách thức của sự pt
+ Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sv và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà k phải là
cái khác
+ Lượng là 1 phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, là con số
các thuộc tính của sv, nói lên quy mô và trình độ của sv
+ Độ là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, nó là
khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng k làm cho chất chuyển thành chất
khác
+ Điểm nút là giới hạn mà tại đó những thay đổi về lượng có thể làm cho chất cũ
mất đi, chất mới ra đời
+ Bước nhảy là QT tất yếu của sự pt trong đó những thay đổi về lượng đã có thể
phá vỡ độ, vượt qua điểm nút, làm cho chất cũ mất đi và chất mới ra đời
Nd của quy luật: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự
thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất
của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của
lượng
- Ý nghĩa pp luận
+ Vì bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, cho nên trong
nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và
lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật
+ Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng trong những điều kiện nhất
định sẽ chuyển hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại, cho nên trong những
hoạt động nhân thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về
lượng để có thể làm thay đổi về chất của sv; đồng thời, có thể phát huy tác động của
chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sv
+ Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sv với
điều kiện lượng phải đc tích lũy tới giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn
cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tinh tất yếu quy luật
thì khi lượng đã đc tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước
nhảy về chất của sv, do đó, cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh
trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan,
duy ý chí, k tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về
chất; hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, k dám thực hiện bước nhảy
dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa
về lượng
+ Hình thức bước nhảy của sv là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy trong nhận
thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho
phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống XH, QT pt k
chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của
con người, Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy
QT chuyển hóa từ lượng đến chất 1 cách có hiệu quả nhất.
+ Sau đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng con đường đi đúng đắn, cho
phép phát triển kinh tế nhiều thành phần, định hướng XHCN, mục tiêu là xây dựng
một nền tảng kinh tế, đồng thời phát triển văn hóa, giáo dục,… để xây dựng yếu tố con
người đạt trình độ cao.
+ Muốn xây dựng CNXH, trước tiên cần thực hiện thành công CNH, HĐH.

* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay quy luật mâu thuẫn)
Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình, sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và pt, dẫn tới sự mất đi của cái
cũ và sự ra đời của cái mới. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng vì nó chỉ ra
nguyên nhân và động lực của sự pt
Mâu thuẫn là thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mặt đối lập là những
thuộc tính bên trong của sự vật, tồn tại bên cạnh 1 thuộc tính đối lập với nó. Sự thống
nhất của các mặt đối lập là sự rang buộc, phụ thuộc lẫn nhau, cái này lấy cái kia làm
điều kiện tồn tại của nhau và sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập, bao hàm
trong nó những mâu thuẫn khách quan và phổ biến
Mâu thuẫn là 1 QT, khi sự vật hình thành mâu thuẫn xuất hiện, biểu hiện ở sự
khác biệt của các mặt đối lập sẽ gay gắt dẫn lên đến đỉnh điểm (xung đột). Mâu thuẫn
đòi hỏi phải giải quyết và khi mâu thuẫn đc giải quyết thì có sự chuyển hóa làm cho sv
cũ mất đi, sv mới ra đời
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự TĐ qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối
lập tùy thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, vào điều kiện trong đó diễn ra
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập
- Ý nghĩa pp luận
+ Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, theo dõi QT
phát sinh, pt của các mặt đó, nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn,
đánh giá đúng tc và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong từng giai đoạn
+ XĐ trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức, phương tiện và
lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu
thuẫn 1 cách thực tế. Tùy thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào điều kiện cụ thể mà
có biện pháp giải quyết thích hợp với từng loại mâu thuẫn
+ Không được giải quyết mâu thuẫn 1 cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện,
cũng k để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra 1 cách tự phát, cố gắng tạo điều kiện
thúc đẩy sự chin muỗi của mâu thẫn và điều kiện giải quyết
+ Nếu mâu thuẫn là bất lợi, có thể TĐ làm hạn chế mâu thuẫn
- Mẫu thuẫn có thể được giải quyết bằng con đường đấu tranh hoặc nhiều con
đường khác tùy loại mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội VN hiện nay là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển và khả năng phát triển.

