ĐTQT TIỂU LUẬN

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TIỂU LUẬN
Môn: ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Đề tài:

Họ và tên MSSV
Lâm Thị Xuân Mai 2011116452
Lê Nhữ Quang Lâm 2011116425
Trần Trung Hiếu 2011115172
Nguyễn Long Quý Phụng 2111113206
Châu Thanh Thanh 2011113265
Võ Nguyên Kiều Diễm 2114113018
Nguyễn Văn Hiệp 2115113078
Nguyễn Thành Đạt 2114113025
Nguyễn Hồ Phương Vy 2111113312

Lớp: DTU310
Niên khoá: 2023-2024
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hạ Liên Chi

TP.HCM, ngày 13 tháng 3 năm 2023


Contents
LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................................3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................................................................3
1.TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ ............................................................................3
1.1. Khái niệm, bản chất và mục đích của IIAs. ..................................................................................3
1.2. Nội dung của các IIAs...................................................................................................................3
1.3. Vai trò của việc ký kết IIAs. .........................................................................................................3
1.4. Xu hướng ký kết IIAs. ..................................................................................................................3
2. XU HƯỚNG KÝ KẾT CÁC HIỆP ĐỊNH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM .......................3
2.1. Các xu hướng nổi bật khi ký kết IIAs của Việt Nam ....................................................................3
2.1.1. Xu hướng về số lượng ........................................................................................................3
2.1.2. Xu hướng về loại hình ........................................................................................................5
2.1.3. Xu hướng tinh vi ................................................................................................................8
2.2. Ảnh hưởng của các xu hướng ký kết IIAs lên các hiệp định đầu tư của Việt Nam ......................9
2.3. Dự đoán xu hướng ký kết các hiệp định đầu tư của Việt Nam trong tương lai ..........................10
3. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VIỆT NAM ĐÃ KÝ
KẾT .............................................................................................................................................................11
3.1. Thay đổi về cấu trúc Hiệp định ...................................................................................................11
3.1.1. Phân tích chung ................................................................................................................11
3.1.2. Thay đổi về cấu trúc .........................................................................................................13
3.2. Thay đổi về điều khoản ...............................................................................................................15
3.2.1. Định giá hải quan .............................................................................................................16
3.2.2. Quy tắc xuất xứ ................................................................................................................17
3.2.3. Giao dịch và chuyển tiền ..................................................................................................18
3.2.4. Về sở hữu trí tuệ ...............................................................................................................20
3.2.5. An ninh quốc gia ..............................................................................................................21
3.2.6. Những ngoại lệ chung ......................................................................................................22
LỜI MỞ ĐẦU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm, bản chất và mục đích của IIAs.
a. Bản chất: Hiệp định đầu tư quốc tế - IIAs là các thỏa thuận giữa các nước đề cập đến
nhiều vấn đề liên quan đến đầu tư quốc tế và điều chỉnh hoạt động này, trong đó có FDI.
b. Mục đích: Việc ký kết các hiệp định đầu tư quốc tế giúp cho các nước tiếp nhận đầu
tư có khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2. Nội dung của các IIAs.
Các điều khoản nhằm mục đích tự do hóa đầu tư bao gồm: Quy tắc đối xử tối huệ
quốc (MFN); Quy tắc đãi ngộ quốc gia (NT); Điều khoản về đối xử công bằng và thỏa đáng.
Hai là, các điều khoản nhằm mục đích bảo hộ đầu tư bao gồm: Quốc hữu hoá và trưng thu
tài sản: Điều khoản về chuyển tiền ra nước ngoài của nhà đầu tư; Điều khoản về giải quyết
tranh chấp.
1.3. Vai trò của việc ký kết IIAs.
Một là, tạo lập khung pháp lý liên quan đến hoạt động FDI hoàn thiện hơn, từ đó tăng tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Hai là, tạo lập được sự tin tưởng của các doanh nghiệp nước ngoài khi tiến hành đầu tư tại
nước tiếp nhận, đây chính là yếu tố tâm lý quan trọng đối với những quyết định đầu tư.
Ba là, hỗ trợ hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư nước ngoài thông qua những khuyến
khích hay ưu đãi đầu tư.
1.4. Xu hướng ký kết IIAs.
Xu hướng kí kết ngày càng gia tăng. Trong đó, số lượng IIAs được ký kết bởi các
nước đang phát triển tăng vọt. Hiện nay, IIAs ngày càng điều chỉnh nhiều giao dịch kinh tế
hơn, bao gồm thương mại hàng hoá và dịch vụ, đầu tư và dòng chảy vốn, cũng như sự dịch
chuyển của lao động.... ì vậy, số lượng các hiệp định đầu tư song phương (BITs) cũng như
hiệp định tránh đánh thuế trùng (DTTs) tiếp tục được mở rộng.
2. XU HƯỚNG KÝ KẾT CÁC HIỆP ĐỊNH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Các xu hướng nổi bật khi ký kết IIAs của Việt Nam
2.1.1. Xu hướng về số lượng
Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc ký kết các IIAs trong những
năm gần đây. Tính đến cuối năm 2019, Việt Nam đã ký kết tổng cộng 67 BITs và 27 TIPs,
đặt Việt Nam vào vị trí thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á về số lượng BITs ký kết. Điều
này chứng tỏ rằng Việt Nam đã có mối quan hệ đầu tư song phương và đa phương với các
nước trên thế giới.
Trong số các IIAs được ký kết, đáng chú ý nhất là Hiệp định thương mại Việt Nam
- Hoa Kỳ (BTA) ký kết vào năm 2000 và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP) ký kết vào năm 2020. Hiệp định BTA đã giúp Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và tăng cường quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, trong khi RCEP là
một Hiệp định thương mại quan trọng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm
15 quốc gia và hơn 2,2 tỷ người dân, chiếm khoảng 30% GDP thế giới và 30% dân số thế
giới. Việc ký kết RCEP sẽ giúp Việt Nam tiếp cận thị trường rộng lớn và thuận lợi cho việc
đẩy mạnh xuất khẩu, cũng như giúp các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh
tranh và tiếp cận công nghệ mới.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ký kết các IIAs khác như Hiệp định Đối tác Kinh tế
Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ (CPTPP),
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) và nhiều IIAs khác với các
đối tác thương mại khác. Tuy nhiên, việc ký kết nhiều IIAs cũng đặt ra nhiều thách thức
cho Việt Nam, đặc biệt là trong việc đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả của các hiệp định
này. Việc đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả của các IIAs được ký kết đòi hỏi Việt Nam
phải có chính sách và cơ chế phù hợp để thực hiện các hiệp định này, đồng thời đảm bảo
bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đối phương với các quốc gia đối tác. Việc thực hiện
các IIAs đúng cách sẽ giúp tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với
các quốc gia đối tác, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước.
Trong năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhiều hoạt động đầu tư,
thương mại bị gián đoạn và các cuộc đàm phán ký kết IIAs cũng bị chậm lại. Tuy nhiên,
với việc kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh và đưa ra các biện pháp kích thích kinh tế, trong
tương lai Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc ký kết các IIAs với các đối tác thương mại
lớn hơn nhằm tăng cường quan hệ đối tác kinh tế và đầu tư.
