vấn đáp triết học

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 92

HỌC VIỆN TTN VIỆT NAM

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

CÂU HỎI THI VẤN ĐÁP MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN

Câu 1, Trình bày vai trò của triết học Mác- Lênin trong đời sống xã hội và trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam?

Trả lời:

 Vai trò của triết học trong đời sống xã hội:


- Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng
của triết học. Triết học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức,
chức năn đánh giá, chức năng giáo dục…. Nhưng quan trọng nhất kà
chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
- Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vai trò của
con người trong thế giới. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong
thế giới dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Thế giới quan đóng vai trò là nhân tố định
hướng cho quá trình hoạt động sống của con người.
- Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận thức, quan
sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Từ đó giúp con
người định hướng thái độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm
cho thế giới quan phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng
kế kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.
- Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan
điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp. Đây là hệ thống những quan điểm chung nhất đóng vai trò xây
dựng, lựa chọn vận dụng các phương pháp.

1
- Phương pháp luận chia thành nhiều cấp độ: phương pháp luận ngành,
phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất (phương
pháp luận triết học). Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập
nhưng phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu được trong
bất kỳ một ngành khoa học nào.Phương pháp luận triết học đóng vai trò
chỉ đạo, định hướng trong quá trình tìm kiếm, lựa chọn và vận dụng các
phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa để thực hiện hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
 Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp thế giới quan, phương pháp luận khoa
học cho sự nghiệp đổi mới của Đảng. Xét về tổng thể, chủ nghĩa Mác -
Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân loại do C. Mác và Ph.
Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I. Lênin kế tục,
phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác - Lênin
phơi bày bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại
trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đoán chính xác xu hướng vận động
của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của
nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa
học, cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con
đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó.

- Việt Nam sau khi giành độc lập dân tộc, đã lựa chọn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, phù hợp thực tiễn, phù hợp lòng
dân. Đảng ta khẳng định, Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.

- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã luận chứng tính tất yếu của sự thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời. Tuy nhiên, do những nguyên nhân
khách quan và chủ quan, chủ nghĩa xã hội hiện có khủng hoảng, chủ

2
nghĩa tư bản thì có những điều chỉnh để thích nghi và có những thành
tựu nhất định về khoa học công nghệ, kinh tế, … nhưng thời đại ngày
nay vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội
dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng sẽ có bước tiến mới. Theo
quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội”. Rõ ràng triển vọng của chủ nghĩa xã hội thể hiện rất rõ trong
thời đại ngày nay.

- Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra rằng, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội đã làm nảy sinh hàng loạt những vấn đề không thể tìm lời giải có
sẵn trong di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác, vì thực tiễn ngày nay đã
thay đổi nhiều, xuất hiện những biến cố của lịch sử, những vấn đề thực
tiễn mới này sinh thì cũng cần phải có lý luận mới trả lời cho thực tiễn
mới. Do vậy, việc bổ sung, hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là tất yếu khách quan trong thời đại ngày
nay. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, bổ sung phát
triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều
kiện mới. Đảng ta đã thực hiện đổi mới thành công. Thành tựu của 35
năm đổi mới đã khẳng định sự nghiệp đổi mới ở nước ta là hoàn toàn
đúng đắn. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thời đại ngày nay. Tuy
nhiên, hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi nhanh,
phức tạp, khó lường. Đại hội XIII của Đảng ta chỉ rõ: “Hòa bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song cũng đứng trước nhiều trở ngại,
khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển,
nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại
diễn ra gay gắt… Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát
triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông

3
Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn
diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề
an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác
động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định,
bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta” . Trước bối cảnh thực
tiễn như trên, đòi hỏi Đảng ta trong đổi mới phải nắm vững phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin như là một tiền đề quan
trọng để đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, giúp hiểu đúng
quan niệm của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội, khắc phục những
sai lầm trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội. Để làm được điều
đó, Đảng ta phải nhìn thẳng, đánh giá đúng thực tiễn dám từ bỏ cả
những kết luận của chính mình nếu như không còn phù hợp để bổ sung,
phát triển lý luận trong tình hình mới. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng
định: “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội
Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất
cứ một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với
những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”. Đại hội lần thứ XIII
của Đảng một lần nữa tiếp tục khẳng định quan điểm đổi mới: “Kiên
định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định đường lối đổi mới của Đảng… để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

- Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết cần phải
tiếp tục khẳng định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Ban Giám
hiệu và các giảng viên, nhân viên Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ cần
nhận thức đúng và chú trọng một số vấn đề cụ thể sau:

- Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức, giữ vững lập trường tư tưởng,
không hoang mang dao động, tin tưởng sự vận dụng các quan điểm

4
khoa học và cách mạng của học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh của Đảng ta đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

- Hai là, Đảng ủy, Ban Giám hiệu cần quán triệt và chỉ đạo tham gia thực
hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch
trong tình hình mới”; tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
gắn lý luận với thực tiễn.

- Ba là, các giảng viên cần vận dụng Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng vào
nội dung các bài giảng như là một cách tuyên truyền để học viên có thể
nắm vững và thực hiện tốt, tránh có những hiểu sai, không đúng, không
rõ các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước.

- Bốn là, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính
trị, trước hết là cán bộ giảng viên, nhân viên và học viên nhà trường.
Việc học tập lý luận chính trị phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên,
liên tục, trở thành nhu cầu, nguyện vọng của mỗi cán bộ, đảng viên,
giảng viên, nhân viên, học viên trong quá trình công tác và học tập.
Bên cạnh đó, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường cần quan tâm đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên có trình độ, có kiến thức cả về
chuyên môn và lý luận chính trị đáp ứng nhiệm vụ chính trị của nhà
trường.

Câu 2, Quá trình hình thành phạm trù vật chất ? Ý nghĩa định nghĩa vật chất
của Lênin.

Trả lời:

 Quá trình hình thành phạm trù vật chất:


- Phạm trù vật chất là phạm trù cơ bản, cùng cặp với phạm trù ý thức của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhiệm vụ xác định nội dung của những
phạm trù này cũng như nội dung quan niệm về mối liên hệ giữa vật
5
chất và ý thức mang ý nghĩa đặt cơ sở cho toàn bộ hệ thống lý luận duy
vật biện chứng đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thực hiện xong
về căn bản.
- Bối cảnh lịch sử của quan niệm Lênin về vật chất
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được viết vào
thời gian từ tháng Hai đến tháng Mười 1908 và được in thành sách
riêng năm 1909. Tác phẩm xuất hiện trong bối cảnh lịch sử có những
sự kiện nổi bật. Giai cấp tư sản ở các nước đã trở nên "phản động về
mọi mặt", đã từ bỏ tính chất dân chủ của nó. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX tràn lan thứ triết học "kinh nghiệm phê phán" hay chủ nghĩa
Makhơ với tham vọng đóng vai trò là triết học "duy nhất khoa học"
nhưng thực ra, là một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Một số người
dân chủ - xã hội tự xưng là "học trò của Mác" đã coi chủ nghĩa Makhơ
có sứ mệnh thay thế triết học duy vật biện chứng của C.Mác. Một số
học giả có tên tuổi đã rơi vào ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán. Ở Nga, ngoài những kẻ thù công khai chống giai cấp vô sản
và đảng của giai cấp vô sản, còn có một số trí thức dân chủ -xã hội,
gồm cả những phần tử mensêvích, đã tuyên truyền chủ nghĩa Makhơ,
dùng chủ nghĩa Makhơ để xét lại chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong
hoàn cảnh mà bọn giả danh mácxít, các thế lực phản động đang tung
hoành, dùng chủ nghĩa Makhơ để xét lại chủ nghĩa Mác, xét lại không
chỉ những nguyên lý triết học, mà cả những sách lược, nguyên tắc của
đảng vô sản, nhằm phủ nhận những cơ sở lý luận của đảng, tước vũ khí
tư tưởng của giai cấp vô sản, mưu toan biến chủ nghĩa xã hội thành một
dạng tôn giáo mới, thì đó là một nguy cơ vô cùng nghiêm trọng. Đồng
thời, vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã
bắt đầu diễn ra một cuộc cách mạng thật sự với việc phát hiện ra tia
Rơnghen (1895), hiện tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), rađium
(1898). Vì thế, bức tranh vật lý cũ về thế giới đã trở nên chật hẹp. Các
nhà vật lý cũ với lập trường duy vật tự phát và siêu hình không thể giải
thích được những phát hiện mới của vật lý học hiện đại. Do đó, chủ

6
nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên rơi vào khủng hoảng, thậm chí cho
rằng vật chất đã "biến mất", đã "tiêu tan".
- Những định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:
Trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán có nhiều
luận điểm của V.I.Lênin được xem như những "định nghĩa" về vật chất:
Đó là:
+ (1) Như đã nêu ở trên;
+ (2) "Việc thừa nhận đường lối triết học mà các nhà duy tâm và bất
khả tri đã phủ nhận thì trái lại được diễn đạt bằng những định nghĩa sau
đây: vật chất là cái tác động vào giác quan của chúng ta, thì gây ra cảm
giác;
+ (3) "vật chất là một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta
trong cảmgiác,…
+ (4) "Phái Makhơ đã rơi vào chỗ hết sức vô lý biết chừng nào, khi họ
đòi hỏi những người duy vật phải đưa ra một định nghĩa về vật chất mà
không được nhắc lại rằng vật chất, giới tự nhiên, tồn tại, cái vật lý đều
là cái có trước, còn tinh thần, ý thức, cảm giác, cái tâm lý là cái có sau"
+ (5) "Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì
khác hơn: thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người,
và được ý thức con người phản ánh"
+ (6) "Khái niệm vật chất không biểu hiện cái gì khác ngoài cái thực tại
khách quan mà chúng ta nhận thấy được trong cảm giác"; v.v.. 
Sau khi trình bày các luận điểm (2) và (3), V.I.Lênin đã xem đây
là những định nghĩa về vật chất. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay trong
nhận thức lại phạm trù vật chất của V.I.Lênin là cần phải phân tích, so
sánh những luận điểm về vật chất như đã nêu để xác định đâu là luận
điểm thể hiện chính diện, rõ nhất và mang tính chất của một định
nghĩa kinh điển về vật chất. Căn cứ vào nội dung các luận điểm đã nêu,
có thể phân chia thành hai dạng hoặc hai cách định nghĩa.
Dạng định nghĩa thứ nhất bao gồm các luận điểm (1), (5) và (6). Trong
nhóm này, cần tập trung phân tích luận điểm (1). Đây là luận điểm đã

7
được rất nhiều tác giả xem là định nghĩa kinh điển, thậm chí duy nhất
kinh điển.
Đương nhiên, trong luận điểm của V.I.Lênin cũng đã nói đến "thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác", tức là nói về chính vật chất với tư cách cái tồn tại khách
quan, ở bên ngoài cảm giác. Nhưng trong toàn bộ nội dung luận điểm
(1), điều này chỉ nhằm giải thích cho "từ vật chất", "phạm trù vật chất"
về ý nghĩa và nội dung của chúng, chứ không nhằm trực tiếp nói về vật
chất với tư cách thực tại khách quan, ở bên ngoài cảm giác.

Câu 3, Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa
phương pháp luận?

Trả lời:

 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:


- Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau
về vật chất đứng trên các giác độ khác nhau. Nhưng theo Lênin định
nghĩa: ” Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách
thông thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm
khác rộng hơn vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để
định nghĩa vật chất, Lênin đó đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất
là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, vất
chất tồn tại độc lập đối với cảm giác, với ý thức, còn cảm giác, ý thức
phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất.
- Ý thức là một hiện tõm lớ xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm ý thức,
tri thức, tìm cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trong nhất là phương
thức tồn tại của ý thức.

8
- Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển
của ý thức có liên quan mật thiết với nhau trong quá trình nhận thức
của con người và cải biến thế giới tự nhiên. Tri thức càng được tích luỹ
con người ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có
hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà tăng hơn.
Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có
ý nghĩa chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm niềm tin,
ý chí. Quan điểm đó chính là biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí,
của niềm tin mù quáng, của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên việc
nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận và
coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình cảm ý chí.

- Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm
coi tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó, có sẵn trong các cá nhân,
biểu hiện quan hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua
quan hệ thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con
người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức
minh như là một thực thể hoạt động, có cảm giác, có tư duy, có các
hành vi đạo đức và có vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt
động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người phải nhận rõ bản thân mình và
tự điều chỉnh bản thân mình theo các qui tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội
đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò “Cái gương soi” giúp cho
con người tự ý thức được bản thân.

- Vô thức là một hiện tượng tõm lớ nhưng có liên quan đến những hoạt
động xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loai vô thức: Loại thứ
nhất liên quan đến hành vi chưa được con người ý thức; loai thứ hai
liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại
nờn đó trở thành thói quen, có thể diễn ra “Tự động” bên ngoài sư chỉ
đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của
con người. Trong những hoàn cảnh nào đó nó có thể giúp con người

9
bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng cương rèn luyện để biến
những hành vi tích cực thành thói quen và có vai trò rất quan trong đời
sống của con người. Trong con người ý thức vẫn là cái chủ đạo cái
quyết định trong hành vi cá nhân.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:


- Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt
đối trong phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn
trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái
gì có sau. Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa sự đối lập
đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân ranh giới chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống nhất của thế giới, cần
có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi
cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không như
vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với
ý thức và cuối cùng sẽ xa dời quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa
vật chất và ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng là những nguyên tố,
những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người, đặc
biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý thức
tự nó không thể cải biến được sự vật, không có khả năng tự biến thành
hiện thực.

- Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải
biết được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục
đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính
ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản
tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và
thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh tự nhiên trù phú,
sinh động, tự nhiên của con người.

Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể
hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác,

10
đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày
càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần
hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức
không có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như nhau
trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mác-
Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố
vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên
cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố
ý thức.
 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập
với ý thức, là nguồn gốc của ý thức. Óc người là cơ quan phản ánh để
hình thành ý thức, không có bộ óc người thì không thể có ý thức.

- Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ óc trong quá
trình phản ánh thế giới khách quan. Do vậy, bộ óc có ảnh hưởng trực
tiếp đến phản ánh có ý thức của con người.

- Thế giới khách quan là nguồn gốc của phản ánh có ý thức, quyết định
nội dung của ý thức.

- Tuy nhiên, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người:

- Ý thức có tính năng động sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực
tiễn của con người có thể tác động trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy
hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần
cải biến thế giới khách quan, các điều kiện khách quan.

11
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất dù đến đâu chăng nữa
vẫn phụ thuộc vào các điều kiện vật chất. Cho nên, xét đến cùng, vật
chất luôn quyết định ý thức.

- Do vậy, từ quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ta rút ra ý nghĩa
phương pháp luận sau:

+ Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, hành động
tuân theo quy luật khách quan. Không được lấy ý muốn chủ quan thay
cho điều kiện khách quan.

+ Thứ hai, phải thấy được vai trò tích cực của ý thức, tinh thần để sử
dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện có. Nghĩa là, phải biết
động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý
thức, tinh thần vượt khó vươn lên, v.v.

+ Thứ ba, tránh không rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối
hoá điều kiện vật chất, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất kiểu “Đại
Lãn chờ sung”, không chịu cố gắng, không tích cực, chủ động vượt
khó, vươn lên.

+ Thứ tư, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò
của ý thức, của ý chí, cho rằng, ý chí, ý thức nói chung có thể thay
được điều kiện khách quan, quyết định điều kiện khách quan.

- Toàn bộ ý nghĩa phương pháp này cũng là những yêu cầu của nguyên
tắc (quan điểm) khách quan. Vì vậy, chúng ta thấy, chính quan điểm
của triết học Mác-Lênin về vật chất, ý thức về quan hệ giữa vật chất và
ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) khách quan.

Câu 4, Phân tích vai trò của ý thức đối với vật chất, liên hệ với bản thân trong
học tập và công tác?
12
Trả lời:

 Vai trò của ý thức đối với vật chất:


- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

- Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói
đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay
đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải
tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con
người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp
tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri
thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu,
đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện
pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở
đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiền của con người.

- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa
học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của
con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực
vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn
nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của
con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có
tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có
thế quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con

13
người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu
quả.
 Liên hệ bản thân:
- Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta có thể liên hệ bản thân để rút
ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với quá trình học tập và làm
việc.

+ Trước hết, trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn, chúng ta cần phải coi trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách
quan làm cho căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

+ Bên cạnh đó, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát
huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người.
Như vậy, để đạt được thành công trong mọi lĩnh vực, con người cần
trang bị các tri thức cần thiết và xác định đúng đắn mục tiêu, phương
hướng hoạt động và tổ chức thực hiện. Cùng với nỗ lực và ý chí mạnh
mẽ của mình để đạt được mục tiêu đề ra. Từ mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức liên hệ bản thân, cá nhân tôi thấy được rằng bản thân phải
luôn phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con
người để tác động cải tạo thế giới khách quan. Đặc biệt cần tránh tình
trạng bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.

Như vậy, bài viết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ bản thân
đã cho thấy bản chất, nguồn gốc của vật chất, ý thức. Từ đó, rút ra được
kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình nhận thức thế giới xung
quanh. Cảm ơn bạn đọc đã theo dõi bài viết của chúng tôi.

Câu 5, Nội dung hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương
pháp luận?

14
Trả lời:

 Nội dung hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và
đóng vai trò cốt lõi trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác -
Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy
vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những
phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách
quan.

Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về


sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản
gồm:

- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
+ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Theo chủ nghĩa Mác -Lênin thì các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ
biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua
lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc
lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay
sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Đồng thời cũng
qua đó phê phán cách xem xét của các nhà siêu hình học.
Cơ sở khoa học:Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó
của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của thế
giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự vật,
hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế
giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều
này
15
Tính chất:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba
tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có
của mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên
hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật,
hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối
liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì
các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành
nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

- Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem


xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình
luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự
vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản:

+ Nguyên lý về sự phát triển


Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Việc đặt sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn phát
triển là một nguyên lý quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức
là vận động, mà không vận động thì không có sự phát triển. Nhưng vận
động và phát triển là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm vận động
khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết

16
quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không
ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật
lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:
- Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
- Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
- Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động.
 Ý nghĩa phương pháp luận:

Nếu nắm vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta có
thể xây dựng quan điểm (nguyên tắc) toàn diện để đẩy mạnh hoạt động
nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn hiệu quả. Nguyên tắc này
yêu cầu:
- Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan:
Một là, tìm hiểu để phát hiện càng nhiều càng tốt những mối liên hệ chi
phối đối tượng nhận thức.
Hai là, phân loại để xác định trong các mối liên hệ đã được phát hiện ra
thì mối liên hệ nào là liên hệ bên trong, liên hệ cơ bản, liên hệ tất nhiên,
liên hệ ổn định… Dựa trên những mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất
nhiên, ổn định… đó để lý giải được những mối liên hệ còn lại.
Ba là, xây dựng được hình ảnh chỉnh thể trong tư duy về đối tượng
nhận thức như sự thống nhất các mối liên hệ trên. Từ đó phát hiện ra
đặc điểm, tính chất, quy luật, nghĩa là bản chất của đối tượng nhận
thức.
- Trong hoạt động thực tiễn, khi biến đổi đối tượng chủ thể phải:
+ Một là, chú trọng đến mọi mối liên hệ, và đánh giá đúng vai trò vị trí
của từng mối liên hệ đang chi phối đối tượng.
+ Hai là, thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp,
phương tiện thích hợp để biến đổi những mối liên hệ đó, đặc biệt là
những mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…

17
+ Ba là, nắm vững sự chuyển hóa của các mối liên hệ để kịp thời đưa ra
các biện pháp bổ sung nhằm phát huy hay hạn chế sự tác động của
chúng, và lèo lái sự vận động, phát triển của đối tượng đúng quy luật và
hợp lợi ích của chúng ta.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện nhưng
nó cũng xa lạ với cách xem xét dàn trải, liệt kê chung chung. Nó đòi
hỏi phải biết kết hợp nhuần nhuyễn “chính sách dàn đều” với “chính
sách có trọng điểm”. Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ nghĩa
chiết trung và chủ nghĩa nguỵ biện.

Câu 6, Nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Ý nghĩa phương pháp
luận?

Trả lời:

 Nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng:


Các khái niệm:

- Cái chung là một phạm trù triết học, dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định mà
còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng riêng lẻ khác. VD

- Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vật, hiện tượng hay
một quá trình riêng lẻ nhất định. VD

- Cái đơn nhất là một phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt,
những thuộc tính.. chỉ tồn tại ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà
không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác. VD

- Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng: Cái chung, cái
riêng và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan và có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Mối quan hệ đó thể hiện qua các điểm sau:
18
+ Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua các cái
riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không có cái chung thuần túy
tồn tại bên ngoài cái riêng.

+ Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong quan hệ với cái chung, không có
cái riêng nào tồn tại độc lập, tách rời tuyệt đối cái chung.

+ Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, vì ngoài
những điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.

+ Thứ tư, cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh thuộc
tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng
loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương
hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.

- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật:

+ Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện quá trình
cái mới ra đời thay thế cái cũ.

+ Sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện quá trình
cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.

 Ý nghĩa của phương pháp luận:

- Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái riêng,
từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.

19
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động
thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Mặt khác phải cụ
thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh cụ thể.

- Trong hoạt động thực tiễn, nếu thấy sự chuyển hóa nào có lợi thì ta cần
chủ động tác động vào để nó nhanh chóng trở thành hiện thực.

Câu 7, Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp
luận?

Trả lời:

 Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:


Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng
duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin và là một trong những nội dung của
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mỗi quan hệ biện chứng
hai phạm trù.
- Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi
nhất định.
- Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Trong hai khái niệm này, chúng ta cần lưu ý đối với khái niệm nguyên
nhân và nguyên cơ, để không có sự nhầm lẫn về khái niệm.

+ Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không
sinh ra kết quả. Nguyên cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là
mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
+ Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên
nhân nhưng có tác dụng đối với việc sinh ra kết quả.

+ Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi
nguyên nhân gây ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
- Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
20
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết
quả có mối quan hệ qua lại, cụ thể:

+ Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.

Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt
đầu tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của
các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.

Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên
bởi những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.

Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng
thì sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả.
Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các
hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng
của nhau.

- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành
kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:

+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.

+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.

+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

- Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.

21
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả
không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng
tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.

- Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.

Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan
hệ khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên
nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra,
đến lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và
quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi
nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầy
hay cuối cùng.
 Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết
quả:
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là
không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có
nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được
mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khó học là phải tìm ra
nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để
giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải tìm
trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc
con người, tách rời với thế giới hiện thực.

- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của
một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ
xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối
với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta
cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên

22
nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động
của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho
nguyên nhân có tác động tích cực đến họt động và hạn chế sự hoạt
động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.

- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn
chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo
điều kiện thức đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.

Như vậy, Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả đã được
chúng tôi trình bày chi tiết trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng
tôi cũng trình bày một số nội dung liên quan đến ý nghĩa mối quan hệ
của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.

Câu 8, Nội dung quy luật lượng chất. Liên hệ với bản thân trong học tập và cuộc
sống?

Trả lời:

 Nội dung quy luật lượng chất:


Quy luật lượng - chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học
Mác - Lênin, chỉ cách thức của sự vận động, phát triển, theo đó sự phát
triển được tiến hành theo cách thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn
đến chuyển hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái
phát triển tiếp theo.
- Chất:
+ Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc
tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện
tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự

23
vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính
chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.

+ Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do
những thuộc tính, những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự
vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật.
Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được
hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những
thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua
sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.

+ Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu
hiện một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và
sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực
khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất
nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính
của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất
của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản.

+ Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật.
Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự
vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay
mất đi. Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ
thể với các sự vật khác. Sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ
bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùy
theo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy định bởi chất
của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự
vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại
khác nhau.

24
+ Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ
có ý nghĩa tương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn
chất. Chất và sự vật không tách rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự
vật tồn tại với tính quy định về chất của nó. Chất biểu hiện trạng thái
tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp tương đối trọn vẹn, hoàn
chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật này không
hòa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn
liền với lượng của sự vật.
- Lượng:
+ Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự
vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các
thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có
của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật không phụ thuộc
vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước
dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao
hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…
+ Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn
vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một
giây hay một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với
một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị
dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một
người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong
những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự
vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng
nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của
sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật). Bản thân lượng
không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà
thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật, đó là
mặt không ổn định của sự vật.

25
 Liên hệ với bản thân trong học tập và cuộc sống:
Rút ra bài học thực tế: Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có thể
thay đổi về chất, tránh tư tưởng nóng vội chưa tích lũy đủ về lượng đã
muốn thay đổi về chất (chưa học xong đã muốn đi làm công việc mình
đang học) hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng nhưng lại
không muốn thay đổi về chất (học xong rồi nhưng lại không muốn đi
làm).

Câu 9, Nội dung quy luật mâu thuẫn. Phương pháp giải quyết mâu thuẫn đối
kháng và không đối kháng hiện nay ở nước ta?

Trả lời:

 Nội dung quy luật mâu thuẫn:


Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt
đối lập, từ đó tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự
thống nhất và đấu tranh từ các mặt đối lập tạo ra xung lực nội của sự
vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế bưởi cái mới.
- Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất, đấu
tranh
+ Mặt đối lập: Mạt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc
điểm, những tính quy định mà có khuynh hướng biến đổi trái ngược,
tồn tại theo khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã hội.

Ví dụ:Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt
động ăn và hoạt động bài tiết.

Đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.

+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà
mặt đối lập liên hệ, chúng có tác động qua lại với nhau, theo đó mâu
thuẫn biện chứng được tồn tại một cách khách quan, phổ biến ở trong

26
xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong mâu thuẫn biện chứng tư duy có sự
phản ánh mâu thuẫn đối với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận thức.

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:

Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại
nhưng không tách rời với nhau của các mạt đối lập, tự tồn tại đó phải
lấy sự tồn tại của mặt khác để làm tiền đề.

Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối
lập. Khi ở một mức độ nào đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.

Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang
nhau, đó chỉ là trạng thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng.

+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập

Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lợi với nhau theo xu
hướng là bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.

Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy
thuộc vào mối quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và
các mặt đối lập, tính chất.

- Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển


+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác
động khác nhau mặt đối lập

Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu
thuẫn biện chứng bao gồm sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối
lập.

27
Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của
mặt đối lập không tách rời nhau.

+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các
mặt đang tác động, làm mâu thuẫn phát triển.

Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản.
Tuy nhiên theo khuynh hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này
càng lớn lên và rộng dẫn ra đến khi nào trở thành đối lập.

Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự
chuyển hóa lẫn nhau và từ đó mâu thuận được giải quyết. Nhờ sự giải
quyết theo hướng này mà thể thống nhất mới sẽ thay thế thể thống nhất
cũ hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.