* Quy luật phủ định của phủ định


Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự vật, hiện tượng
sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay
thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình
vận động phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.
Mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư
duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó có những sự phủ định chấm
dứt sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá
trình phát triển của sự vật. Những sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật được gọi là sự phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa
cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một
quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình
độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”. Theo tính chất này,
mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình
thái tồn tại cơ bản của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng
cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển
nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được
những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định.
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của
sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường
xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận tù thấp đến cao của sự vật, hiện tượng
trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai
trò là những “vòng khâu” của quá trình đó. Tóm lại, nội dung cơ bản của qui luật phủ
định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện
chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những
nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu
kỳ của sự phát triển.
- Ý nghĩa của pp luận
+ Qui luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng
đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn
ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều
quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là
sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo qui luật. Cần phải
nắm được đặc điểm, bản chất các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự
phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động nhận thức của thế giới quan khoa học và
nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và thực tiễn. Khẳng định
niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên, đó là biểu hiện của thế giới quan
khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta.
+ Theo qui luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu
phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo qui luật
khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích,
có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, chúng ta cần phải nâng cao tính
tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của
cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với qui
luật phủ định của phủ định.
+ Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển. Quan điểm
đó đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ
để phát triển cái mới. Do đó, không được phủ định hoàn toàn cái cũ, cũng như không
được kế thừa toàn bộ cái cũ, mà phải kế thừa những yếu tố hợp lý, hạt nhân hợp lý của
cái cũ cho sự phát triển của cái mới. Đó là quan điểm kế thừa biện chứng, trên tinh
thần khoa học, cho mọi quá trình phát triển, nhất là trong thời đại hội nhập của dân tộc
với nhân loại ngày nay
* Vận dụng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
- Nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật.
- Sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu,
cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả nhân tố tích cực của cái cũ.
- Ủng hộ cái mới ra đời nhưng tránh thái độ phủ định sạch trơn.