Về phía Việt Nam, việc đàm phán và ký kết các IIAs nên tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật quốc tế, nhất là về đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư và phát triển
bền vững. Các IIAs cần đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả, và được thực hiện đúng cách
để tăng cường quan hệ đầu tư, thương mại giữa Việt Nam với các đối tác đồng thời bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư.
Điều này cho thấy Việt Nam đang có sự chuẩn bị tốt cho việc mở rộng thị trường và
đầu tư đa dạng hơn trong tương lai. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc ký kết các hiệp
định đầu tư cũng mang lại một số thách thức cho Việt Nam, như sự cạnh tranh đối với các
sản phẩm và dịch vụ nhập khẩu, và nhu cầu phải đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định mới
trong lĩnh vực kinh doanh. Do đó, việc tham gia vào các hiệp định đầu tư cần được cân
nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo lợi ích lâu dài cho quốc gia và các doanh nghiệp trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Tổng kết lại, việc ký kết các hiệp định đầu tư quốc tế là một xu hướng không thể
ngăn cản trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Với các xu hướng
tăng về số lượng và đa dạng hóa loại hình hiệp định, Việt Nam đang nỗ lực mở rộng thị
trường và thu hút đầu tư từ các đối tác trong khu vực và trên thế giới, tạo ra nhiều cơ hội
và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển.
2.1.2. Xu hướng về loại hình
Xu hướng đa dạng hơn về quy mô, cách tiếp cận, hình thức và cấu trúc hiệp định.
Hiện nay, các IIAs ngày càng đa dạng hơn nhiều về quy mô, cách tiếp cận và cả về nội
dung. Các IIAs ngày càng điều chỉnh nhiều giao dịch kinh tế hơn, bao gồm thương mại
hàng hóa và dịch vụ, đầu tư và dòng chảy vốn cũng như sự dịch chuyển lao động,... Trước
đây, lĩnh vực về thương mại hàng hóa và dịch vụ với lĩnh vực về đầu tư sẽ được quy định
trong hai hiệp định riêng biệt theo khuôn khổ WTO là Hiệp định chung về thương mại hàng
hóa (GATS) và Hiệp định một số biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs).
Nhưng giờ đây các quốc gia có xu hướng ký kết các hiệp định bao gồm cả hai lĩnh vực trên
như các Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP thiết lập
một hiệp định khu vực toàn diện có thể thúc đẩy hội nhập kinh tế nhằm tự do hóa thương
mại và đầu tư; Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Châu u EVFTA là thừa nhận
sự hợp tác lâu dài và mạnh mẽ trong mối quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư quan trọng,
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực RCEP cũng quy định về hai lĩnh vực trên tại
chương 2 và chương 10.
Càng điều chỉnh nhiều vấn đề, các thỏa thuận càng phức tạp và có nguy cơ chồng
chéo và không thống nhất giữa các điều khoản.
Phần lớn các IIAs cùng điều chỉnh những vấn đề bản chất như đăng ký và thiết lập cơ sở,
tiêu chuẩn chính bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài, tính minh bạch (hiếm khi), giải quyết tranh
chấp, yêu cầu năng lực hoạt động và nhân sự. Nhưng nội dung cụ thể ở các điều khoản này
ở các hiệp định khác nhau thường rất khác nhau. Về vấn đề tham vấn trong giải quyết tranh
chấp, CPTPP quy định cụ thể thời gian tham vấn cho từng vấn đề, cụ thể là không quá 15
ngày nhận được yêu cầu về các vấn đề liên quan đến hàng hóa dễ hỏng hoặc 30 ngày với
tất cả các vấn đề. Còn về EVFTA quy định thời hạn tham vấn là 30 ngày kể từ ngày nhận
được yêu cầu tham vấn. Cùng với đó sự đa dạng của các thỏa thuận này thể hiện cơ hội
thực hiện chúng bằng những phương pháp khác nhau nhằm tăng cường các dòng chảy đầu
tư quốc tế. Điều này phản ánh tốt hơn những điều kiện cụ thể của các quốc gia với các mức
độ phát triển kinh tế khác nhau và tại các khu vực khác nhau.
Về quy mô, các hiệp định thương mại có chứa điều khoản liên quan đến đầu tư mà
Việt Nam tham gia, nếu như trước đây đa phần chỉ là các hiệp định giữa các nước ASEAN
và các nước châu Á thì xu hướng của nó ngày càng mở rộng với sự tham gia của nhiều quốc
gia trên phạm vi rộng hơn. Ví dụ như hiệp định CPTPP có hiệu lực ngày 30/12/2018 với sự
tham gia của 11 nước thành viên là Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam; Còn hiệp định RCEP gồm 15 nước,
bao gồm: Brunei, Malaysia, Singapore, Việt Nam, Campuchia, Indonesia, Lào, Myanmar,
Philippines, Thái Lan, Nhật Bản, New Zealand, Australia, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Xu hướng ký kết các IIAs có sự thay đổi giữa các bên tham gia, trước đây hiệp định
này được ký kết bởi các quốc gia có nền kinh tế tương đương nhau thì ngày nay lại được
ký kết giữa nước phát triển với nước đang phát triển/có nền kinh tế chuyển đổi hoặc giữa
các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi với nhau. Xét đến Việt Nam trong
giai đoạn 1991-1992, còn tồn tại nhiều BITs được ký kết với các quốc gia có nền kinh tế
tương đương như Malaysia, Thái Lan, Indonesia,.. thì đến năm 2002-2005, BITs được ký
kết chủ yếu với các nước có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc
Anh,..Thêm vào đó, có thể kể đến hiệp định được ký kết gần đây RCEP được ký kết giữa
các quốc gia phát triển là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật,... với các nước đang phát triển như
Việt Nam, Thái Lan,... có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.
Bảng 1.1. Thống kê các BITs Việt Nam ký kết trong các năm từ 2009 tới nay

Nguồn: https://investmentpolicy.unctad.org/
Hình thức của các IIAs cũng có sự thay đổi đáng kể. Trước đây xu hướng ký kết chủ
yếu là các BITs thì ngày nay, thay vào đó là các thỏa thuận kinh tế song phương đa phương
có chứa đựng các nội dung liên quan đến đầu tư. Theo thống kê từ Unctad, từ năm 1990
đến năm 2000, số lượng BITs mà Việt Nam ký kết nhiều và giảm dần trong giai đoạn từ
2000-2014. Từ 2015-2018, chính phủ chưa ký thêm bất cứ một BIT nào mà thay vào đó,
chủ yếu tham gia vào các thỏa thuận kinh tế song phương/đa phương như EAEU – Việt
Nam FTA, Hàn Quốc - Việt Nam FTA, EVFTA, CPTPP…. Từ năm 2011 trở lại đây, Việt
Nam ký kết nhiều các hiệp định lớn điển hình như CPTPP (2017), CPTPP (2018), EU-Việt
Nam (2019), RCEP (2020). Trong những BITs mới có thêm những điều khoản miễn trừ về
an ninh quốc gia, sức khỏe, an toàn, môi trường và bảo vệ quyền lợi của người lao động và
đa dạng văn hóa, các quyền điều tiết, không gian chính sách, trách nhiệm xã hội của công
ty như bổ sung thêm các điều khoản về môi trường và người lao động, và đưa thêm một số
điều khoản cụ thể hơn vào vấn đề giải quyết tranh chấp.