+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.

Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu
tranh, đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập thì không thể tách rời
khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện chứng.

Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay
đổi, đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi
và tính ổn định sự vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn gốc của phát triển và
vận động.

- Phân loại mâu thuẫn:


+ Nếu dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được
phân loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.

+ Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn
được chia làm mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.

28
+ Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai
đoạn nhất định thì mâu thuẫn phân loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu
thuẫn thứ yếu.

+ Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu thuẫn
đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
 Phương pháp giải quyết mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
hiện nay ở nước ta:
Những mâu thuẫn, xung đột xã hội, nguyên nhân và các giải pháp xử lý
trong thời gian vừa qua.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế -
xã hội, mâu thuẫn và xung đột xã hội đang có chiều hướng gia tăng trên
rất nhiều lĩnh vực, tính chất của các xung đột xã hội cũng ngày càng
phức tạp. Ngoài ra, cuộc sống nhiều áp lực, căng thẳng khiến con người
dễ bị tổn thương về mặt tâm lý, bị ức chế, dễ dẫn đến xung đột xã hội:

1. Trong lĩnh vực kinh tế: tranh chấp đất đai (giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với tập thể, giữa cá nhân với các cơ quan quản lý nhà
nước, giữa các cộng đồng, nhóm người với nhau về giải tỏa, đền bù);
tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia tài sản, . . . .

2. Trong lĩnh vực xã hội: chính sách, chế độ xã hội và thực hiện chính
sách. Những xung đột này thường xảy ra giữa các cá nhân, các nhóm
dân cư, các nhóm xã hội với các cơ quan thực thi chính sách, pháp luật
ở địa phương. Sự đòi hỏi của người dân không được giải quyết một
cách thỏa đáng các vấn đề của mình cũng có thể dẫn tới xung đột xã
hội.

29
3. Trong lĩnh vực y tế (giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ,
với cơ quan y tế). Nhiều xung đột cũng xảy ra giữa các cộng đồng dân
cư (làng, xóm, dòng họ…) với các cơ quan thực thi quyền lực.

4. Trong lĩnh vực giao thông, xung đột xảy ra khá phổ biến, nhất là ở
các đô thị lớn (do mật độ giao thông đông, người sử dụng phương tiện
giao thông chưa có ý thức, văn hóa thấp kém của người tham gia giao
thông, tình trạng tắc đường); thu phí BOT; đền bù giải phóng mặt bằng,
...

5. Trong lĩnh vực giáo dục: dạy thêm học thêm; các khoản phí; trường
công trường tư; chi phí và chất lượng; chất lượng và bằng cấp;

6. Trong lĩnh vực văn hóa, các xung đột diễn ra trong các lễ hội (như lễ
hội đền Trần, lễ hội đền Gióng…). Những vụ việc tranh chấp, xô xát
liên quan đến các di tích lịch sử văn hóa, cơ sở thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo không phải là ít.

7. Trong lĩnh vực tôn giáo: tranh chấp về đất đai, xây dựng cơ sở thờ
tự, truyền đạo trái pháp luật, vi phạm luật pháp hiện hành về tôn giáo,
chứ không phải do nguyên nhân xung đột về niềm tin tôn giáo.

8. Trong lĩnh vực môi trường: xung đột giữa các cộng đồng dân cư với
các công ty, doanh nghiệp hủy hoại môi trường. Trong thời gian tới,
dưới tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, các thảm họa
môi trường, thảm họa do thiên tai mang lại sẽ có nhiều hơn các cuộc
xung đột xã hội trong lĩnh vực môi trường.

9. Trong gia đình: xung đột giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái,
giữa các anh chị em. Những xung đột xã hội ở cấp độ cá nhân, gia đình
đang ngày càng mở rộng và phức tạp.

30
10. Trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao
động: tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể liên
quan đến HĐLĐ, tiền công, thời gian làm thêm, điều kiện lao động,
BHXH, phúc lợi xã hội; vấn đề đình công.

Có thể thấy các mâu thuẫn và xung đột ở nước ta đều liên quan đến
quyền và lợi ích của các bên. Trình độ nhận thức của người dân được
nâng cao, thông tin được minh bạch hơn, Nhà nước tăng cường và đẩy
mạnh dân chủ, người dân ngày càng phát huy vai trò làm chủ của mình,
tham gia nhiều hơn vào quá trình giám sát xã hội, phản biện xã hội
cũng làm lộ ra nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội.

Đặc biệt, những xung đột xã hội có nội dung đấu tranh, đòi hỏi về dân
chủ, công khai, công bằng trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ và
chống quan liêu, tham nhũng, làm sai chính sách, pháp luật của một bộ
phận cán bộ trong các tổ chức Đảng, chính quyền có chiều hướng tăng.

3. Nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội

1. Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế (xuất hiện nhiều hơn với mức
độ, quy mô khác nhau, tính chất khác nhau) đã dẫn đến những xung đột
xã hội không thể tránh khỏi. Đây là nguyên nhân phổ biến của các xung
đột xã hội ở nước ta thời gian gần đây.

2. Sự biến đổi về mặt xã hội như tình trạng phân tầng xã hội, phân hóa
giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội, sự gia
tăng quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa đã phá vỡ những cấu trúc xã hội
truyền thống (như cấu trúc làng, xã, cấu trúc gia đình…) cũng là
nguyên nhân gây nên xung đột xã hội. Tâm lý xã hội khủng hoảng, bức
xúc xã hội, các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đạo đức xuống cấp,
lối sống thực dụng, chủ nghĩa khủng bố.

31
3. Môi trường tự nhiên (như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá rừng) cũng chứa đựng những mầm
mống gây xung đột xã hội.

4. Một số chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai, kinh doanh, lao
động, an sinh xã hội, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người
dân chưa được đồng bộ, nhất quán, còn bất cập, gây bức xúc trong
cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.

5. Thiếu hệ thống các chuẩn mực đạo đức dể làm thước đo: đạo đức
công vụ; đạo đức trong chính trị; đạo đức trong kinh doanh; chuẩn mực
ứng xử trong gia đình, cơ quan, xã hội để giáo dục và xử lý các mẫu
thuẫn xã hội.

6. Một số cuộc xung đột xã hội còn có sự tham gia, xúi giục, tổ chức
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, tìm cách kích động biểu
tình, bạo loạn, tạo cớ gây xung đột xã hội để can thiệp.

7. Cách thức giải quyết mâu thuẫn và xung đột

- Sự yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự
thoái hóa biến chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình
trạng chính quyền quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; cách giải quyết những đòi
hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình, không hợp lý,
không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự bất cập trong việc thực thi
pháp luật, . . .

- Hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Thực hiện truy tố
quan hệ kinh tế, dân sự không đúng bản chất khách quan của hành vi,
đã xảy ra trên khắp cả nước như vụ chủ quán cà phê Xin Chào Nguyễn

32
Văn Tấn ở TP.HCM, doanh nhân Hoàng Minh Tiến (Hà Nội), Phùng
Thị Thu (Thái Bình), Nguyễn Văn Lượng (Nam Định),... bị "khép" các
tội danh trốn thuế, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản oan
khuất, gây hoang mang, sợ hãi trong không chỉ giới doanh nghiệp. Việc
hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế tại Ngân hàng Nam Á (Nam A
Bank) tại TP.HCM.

- Cách tiếp cận không hợp lý như giải quyết đình công tại các doanh
nghiệp (hành chính thay vì thương lượng); cai nghiện ma túy (tội phạm
hay con bệnh); người trực tiếp xử lý thiếu chuyên nghiệp, thiếu hểu
biết, . . . dẫn đến một tỷ lệ lớn mâu thuẫn, xung đột chỉ được giải quyết
phần nào (chủ yếu là phần ngọn) chứ không giải quyết được triệt để,
điều này đã tạo ra những nhân tố gây mất ổn định xã hội. Ngoài ra, vai
trò của các tổ chức đoàn thể trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã
hội còn rất hạn chế.

4. Giải pháp giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội
trong giai đoạn mới.

Khi nói đến giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội, tức là nói đến vai
trò quyết định của nhà nước, của chính quyền; sự tham gia của các tổ
chức xã hội chỉ có vai trò hỗ trợ.

- Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều có nguyên nhân gốc rễ, do đó
các mâu thuẫn và xung đột xã hội chỉ có thể được giải quyết triệt để khi
xử lý được vấn đề gốc rễ của nó. Điều này đòi hỏi phải có cách tiếp
cận, phương pháp và bộ công cụ giải quyết phù hợp với từng loại mâu
thuẫn và xung đột xã hội cụ thể;

- Cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực hành rộng
rãi và quy phạm pháp lý chặt chẽ được tôn trọng, đồng thời nâng cao

33
năng lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực thi
những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.

- Yếu tố con người. Cần thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong chính
trị, văn hóa trong kinh tế và đảm bảo thượng tôn luật pháp. Xây dựng
đạo đức và pháp luật trong sự thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc. -
Thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội trong giải
quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội.

- Cần xây dựng hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện xung đột lợi
ích hiệu quả, tránh chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tập thể. Quy định
trách nhiệm cá nhân khi xử lý các mâu thẫn và xung đột xã hội.

- Không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự.

- Cần làm tốt công tác dự báo nguy cơ xuất hiện xung đột xã hội để sớm
hóa giải những mầm mống gây xung đột xã hội.

Câu 10, Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với lý luận? Ý nghĩa phương pháp
luận đối với trong học tập và cuộc sống của bản thân?

Trả lời:

 Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Khái niệm thực tiễn: là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch
sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Có 3 dạng hoạt động thực tiến:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức hoạt động thực tiễn
đầu tiên nguyên thủy nhất, cơ bản nhất đóng vai trò quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người và chi phối các dạng hoạt động
khác.
+ Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội, nhằm cải biến những mối quan hệ trong
xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
34
+ Hoạt động quan sát thực nghiệm khoa học: Đây là hoạt động được
tiến hành trong điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lập lại
những trạng thái tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến
đổi và phát triển của các đối tượng nghiên cứu.
- Vai trò thực tiễn đối với nhận thức:
Có 3 vai trò
+ Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức: Cơ sở: Thực tiễn vừa là
nền tảng của nhận thức cung cấp tài liệu của hiện thực khách quan để
con người nhận thức vừa thúc đẩy nhận thức phát triển. Qua hoạt động
thực tiễn con người làm chi sự vật bộc lộ những thuộc tính những mối
liên hệ trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Thông qua hoạt động
thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện làm
cho khả năng nhận thức ngày càng cao. Thông qua hoạt động thực tiễn
con người tạo ra các phương tiện ngày càng tinh vi hiện đại hộ trỡ con
người trong quá trình nhận thức từ đó hình thành các lý thuyết khoa
học.
+ Động lực: Chính là yêu cầu của thực tiễn sản xuất vật chất và cải tạo
xã hội buộc con người phải nhận thức thế giới, nhu cầu nhận thức của
con người là vô hạn nhưng qua hoạt động thực tiễn con người lại bộc lộ
mâu thuẫn giữa nhận thức có hạn của mình với sự vận động phát triển.
không ngừng của thế giới khách quan từ đó thúc đẩy con người người
nhận thức. Chính thực tiễn thúc đẩy sự ra đời mạnh mẽ các ngành khoa
học tự nhiên và các ngành xã hội.

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích cuối cùng của nhận
thức là giúp con người trong hoạt động biến đổi thế giới cải tạo hiện
thực khách quan nhằm phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con
người và xã hội loài người.

+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Qua thực tiễn kiểm nghiệm của
nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực
tiễn, chính thực tiễn là tiêu chuẩn là thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức. Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn một

35
cách biện chứng tiêu chuẩn này vừa có tính tương đối vừa có tính tuyệt
đối. Tính tuyệt đối ở chỗ thực tiễn là cái duy nhất là tiêu chuẩn khách
quan để kiểm nghiệm chân lý ngoài ra không có cái nào khác suy cho
cùng chỉ có thực tiễn mới có khả năng xác định cái đúng bác bỏ cái sai
ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác định được chân lý. Tính tương đối ở
chỗ thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái đúng bác bỏ
cái sai 1 cách tức thì hơn nữa bản chất hiện thực luôn vận động phát
triển liên tục, thực tiễn có thể phù hợp ở giai đoạn lịch sử này nhưng
không phù hợp ở giai đoạn khác.

- Ý nghĩa:

+ Nhờ có thực tiễn mà bản chất của nhận thức được làm rõ, thực tiễn là
cơ sở động lực mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý cho
nên mọi nhận thức đều xuất phát từ thực tiễn.
+ Phải thường xuyên quán triệt những quan điểm thực tiễn luôn đi sâu
đi sát thực tiễn tiến hành nghiên cứu tổng kết thực tiễn một cách
nghiêm túc.
+Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta
tránh khỏi những chủ quan sai lầm như chủ nghĩa chủ quan, giáo điều
bảo thủ, CN tương đối, chủ nghĩa xem lại.
 Ý nghĩa phương pháp luận đối với trong học tập và cuộc sống của
bản thân:
Việc nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên là vấn đề quan trọng trong
tình hình hiện nay, giúp sinh viên có tư duy khoa học trong quá trình
học tập và làm việc sau này. Cần xác định, hiểu rõ nội dung phương
pháp luận biện chứng duy vật; xác định vấn đề cần giải quyết để chọn
đúng phương pháp, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn; là cơ sở
quan trọng để xây dựng năng lực tư duy, nhận thức và giải quyết các
vấn đề thực tiễn đặt ra một cách đúng đắn.

Văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng xác định:“Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một

36
trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”
[3, tr.41]; “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của
giáo dục theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học” [4, tr.115]. Đối với sinh viên, việc học tập phương pháp luận duy
vật biện chứng ngay từ năm thứ nhất phải được đặc biệt chú trọng.

- Vai trò năng lực tư duy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người nói chung, của sinh viên nói riêng
Khi khẳng định vai trò của tư duy (ý thức) đối với nhận thức và cải tạo
thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ
phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan” [8, tr.
228]. Điều này cho thấy, một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con
người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác,
thông qua hoạt động thực tiễn, con người có thể cải biến hiện thực
khách quan theo những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng định
tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng đối
với cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn.
Năng lực tư duy biện chứng sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong quá
trình học tập cũng như công tác sau này:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư duy
biện chứng sẽ giúp sinh viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng,
sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng
đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa
ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không
còn phải học vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và
sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ…
- Nội dung cơ bản rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho
sinh viên:

37
Sinh viên có rèn luyện năng lực tư duy qua nhiều môn học, nhưng cơ
bản và nền tảng là rèn luyện phương pháp luận biện chứng trong môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần 1).
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm: Hai nguyên lý
cơ bản của phép biện chứng duy vật; Các cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật; Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật;
Lý luận nhận thức duy vật biện chứng [1, tr.61-124]. Từ những nội
dung này, sinh viên phải biết phương pháp luận được rút ra là gì để vận
dụng trong cuộc sống, lao động, học tập của sinh viên. Do đó, rèn
luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên là rèn luyện
các nội dung cơ bản sau:
Một là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm toàn diện trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện đòi hỏi sinh viên nhận
thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện
tượng phải đặt trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác.
Trong hoạt động thực tế, sinh viên phải sử dụng đồng bộ các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động vào đối tượng nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất. Mặt khác, chúng ta cần giúp cho sinh viên có thể
nhận diện và phê phán quan điểm phiến diện, quan điểm chiết trung,
ngụy biện.
Hai là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm lịch sử – cụ thể trong
nhận thức và hành động. Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi sinh viên
trong nhận thức và xử lý các tình huống, giải thích các hiện tượng cần
phải xét đến tính đặc thù của đối tượng nhận thức. Khi nhận thức sự vật
và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể,
môi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra, tồn tại, phát triển. Phải
xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của từng mối liên hệ cụ thể, trong
tình huống cụ thể.
Ba là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận thức
và trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi sinh viên

38
không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại của sự vật, mà còn phải thấy rõ
khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi,
khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh
co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó.
Sinh viên phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành từng
giai đoạn, từ đó có cách tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển.
Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong nhận thức và hành động.
Bốn là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu
phương pháp luận rút ra từ các cặp phạm trù cơ bản của phép biện
chứng duy vật: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất
nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng,
khả năng và hiện thực.
Năm là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu những
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Với quy luật chuyển hoá
từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên trong nhận thức và
hành động phải biết đi từ những tích luỹ về lượng để làm biến đổi về
chất, cách thức tích lũy về lượng (tăng về số lượng, thay đổi cách sắp
xếp các yếu tố cấu thành, hay cả hai), phải có quyết tâm để tiến hành
bước nhảy thông qua vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy.
Cần khắc phục hai tư tưởng trái ngược nhau là tư tưởng tả khuynh (nôn
nóng, bất chấp quy luật, chủ quan duy ý chí) và tư tưởng hữu khuynh
(bảo thủ, trì trệ). Với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên hiểu sâu sắc rằng, để nhận
thức đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng và tìm ra phương hướng,
giải pháp hiệu quả thì phải nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự
vật; phải xem xét sự vật trong thể thống nhất những mặt (nét tương
đồng), những khuynh hướng trái ngược nhau, tìm ra những mặt đối lập
và những mối liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập
đó; phải biết phân loại mâu thuẫn để đưa ra phương pháp đấu tranh cho

39
phù hợp (tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu
thuẫn để thúc đẩy sự vật phát triển). Đối với quy luật phủ định của phủ
định, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật là đường “xoáy ốc”, hiểu rõ quá trình phát
triển của sự vật không phải lúc nào cũng đi theo đường thẳng, mà nhiều
khi diễn ra quanh co, phức tạp, bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau và ở
mỗi chu kỳ này, sự vật có những đặc điểm riêng biệt, nên phải có cách
tác động phù hợp, phải biết ủng hộ cái mới, đồng thời kế thừa có chọn
lọc những cái vốn có tinh hoa của cái cũ…
Sáu là, rèn luyện phương pháp biện chứng cho sinh viên nghiên cứu nội
dung Lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Cần rèn luyên sinh viên
nắm vững quan điểm thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều. Nhận
thức là một quá trình, lặp đi lặp lại không có điểm dừng: từ thực tiễn
tới nhận thức – từ nhận thức lại trở về thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục
quá trình nhận thức và loài người càng tiến dần đến chân lý. Sinh viên
phải nhận thức được chân lý là khách quan, chống những quan điểm
chủ quan cho rằng chân lý là thuộc về kẻ mạnh, chân lý thuộc về đa số,
chân lý là lý lẽ hợp lý, chân lý gắn với lợi ích…; phê phán chủ nghĩa
tuyệt đối và chủ nghĩa tương đối, cần xác định chân lý vừa mang tính
tương đối, vừa mang tính tuyệt đối và chân lý là cụ thể. Theo Lênin:
bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể ở mỗi
tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội
dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất
định [7, tr. 364].
Phương pháp luận biện chứng phải được xét trên lập trường duy vật,
nên phải chú ý phần thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
- Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nâng cao năng lực
tư duy cho sinh viên
+ Thứ nhất: Trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện chứng
duy vật cho sinh viên. Cần tập trung cho sinh viên nắm vững phương

40
pháp luận được rút ra từ lý luận phép biện chứng duy vật: quan điểm
toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm
thực tiễn; phương pháp luận được rút ra từ các cặp phạm trù, các quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật… Trong quá trình giảng dạy
cần so sánh, phân tích lý luận, nêu vấn đề cho sinh viên giải quyết, sau
đó kết luận. Chẳng hạn: Vì sao sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy
ốc” mà không theo đường thẳng hoặc theo vòng tròn khép kín? Cần
đưa ra những cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy để chứng
minh.
+ Thứ hai: Luyện tập cho sinh viên các phương pháp biện chứng thông
qua thực tiễn cách mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi không ngừng….
Ví dụ: Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn lãnh
đạo cách mạng Việt Nam như thế nào?
Sinh viên có thể chỉ ra sự vận dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật như thế nào qua câu nói của Hồ Chí Minh: “… Nhận xét cán bộ
không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ
cả toàn bộ công việc của cán bộ” [5, tr.479]; “Có kinh nghiệm mà
không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [6, tr.234]; hay
tìm những câu thơ, tục ngữ, ca dao, danh ngôn phản ánh tư tưởng triết
học duy vật biện chứng.
Cho một ví dụ trong thực tiễn để làm rõ sự vận động, phát triển của sự
vật chịu tác động đồng thời cả ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật…
+ Thứ ba: Định hướng cho sinh viên có ý thức tự vận dụng phương
pháp luận biện chứng trong quá trình học tập, trong cuộc sống bản
thân. Muốn nâng cao năng lực tư duy sinh viên cần nắm vững, áp dụng
triệt để phương pháp luận biện chứng duy vật trong nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích
một hiện tượng hóa học, vật lý…; Vận dụng quan điểm toàn diện, quan
điểm lịch sử – cụ thể trong quá trình học tập của bản thân. Trong quy
luật phủ định của phủ định có thể định hướng cho sinh viên vận dụng
tính kế thừa của phủ định biện chứng trong cuộc sống, học tập của sinh

41
viên; Hoặc bản thân sinh viên cần kế thừa như thế nào về truyền thống
văn hóa dân tộc? Dựa vào phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên
nhân và kết quả để rèn luyện đạo đức bản thân. Sinh viên phải nhận
thức được bất cứ kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó sinh
viên có ý thức làm việc thiện, tránh việc ác. Luyện tập cho sinh viên
biết vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật vào trong thực
tiễn, cuộc sống thông qua những vấn đề: Hãy vận dụng phương pháp
luận rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào
lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
+ Thứ tư: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá phương pháp biện chứng
cho sinh viên. Có thể kiểm tra bài tập về nhà thông qua thảo luận
nhóm, kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi ngắn, bài tập trắc nghiệm, hay
giải thích một hiện tượng nào đó trong cuộc sống. Ví dụ: Giải thích có
hiện tượng học giỏi mà thi rớt đại học trên cơ sở lý luận phép biện
chứng duy vật? Hoặc, hãy dựa vào quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử – cụ thể để phân tích nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
Tóm lại, để nâng cao năng lực tư duy của sinh viên thông qua rèn luyện
phương pháp biện chứng duy vật, giảng viên cần xác định trọng tâm,
nắm vững nội dung và phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn, thường xuyên kiểm tra sinh viên dưới nhiều hình
thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện
phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng
vào việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực
tư duy biện chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm
việc một cách khoa học của họ sau này.

Câu 11, Trình bày nội dung quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất? Sự vận dụng quy luật trên trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Trả lời:

42
 Nội dung quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp
- Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế – chính trị năm 1859
C.Mác viết “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người
ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ,
tức những quan hệ sản xuất. Những quy luật này phù hợp với một trình
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật
chất của họ…” Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng
về “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất”.
- Cho đến nay hầu như quy luật này đã được khẳng định cũng như các
nhà nghiên cứu triết học Mác xít. Khái niệm “phù hợp” được hiểu với
nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp quy luật, không phù hợp là không
tốt, là trái quy luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ
“phù hợp” này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng
thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan
hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những
mối lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa
hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất
hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý
nghĩa sau.
+ Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay “sự yên
tính” giữa các mặt.
+ Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt
tới.
- Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân
bằng là tuyệt đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát
triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách
khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định.

43
Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như
một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động.
Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng
không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự
phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự
vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng
nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính
vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
- Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát
triển lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện
đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến
nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển
của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng
trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù
hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự
nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa
chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận
động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn
mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta
hiểu được sự vận động của quy luật kinh tế.
 Sự vận dụng quy luật trên trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam hiện nay:
- Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định: “Thực hiện
nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính
sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi
lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp
luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa

44
hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở
bình đẳng trước pháp luật”.
- Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể 30 năm qua đất
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có thành tựu về nhận thức
và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực
lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để
phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang
càng là một yêu cầu cấp thiết.
Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục
thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng
thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa Việt nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”; thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực
phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp
với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực
của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội

45
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản
xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp
thu những thành tựu về khoa học và công nghệ, về kinh tế tri thức. Xây
dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển
bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ
máy quản lý nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực
thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương.
Tóm lại, có thể khẳng định công cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày
càng nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều
kiện thực tiễn Việt Nam.

Câu 12, Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng? Sự vận dụng quy luật trên trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện
nay.

Trả lời:

 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
- Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp
thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
- Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư
cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội

46
cụ thể bao gồm những CSHT thống trị, những QHSX tàn dư của xã hội
trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT
có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao
giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các
kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng
chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng
giai cấp, tính giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy
định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung
đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT.

- Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã
hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

- KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể
chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại;
quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một
hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là
nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về
mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai
cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.

 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng


tầng

- Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ
thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ
tầng giữ vai trò quyết định.

1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng
tầng

47
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm
địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống
tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng
chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất
mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.

Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng
tầng: nhà nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều
không thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.

Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến
sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra
trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái
kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Sự biến mất của một
kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu
tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế
của nó đã bị tiêu diệt. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được
giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.

Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này
sang hình thái kinh tế-xã hội khác.

2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy
trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự
thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh
tế.

48
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc
biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không
chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để
tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo
lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ
phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông
qua nhà nước, pháp luật.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến
bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu
của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây
tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là
tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.

 Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng ở nước ta hiện nay:
- Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng
tầng thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không
có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập
nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác
tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao
động, không còn chế độ bóc lột.

- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp
nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế
nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau.
Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn
hoá.

49
- Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một
quá trình mang tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở
nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân,
cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác
nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất

- Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã
hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà
nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng
bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo
hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí
nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình
phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò,
chức năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho
nhau.

- Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này,
nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và
giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan trọng nhất nhằm từng
bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng
kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản
xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ
phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi
tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.

50
- Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của
toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế
độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập,
lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà
nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh
đạo”.

Câu 13, Học thuyết hình thái kinh tế xã hội? Vận dụng học thuyết hình thái kinh
tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Trả lời:

 Học thuyết hình thái kinh tế xã hội:


A. Sản xuất vật chất – nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội
Trên ý nghĩa bao quát nhất, khái niệm xã hội dùng để chỉ những cộng
đồng người trong lịch sử; đó là những cộng đồng người có tổ chức nhằm
thực hiện các mối quan hệ giữa con người với con người trên tất cả các
mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức, tôn giáo...
Hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của nhân loại là cộng đồng thị tộc,
bộ lạc với hình thức tổ chức cơ cấu xã hội giản dị nhất. Sự tiến hoá hơn
nữa của lịch sử đã dẫn tới sự hình thành cơ cấu của cộng đồng bộ tộc và
tiến dần lên hình thức xã hội có cơ cấu tổ chức cao hơn là hình thức tổ
chức quốc gia - dân tộc. Ngày nay, do nhu cầu mới của lịch sử trong thời
đại mới đã bắt đầu xuất hiện những hình thức tổ chức liên minh rộng lớn
giữa các quốc gia - dân tộc thành các hình thức xã hội ở phạm vi khu vực
và quốc tế.