Câu 4: Khái niệm phương pháp và phương pháp luận. Trình bày nội dung những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật đối với quá trình
nhận thức khoa học
1. Phương pháp và phương pháp luận:
a. Khái niệm phương pháp: là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri
thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
- Yếu tố quy định phương pháp:
+ Bản chất, đặc điểm của sự vật không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người;
+ Mục đích hoạt động của con người.
- Vai trò:
+ Sau khi xác định được mục tiêu, phương pháp là nhân tố quyết định sự thành
công của hoạt động nhận thức và thực tiễn;
+ Phương pháp đúng làm cho hoạt động đạt hiệu quả cao, ngược lại đạt hiệu quả
thấp, thậm chí không đạt mục tiêu đã định.
- Các cấp độ của phương pháp:
+ Theo phương thức hoạt động: phương pháp nhận thức và phương pháp thực
tiễn.
+ Theo phạm vi hoạt động: phương pháp riêng, chung và phổ biến.
b. Khái niệm phương pháp luận: là lý luận về phương pháp, là hệ thống những
quan điểm, nguyên tắc xuất phát, cách thức chung nhằm lựa chọn phương pháp thích
hợp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn đạt kết quả cao.
- Phân biệt phương pháp và phương pháp luận:
+ Phương pháp là những nguyên tắc rút ra từ quy luật của một đối tượng cụ thể,
còn phương pháp luận là những nguyên tắc rút ra từ lý thuyết chung về nhóm các đối
tượng;
+ Phương pháp gắn với đối tượng cụ thể, phương pháp luận gắn với lý thuyết có
tình trừu tượng, khái quát.
2. Những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật:
a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn:
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép
biện chứng duy vật.
- Những yêu cầu của nguyên tắc toàn diện:
+ Phải xem xét tất cả các mối liên hệ của sự vật, không trừ mối liên hệ nào, tránh
xem xét một chiều, tuyệt đối hóa một mối liên hệ nào đó;
+ Phải xem xét từng mối liên hệ trong điều kiện lịch sử cụ thể, xác định được
mối liên hệ nào là cơ bản, mối liên hệ nào là chủ yếu, tránh xem xét dàn trải, chiết
trung, hời hợt;
+ Phải xem xét sự vật trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
- Nguyên tắc toàn diện đối lập với:
+ Cách nhìn phiến diện, một chiều;
+ Chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
- Sự vận dụng nguyên tắc toàn diện của Đảng ta trong cách mạng giải phóng dân
tộc và trong công cuộc đổi mới hiện nay:
+ Trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện bản
chất xã hội Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng ta chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ
bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân ta
+ Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ
sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng
ta luôn xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn
quá trình đổi mới vừa qua đã chứng minh tính đúng đắn của những quan điểm đó.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn:
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển: Là nguyên lý về sự phát triển của phép
biện chứng duy vật.
- Những yêu cầu:
+ Phải xem xét sự vật trong sự tự vận động, tự biến đổi, phải phân tích các mâu
thuẫn của sự vật tìm ra nguyên nhân sự biến đổi; phân tích sự biến đổi về lượng dẫn
đến sự vật biến đổi về chất ...
+ Phải thấy sự phát triển là xu hướng tất yếu của sự vận động của sự vật, do vậy
phải có thái độ ủng hộ cái mới, cái tiến bộ, đồng thời phải biết tôn trọng cái cũ còn phù
hợp với xu hướng tiến bộ, đấu tranh chống cái cũ lạc hậu.
+ Phải thấy sự phát triển là quá trình phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai
đoạn phát triển lại có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau, do vậy phải phân tích
cụ thể để tìm ra hình thức tác động phù hợp.
- Vận dụng vào nhận thức con đường đi lên CNXH:
+ Phải thấy xu hướng của thời đại là đi lên một xã hội ở đó con người được giải
phóng, được sống tự do, được đối xử công bằng, dân chủ;
+ Đi lên CNXH là tất yếu, nhưng con đường đi lên ở mỗi nước lại khác nhau và
phải trải qua nhiều giai đoạn, rất phức tạp;
+ Đối với nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hâu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, do
vậy phải CNH, HĐH, phát triển kinh tế.
c. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn:
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là hai nguyên lý, các phạm trù và quy luật của
PBCDV, đều thừa nhận sự tồn tại, vận động, phát triển khách quan của sự vật trong
không gian và thời gian cụ thể.
- Các yêu cầu:
+ Phải xem xét sự vật trong không gian và thời gian cụ thể, với đầy đủ những
mối liên hệ, điều kiện thực tế của sự tồn tại của sự vật.
+ Phải xem xét những quy luật chi phối sự phát triển của sự vật, những biểu hiện
cụ thể của những quy luật đó trong không gian, thời gian cụ thể như thế nào
+ Phải xem xét những mối liên hệ của sự vật thay đổi trong những không gian
thời gian khác nhau như thế nào.
- Nguyên tắc lịch sử cụ thể đối lập với phương pháp kinh viện, xa rời thực tế.