Do có nhiều hiệp định được ký kết nên khung quốc tế về các quy định đầu tư tiếp
tục mở rộng trên các mức độ song phương, tiểu khu vực, khu vực và nội khu vực. Do đó,
hệ thống các thỏa thuận sẽ trở nên phức tạp hơn.
2.1.3. Xu hướng tinh vi
Các IIAs không chỉ ngày càng có số lượng tăng, đa dạng hơn về cách tiếp cận và nội
dung, mà còn có xu hướng trở nên tinh vi và phức tạp hơn về mặt nội dung của các điều
khoản trong Hiệp định. Về cơ bản, các cam kết được xây dựng trên nền các cam kết quan
trọng lớn hơn mà cả hai bên cùng tham gia. Sau đó, các bên tiếp tục thỏa thuận với mức độ
sâu hơn, tinh vi hơn và phù hợp hơn với chính sách, quy định, xu hướng đầu tư của các bên.
Ví dụ, với Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA): Đây là FTA
song phương đầu tiên của Việt Nam, ký kết ngày 25/12/2008 và có hiệu lực từ ngày
01/10/2009. Việt Nam và Nhật Bản dành nhiều ưu đãi cho nhau hơn so với Hiệp định Đối
tác Kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP). VJEPA không thay thế AJCEP mà cả
hai FTA cùng có hiệu lực, doanh nghiệp có thể tùy chọn sử dụng FTA nào có lợi hơn. Mức
cam kết mở cửa tương tự như Việt Nam cam kết với WTO nhưng lại mở rộng hơn nhiều so
với cam kết của nước này với WTO (đặc biệt các dịch vụ chuyên môn như pháp lý, tư vấn
thuế,...; các dịch vụ về thông tin, xây dựng, phân phối, giáo dục,... Bảo hộ cạnh tranh trong
một số lĩnh vực dịch vụ (viễn thông…). Các cam kết mở cửa tiếp nhận khách kinh doanh,
cam kết dành cho Việt Nam ưu đãi ODA, đào tạo mỗi năm 200-300 y tá tại Nhật Bản và
cho phép họ làm việc lâu dài (tới 7 năm),...Hay với Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam
- Hàn Quốc (VKFTA) được ký kết ngày 05/5/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày
20/12/2015. So với FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), trong VKFTA Việt Nam và Hàn
Quốc dành thêm nhiều thời gian ưu đãi cho nhau trong cả lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và
đầu tư. Cơ chế hạn ngạch thuế quan theo VKFTA được áp dụng song song với cơ chế hạn
ngạch thuế quan thông thường của Hàn Quốc (HSK). Do đó các sản phẩm thuộc diện hưởng
hạn ngạch thuế quan theo VKFTA khi đã hết hạn ngạch theo VKFTA vẫn có thể sử dụng
hạn ngạch thuế quan theo HSK. Chương về Đầu tư trong VKFTA được chia làm 02 phần:
Phần A – Đầu tư và Phần B – Giải quyết tranh chấp đầu tư. Về cơ bản, các cam kết trong
Chương đầu tư phù hợp với Hiến pháp và các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
như Luật Đầu tư năm 2005. Việc thực hiện Chương này không đòi hỏi phải sửa đổi, bổ
sung các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Nội dung của Chương cũng phù hợp
với các nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế và tương thích với các cam kết quốc tế khác về đầu tư. Ngoài các nguyên tắc chung
áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ, Chương Dịch vụ của VKFTA còn bao gồm 03 Phụ
lục về các nguyên tắc bổ sung đối với các dịch vụ Tài chính, Dịch vụ Viễn thông và Di
chuyển Thể nhân. Trong đó, 02 Phụ lục về Dịch vụ Viễn thông và Di chuyển thể nhân là
mới so với AKFTA.
Còn với Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á u (VN-
EAEU FTA) bao gồm các nước Liên bang Nga, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan,
Cộng hòa Armenia và Cộng hòa Kyrgyzstan) ký kết ngày 29/5/2015, có hiệu lực từ ngày
05/10/2016. Trong FTA giữa Việt Nam và khối EAEU, Chương về Dịch vụ, Đầu tư và Di
chuyển thể nhân chỉ áp dụng giữa Việt Nam và Nga mà không áp dụng với các nước khác
trong khối EAEU. Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ đối với các Phương
thức 1 (Cung cấp qua biên giới), Phương thức 2 (Tiêu dùng ở nước ngoài) và Phương thức
4 (Di chuyển thể nhân) được thực hiện theo phương pháp “Chọn – Cho” giống WTO. Riêng
Phương thức 3 (Hiện diện thể nhân) được thực hiện theo phương pháp “Chọn – Bỏ” giống
một số FTA mới của Việt Nam như CPTPP.
2.2. Ảnh hưởng của các xu hướng ký kết IIAs lên các hiệp định đầu tư của Việt
Nam
Tăng cường cạnh tranh: Các IIAs mới được ký kết đang tập trung vào việc giảm giới
hạn thương mại và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thị trường quốc
tế. Như vậy, các quốc gia đang cạnh tranh với Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tiếp cận thị
trường Việt Nam hơn, và ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tham
gia vào các thị trường mới.
Điều chỉnh quy định thương mại: Các IIAs mới đang cung cấp các quy định thương
mại mới và khác nhau so với các quy định trong BTA. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải điều
chỉnh và cập nhật quy định của mình để đáp ứng yêu cầu của các thỏa thuận mới này.
Tăng cường đầu tư: Các IIAs mới đang tập trung vào việc tăng cường đầu tư giữa
các quốc gia. Việc này có thể đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh về quy định đầu
tư và chính sách thu hút đầu tư để thu hút các nhà đầu tư từ các quốc gia tham gia IIAs mới.
Tăng cường quản lý thương mại: Các IIAs mới cũng yêu cầu Việt Nam phải có
những điều chỉnh về quản lý thương mại, bao gồm quản lý nhập khẩu, xuất khẩu, kiểm soát
sản phẩm, v.v. Việc điều chỉnh này sẽ đảm bảo rằng Việt Nam tuân thủ các quy định của
các thỏa thuận mới này.
Tóm lại, các xu hướng ký kết IIAs đang ảnh hưởng đến BTA bằng cách tạo ra những
thay đổi và yêu cầu mới trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Việt Nam cần phải điều chỉnh
chính sách của mình để đáp ứng yêu cầu của các thỏa thuận mới này và tăng cường cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
2.3. Dự đoán xu hướng ký kết các hiệp định đầu tư của Việt Nam trong tương lai
Đầu tiên là việc tăng cường đàm phán ký kết IIAs với các nước trong khu vực và
trên thế giới: Việt Nam đang tích cực mở rộng thị trường và đưa ra các thỏa thuận thương
mại và đầu tư với các quốc gia đối tác khác. Trong tương lai, Việt Nam có thể tiếp tục đàm
phán ký kết IIAs với các nước trong khu vực châu Á như Đài Loan, Thái Lan, Philippines
và các nước trong khu vực ASEAN.