51
Trong bất cứ hình thức tổ chức của cộng đồng xã hội nào, dù đơn giản
nhất cũng có sự thống nhất của ba quá trình sản xuất: sản xuất vật chất,
sản xuất tinh thần, sản xuất và tái sản xuất ra con người cùng những quan
hệ xã hội của nó. Sản xuất vật chất là quá trình liên kết con người dưới
các hình thức tổ chức xã hội nhất định nhằm thực hiện mục đích cải biến
môi trường tự nhiên, làm biến đổi các đối tượng vật chất tự nhiên theo
nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Sản xuất tinh thần là quá
trình hoạt động nhằm sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần trên tất cả
các lĩnh vực của xã hội, từ những giá trị tri thức cho tới những giá trị văn
hoá nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, triết học... Cùng với những quá trình
sản xuất ấy là quá trình sản xuất và không ngừng tái sản xuất ra chính
bản thân con người và các quan hệ xã hội của họ trên hai mặt tự nhiên và
xã hội của con người. Ba loại hình sản xuất đó luôn luôn tồn tại trong
tính quy định, chi phổi và làm biến đổi lẫn nhau tạo nên tính chất sống
động của đời sống xã hội, trơng đó sản xuất vật chất giũ vai trò quyết
định.
Tính quyết định của sản xuất vật chất đối với toàn bộ đời sống xã hội
xuất phát từ tiền đề khách quan là: “người ta phải có khả năng sống đã rồi
mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần
phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như
vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn
những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” . Sự thật
khách quan đó cũng cho thấy: tiền đề xuất phát để nghiên cứu về lịch sử
con người và lịch sử nhân loại phải được bắt đầu từ việc nghiên cứu về
hành vi lao động sản xuất vật chất của con người. Mác khẳng định: “Bản
thản con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình” . Với ý nghĩa đó, có
thể khẳng định phương thức đặc trưng cho sự sinh tồn và phát triển của
con người là hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Phương
thức ấy là cái phân biệt căn bản giữa con người và động vật, khiến cho nó
trở thành con người và tự mình làm ra lịch sử của chính mình.

52
Lao động sản xuất vật chất là hoạt động của con người với mục đích cải
biến các đối tượng vật chất tự nhiên, cải biến giới tự nhiên. Hoạt động đó
không thể là những hành vi độc lập của mỗi con người đơn lẻ mà nhất
định phải trên cơ sở liên kết những cá nhân thành cộng đồng có tổ chức,
tức thành những cộng đồng xã hội nhất định theo yêu cầu tất yếu của việc
cải biến giới tự nhiên như thế nào, ở trình độ nào. Mác khẳng định:
“Trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta
không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào
đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất
được, người ta phải có mối quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của
họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn ra trong khuôn khổ
những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó” .
“Mối quan hệ nhất định với nhau” trong quá trình sản xuất ấy chính là
những quan hệ sản xuất hay những quan hệ kinh tế của xã hội; tức những
quan hệ liên kết giữa những con người nhằm thực hiện các lợi ích vật
chất có được nhờ quá trình sản xuất vật chất đó. Trên cơ sở những quan
hệ này, tất yếu làm nảy sinh tất cả những quan hệ xã hội khác giữa con
người với con người trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn
giáo... Sự nảy sinh những quan hệ ấy, suy đến cùng chỉ là sự phản ánh
nhu cầu tất yếu cần phải có để đảm bảo cho những quan hệ sản xuất có
thể được xác lập và thực, thi, nhờ đó quá trình sản xuất vật chất, tức cải
biến giới tự nhiên, mới có thể thực hiện được. Như vậy, những quan hệ
sản xuất của xã hội không phải là những quan hệ mang tính chủ quan; tuỳ
tiện mặc dù nó được thiết lập bởi chính con người, nó có thể mang những
hình thức đạo đức; tập tục như trong xã hội nguyên thủy hay những hình
thức pháp lí trong các xã hội được tổ chức theo hình thức nhà nước, mà là
những quan hệ có cơ sở khách quan của nó, tức có tính vật chất của nó,
từ nhu cầu khách quan của công việc sản xuất, từ trình độ kĩ thuật công
nghệ thực tế trong mỗi điều kiện lịch sử của công việc sản xuất ấy.
Cách tiếp cận duy vật về xã hội của Mác đã cho thấy: sản xuất vật chất
nhất định phải là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, là cơ sở cuối cùng
để giải thích mọi biến thiên của lịch sử; mọi sự biến đổi, phát triển của

53
các quan hệ xã hội giữa con người với con người, của sự phát triển từ
hình thức tổ chức xã hội này lên hình thức tổ chức xã hội cao hơn trong
lịch sử nhân loại. Phương pháp luận duy vật của Mác trong việc nghiên
cứu về xã hội và lịch sử cho thấy: lịch sử tiến hoá văn minh của nhân loại
có cơ sở quyết định từ lịch sử phát triển của trình độ văn minh trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội; do vậy cũng cần phải nghiên
cứu trình độ phát triển nói chung của xã hội, trên mọi lĩnh vực của nó, từ
trình độ phát triển thực tế của nền sản xuất vật chất ấy, mà suy đến cùng
thì trình độ phát triển ấy lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương
thức sản xuất - tức là những cách thức mà xã hội sử dụng để tiến hành
quá trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất vật chất đều được tiến hành theo những phương
thức nhất định trên hai mặt - đó là phương thức kĩ thuật, công nghệ của
quá trình sản xuất và phương thức tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất
ấy; trong đó, phương thức tổ chức kinh tế phụ thuộc tất yếu vào trình độ
phương thức kĩ thuật, công nghệ hiện có của xã hội. Như vậy, suy đến
cùng thì chính trình độ phát triển của phương thức kĩ thuật, công nghệ nói
riêng và trình độ phát triển nói chung của toàn bộ lực lượng sản xuất là
nhân tổ quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã
hội, và do đó nó cũng chính là nhân tố quyết định trình độ phát triển của
toàn bộ đời sống xã hội trên tất cả các mặt khác nhau của nó.
Có thể nhận rõ sự khác nhau căn bản giữa phương thức sản xuất của xã
hội nông nghiệp truyền thống (điển hình là phương thức sản xuất trong
các xã hội phong kiến thời trung cổ) và phương thức sản xuất công
nghiệp hiện đại (tiêu biểu trong các xã hội tư bản đương đại). Trong
phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống, phương thức tổ chức
kinh tế thường theo quy mô nhỏ với cách thức hoạt động tự sản - tự tiêu,
hay “tự cấp tự túc” mang tính chất quy trình khép kín của quá trình tái
sản xuất giản đơn. Cách thức tổ chức kinh tế ấy dựa trên tính chất sở hữu
tư nhân nhỏ đối với các tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất đó cũng như
lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất căn bản đều ở trình độ
thủ công, được tích luỹ bởi kinh nghiệm mang tính truyển thừa của

54
những người lao động trong phạm vi tương đối hẹp. Ngược lại, với
phương thức sản xuất đó, phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại mà
tiẽn thân của nó là phương thức sản xuất công nghiệp truyền thống tư bản
chủ nghĩa ra đời từ sau các cuộc cách mạng tư sản ở các nước Tây Âu
(thế ki XVIII). Trong phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại, cách
thức tổ chức kinh tế trong toàn xã hội (trong phạm vi một quốc gia hay
giữa các quốc gia liên minh) là phương thức tổ chức kinh té thị trường
hiện đại với sự tham gia là ba chủ thể kinh tế: tư nhân, các hộ gia đình và
nhà nước. Cách thức tổ chức kinh tế đó dựa trên sự kết hợp của nhiều loại
hình sở hữu các giá trị tư bản được vận hành trong các quá trình sản xuất
của xã hội. Về phương diện kĩ thuật công nghệ của quá trình sản xuất,
phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại căn bản dựa trên trình độ phát
triển của kỹ thuật, công nghệ cao, công nghệ hiện đại trong quá trình sản
xuất. Vì thế, phương thức sản xuất này cũng được gọi là “phương thức
công nghiệp - thị trường hiện đại”, tức là sự thống nhất của hai mặt của
phương thức sản xuất vật chất của các xã hội đã đạt được trình độ tiên
tiến từ khoảng nửa cuối thế kỉ XX đến nay.
Tương ứng với quá trình chuyển từ phương thức sản xuất nông nghiệp
truyền thống sang phương thức sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi
và cách mạng của hàng loạt các quan hệ giữa con người với con người
trên các lĩnh vực tổ chức chính trị, pháp luật, văn hoá, đạo đức, tôn giáo...
Đúng như Mác nhận định: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật
chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của
một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát
triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và
thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta” .
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất trong
nền sản xuất vật chất, cũng do đó nó quyết định trình độ phát triển của
toàn bộ đời sống xã hội và sự vận động phát triển của toàn bộ lịch sử
nhân loại, Mác đã tiến hành phác hoạ lịch sử phát triển của xã hội loài
người qua lịch sử phát triển, thay thế lẫn nhau của các phương thức sản
xuất từ trình độ tháp đến cao. Theo tư tưởng của Mác trong tác phẩm

55
Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (xuất bản năm 1859), thì về đại
thể, có thể coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư
sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của các hình thái kinh tế
- xã hội.
Khái niệm “phương thức sản xuất châu Á” là khái niệm được Mác sử
dụng để chỉ một loại hình phương thức sản xuất đặc biệt mang tính quá
độ từ phương thức sản xuất nguyên thủy lên phương thức sản xuất cao
hơn đã tồn tại kéo dài trong lịch sử các xã hội thuộc phương Đông vùng
châu Á mà hình thức tiêu biểu của nó là mô hình tổ chức “công xã nông
thôn” ở Ấn Độ, trong đó tính chất “sở hữu kép” về ruộng đất - tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội nông nghiệp dựa trên trình độ lao động thủ công
chưa phát triển - được Mác coi là “chiếc chìa khoá” để nghiên cứu
“những bí mật” của xã hội Ấn Độ nói riêng và các xã hội vùng phương
Đông châu Á nói chung.

B. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất -
quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất
trong lịch sử.

Bất cứ một quá trình sản xuất, vật chất nào cũng diễn ra với sự tồn tại
“song trùng” của hai mối quan hệ cơ bản, đó là: mối quan hệ giữa con
người với giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với nhau. Khái
niệm lực lượng sản xuất và khái niệm quan hệ sản xuất phản ánh hai mối
quan hệ song trùng ấy, trong đó khái niệm lực lượng sản xuất phản ánh
trình độ con người chinh phục giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, còn
khái niệm quan hệ sản xuất phản ánh sự liên kết giữa những con người
theo yêu cầu khách quan của sự chinh phục giới tự nhiên ở một trình độ
phát triển nhất định.
- Khái niệm “lực lượng sản xuất” phản ánh mối quan hệ giữa con người
với giới tự nhiên, biểu hiện trình độ con người chinh phục tự nhiên trong
quá trình sản xuất vật chất. Đó là mối quan hệ vật chất giữa con người
với giới tự nhiên. Mối quan hệ đó được thực hiện thông qua quá trình lao

56
động sản xuất vật chất, con người cải biến giới tự nhiên bằng sức mạnh
thực tiễn. Vì vậy xét về thực chất, khái niệm “lực lượng sản xuất” dùng
để chỉ năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Năng lực
đó được tạo ra trong đời sống hiện thực bằng sự kết hợp giữa sức lao
động (sức lực vật chất và tinh thần - đặc biệt là yếu tố tri thức) của con
người với những tư liệu sản xuất trong quá trình lao động của họ.
Do đó, có thể định nghĩa vắn tắt: Lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu
tố vật chất và tinh thần của con người, tạo thành năng lực thực tiễn cải
biến giới tự nhiên theo mục đích của quá trình sản xuất vật chất.
Trình độ phát triển của năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con
người, tức trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phụ thuộc vào các
yếu tố cơ bản sau đây:
Một là, trình độ phát triển của các tư liệu sản xuất; trong đó, trình độ phát
triển của công cụ lao động thể hiện tập trung trình độ phát triển của các
tư liệu sản xuất.
Hai là, trình độ phát triển của năng lực lao động thực tế của con người,
tức của sức lao động, bao gồm trong đó toàn bộ sức lực vật chất và sức
lực tinh thần (kĩ năng, kinh nghiệm...) của người lao động.
Ba là, phương thức kết hợp các yếu tố trong quá trình sản xuất. Cùng một
trình độ phát triển của tư liệu sản xuất và sức lao động của con người
nhưng phương thức phân công hợp tác phối kết hợp khác nhau có thể tạo
ra chất lượng, trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, do đó
trong thực tế chúng cũng có giá trị hiện thực khác nhau, thể hiện trình độ
nặng lực thực tiễn khác nhau trong quá trình sản xuất.
Trong các yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động (tức con người có
khả năng lao động được tạo nên bởi các yếu tố vật chất và tinh thần của
chính bản thân họ) thì nhân tố người lao động là yếu tố cơ bản nhất. Bởi
vì, suy đến cùng thì trình độ phát triển của tư liệu sản xuất chỉ là kết tinh
giá trị lao động của con người, là sản phẩm lao động của con người, phản
ánh trình độ lao động của con người; đổng thời, giá trị thực tế tạo nên
năng lực thực tiễn trong quá trình sản xuất phụ thuộc vào trình độ lao
động thực tế của người lao động khi họ sử dụng nhũng tư liệu đó.