Câu 5: Khái niệm thưc tiễn và lý luận? Những yêu cầu cơ bản và ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? Sự vận dụng nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong cách mạng Việt Nam
1. Khái niệm thực tiễn và lý luận:
a. Khái niệm thực tiễn: là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Đặc trưng:
+ là hoạt động vật chất khác với hoạt động tinh thần;
+ là hoạt động vật chất có ý thức, mục đích, không phải mọi hoạt động vật chất
của con người;
+ là hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội;
+ mang tính tất yếu khách quan.
- Hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất;
+ Hoạt động chính trị xã hội;
+ Thực nghiệm khoa học.
b. Khái niệm lý luận: là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.
- Đặc trưng:
+ Lý luận là tri thức, nhưng không phải tri thức nào cũng là lý luận, mà là hệ
thống tri thức phán ánh mặt bản chất sự vật.
+ Tri thức kinh nghiệm, rời rạc, riêng lẻ, không phải là lý luận. Lý luận phải là tri
thức có hệ thống, được thể hiện thông qua hệ thống các phạm trù, khái niệm phản ánh
các mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Các loại lý luận:
+ Lý luận ngành: là lý luận khái quát quy luật hình thành và phát triển của ngành
nào đó. Ví dụ, lý luận kinh tế, chính trị, văn học,…
+ Lý luận triết học: là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con
người.
- Chức năng của lý luận:
+ Chức năng phản ánh hiện thực khách quan;
+ Chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn.
2. Những yêu cầu cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn:
a. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích và tiêu chuẩn của chân lý; Lý luận
hình thành phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Lý
luận không được xa rời thực tiễn.
+ Những tri thức được khái quát thành lý luận là kết quả của hoạt động thực tiễn.
Qúa trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để để bổ sung và điều chỉnh những lý luận
đã được khái quát.
+ Hoạt động của con người không chỉ là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà
còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội.
+ Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người
trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả mãn nhu cầu ngày càng
tăng của cá nhân và xã hội.
+ Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách
quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt
động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm
nghiệm.
b. Thực tiễn phải được chỉ đạo bằng lý luận; Lý luận phải được vận dụng vào
thực tiễn, phục vụ thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn, thông qua đó điều chỉnh, bổ sung
và phát triển lý luận.
+ Ban đầu, hoạt động của con người chưa có lý luận chỉ đạo, song con người
phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó, con người khái
quát thành lý luận. Từ đó, những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết
phải có lý luận soi đường.
+ Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng
mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện.
3. Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong cách
mạng Việt Nam:
a. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn,
khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn.
+ Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục
hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
+ Con đường đi lên CNXH ở nước ta bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc
thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu thành tựu của nhân loại, đặc biệt
về KHCN.
b. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể.
+ Đảng Cộng sản việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình.
+ Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng
tạo các tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của đất nước.
+ Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi vận dụng vào thực tiễn phải
quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể.
c. Khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều:
+ Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
+ Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây
và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi.
+ Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ rất thấp.
Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống - nền kinh tế chỉ dựa vào kinh
nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức dân gian. Điều đó dẫn
đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của người viết Nam chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm.
+ Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối
hóa kiến thức đã có trong sách vở coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một
cách máy móc, không tính tóan đến điều kiện lịch sử - cụ thể mỗi nơi, mỗi lúc.

Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất? Sự
vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
a. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sx và qhsx
+ Lực lượng sản xuất chính là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất
của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu
thiếu một trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có
lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà cần phải
có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất ấy.
+ Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ
trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ này tồn tại trong
mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình
sản xuất, trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực,
không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn
cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức
kinh tế nhất định; ngược lại cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra
trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất
của nó. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính qui định lẫn
nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình
sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó
trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức, quản lý và phân phối. Chỉ có
như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, thai thác - sử dụng và phát triển
trong một hình thức kinh tế
+ Mối thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân
theo nguyên tắc khách quan quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực
tế của lực lượng sản xuất hiện thực trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan
hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội
dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là
hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có tác động trở lai lực lượng sản
xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó
phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và
nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” nó sẽ có tác
dụng tích cực và ngược lại, nếu “không phù hợp” nó sẽ có tác dụng tiêu cực.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
+ Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng
sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội. Tính ổn định, phù hợp của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khă năng
phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả
năng phá vỡ sự thống nhất của nó với những hình thức kinh tế hiện thực. Những hình
thức kinh tế hiện thực này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát
triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển
đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất
hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo
nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, Mác đã từng chỉ ra rằng: “tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có…trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ
là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội”. Chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất
hiện thực của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực, tiếp tục phát huy tác động tích cực
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức kinh tế mới.
+ Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan
hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế của
quá trình sản xuất xã hội. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự
thống nhất đến những sự khác biệt và đối lập, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan
phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với thực trạng
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo qui
luật :từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, qui
luật “phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội
vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự lại vừa có tính nhảy vọt với những bước đột
biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội, mâu thuẫn và sự vận động của mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của “qui
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác
động của qui luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động,
phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là của lịch sử nhân loại từ phương thức
sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để giải thích một
cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện thượng xã hội và các sự biến
đổi trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng đồng người
trong lịch sử.
b. Sự vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
- Ở Việt Nam, sau hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước
(1975), chúng ta đã xác định con đường đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Ban đầu,
chúng ta xây dựng CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, mô hình này đã bộc lộ
những hạn chế và dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về KT-XH (chỉ phù hợp thời
chiến).
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã đưa ra đường lối
đổi mới đất nước, chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN.
+ Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của
LLSX của nước ta trong điều kiện hiện nay
+ Ưu điểm: Khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy phân
công lao động, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng.
- Trong giai đoạn hiện này, Đảng chủ trường giải phóng mạnh mẽ LLSX, phát
huy nguồn lực toàn XH, mọi vùng, ngành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
- Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, do đó cơ sở
về kinh tế là then chốt để đi lên CNXH, do đó việc phát triển kinh tế theo con đường
mà Đảng đã xác định là đúng đắn.
- Với sự phát triển của LLSX, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế, xu hướng
tất yếu không thể dừng ở CNTB mà sẽ tiến lên CNCS. VN đang ở thời kỳ quá độ lên
CNXH do đó muốn đi lên CNXH không thể thiếu tiền đề kinh tế (Hình thái kinh tế
muốn thay đổi cần thay đổi LLSX, QHSX và KTTT).