Đồng thời, Việt Nam có thể tìm kiếm các thỏa thuận với các quốc gia đối tác khác
trên thế giới như EU, Mỹ, Canada, Úc, New Zealand, vv. Đồng thời, tập trung vào đầu tư
vào các ngành kinh tế mới nổi: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tập trung vào đầu
tư vào các ngành kinh tế mới nổi như công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo, y tế và giáo
dục. Trong tương lai, Việt Nam có thể tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào các ngành này để nâng
cao chất lượng kinh tế và cạnh tranh quốc tế.
Bên cạnh đó việc tập trung vào bảo vệ quyền lợi của đầu tư: Việt Nam có thể tiếp
tục tập trung vào bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo quyền lợi của các bên
liên quan trong các giao dịch đầu tư. Điều này giúp Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài
vào nước và tăng cường vai trò của mình trong khu vực và trên thế giới.Cuối cùng là tăng
cường hợp tác đầu tư song phương và đa phương: Việt Nam có thể tập trung vào hợp tác
đầu tư song phương và đa phương để tăng cường quan hệ với các đối tác quan trọng. Điều
này giúp Việt Nam đảm bảo quyền lợi của mình trong các thỏa thuận đầu tư và đẩy mạnh
hợp tác kinh tế với các quốc gia đối tác.
3. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VIỆT NAM
ĐÃ KÝ KẾT
3.1. Thay đổi về cấu trúc Hiệp định
3.1.1. Phân tích chung
Từ khi áp dụng chính sách đổi mới, mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam
bắt đầu tích cực có những cam kết quốc tế về đầu tư được thể hiện trong các điều ước quốc
tế mà Việt Nam ký kết, như: BIT, hiệp định đầu tư khu vực, hiệp định thương mại, hiệp
định thương mại tự do song phương, đa phương có quy định về đầu tư. Cho đến nay, BIT
là hình thức điều ước quốc tế về đầu tư phổ biến nhất mà Việt Nam tham gia kể từ khi Việt
Nam ký kết BIT đầu tiên với Italia ngày 18/5/1990 (có hiệu lực ngày 06/5/1994). Cho tới
nay, Việt Nam đã ký 66 BIT với các quốc gia trên thế giới.
Hiệp định thương mại, hiệp định đối tác kinh tế có quy định về đầu tư và hiệp định đầu
tư khu vực:
- Năm 2008, Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN - Nhật Bản;
- Năm 2009, Hiệp định đầu tư toàn diện trong ASEAN và Hiệp định về thành lập Khu mậu
dịch tự do ASEAN - Úc và New Zealand; Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ Hiệp định khung
giữa ASEAN và Hàn Quốc về hợp tác kinh tế toàn diện.
- Năm 2014, Hiệp định về đầu tư trong khuôn khổ Hiệp định khung giữa ASEAN và Ấn Độ
về hợp tác kinh tế toàn diện.
Cụ thể dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu các hiệp định thương mại, thương mại tự do, hiệp định
đối tác kinh tế có quy định về đầu tư và hiệp định đầu tư khu vực mà Việt Nam đã ký:
- Năm 2015, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc; Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam - Liên minh kinh tế Á – Âu.
- Năm 2016, Hiệp định đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (chưa có hiệu lực do Hoa
Kỳ rút khỏi Hiệp định này);
- Năm 2017, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Việt Nam đã phê
chuẩn tháng 11/2018);
- Năm 2018, Hiệp định đầu tư ASEAN - Hồng Kông.
Cho đến nay, tuy số lượng các điều ước quốc tế về đầu tư trên thế giới lên tới 3.301
hiệp định nhưng Việt Nam là thành viên khoảng 66 BIT và 13 FTA, EPA. Tuy nhiên, về cơ
bản, nội dung và cấu trúc của các BIT hay hiệp định/chương về đầu tư trong FTA, EPA có
một mô thức chung.
- Về cấu trúc, các hiệp định thường gồm năm phần chính: (i) Lời mở đầu, (ii) Các quy định
về phạm vi áp dụng, (iii) Các quy định thực chất về bảo hộ và khuyến khích đầu tư, (iv) Các
quy định về giải quyết tranh chấp và (v) Các điều khoản về hiệu lực, sửa đổi, bổ sung.
- Về nội dung, tương tự như thực tiễn ký kết các IIA trên thế giới, các IIA mà Việt Nam tham
gia có thể chia thành hai loại: Điều ước quốc tế về đầu tư truyền thống và Điều ước quốc tế
về đầu tư hiện đại, thế hệ mới.
Các điều ước quốc tế về đầu tư truyền thông thường dài khoảng 10 trang A4 ở hình
thức BIT với những điều khoản vắn tắt, chung chung, nội dung khó xác định, ít quy định về
ngoại lệ và bảo lưu quyền điều tiết, quyền tự do thực hiện chính sách công của nước nhận đầu
tư. Việt Nam ký kết hiệp định dạng truyền thống từ những hiệp định đầu tiên như BIT với
Italia năm 1990, Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN năm 1987 cho đến
những hiệp định mới ký gần đây như BIT với Vênêxuêla năm 2008, BIT với Maroc năm 2012.
Các điều ước quốc tế hiện đại, thế hệ mới thường dài, với nhiều đổi mới về nội dung,
được ký kết gần đây, chủ yếu trong khuôn khổ xây dựng các khu vực thương mại tự do và
thường ở hình thức các hiệp định hay chương về đầu tư của FTA, EPA. Nhóm điều ước quốc
tế này thường được soạn thảo và ký kết giữa nhiều bên khiến cho các bên đàm phán phải so
sánh, đánh giá và tìm ra những cách thức quy định phù hợp nhất. Nhìn chung, điều ước quốc
tế về đầu tư hiện đại quy định chi tiết, làm rõ nghĩa của những điều khoản đã bị giải thích và
áp dụng mâu thuẫn, quá rộng trong phán quyết trọng tài, bổ sung nhiều ngoại lệ, bảo lưu để
bảo đảm sự tự do theo đuổi các chính sách công chính đáng của nước nhận đầu tư như sức
khỏe, đời sống con người, động, thực vật, bảo vệ môi trường, đạo đức cộng đồng, trật tự công...
Các điều ước quốc tế về đầu tư của Việt Nam, truyền thống hay hiện đại - thế hệ mới đều chứa
đựng những bảo hộ chính dành cho nhà đầu tư là đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, đối xử
công bằng và thỏa đáng, bảo vệ an ninh đầy đủ, bồi thường khi xảy ra tước quyền sở hữu, bảo
đảm tự do chuyển tiền, quy định về bồi thường thiệt hại khi có chiến tranh, xung đột vũ trang,
bạo loạn.
Bên cạnh nội dung thực chất, các hiệp định đặt ra cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các
bên ký kết và giữa nhà đầu tư với nước nhận đầu tư. Một điểm đặc biệt trong nội dung của các
IIA là nhà đầu tư được trao quyền khởi kiện nước nhận đầu tư tại các cơ quan tài phán quốc
tế mà phổ biến là trọng tài quốc tế khi cho rằng nước này vi phạm các cam kết bảo hộ trong
HA. Pháp luật trong nước thường chỉ cho họ lựa chọn trọng tài, tòa án trong nước và chủ thể,
đối tượng bị kiện có thể bị giới hạn trong phạm vi một số quyết định, văn bản pháp luật, cơ
quan nhà nước.