57
Nếu xem xét quá trình lao động sản xuất không phải với tư cách trực
quan là quá trình lao động sản xuất đơn lẻ, riêng biệt của mỗi cá nhân độc
lập mà là tổng thể quá trình lao động của một xã hội thì các yếu tố tư liệu
sản xuất và người lao động cần phải được phân tích là tổng thể kết hợp
giữa các loại và trình độ phát triển của tư liệu sản xuất cũng như giữa các
loại và trình độ phát triển của người lao động trong tính toàn thể xã hội
của nó. Trong đó có sự kết hợp giữa các loại lao động phát triển ở những
trình độ khác nhau (lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trực
tiếp và gián tiếp...). Cách hiểu đó mới có thể cho thấy sự phát triểr của
lực lượng sản xuất của thời đại ngày nay.
Một trong những đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là có sự phát triển
hết sức nhanh chóng của các ngành khoa học tự nhiên gắn kết với các quá
trình phát minh sáng chế kĩ thuật mới, từ đó làm xuất hiện và phát triển
rất nhanh chóng của các ngành công nghệ cao như: công nghệ thông tin,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ... Các
ngành công nghệ đó ngày càng đóng vai trò then chốt, trụ cột trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất ở các nước có nền công nghiệp hiện đại.
Với sự phát triển đó, tất yếu đòi hỏi quá trình phát triển trình độ ngày
càng cao của người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại. Xu
hướng sử dụng trình độ lao động có đào tạo và được đào tạo ở trình độ
chuyên môn cao và theo chiều sâu của sự chuyên môn hoá để có thể thích
ứng với việc sử dụng sản phẩm kĩ thuật mới ngày càng được coi trọng,
thay thế dần cho trình độ lao động căn bản dựa trên những kĩ năng kinh
nghiệm lao động thông thường không cần trải qua quá trình đào tạo
chuyên sâu. Những sự phát triển đó của lực lượng sản xuất trong xã hội
công nghiệp hiện đại đã thể hiện khuynh hướng gắn kết ngày càng chặt
chẽ giữa hai quá trình sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, thể hiện
khuynh hướng khoa học kĩ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp mà Mác đã dự báo từ thế kỉ XIX. Biểu hiện cao nhất của quá
trình đó là sự ra đời và phát triển của các khu công nghệ cao, trong đó có
sự liên kết chặt chẽ giữa những nhà sản xuất và những nhà khoa học, các
tổ chức nghiên cứu khoa học, các trường đại học đào tạo nguổn nhân lực

58
có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu phát triển của nền công nghiệp
hiện đại.
Khuynh hướng phát triển của lực lượng sản xuất trong các xã hội công
nghiệp hiện đại cũng tất yếu thúc đẩy tiến trình “xã hội hoá của lực lượng
sản xuất mà biểu hiện tiêu biểu cho tiến trình đó là sự phụ thuộc tất yếu
ngày càng tăng về mặt trình độ phát triển của kĩ thuật, công nghệ được sử
dụng vào mỗi quá trình sản xuất công nghiệp. Sự tiến bộ về mặt kĩ thuật,
công nghệ của ngành sản xuất này tất yếu đòi hỏi phải có sự phát triển
tương ứng về mặt kĩ thuật, công nghệ của ngành khác, nhờ đó mới có thể
tạo ra sản phẩm toàn vẹn của quá trình sản xuất. Cũng do đó, sự thay thế
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ này bằng một trình
độ mới cao hơn giữa các ngành sản xuất diễn ra với một tốc độ và chu kì
đổi mới hết sức nhanh chóng không chỉ trong phạm vi nền sản xuất của
một quốc gia. Như vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở
ngành này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của ngành khác, trong đó
xét về tổng thể là mối quan hệ phụ thuộc về trình độ phát triển kĩ thuật -
công nghệ trong lực lượng sản xuất thuộc cơ cấu giữa ba ngành công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ không chỉ trong phạm vi mỗi quốc gia
riêng biệt.
- Khái niệm "quan hệ sản xuất ” dùng để khái quát mối quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của
một xã hội nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất chỉ có thể diễn ra được với
sự kết hợp của tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người,
trong đó mối quan hệ về mặt kĩ thuật, công nghệ mà nhờ đó có thể trực
tiếp làm biến đổi các đối tượng vật chất tự nhiên thuộc về “lực lượng sản
xuất”, còn mối quan hệ về mặt xã hội giữa con người với con người trong
quá trình đó thuộc về “quan hệ sản xuất”; trong đó, nội dung chính của
nó là mối quan hệ kinh tế, mặc dù mối quan hệ kinh tế nào trong xã hội
được tổ chức dưới hình thức nhà nước cũng cán có nội dung pháp lí để
đảm bảo tính thực thi của nó vón thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã
hội. Mối quan hệ kinh tế là mối quan hệ liên kết giữa con người với con

59
người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất nhằm mục đích thực hiện
lợi ích vật chất có được trong quá trình đó.
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa vắn tắt: Quan hệ sản xuất là mối
quan hệ kinh tế giữa con người với con người nảy sinh trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
quan hệ tổ chức - quản lí quá trình sản xuất và quan hệ phân phối kết quả
của quá trình sản xuất ấy. Ba mặt đó của quan hệ sản xuất có mối quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với nhau
trong việc xác định các tư liệu sản xuất thuộc về ai với nội dung cơ bản là
tập hợp của các quyền: chiếm hữu, sử dụng, mua bán, chuyển nhượng...
Tập hợp các quyền đó có thể mang một hình thức pháp lí nhất định được
bảo hộ bởi quyền lực quản lí của nhà nước hoặc theo thông lệ tập tục
truyển thống trong các xã hội chưa có sự ra đời của bộ máy nhà nước.
Xét theo tính chất cơ bản của sở hữu, trong lịch sử nhân loại đã từng tồn
tại hai loại quan hệ sở hữu, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu cộng đồng xã
hội về tư liệu sản xuất. Mỗi loại sở hữu đó lại có thể tồn tại với những
hình thức phù hợp với mỗi điều kiện lịch sử - cụ thể.
Trong các quốc gia có sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại có
sự tồn tại của nhiều loại hình sở hữu đan xen hỗn hợp tạo thành một hệ
thống cơ cấu sở hữu thống nhất trong tính đa dạng của nó: sở hữu tư
nhân, tư bản (quy mô lớn và nhỏ), sở hữu tư nhân của những người sản
xuất nhỏ, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp trong các tập
đoàn kinh tế, các công ty cổ phần...
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành quan hệ tổ chức -
quản lí quá trình sản xuất và quan hệ phân phối kết quả của quá trình đó.
Hai loại hình quan hệ này luôn có tác động trở lại quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất. Sự tác động đó có thể theo những chiều hướng khác nhau, tạo
những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với các quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất.

60
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ giữa nội dung vật chất và hình thức kinh tế của quá trình sản
xuất; đó cũng là mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập, trên cơ sở quyết định của lực lượng sản xuất, tạo thành nguốn gốc và
động lực cơ bản của quá trình vận động, phát triển các phương thức sản
xuất trong lịch sử. Đó cũng chính là nội dung cơ bản của quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” - quy
luật cơ bản nhất của qúa trình phát triển xã hội.
Thứ nhất, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai phương diện cơ bản, tất yếu của
mỗi phương thức sản xuất - mỗi quá trình sản xuất nhất định, do đó
chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau trong quá
trình sản xuất của xã hội. Nói cách khác, mỗi phương thức sản xuất hay
mỗi quá trình sản xuất không thể tiến hành được nếu như thiếu một trong
hai phương diện đó, trong đó lực lượng sản xuất chính là nội dung vật
chất, kĩ thuật, công nghệ của quá trình này, còn quan hệ sản xuất đóng
vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó. Mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ tất yếu giữa nội dung
vật chất và hình thức kinh tế của cùng một quá trình sản xuất khách quan
của xã hội. Thứ hai, vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuât Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quỵết định đối với quan hệ sản
xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất được thể hiện trên hai mặt thống nhất với nhau: lực
lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy và cũng do đó, khi lực lượng
sản xuất có những thay đổi thì cũng tất yếu sẽ đòi hỏi phải có những thay
đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất trên các phương diện sở hữu, tổ
chức - quản lí và phân phổi. Sự thay đổi này có thể diễn ra với sự nhanh
chậm khác nhau, mức độ khác nhau, phạm vi khác nhau... nhưng tất yéu
sẽ diễn ra những thay đổi nhất định bởi vì những quan hệ sản xuất chỉ là

61
hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất đóng vai
trò là nội dung vật chất của quá trình đó.
Thứ ba, vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượngsản
xuất
Với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất
luôn có khả năng tác động trở lại, ảnh hưởng trở lại đối vói việc bảo tồn,
khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất. Sự tác động
trở lại của quan hệ sản xuất thể hiện rõ nhất trên phương diện các quan hệ
tổ chức, quản lí quá trình sản xuất của xã hội. Quá trình tác động trở lại
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả
năng: tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Khi mà quan hệ sản xuất
phù hợp với nhu cầu khách quan của việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái
tạo và phát triển của lực lượng sản xuất thì nó có tác dụng tích cực thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu trái với nhu cẫu khách
quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực.
Trong đời sống hiện thực kinh tế, có 3 tiêu thức cơ bản để nhận định sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất:
1) lực lượng sản xuất hiện có của xã hội cũng như của mỗi chủ thể
tham gia hoạt động trong nền kinh tế có được bảo tồn - duy trì hay
không;
2) lực lượng sản xuất của xã hội, của mỗi chủ thể kinh tế có được huy
động tối đa (về lượng) và sử dụng có hiệu quả (về chất) hay không;
3) do đó, lực lượng sản xuất đó có được thường xuyên tái tạo và phát
triển hay không. Trong thực tiễn kinh tế, các tiêu thức cơ bản này lại có
thể được chi tiết hoá và có thể có những thước đo hoặc các chỉ số đánh
giá cụ thể; thí dụ, có thể dùng chì số tăng trưởng kinh tế (GDP) hoặc các
chỉ số khác như: GNP, HDI... để xác định theo các thời kì nhất định của
mỗi quốc gia, chẳng hạn theo chu kì mỗi năm.
4) sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất - nguồn gốc, động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các
phương thức sản xuất trong lịch sử

62
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thuộc phạm trù “mâu thuẫn” trong phép biện chứng duy vật, tức là mối
quan hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược
nhau. Sự vận động của mâu thuẫn này là đi từ sự thống nhất đến những
khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt
đầu nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách
mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những quan hệ sản xuất hiện thời theo
hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất,
nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, Mác nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó
của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lí của
những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong
đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình
thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất đó trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại của những cuộc cách mạng” .
Sở dĩ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối
quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì có sự khác nhau về tính chất
biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất
có xu hướng “động”, còn quan hệ sản xuất thì ngược lại có xu hướng
“tĩnh”. Xu hướng động và tĩnh của hai phương diện lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đều là khách quan. Trong điều kiện bình thường thì chỉ
có trong sự ổn định tương đối của những hình thức kinh tế nhất định, lực
lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng, tái tạo và
phát triển. Nhưng chính sự phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất trong phạm vi ổn định của quan hệ sản xuất lại tất yếu dẫn đến khả
năng ngày càng bộc lộ sự xung đột với những hình thức kinh tế hiện thời
và tất yếu đòi hỏi phải có những thay đổi nhất định của quan hệ sản xuất

63
mà lâu nay lực lượng sản xuất phát triển trong đó thì mới có thể có được
sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất. Như vậy, sự vận động của
mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi
từ sự thống nhất đến xung đột và một khi xung đột đó được giải quyết thì
lại tái thiết lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử
tạo ra quá trình vận động và phát triển của phương thức sản xuất - của
nền sản xuất xã hội và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
cho thấy: chỉ trong sự thống nhất, phù hợp của nhũng quan hệ sản xuất
hiện thực với trình độ phát triển thực tế của các lực lượng sản xuất hiện
có mới có thể tạo ra được những điều kiện thích hợp cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất; tuy nhiên, sự phù hợp giữa chúng chỉ là tương đối,
tạm thời trong một giai đoạn phát triển nhất định, còn khuynh hướng vận
động tuyệt đối của lực lượng sản xuất lại phá vỡ sự phù hợp đó, tạo ra
khả năng tái thiết lập sự phù hợp trong giai đoạn phát triển mới.

C Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - quy luật cơ
bản của sự vận động, phát triển trong cơ cấu tổng thể của đời sống xã hội

Xét về tổng thể, đời sống xã hội là một hệ thống cơ cấu tổ chức hết sức
phức tạp bao gồm trong đó những mối quan hệ chi phối lẫn nhau, từ lĩnh
vực của những quan hệ kinh tế đến lĩnh vực của những quan hệ chính trị,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo... Vậy, giữa chúng có mối quan hệ thế nào và
sự biến đổi, phát triển của cơ cấu tổng thể ấy tuân theo quy luật cơ bản
nào?
Với phương pháp tiếp cận duy vật trong nghiên cứu về xã hội, Mác đã chỉ
ra mối quan hệ quyết định của lĩnh vực kinh tế đối với các lĩnh vực khác
thuộc thượng tầng kiến trúc chính trị, pháp luật... của xã hội; cũng tức là
nói quy luật về sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào tính chất và
trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng của xã hội. Mác khẳng định: “Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy... hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức
là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí,

64
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở
hiện thực đó” .
- Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Theo tư tưởng nói trên của Mác, có thể hiểu: trong học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội, khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chi toàn bộ những quan
hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội; còn khái niệm kiến trúc
thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cầu các quan hệ tư tưởng
xã hội (chính trị, pháp quyền, tôn giáo...) cùng với các thiết chế chính trị -
xã hội tương ứng (chính đảng, nhà nước, giáo hội...) được hình thành trên
một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo
nên bởi các quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan
hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát
triển của xã hội tương lai; trong đó, quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa
vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển
của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế
của một xã hội nhất định. Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu
thành cơ sở hạ tầng của một xã hội phản ánh tính chất vận động, phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế thừa, phát huy
và phát triển.
Như vậy, hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội đóng vai trò “kép”:
một mặt, với lực lượng sản xuất, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế - xã
hội cho sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất; mặt khác,
với các quan hệ chính trị - xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hình thành kết
cầu kinh tế, làm cơ sở hiện thực cho sự thiết lập một hệ thống kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể
được phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ
đan xen và chi phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể
thấy kiến trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình
thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo...) và
các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng, là cơ sở hình thành

65
hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội (như bộ máy nhà nước, tổ chức
chính đảng, các tổ chức tôn giáo...).
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý
thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng
và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến
trúc thượng tầng của xã hội.
Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt
của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa,
nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để
quản lí, điều khiển mọi hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức
năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại
của quốc gia. Về bản chất, bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền
lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức giai cấp
nắm giữ được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ
thể thực sự của quyền lực nhà nước.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời
sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội,
giữa chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn
nhau. Trong đó, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc
thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác
động trở lại cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được
thể hiện trên nhiều phương diện: tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản
sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ
tầng đó. Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan
phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng. Tính chất mâu
thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống
kiến trúc thượng tầng. Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và
những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu
thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội. Giai

66
cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội, đồng thời cũng là
giai cấp nắm được quyền lực nhà nước, còn các giai cấp và tầng lớp xã
hội khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước. Các chính
sách và pháp luật của nhà nước, suy đến cùng là sự phản ánh nhu cầu
thống trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội...
Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có
nguyên nhân từ tính tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt
của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính trị, pháp luật... hay lĩnh vực
sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính
tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuất khách
quan của xã hội.
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát
triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập
tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ
tầng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đỗi với cơ sở hạ tầng có thể thông
qua nhiều phương thức. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố
trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những
điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu
tố nhà nước thì phương thức tác động của các yếu tố khác tối cơ sở kinh
tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố nhà nước mới có thể thực sự
phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố có tác
động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tối cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra
theo nhiều xu hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà
còn có thể đối lập nhau, Điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của
các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau: có sự tác
động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế độ xã
hội hiện thời; lại có sự tác động theo xu hướng xoá bỏ cơ sở kinh tế này
và có xu hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây
dựng một chế độ xã hội khác...

67
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra
theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp
hay không phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với
nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế; nếu phù hợp nó sẽ có tác
dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự
phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự
tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng dù diễn ra với
nhũng xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng cũng không thể giữ
vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội; cơ sở hạ tầng
kinh tế của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của
nó.
Sự phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cho
thấy đây là mối quan hệ biện chứng được thực hiện theo nguyên tắc kiến
trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng; chính trị, pháp luật cũng
như các mặt khác của đời sống văn hoá xã hội phụ thuộc tất yếu vào tính
chất và trình độ phát triển của kinh tế, cần phải có sự phù hợp của kiến
trúc thượng tầng chính trị, pháp luật... với cơ sở kinh tế của xã hội. Tuy
nhiên, sự phù hợp ấy chỉ là tương đối, tạm thời trong những giai đoạn
lịch sử nhất định và với những điều kiện nhất định. Giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng cũng như giữa các yếu tố trong mỗi lĩnh vực đó
luôn luôn có sự vận động và do đó có khả năng làm xuất hiện nhũng mâu
thuẫn. Mâu thuẫn này biểu hiện ở cuộc đấu tranh giữa các quan điểm
thuộc ý thức hệ xã hội, đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ
chính trị và pháp quyền mà suy đến cùng đó chỉ là biểu hiện của mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
không phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, được thể
hiện ở mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các lực lượng chính trị đại biểu
cho các giai cấp khác nhau, những khuynh hướng phát triển khác nhau
trong một xã hội. Việc giải quyết những mâu thuẫn ấy thường chỉ được
thực hiện thông qua thực tiễn chính trị đấu tranh giai cấp trong xã hội, đó
là những cuộc cải cách xã hội trên từng lĩnh vực mà đỉnh cao là những
cuộc cách mạng xã hội. Thông qua những cuộc cải cách hoặc những cuộc

68
cách mạng xã hội mà mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng được khắc phục, tái tạo sự thống nhất phù hợp của kiến trúc thượng
tầng với cơ sở hạ tầng.

D. Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của
sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội

- Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội


Theo phương pháp tiếp cận duy vật của Mác, xã hội là tổng thể của rất
nhiều mối quan hệ phức tạp nhưng có thể thực hiện sự trừu tượng hoá các
quan hệ sản xuất của xã hội, tức là những quan hệ kinh tế tồn tại khách
quan, tất yếu không phụ thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu”
những quan hệ đó và đồng thời phân tích những quan hệ đó trong mối
quan hệ phụ thuộc của nó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
hiện thực và phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ với toàn bộ
những quan hệ xã hội khác, tức với những quan hệ thuộc kiến trúc
thượng tầng chính trị - xã hội. Sự phân tích đó cho thấy rõ xã hội là một
hệ thống cấu trúc với ba lĩnh vực cơ bản tạo thành là: 1) toàn bộ các lực
lượng sản xuất phát triển ở một trình độ nhất định; 2) quan hệ sản xuất
hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất; 3) kiến trúc thượng tầng được xác lập
trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó.
Mác đã mô tả mối quan hệ kết cấu tổng thể giữa ba lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội như sau: ‘Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình,
con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý
muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phụ thuộc
vào một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất
của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của
xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lí và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương
ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất ra đời sống vật chất

69
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thẫn nói
chung” .
Theo mô tả đó của Mác, có thể xác định khái niệm hình thái kinh tế-xã
hội, với tư cách là một phạm trù cơ bản của hệ thống quan điểm duy vật
về lịch sử, được dùng để chỉ mỗi xã hội cụ thể trong tiến trình phát triển
của nó, được đặc trưng bởi một kiểu quan hệ sản xuất, phù hợp vái một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tâng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Với khái niệm về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã đem lại một
phương pháp luận khoa học về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân
tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra những mối quan hệ
biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó và đi tới quan niệm vễ “Sự
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên” .
- Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế- xã
hội. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế -
xã hội là chỉ quá trình vận động, phát triển của xã hội tuân theo quy luật
khách quan của nó dưới sự tác động của các nhân tố chủ quan trong các
điều kiện lịch sử nhất định. Quá trình đó biểu hiện ở các nội dung chính
sau đây:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ
quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan; đó là các quy
luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các
quy luật xã hội thuộc các linh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học...
mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng
ỉẩng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Nguổn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân
loại, của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lênin từng
nhấn mạnh rằng: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những

70
lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan
niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên” .
Hai là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức quá trình
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội ở trình độ cao hơn
trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan nhưng nhân tố
giữ vai trò quyết định là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới
sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính
chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế
- xã hội từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn.
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội không chỉ
tuân theo quy luật khách quan mà còn chịu sự tác động của rất nhiều
nhân tố khác; đó là các nhân tố thuộc về điều kiện địa lí, tương quan lực
lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hoá
của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối
với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử... Chính
do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng
đồng người nhất định có thể diễn ra với những con đường, hình thức và
bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển
của lịch sử nhân loại. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển đó được
thể hiện tiêu biểu ở các “phương thức phát triển rút gọn” hay “rút ngắn”
tiến trình lịch sử của một quốc gia, dân tộc trong các điều kiện lịch sử đặc
thù của nó. Chẳng hạn, có thể tiến trình phát triển của một quốc gia, dân
tộc với các điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, không nhất thiết
phải tuần tự phát triển qua đầy đủ các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao mà có thể “bỏ qua” một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nhất
định để tiến thẳng lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Trong tiến trình
đó, xét về mặt phương thức sản xuất, cũng có thể là một sự phát triển
tuần tự, nhưng cũng có thể có sự đan xen nhất định giữa các yếu tố thuộc
các phương thức sản xuất khác nhau và rút gọn về mặt thời gian các giai
đoạn phát triển của một phương thức sản xuất nhất định để nhanh chóng

71
tiến tới một phương thức sản xuất cao hơn. Các quốc gia, dân tộc châu Á
(kể cả Trung Quốc và Ấn Độ thời cổ đại, về căn bản chưa từng trải qua
phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ). Hoặc trong thời kì cận - hiện đại,
một số quốc gia, dân tộc vùng châu Á, chỉ trong một thời kì lịch sử mấy
chục năm đã hoàn thành phương thức sản xuất công nghiệp và thị trường
tư bản theo kiểu phương thức sản xuất tư bản đặc thù vùng châu Á (Nhật
Bản, Hàn Quốc...) trong khi các nước phương Tây và Mĩ trước đây đã
phải mất một thời kì lịch sử khoảng một trăm năm. Đổng thời, sau cuộc
cách mạng vô sản giành chính quyền ở Việt Nam và Trung Quốc ở
những thập niên giữa thế ki XX với những điều kiện lịch sử mới đã và
đang tiến hành tiến trình phát triển bỏ qua giai đoạn phát triển phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách là phương thức sản xuất thống
trị...
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng
đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu
sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tổ
hoạt động chủ quan của con người; từ đó, cho thấy lịch sử phát triển của
xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa
dạng trong tính thông nhất của nó.
 Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
-  Kết cấu và chức năng của các Hình thái kinh tế xã hội Hình thái kinh
tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó. Hình thái KTXH là
một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ
bản là:
- Lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất
- Kiến trúc thượng tầng

72
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người vói tự nhiên
trong quan hệ sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, con người kết hợp sức
lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động
tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết
cho cuộc sống của mình. Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải
biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của
mình. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản
xuất, trong đó người lao động là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình
lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng của mình sử dụng tư liệu
lao động, trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với người lao động, công cụ
lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất. công cụ lao
động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Sự cải tiến của công cụ
lao động làm biến đổi tư liệu lao động. Xét đến cùng, đó là nguyên
nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ
lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu
chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong sự phát triển
của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát
triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Và khoa học đang dần trở thành “lực lượng sản
xuất trực tiếp”. Có thể nói: Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc
trưng cho lực lượng lao động hiện đại.

Câu 14, Phân tích độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội?
Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong việc
xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay.

Trả lời:

 Phân tích độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội:

73
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ
động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với
đời sống kinh tế – xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện
ở những điểm sau đây:

- Thứ nhất: Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội

- Thứ hai: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

- Thứ ba: Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển

- Thứ tư: Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự
phát triển của chúng

- Thứ năm: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý
thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
 Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội trong việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất:Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức. Trong lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện
là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó
được thể hiện cụ thể là:

74
– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không
thể tìm nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong
chính tồn tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.

– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức
SX đã thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi
theo.

Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập
tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như trong
truyền thống ,tập quán ,thói quen.

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân
về:-

– Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thườngxuyên và
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người ,thường diễn ra
với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên
lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

– Do sức mạnh của thói quen truyền thống ,tập quán cũng như dotính lạc
hậu ,bảo thủ của một số hình thái xã hội.

– Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tậpđoàn
người ,những giaii cấp nhất định trong xã hội..

Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn

75
tại xã hội,dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông
thực tiễn của con người ,hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những
nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra.

Thứ tư: Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật
tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của
ý thức xã hội trong đời sống xã hội.

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ
kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh.

Câu 15, Trình bày khái niệm, bản chất con người? Liên hệ vấn đề xây dựng và
phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.

Trả lời:

 Khái niệm, bản chất con người:


Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con người.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự
thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát
triển của con người chính là giới tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một
trong những phương diện cơ bản của con người, loài người.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ
sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của
giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng
toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt
là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
76
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời
giới tự nhiên cũng là “ thân thể vô cơ của con người”.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau
đây:
Một là, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, loài người
thì không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự
nhiên mà có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là
nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt
qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong
những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn
chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong
lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, loài người
thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các
qui luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có
sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền
đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con
người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không
thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác
nhau về bản chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản
những quan niệm đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng
và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã
phê phán vắt tắt nhưng quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của
mình: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là
trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người,
thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của
nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người.