Câu 7: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã
hội? Sự vận dung mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
a. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xh
- Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những QHSX hợp thành kết cấu kinh tế của 1 xã hội
nhất định.
Trong 1 cơ sở hạ tầng, bao gồm 3 loại QHSX:1) QHSX tàn dư của phương thức
sản xuất cũ; 2) QHSX thống trị; và 3) QHSX mầm mống của phương thức sản xuất
tương lai.
- Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức tôn giáo nghệ thuật,… với những thiết chế tương ứng( Nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các đoàn thể,..) được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
- Cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng hình thành nên 1 kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó;
tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Trong xã
hội có giai cấp, giai cấp nào giữu địa vị thống trị về kinh tế thì cũng giữ địa vị trong
kiến trúc thượng tầng, trong đời sống chính trị, tinh thần. Mâu thuẫn trong lĩnh vực
kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
+ Sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản của kiến
trúc thượng tầng. Điều này thể hiện rất rõ, khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc
thượng tầng cũ do nó sinh ra cũng mất đi theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì kiến
trúc thượng tầng mới phù hợp với nó sẽ xuất hiện. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn
đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng rất phức tạp. Có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như quan điểm
chính trị, pháp luật. Có những yếu tố thay đổi rất chậm như tôn giáo, nghệ thuật,…
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng:
+ Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT thông qua chức năng xã hội của
nó. Chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra
nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở và kiến trúc thượng tầng cũ.
+ Trong các yếu tố cấu thành KKTT đều tác động đến CSHT, nhưng nhà nước
giữu vai trò quan trọng, có tác dụng quyết điịnh năng lực hiện thực hóa tính tất yếu
kinh tế, là bộ máy bạo lực tập trung nhát của giai cấp thống trị về kinh tế.
+ Các yếu tố khác của KTTT như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật.. cũng
đều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau, với nhiều cấp độ khác nhau,
trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Sự tác động của KTTT đến CSHT theo nhiều chiều đan xen, nhưng thường
diễn ra theo 2 chiều tích cực và tiêu cực. Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật
kinh tế khách quan thì nó sẽ tác động mạnh mẽ tới mạnh mẽ tới kinh tế, thúc đẩy
LLSX phát triển tức là thúc đẩy CSHT phát triển. Nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm
hãm CSHT phát triển. Tuy nhiên, nếu KTTT kìm hãm kinh tế phát triển thì sớm hay
muộn, bằng cách này hay cách khác, KTTT cũ sẽ bị thay thế bằng KTTT ms tiến bộ
hơn, để thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố của kiến trúc thượng tầng:
KTTT ko chỉ tác động đến CSHT mà chúng còn tác động lẫn nhau. Chẳng hạn,
giữa triết học và chính trị, giữa đạo đức và pháp luật,…có tác động lẫn nhau và cùng
nhau tác động đến CSHT. Lưu ý sự tác động đó cũng phải thông qua nhà nước với
những luật pháp tương ứng thì trên cơ sở đó mới có được hiệu lực mạnh mẽ đối với
CSHT.
b. Sự vận dụng mqh này trong QT đổi mới ở VN
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế,
tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống
nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại
những mâu thuẫn nhất định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh
tế do sự tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các qui luật kinh
tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống
các qui luật kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui luật kinh tề tư bản chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì
sự quản lý của nhà nước không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao
quát tất cả các thành phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa
với tất cả các thành phần kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong đó, kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò
chủ đạo, quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ
nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân
và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm năng kinh tế góp phần vào quá trình
phát triển kinh tế của xã hội.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng
định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng về sự giải phóng
con người khỏi chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh... Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước
của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, đội tiền phong của nó là sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, bảo đảm cho nhân dân ta là người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ
quyền lực xã hội thuộc về xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi
tầng lớp xã hội trong cuộc phát triển kinh tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời
sống nhân dân. Các tổ chức, thiết chế xã hội, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa đều hướng về mục tiêu chung làm cho dân giầu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