3.1.2. Thay đổi về cấu trúc
a. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (Hiệp định BTA)
Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ là hiệp định thương mại song phương giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ được kí kết vào ngày 13 tháng 7 năm 2000 tại Washington và hiệp định
thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2001. Trải qua một
quá trình đàm phán rất kĩ lưỡng và cần phải được sự thông qua của các quan chức cấp cao
như: Hạ viện Hoa Kỳ, Thượng viện Hoa Kỳ, Tổng thống Hoa Kỳ Busơ (G.W.Bush), Quốc
hội Việt Nam và vào ngày 10 tháng 12 năm 2001 Bộ trưởng thương mại hai nước trao đổi
công hàm phê chuẩn Hiệp định.
– Về tổng quan: hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ bao gồm có 7 chương và 72 điều, 9
phụ lục. Theo đó:
+ Chương 1: Thương mại hàng hoá
+ Chương 2: Quyền sở hữu trí tuệ
+ Chương 3: Thương mại dịch vụ
+ Chương 4: Phát triển quan hệ đầu tư
+ Chương 5: Tạo thuận lợi cho kinh doanh
+ Chương 6: Các quy định liên quan đến tính minh bạch, công khai và quyền khiếu kiện.
+ Chương 7: Những điều khoản chung.
Theo đó, có thể thấy Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã đánh dấu bước tiến
quan trọng trong tiến trình bình thường hoá và phát triển mối quan hệ thương mại toàn diện
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Hiệp định này không chỉ mở cửa cho hàng hóa Việt Nam vào thị
trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, mà còn khởi đầu cuộc cải cách sâu rộng, mang tính cách
mạng thể chế thương mại của Việt Nam vào thời điểm đó
b. Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)
 Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do
(FTA), gồm các hiệp định song phương và các hiệp định trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó có Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP
(Regional Comprehensive Economic Partnership) được khởi xướng tại Hội nghị Thượng đỉnh
Đông Á vào tháng 11/2012 gồm các nước ASEAN và 6 đối tác đối thoại khu vực: Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand.
 Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP, chính thức được khởi động đàm
phán tại Phnôm Pênh, Campuchia bên lề Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21, dựa trên nguyên
tắc cơ bản là mở rộng và đẩy mạnh hơn nữa cam kết của khối 10 nước ASEAN với các đối
tác thương mại tự do khu vực đã có tác động lớn tới phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước,
trong đó có Việt Nam.
 Mục tiêu của RCEP là tích hợp các FTA khác nhau mà 10 nước ASEAN đã ký với
Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Ấn Độ và Trung Quốc (FTA ASEAN + 1)
thành một Hiệp định toàn diện để tối đa hóa các lợi ích kinh tế. Với sự tham gia của 16 nước
Đông Á, RCEP sẽ tạo ra một trong những khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, bên
cạnh Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), gồm hơn 3 tỷ người (47% tổng dân số thế giới),
chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và khoảng 40% tổng kim ngạch thương
mại của thế giới. Sự tham gia của ASEAN và nhiều nước lớn trong khu vực đã tạo ra quy mô
thị trường to lớn cũng như tính chiến lược của RCEP trong cấu trúc thương mại toàn cầu.
RCEP là một FTA do ASEAN lãnh đạo, liên kết các nền kinh tế của 16 quốc gia khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, RCEP làm
giảm bớt sự phụ thuộc của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào thị trường Phương Tây.
 Cấu trúc RCEP được chi tiết thành 20 chương:
+ Chương 1: Các Điều khoản Ban đầu và Định nghĩa Chung
+ Chương 2: Thương mại hàng hóa
+ Chương 3: Quy tắc xuất xứ (ROO)
+ Chương 4: Thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại (CPTF)
+ Chương 5: Các biện pháp vệ sinh thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS)
+ Chương 6: Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật và Quy trình đánh giá sự phù hợp (STRACAP)
+ Chương 7: Phòng vệ thương mại
+ Chương 8: Thương mại Dịch vụ
+ Chương 9: Di chuyển tạm thời về thể nhân(MNP)
+ Chương 10: Đầu tư
+ Chương 11: Sở hữu trí tuệ
+ Chương 12: Thương mại điện tử
+ Chương 13: Cạnh tranh
+ Chương 14: Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
+ Chương 15: Hợp tác kinh tế và kỹ thuật
+ Chương 16: Mua sắm công
+ Chương 17: Các ngoại lệ và các điều khoản chung
+ Chương 18: Các điều khoản về thể chế
+ Chương 19: Giải quyết tranh chấp
+ Chương 20: Các điều khoản cuối cùng
3.1.3. Ảnh hưởng của sự thay đổi cấu trúc các hiệp định:
a. Cơ hội
Thứ nhất sự thay đổi cấu trúc các hiệp định sẽ nhằm tạo ra các tiêu chuẩn mới cho
thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ tạo điều kiện cân bằng lại quan hệ thương mại
giữa Việt Nam với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu
vực thị trường nhất định.
Thứ hai là sẽ hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây
dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này sẽ có tác dụng
rất tốt để thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.
b. Thách thức
Đi cùng với những cơ hội, sự thay đổi cũng đặt ra những đòi hỏi cao hơn nhiều: tháo
gỡ hết mọi rào cản thương mại, tự do hoá tối đa các hoạt động đầu tư, dịch vụ, yêu cầu cao về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và cả những vấn đề nhạy cảm đối như: bình
đẳng không phân biệt đối xử với các loại DN trong và ngoài nước, vấn đề DN Nhà nước, vấn
đề quyền lập hội, vấn đề mua sắm của Chính phủ…
3.2. Thay đổi về các điều khoản
3.2.1. Định giá hải quan
Trích Điều 3 Chương 1 - Những nghĩa vụ chung về Thương mại của BTA có đề cập
đến “ Trong vòng hai (02) năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực, các Bên áp dụng hệ thống
định giá hải quan dựa trên giá trị giao dịch của hàng nhập khẩu để tính thuế hoặc của hàng
hoá tương tự, chứ không dựa vào giá trị của hàng hoá theo nước xuất xứ, hoặc giá trị được
xác định một cách võ đoán hay không có cơ sở, với giá trị giao dịch là giá thực tế đã thanh
toán hoặc phải thanh toán cho hàng hoá khi được bán để xuất khẩu sang nước nhập khẩu phù
hợp với những tiêu chuẩn được thiết lập trong Hiệp định về việc Thi hành Điều VII của GATT
1994 ”
Khác với BTA, RCEP chỉ có cam kết về việc cắt giảm, loại bỏ thuế nhập khẩu. Việc
cắt giảm thuế nhập khẩu trong RCEP được quy định như sau: “Hàng hoá đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu về xuất xứ của RCEP sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan theo như cam kết của nước
nhập khẩu trong Hiệp định;
 Nếu tại thời điểm nhập khẩu, thuế MFN (mức thuế suất theo WTO) áp dụng đối với
hàng hóa thấp hơn so với mức thuế ưu đãi trong RCEP thì nhà nhập khẩu được quyền yêu cầu
áp dụng mức thuế MFN. Trong trường hợp hàng hoá đã bị áp mức thuế cao hơn, thì tuỳ thuộc
vào quy định của nước nhập khẩu, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu hoàn thuế đối với khoản
chênh lệch thuế do đã phải trả mức thuế cao hơn đó;
 Các nước thành viên, tuỳ thuộc nhu cầu trong nước, có thể đơn phương đẩy nhanh lộ
trình cắt giảm thuế quan hoặc cải thiện các cam kết thuế quan của mình trong RCEP (tức là
có quyền được áp thuế thấp hơn mức cam kết RCEP, hoặc giảm thuế trước khi đến lộ trình
thực hiện), miễn là việc đẩy nhanh hoặc cải thiện này được áp dụng cho tất cả các thành viên
còn lại. Đồng thời, khi cần thiết, nước nhập khẩu có thể tăng mức thuế quan trở lại miễn là
không vượt quá mức cam kết. Mọi hành động tăng giảm thuế này đều phải thông báo cho các
thành viên khác sớm nhất có thể trước khi áp dụng”
Thông thường thuế quan có thể bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu, tuy nhiên RCEP
chỉ có cam kết về thuế nhập khẩu ưu đãi mà không có cam kết về thuế xuất khẩu ưu đãi như
một số FTA thế hệ mới gần đây của Việt Nam (CPTPP hay EVFTA). Vì vậy các nước thành
viên vẫn được tiếp tục áp dụng các loại thuế xuất khẩu phù hợp với cam kết WTO.RCEP cho
phép các nước trong hiệp định chọn mức ưu đãi thuế sử dụng, dù mức thuế ưu đãi có thể không
tốt bằng mức thuế trong các FTA ASEAN+, với RCEP, hàng hóa của Việt Nam sẽ có thêm
lựa chọn để thuế ưu đãi khi xuất khẩu sang các nước RCEP. Tùy tình huống cụ thể, doanh
nghiệp có thể lựa chọn áp dụng FTA nào, với mức thuế quan và quy tắc xuất xứ nào phù hợp
và có lợi hơn cho mình. Điều này mở rộng phạm vi giao dịch giữa các quốc gia. Đối với BTA,
quy định biểu thuế xuất nhập khẩu ở cả hai nước, vì vậy dễ dàng trong việc áp dụng cho từng
mặt hàng.