77
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con
người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng
sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý
giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong
lịch sử xã hội.
- Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt
động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên,
làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì
đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự
phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người có
thể thấy:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người
thì không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà
điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã
hội của nó, từ những quan hệ kinh tế – xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội
chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng
lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn
động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những
quan hệ kinh tế – xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy:
Một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã hội áp
bức và bóc lột ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân
dân – những chủ thể sáng tạo đích thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại;
thông qua cuộc cách mạng đó nó cũng có thực hiện sự nghiệp giải phóng
toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế – xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập và phát triển một
xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và
sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thưc hiện triết lý đạo đức nhân

78
sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mình vì mọi người; mọi
người vì mình”.
 Liên hệ vấn đề xây dựng và phát huy nhân tố con người ở Việt Nam
hiện nay.
Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc
biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay. Đảng ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước
toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều
vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con người một cách có
chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như
trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức
quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính
sách phát triển con người, không để con người đi lệch tư tưởng.
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài
người tới một kỷ nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con
đường tối ưu đi tới tương lai con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát
triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong đời sống xã hội thực tiễn cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành
trung ương Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị quyết về
việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội". Đó là "con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". Nghị quyết đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn
đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của
mỗi cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển toàn diện và
hài hoà về đạo đức, trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong
chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng hơn cả là vấn đề

79
con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hội và lịch sử của
chính mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi
lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi
cách mạng giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực
hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều mà bao nhiêu học
thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin
đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toàn xã hội, thay
đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực
tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao
trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức
đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người
lao động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao
ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công nghệ
với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt
những thành tựu vượt bậc, thì sự phát triển con người không chỉ là sản
phẩm của hệ tư tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác mà các trị của
các tư tưởng các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn hoá bản địa đã có sức
sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó như một hệ tư
tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng nó cũng
chịu sự chi phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh,
mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì
kìm hãm sự phát triển con người.
Do đó, Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng
hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự
phân tầng xã hội, việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị
của đất nước, việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh
tế, văn hoá và chính trị, trên thế giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình
hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học

80
và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa
Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi
hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.

Câu 16, Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân? Liên hệ với bài học "lấy
dân làm gốc" từ đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trả lời:

 Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân:


- Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động
của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và
lợi ích của mình.

- Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi
thời đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp
xã hội và giai cấp khác nhau.

Như vậy: Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn
bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên
kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng
phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời
đại nhất định.

+ Khái niệm đó được xác định bởi các nội dung sau đây:

Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá
trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.

Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức,
bóc lột, đối kháng với nhân dân.

81
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội.

Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi
theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
+  Vai trò của quần chúng nhân dân
    Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác
đều không nhận thức đúng vai trò của quần chúng trong trong tiến trình
phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ
quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về xã hội.
   Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo chân chính ra lịch sử.
   Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được
chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng. Hơn
nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành
động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến
lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện
ở ba nội dung:

Thứ nhất:
    Quần chúng là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
    Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà
những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng
sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng lao động, bao gồm cả lao động
chân tay và lao động trí óc.
   Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể
phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng lao động, nhất là

82
đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời
đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của
quần chúng là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của
xã hội.

Thứ hai:
   Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội.
   Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng
nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng. Họ là lực lượng cơ
bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách
mạng.
  Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế –
xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, nhân dân lao động là lực
lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự
nghiệp của quần chúng.
   Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt
đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần
chúng lao động. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình
kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội.

Thứ ba:
   Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh
thần.
   Quần chúng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ
thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động
thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân
sự, kinh tế, chính trị, đạo đức… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là

83
điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc
trong mọi thời đại.
   Hoạt động của quần chúng từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận
cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị
văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng
chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt
động tinh thần, quần chúng  luôn đóng vai trò quyết định trong lịch
sử.
   Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần
chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo
của mình.
   Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần
chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”.
   Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư
tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt
Nam.

 Liên hệ với bài học "lấy dân làm gốc" từ đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Trước bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến đổi phức tạp, khó lường,
sự nghiệp đổi mới của nước ta tiến hành trong những năm qua đã đạt
nhiều thành tựu quan trọng và có ý nghĩa. Tuy nhiên, đất nước vẫn luôn
đứng trước những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen
nhau. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh một cách sáng tạo, vừa nghiên cứu lý luận, vừa tổng kết thực
tiễn để tìm ra những luận điểm mới, cách làm mới nhằm giải quyết thành
công những vấn đề đang đặt ra cho cách mạng Việt Nam.

84
Tư tưởng Hồ Chí Minh phong phú và đa dạng, chứa đựng những chân
lý bền vững đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và
khẳng định. Trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, một trong số đó
chính là: Đổi mới là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
mọi chủ trương chính sách đều phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Bài
học này chính là sự tổng kết thực tiễn sâu sắc trên cơ sở quán triệt quan
điểm “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò
của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, trong tư tưởng chỉ đạo cũng như
trong thực tiễn hành động, Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vai trò làm chủ
của Nhân dân, quyền lực của dân, luôn tin vào khả năng và sức mạnh của
dân, rằng còn dân là còn nước, được lòng dân là được tất cả.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), trả lời cho câu hỏi: “Ai là
người cách mệnh?”, Người giải thích: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách
mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền,
chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho
nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công
nông là người chủ cách mệnh”.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công bằng sức mạnh của toàn quốc
đồng bào “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đất nước bắt tay vào thực
hiện nhiệm vụ “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, quyết giữ vững nền độc
lập dân tộc và đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Để hoàn thành
nhiệm vụ khó khăn, to lớn, nặng nề đó, quan điểm của Hồ Chí Minh là
phải thấy hết và khai thác triệt để sức mạnh của Nhân dân. Nước Dân chủ
cộng hòa thì Chính phủ và Nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Nếu
không có Nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có
Chính phủ thì Nhân dân không ai dẫn đường. Lực lượng bao nhiêu đều là
nhờ dân hết, rằng “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy
làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng

85
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
Kế thừa và phát triển tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử
của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là “gốc của nước”, gốc có
vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân. Từ chỗ coi
“Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng
được lực lượng đó”, Người dạy cán bộ: “Quan tâm đến đời sống của quần
chúng thì quần chúng sẽ theo ta, ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả,
nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của
Nhân dân, Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”. Vì vậy, Người chủ trương: “Cách làm là: dựa vào: Lực lượng của
dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”. Tin tưởng vào lực
lượng và trí tuệ của Nhân dân là một trong những phẩm chất cơ bản của
người cộng sản. Trong hoàn cảnh đất nước càng gian khổ thì lại càng
phải tin vào khả năng cách mạng, tin vào lực lượng quần chúng Nhân
dân.
Tin vào dân, dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phát
huy tinh thần làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
Nhân dân. “Nước lấy dân làm gốc” vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa
là bí quyết thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta. Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá và tinh thần của Nhân dân và do Nhân dân xây dựng. Nghĩa là
phải phát huy tinh thần làm chủ và tinh thần sáng tạo của Nhân dân;
Nhân dân phải được tham gia một cách thực tế vào công việc quản lý sản
xuất và đời sống của mình; phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân
thông qua các tổ chức đoàn thể đại diện như: Quốc hội, Mặt trận tổ quốc,
Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ… Những vấn đề liên quan đến
đường lối chính sách, đến cơ chế tổ chức có liên quan đến sinh mệnh,
cuộc sống, tương lai hy vọng của hàng chục triệu quần chúng, nếu không

86
có ý kiến của quần chúng, không tập hợp được trí tuệ của quần chúng sẽ
không tránh khỏi những hạn chế sai lầm.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn
dặn: Phải ra sức thực hành dân chủ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của
quần chúng, dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị. Theo Người “Có
dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”, có dân chủ
thì dân mới tin, mới dám nói, mới có sự sáng tạo, do đó mới tạo nên động
lực.
Là người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
giáo dục cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách
nhiệm trước Nhân dân, nghiêm khắc phê phán những biểu hiện vi phạm
lợi ích của Nhân dân. Với quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, Người luôn xem mình là người phục vụ quần chúng, chịu trách
nhiệm trước quần chúng. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện
của tệ quan liêu, xa dân, khinh dân, đặc biệt là thói kiêu ngạo “quan cách
mạng”, ra lệnh, ra oai, “không tin dân” để dẫn đến chỗ “dân không tin”,
làm hại đến uy tín của Đảng, của Chính phủ.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đau đáu nỗi lòng về chăm
lo cuộc sống của Nhân dân. Trong Di chúc của mình, Người đã để lại
những lời căn dặn tỉ mỉ về những việc cần làm đối với những người đã
dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, đối với cha mẹ, vợ con
của thương binh liệt sĩ, đối với chiến sỹ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ
trang và thanh niên xung phong, đối với nông dân, với việc “xây dựng lại
thành phố và làng mạc đẹp đẽ”, “phát triển công tác vệ sinh y tế”, “sửa
đổi chế độ giáo dục”... nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
Nhân dân.
Chính tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, yêu thương, kính trọng
Nhân dân, luôn tin tưởng vào khả năng, sức mạnh của quần chúng Nhân
dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vun trồng cho khối đại đoàn kết toàn
dân tộc ngày càng rộng rãi và vững mạnh, góp phần to lớn làm nên
những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.

87
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư
tưởng vì Nhân dân, vì con người. Dựa vào dân, tin vào lực lượng, trí tuệ
của Nhân dân, chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của Nhân dân là
cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhân dân. Đó cũng chính là nền tảng của công cuộc đổi mới và phát triển
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện.
2. Đảng ta quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” trong quá
trình đổi mới
Sau 35 năm đổi mới, chúng ta giành được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, một trong những thành tựu đó là nhận thức sâu sắc về
lòng dân, sức dân. Hiểu biết kinh nghiệm hàng đầu mà Đảng ta có được
là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao
động.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991 rút ra bài học kinh nghiệm thứ hai: “Sự nghiệp cách mạng
là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người
làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là
ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân
dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của
đất nước”.
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986-1996), Đảng ta rút ra
06 bài học; trong đó, bài học thứ tư là “mở rộng và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc” và khẳng định:
“Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân.
Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân là nguồn
gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”.
Bước vào thế kỷ XXI cũng là chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng
vẫn nhất quán “đổi mới phải dựa vào Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân,
phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”. Thực tiễn 20 năm đổi mới
(1986-2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới phải vì lợi ích của

88
Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”.
Cương lĩnh Bổ sung, phát triển năm 2011 rút ra một trong những bài
học kinh nghiệm lớn: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi
lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã
hội chủ nghĩa và của Đảng”.
Cùng với đó, tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm: “Đổi mới phải
luôn luôn quán triệt quan điểm lấy “dân làm gốc”, vì lợi ích của Nhân
dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân”. Như vậy có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh
đạo đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán quan
điểm “sự nghiệp đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân”, xa rời, đi ngược
lại lợi ích của Nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng
và sáng kiến của Nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình thành
đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu
của đổi mới. Đổi mới phải dựa vào Nhân dân, do lòng dân quyết định.
Nguồn lực của Nhân dân có nhiều, bao gồm tài dân, sức dân, của dân,
quyền dân; song nguồn lực lớn nhất, quan trọng nhất, quyết định nhất là
lòng dân, có lòng dân thì có sức dân.
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các văn
bản của Trung ương về công tác dân vận, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã khẳng định: Tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài
học lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử đất nước ta. Trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Bác Hồ và Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò to
lớn của Nhân dân, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của công tác dân vận,

89
thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân. Chính nhờ thế mà mặc dù với số lượng không đông, Đảng ta
vẫn có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến
thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất. Với sự
khẳng định này, Tổng bí thư muốn nhắc nhở các cấp ủy đảng, các cấp
chính quyền cần quan tâm hơn nữa, làm tốt hơn nữa công tác dân vận,
nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong việc giữ vững và phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân. Cần có biện pháp cụ thể và tích cực
bảo đảm đời sống Nhân dân, trước hết là bảo đảm việc làm, chăm lo cái
ăn, cái mặc, sức khỏe, việc học hành... của Nhân dân; thực hiện nguyên
tắc công bằng xã hội, lối sống có văn hóa, bảo đảm an ninh xã hội, an
sinh xã hội, an toàn xã hội. Các cấp ủy đảng, các cơ quan Nhà nước cần
động viên, tổ chức Nhân dân tham gia rộng rãi và thường xuyên vào các
công việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội. "Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, giám sát" phải trở thành khẩu hiệu hành động, thành
phương châm công tác vận động quần chúng.
Thế nhưng, thực tế trong đổi mới có hiện tượng “xói mòn lòng tin của
Nhân dân đối với Đảng” hay “làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với
Đảng”. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng
sự thật, Đảng đã chỉ ra: “Vấn đề phai nhạt lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo
đức cách mạng, quan liêu, tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa làm xói mòn
lòng tin của Nhân dân đối với Đảng”; “Có những yếu kém, khuyết điểm
kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin
của Nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức
đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”; “Một số
chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức
xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của Nhân dân nhiều nơi bị vi
phạm, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”;
“Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện
ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến
niềm tin của Nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư

90
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”.
Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bầu không khí đặc biệt khi cả
nước vừa mới trải qua một năm 2020 đầy biến động do thiên tai, dịch
bệnh. Đại dịch Covid - 19 đã và đang tác động sâu rộng tới mọi phương
diện của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu. Bối cảnh trong nước và quốc
tế đan xen nhiều khó khăn, thuận lợi, song bằng nỗ lực và ý chí quyết tâm
cao, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của
nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm soát thành công đại dịch COVID-
19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn định đời sống, góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của Nhân dân
ta, dân tộc ta.
Từ nhận thức sâu sắc thực tiễn ấy, càng phải củng cố vững chắc lòng
tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, được lòng dân. Muốn được
lòng dân, có lòng dân thì toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhằm vào mục đích vì lợi ích của
Nhân dân. Thực hiện đầy đủ, có chất lượng quyền và nghĩa vụ công dân,
đặc biệt không chỉ là tôn trọng mà phải tạo cơ chế để dân phát huy đầy
đủ, có hiệu quả quyền làm chủ của mình. Tập trung giải quyết bức xúc,
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân liên quan đến lợi ích, đời sống,
việc làm; chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những tiêu cực…
Có như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến
mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
từng bước hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta
đã lựa chọn và kiên định.

91
92

You might also like