Câu 8: Phân tích luận điểm của C.Mác: “Sự phát triển của các hình thái kinh
thái-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”
Tính chất lịch sử-tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau đây:
- Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các qui luật khách quan, dó là các qui luật của chính bản thân cấu
trúc hình thái kinh tế-xã hội, là hệ thống các qui luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa,…mà trước hết và cơ bản nhất là qui luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và qui luật kiến trúc thượng tầng phù
hợp với cơ sở hạ tầng.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi
lĩnh vực kinh tế-xã hội, suy cho đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội. Lênin từng nhấn mạnh: “Chỉ có đem
qui những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem qui những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở
vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá
trình lịch sử -tự nhiên”.
- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, tức là quá trình thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát
triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan
nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là: sự tác động của các qui luật khách quan.
Dưới sự tác động của qui luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn
bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự các hình thái kinh tê-xã hội: nguyên thủy, nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế-xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử tự - nhiên, tức tính qui luật khách quan
của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mac-Lênin cũng đồng thời khẳng định
vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói
chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng, đó là sự tác động của các nhân
tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị cú các giai cấp, tầng lớp xã
hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình
quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử,…chính do
sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có
thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong
phú, đa dạng của trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. tính chất phong phú đa dạng
của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế-xã hội có thể bao hàm những bước phát
triển“bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ
qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người
nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu qui luật xã hội vừa chịu sự tác động đa dạng của
các nhân tố khác
Câu 9: Trình bày nội dung cơ bản và vai trò phương pháp luận của học thuyết
hình thái kinh tế-xã hội của triết học Mác-Lenin. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế-
xã hội đối với việc nhân thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay
Trả lời:
1. Nội dung cơ bản của học thuyết hình thái KT-XH:
- Hình thái kinh tế - xã hội: là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ đặc trưng xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng SX, và
với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên các quan hệ SX đó.
- Kết cấu của hình thái KT-XH bao gồm các mặt cơ bản sau:
+ Lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định
+ Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
+ Kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên các quan hệ sản xuất đó.
- Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội do sự tác động qua
lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
+ Biện chứng giữa LLSX với QHSX:
+ Biện chứng giữa CSHT với KTTT:
- Sự phát triển các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử-tự nhiên
+ Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội do các quy luật khách quan chi phối
(LLSX-QHSX, CSHT-KTTT, đấu tranh giai cấp,…);
+ Các hình thái kinh tế - xã hội vận động theo xu hướng chung là đi lên từ thấp
đến cao, kế tiếp nhau trong lịch sử và tất yếu đi lên chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn
thấp là chủ nghĩa xã hội.
+ Sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội đi theo xu hướng chung, nhưng
ở mỗi quốc gia, dân tộc do điều kiện đặc thù nên sự vận động của các hình thái kinh tế
- xã hội diễn ra dưới hình thức đặc thù, có thể rút ngắn quá trình phát triển.
2. Vai trò phương pháp luận của học thuyết hình thái KT-XH
- Vì phương thức sản xuất quyết định đời sống xã hội, nên giải thích các hiện
tượng của đời sống xã hội phải tìm trong phương thức sản xuất, chứ không từ trong ý
thức.
- Vì xã hội là một hệ thống phức tạp như một cơ thể sống sinh động, do vậy
muốn nhận thức xã hội phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và
mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
- Để nhận thức đúng về đời sống xã hội, về sự vận động xã hội phải đi sâu nghiên
cứu tìm ra được các quy luật khách quan của xã hội nói chung và xã hội cụ thể nói
riêng.
- Phải kết hợp việc nghiên cứu các quy luật chung với việc nghiên cứu các điều
kiện cụ thể của mỗi dân tộc để thấy biểu hiện cụ thể của quy luật.
3. Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH đối với việc nhận thức về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay?
- Sự lựa chọn và kiên định con đường đi lên CNXH là sự lựa chọn hợp quy luật
của lịch sử.
- Coi CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức là nhiệm vụ chủ đạo của thời kỳ quá độ
đi lên CNXH ở Việt Nam.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế cơ chế thị trường định hướng XHCN thực chất
của nhiệm vụ này chính là tạo lập sự phù hợp của quan hệ sản xuất hiện có để thúc đấy
LLSX phát triển.
- Kết hợp kinh tế với chính trị, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN ở VN.