3.2.2. Quy tắc xuất xứ
Khác với RCEP, quy tắc xuất xứ của BTA không được đề cập đến cụ thể mà được nêu
ngắn gọn trong các quy tắc về thương mại hàng hóa thuộc chương 1 của Hiệp định, thì quy
định Xuất xứ của RCEP quy định khá rõ ràng và chi tiết. Trích Chương 3 – Quy tắc xuất xứ
của RCEP có đề cập đến các khái niệm liên quan, nhằm làm rõ ràng và tránh nhầm lẫn với các
quy định trước đó, khi mà Quy tắc xuất xứ được Quy định khác nhau. “Để được hưởng ưu đãi
thuế quan theo RCEP, hàng hóa xuất nhập khẩu trong khu vực RCEP được coi là có xuất xứ
nếu đáp ứng được một trong 3 tiêu chí sau: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất
toàn bộ tại một nước thành viên Hiệp định.
 Hàng hóa có “xuất xứ thuần túy” là hàng hoá được sinh ra, nuôi trồng, thu hoạch....
toàn bộ tại một nước thành viên. Hàng hoá được sản xuất toàn bộ từ các nguyên liệu có xuất
xứ thuần túy tại một nước thành viên thì được coi là “sản xuất toàn bộ” tại nước thành viên
đó. Tiêu chí “xuất xứ thuần túy” hoặc “sản xuất toàn bộ” này thường được gọi chung là “xuất
xứ thuần túy”, viết tắt là WO (Wholly-Obtained). Tiêu chí xuất xứ thuần túy (WO) là tiêu chí
chặt nhất, khó nhất trong các loại tiêu chí xuất xứ. Do đó, với các sản phẩm có tiêu chí này
các doanh nghiệp cần chú ý bảo đảm tuân thủ đầy đủ mới có thể được hưởng ưu đãi thuế quan
RCEP.(có ví dụ)
 Hàng hóa được sản xuất tại một nước thành viên Hiệp định chỉ sử dụng nguyên liệu có
xuất xứ từ các nước thành viên Hiệp định. Tiêu chí này thường được gọi là PE (Produced
Exclusively).
 Hàng hóa được sản xuất tại một nước thành viên Hiệp định sử dụng một phần nguyên
liệu không có xuất xứ nhưng đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ quy định tại Danh mục Quy
tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng (Product Specific Rules - PSR)
Ngoài ra, để được coi là có xuất xứ thì hàng hóa cần phải đáp ứng thêm các quy định
khác về xuất xứ của RCEP như Công đoạn gia công, chế biến đơn giản, nguyên liệu đóng gói
và bao bì, phụ kiện, phụ tùng, vận chuyển trực tiếp... Đối với một số sản phẩm thuộc diện áp
dụng ưu đãi thuế quan khác biệt nằm trong danh mục cần đáp ứng “QTXX bổ sung” thì ngoài
việc phải đáp ứng QTXX quy định tại PSR cần thỏa mãn thêm điều kiện về QTXX bổ sung
đó”
Có thể nhận thấy, so với BTA thì RCEP có các điều khoản quy định về quy tắc xuất xứ
nghiệm ngặt và cụ thể hơn. RCEP cũng nêu rõ các quy định về “Xuất xứ thuần túy” nhằm
kiểm tra khắt khe hơn các sản phẩm thuộc các nước trong RCEP. Mặc dù đã mở rộng hơn
bằng cách cho phép các nước được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt RCEP khi lưu thông giữa
các quốc gia thành viên của Hiệp định, tuy nhiên, RCEP cũng rõ ràng hơn trong việc xác định
quốc gia thành viên và cơ chế hưởng ưu đãi thuế quan nhằm khắc phục và hạn chế tình trạng
hàng giả, hàng nhái, hàng không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và hạn chế phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu từ một quốc gia thứ 3 trong quá trình tạo ra sản xuất ra sản phẩm cuối cùng
Ví dụ: Các sản phẩm cá sống có tiêu chí xuất xứ là “WO” trong RCEP. Người dân Sa
Pa nhập cá hồi giống của Na Uy về để nuôi thành cá hồi trưởng thành và xuất khẩu cá sống
sang Trung Quốc. Trong trường hợp này con cá hồi không được coi là xuất xứ thuần tuý theo
RCEP vì giống nhập khẩu từ Na Uy chứ không phải giống Việt Nam mặc dù được nuôi dưỡng
tại Việt Nam. Do đó con cá hồi này khi xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ không được hưởng ưu
đãi thuế quan RCEP.
3.2.3. Giao dịch và chuyển tiền
Hiệp định BTA có nêu “ Trừ phi các bên trong những giao dịch này thỏa thuận khác
đi, tất cả mọi giao dịch thương mại qua biên giới, và tất cả việc chuyển tiền liên quan tới một
đầu tư theo Hiệp định này sẽ được tiến hành bằng đồng Đô la Mỹ hoặc bất kỳ đồng tiền nào
khác có thể được Quỹ Tiền tệ Quốc tế chỉ định là đồng tiền tự do sử dụng ở từng thời điểm”
Khác với đó, RCEP quy định “ Mỗi bên sẽ cho phép chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư
được bảo hộ được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi theo giá thị trường tại thời điểm
chuyển tiền.”
→ Không quy định về loại hình tiền tệ khi giao dịch thương mại → được thực hiện bằng đồng
tiền tự do
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Chương VII, Điều 01, Khoản 1 và 2 Quy
định giao dịch và chuyển tiền qua biên giới cũng quy định “Về vấn đề giao dịch và chuyển
tiền qua biên giới trong quá trình giao dịch và thanh toán các hợp đồng thương mại. Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có một số các quy định cụ thể về hình thức thanh toán, mở tài
khoản và áp dụng dùng một loại hình ngoại tệ. Trừ phi các bên trong những giao dịch này thỏa
thuận khác đi, tất cả mọi giao dịch thương mại qua biên giới, và tất cả việc chuyển tiền liên
quan tới một đầu tư theo Hiệp định này sẽ được tiến hành bằng đồng Đô la Mỹ hoặc bất kỳ
đồng tiền nào khác có thể được Quỹ Tiền tệ Quốc tế chỉ định là đồng tiền tự do sử dụng ở
từng thời điểm.”
→ Hiệp định có quy định rõ ràng về loại hình tiền tệ là USD khi thực hiện và tiến hành giao
dịch thương mại qua biên giới giữa các bên tham gia ký kết hiệp định. Điều khoản không
mang tính chung chung và đòi hỏi thực hiện chính xác để đảm bảo quá trình giao dịch diễn ra
theo thỏa thuận.
Khác với quy định nghiêm ngặt về chuyển tiền và giao dịch ở Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, tại Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực, mỗi bên sẽ cho phép
chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư được bảo hộ được thực hiện bằng đồng tiền tự do
chuyển đổi theo giá thị trường tại thời điểm chuyển tiền. Tại Chương X, Điều 10.9 quy định
về chuyển tiền có đề cập về việc chuyển tiền đó bao gồm:
1) phần vốn góp, bao gồm vốn góp ban đầu;
2) lợi nhuận, thu nhập từ vốn, cổ tức, lãi, tiền bản quyền, hỗ trợ kỹ thuật và phí hỗ trợ kỹ
thuật và phí quản lý, phí chuyển giao công nghệ, và các khoản thu nhập khác thu được từ
khoản đầu tư được bảo hộ đó;
3) tiền thu được từ việc bán hoặc thanh lý, toàn bộ hoặc một phần của khoản đầu tư được
bảo hộ;
4) các khoản tiền trả theo hợp đồng, bao gồm hợp đồng vay;
5) các khoản tiền trả theo Điều 10.11 (Bồi thường thiệt hại) và Điều 10.13 (Tước quyền
sở hữu);
6) các khoản tiền phát sinh từ việc giải quyết tranh chấp bằng bất kỳ biện pháp nào bao
gồm xét xử tại tòa án, trọng tài hoặc thỏa thuận giữa các bên tranh chấp;
7) tiền lương và khoản thù lao khác của người lao động liên quan đến khoản đầu tư được
bảo hộ.
→ Điều khoản chung của hiệp định không quy định về loại hình tiền tệ khi giao dịch thương
mại. Nghĩa là các bên tham gia hiệp định được thực hiện giao dịch và chuyển tiền bằng đồng
tiền tự do theo sự thỏa thuận giữa các bên.
3.2.4. Về sở hữu trí tuệ
BTA chương 2 điều 3 đề cập:
1) Mỗi bên dành cho công dân của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử
mà bên đó dành cho công dân của mình trong việc xác lập, bảo hộ, hưởng và thực thi tất cả
các quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các quyền đó.
2) Một bên không đòi hỏi những người có quyền phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu về thủ tục
hình thức hoặc điều kiện nào (kể cả việc định hình, công bố hoặc khai thác trong lãnh thổ của
một bên) như là một điều kiện để được hưởng sự đối xử quốc gia quy định tại điều này nhằm
xác lập, hưởng, thực thi và thực hiện các quyền và lợi ích liên quan đến quyền tác giả và quyền
liên quan.
3) Một Bên có thể không thi hành quy định tại khoản 1 đối với các thủ tục tư pháp và hành
chính liên quan đến việc bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, kể cả bất kỳ thủ tục nào
yêu cầu công dân của Bên kia phải chỉ định địa chỉ tiếp nhận giấy tờ tống đạt tố tụng tại lãnh
thổ của Bên đó hoặc phải chỉ định một đại diện tại lãnh thổ của Bên đó nếu việc không thi
hành này là phù hợp với các Công ước liên quan được liệt kê ở khoản 3 Điều 1 trên đây, với
điều kiện là việc không thi hành quy định nói trên:
A. là cần thiết để bảo đảm việc thi hành các biện pháp không trái với quy định của Hiệp
định này; và B. không được áp dụng theo phương thức có thể gây hạn chế đối với thương mại.
4) Không Bên nào phải có bất kỳ nghĩa vụ gì theo Điều này đối với các thủ tục quy định
trong các thoả thuận đa phương được ký kết dưới sự bảo trợ của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế
giới liên quan đến việc xác lập hoặc duy trì quyền sở hữu trí tuệ.
Ở RCEP quy định như sau:
1) Mỗi Bên phải dành cho công dân của các Bên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn
sự đối xử dành cho công dân của mình liên quan đến việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, phù hợp với
các ngoại lệ được quy định trong Hiệp định TRIPS và trong các điều ước đa phương do Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới quản lý (sau đây được gọi là “WIPO” trong Chương này), mà Bên
đó là thành viên.
2) Một Bên có thể tận dụng các ngoại lệ nêu tại khoản 1 liên quan đến các thủ tục hành
chính và tư pháp, bao gồm việc yêu cầu công dân của Bên khác chỉ định địa chỉ giao dịch
trong lãnh thổ của mình, hoặc chỉ định một đại diện trong lãnh thổ của mình, với những trường
hợp ngoại lệ sau:
(a) là cần thiết để đảm bảo sự tương thích với những quy định của pháp luật không mâu
thuẫn với Chương này;
(b) và (b) không được áp dụng theo cách thức có thể tạo ra sự hạn chế trá hình đối với
thương mại.
3) Các nghĩa vụ theo khoản 1 không áp dụng cho các thủ tục quy định trong các điều ước
đa phương được ký kết dưới sự bảo trợ của WIPO liên quan đến việc xác lập hoặc duy trì các
quyền sở hữu trí tuệ.
Nhận Xét:
Tích cực chung:
 Đều tôn trọng quyền lợi và cách đối xử với đối phương như cách đối phương đối xử
với công dân của mình
 Linh hoạt trong việc sử dụng các ngoại lệ của điều khoản 1 (đối với cả 2) để không gây
khó khăn cho nhau
 Nếu được kí kết dưới sự bảo trợ của WIPO thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi các điều
khoản chung.
-> Tổng quan thì 2 hiệp định này khá giống nhau, đều đem lại lợi ích.
3.2.5. An ninh quốc gia
Ở BTA, Hiệp định này không ngăn cản một Bên áp dụng các biện pháp mà Bên đó coi
là cần thiết để bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu của mình. Không có quy định nào trong
Hiệp định này được hiểu là yêu cầu Bên nào cung cấp bất kỳ thông tin gì, mà việc tiết lộ thông
tin đó được Bên đó coi là trái với lợi ích an ninh thiết yếu của mình.