Câu 10. Quan niệm của triết học Mác-lenin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng
của nhà nước? Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

1. Nguồn gốc ra đời Nhà nước: Theo Angghen, Nhà nước ra đời do 4 nguyên
nhân:
- Sự phát triển của SX ở cuối xã hội nguyên thủy dẫn tới sự dư thừa tương đối
của cải xã hội;
- Các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc sử dụng quyền lực chiếm đoạt của cải dư thừa, biến
thành của riêng, thúc đẩy chế độ sở hữu tư nhân ra đời và phân hóa giai cấp;
- Chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc làm tăng quyền lực của các thủ lĩnh quân sự;
- Các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần dần tách xa gốc rễ nhân dân.

2. Bản chất của Nhà nước:


- Nhà nước là một cơ quan, một bộ máy quyền lực đặc biệt của một giai cấp nhất
định dùng để trấn áp các giai cấp khác trong xã hội.
- Thông thường giai cấp thống trị về kinh tế sẽ nắm quyền lực nhà nước để thống
trị về chính trị và toàn bộ đời sống xã hội.
3. Đặc trưng của Nhà nước:
- Thứ nhất, nhà nước là một bộ máy quyền lực thực hiện việc quản lý dân cư theo
vùng lãnh thổ quốc gia và khu vực trong quốc gia.
- Thứ hai, nhà nước là một bộ máy quyền lực công cộng đặc biệt, có tính chuyên
nghiệp và được đảm bảo bằng những đội vũ trang, những cơ sở vật chất đặc biệt.
- Thứ ba, Nhà nước xác lập chế độ thuế khóa có tính bắt buộc để duy trì và tăng
cường bộ máy quyền lực.
4. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
a. Khái niệm Nhà nước pháp quyền: là một hình thức tổ chức nhà nước đặc
biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực
của nhân dân.
b. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân;
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam;
trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc
độc lập XHCN theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
- Các đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
+ Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
+ Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhằm
hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía
Nhà nước. Đây là vấn đề vừa khoa học, vừa thực tiễn; phức tạp và rất nhạy cảm.
+ Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
+ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
+ Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

You might also like