→ Một bên ký kết được phép áp dụng các biện pháp an ninh quốc gia
→ Không bên nào của hiệp định phải cung cấp thông tin gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia
của mình
Đối với RCEP, mặc dù có Điều 17.13 (Các ngoại lệ an ninh), Chương này không yêu
cầu một Bên phải công bố hoặc cho phép tiếp cận bất kỳ thông tin mà việc công bố đó được
cho là xung đột với lợi ích an ninh thiết yếu của Bên đó; hoặc ngăn cản một Bên áp dụng các
biện pháp mà Bên đó coi là cần thiết để: thực thi các nghĩa vụ của mình liên quan đến việc
duy trì hoặc gìn giữ an ninh hoặc hòa bình thế giới; hoặc bảo vệ lợi ích an ninh thiết yếu của
Bên đó.
→ Tuy không yêu cầu các bên ký kết hiệp định phải công bố hoặc cung cấp thông tin gây ảnh
hưởng an ninh quốc gia. Những hiệp định này ngăn cản không cho bất kỳ bên nào áp dụng
biện pháp an ninh riêng
3.2.6. Những ngoại lệ chung
Trong Điều 3 Chương VII quy định về ngoại lệ chung của BTA có đề cập đến “ Không quy
định nào trong Hiệp định này ngăn cản một Bên áp dụng luật của mình liên quan tới cơ quan
đại diện nước ngoài như đã được quy định trong luật pháp áp dụng.
Không có quy định nào trong Hiệp định này hạn chế việc áp dụng bất kỳ hiệp định nào hiện
có hay sẽ đạt được trong tương lai giữa các Bên về thương mại hàng dệt và sản phẩm dệt.
Trích Điều Chương có nêu
Không quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là:
Để yêu cầu một Bên phải cho phép tiếp cận bất kỳ thông tin nào mà Bên đó cho rằng
việc cung cấp thông tin đi ngược lại với lợi ích an ninh thiết yếu của Bên đó; hoặc
ngăn cản một Bên bất kỳ thực hiện hành động mà Bên đó cho là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích
an ninh thiết yếu của mình:
a. liên quan đến việc tách hoặc làm giàu vật liệu hạt nhân hoặc vật liệu có chứa hạt nhân;
b. liên quan đến mua bán vũ khí, đạn dược và vật dụng chiến tranh và các hàng hoá và
nguyên nhiên vật liệu khác hay liên quan đến cung cấp dịch vụ được thực hiện trực tiếp
hoặc gián tiếp vì mục đích cung cấp cho quân đội;
c. được tiến hành để bảo vệ cơ sở hạ tầng công cộng trọng yếu bao gồm thông tin liên lạc,
điện và nước;
d. được tiến hành trong tình huống khẩn cấp của quốc gia hoặc chiến tranh hoặc tình
huống khẩn cấp khác trong quan hệ quốc tế; hoặc ngăn cản một Bên có những biện pháp
thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc nhằm duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế.
Tổng kết các quy định từ điều khoản của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là
ngoại lệ chung áp dụng cho cả hai bên tham gia ký kết hiệp định. Ngoại lệ ở hiệp định này đề
cập đến việc cho phép mỗi bên được quyền áp dụng luật của quốc gia. Nghĩa là các bên ký kết
đều được quyền hưởng “ngoại lệ” là được áp dụng luật của quốc gia mình khi liên quan đến
cơ quan đại diện nước ngoài. Đồng thời không áp đặt các tiêu chuẩn nặng về thương mại hàng
dệt và sản phẩm dệt.
Lấy ví dụ về xúc tiến thương mại đối với sản phẩm dệt may của Việt Nam được đẩy
mạnh sau khi ký kết hiệp định BTA trong hai năm vừa qua. Không chỉ đứng trong top đầu
kim ngạch xuất khẩu với 40,4 tỷ USD năm 2021, chiếm 12% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, dệt may còn là ngành xuất siêu lớn của Việt Nam, với 16,2 tỷ USD năm 2021 và 11 tỷ
USD 7 tháng năm 2022. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ luôn dẫn đầu trong kim ngạch xuất khẩu của
ngành dệt may Việt Nam, chiếm gần 42% (cùng kỳ năm 2021)
Tuy nhiên, ngoài những ngoại lệ chung mang tính tự do hóa thì hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ vẫn còn hạn chế nhỏ khi không có ngoại lệ về an ninh. Điều này sẽ dẫn
đến một số bất cập cho mỗi bên trong hiệp định khi đối mặt với những trường hợp khẩn cấp
liên quan đến xung đột vũ trang hoặc chiến tranh.
Trích Điều 17.12 Chương XVII Quy định về ngoại lệ chung của Hiệp định RCEP có
nêu “ Vì mục đích của Chương 2 (Thương mại Hàng hóa), Chương 3 (Quy tắc Xuất xứ),
Chương 4 (Thủ tục Hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại), Chương 5 (Các biện pháp Vệ
sinh và Kiểm dịch động thực vật), Chương 6 (Tiêu chuẩn, Quy chuẩn Kỹ thuật, và Các thủ tục
đánh giá sự phù hợp), Chương 10 (Đầu tư) và Chương 12 (Thương mại điện tử), Điều XX của
GATT 1994 được đưa vào và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi phù
hợp. Bên cạnh đó, vì mục đích của Chương 8 (Thương mại Dịch vụ), Chương 9 (Di chuyển
Thể nhân Tạm thời), Chương 10 (Đầu tư) và Chương 12 (Thương mại Điện tử), Điều XIV của
GATS bao gồm cả chú thích được đưa vào và trở thành một phần của Hiệp định này, với
những sửa đổi phù hợp. Nghĩa là Điều XX quy định việc áp dụng các ngoại lệ chung không
được tạo ra sự phân biệt đối xử phi lý giữa các nước có điều kiện như nhau hay hạn chế, ngăn
cản thương mại quốc tế.
Có thể áp dụng các ngoại lệ trái với quy tắc không phân biệt đối xử trong trường hợp
cần thiết: bảo vệ đạo đức công cộng; bảo vệ cuộc sống và sức khỏe con người, động vật hay
thực vật; liên quan đến việc xuất hoặc nhập khẩu vàng và bạc; liên quan đến các sản phẩm sử
dụng lao động của tù nhân; bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với các
quy định về áp dụng các biện pháp hải quan, duy trì hiệu lực của chính sách độc quyền, bảo
hộ bản quyền, nhãn hiệu thương mại, quyền tác giả và các biện pháp ngăn ngừa gian lận
thương mại; di sản quốc gia; gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt.”
Như vậy, RCEP không có các ngoại lệ về áp đặt tiêu chuẩn hàng hóa hoặc tự do thương
mại một mặt hàng cụ thể. Ngoài ra, thể theo quy định về ngoại lệ chung về an ninh quốc gia,
một bên bất kỳ sẽ không bị ngăn cản khi thực hiện hành động bảo vệ an ninh quốc gia trong
trường hợp có liên quan đến xung đột vũ trang, mua bán vũ khí, chiến tranh và các trường hợp
khẩn cấp (có ngoại lệ về an ninh).

You might also like