Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 118

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

1.1. Khái niệm thị trƣờng và cạnh tranh 5


1.1.1. Khái niệm thị trƣờng 5
1.1.2. Khái niệm cạnh tranh 7
1.2. Khái niệm và đặc điểm hành vi lạm dụng quyền 15
lực thị trƣờng
1.2.1. Khái niệm hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng 15
1.2.2. Đặc điểm của hành vi lạm dụng quyền lực thị 20
trƣờng
1.3. Kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng 24
1.3.1. Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi lạm dụng 24
quyền lực thị trƣờng
1.3.2. Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng quyền 27
lực thị trƣờng
CHƢƠNG 2: 30
CÁC TIÊU CHÍ CƠ BẢN ĐỂ XÁC ĐỊNH
HÀNH VI LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

2.1. Thị trƣờng liên quan 30


2.1.1. Thị trƣờng sản phẩm liên quan 32
2.1.2. Thị trƣờng địa lý liên quan 37
2.1.3 Thị trƣờng liên quan ở phƣơng diện thời gian 39
2.1.4. Một số chú ý khi xác định thị trƣờng liên quan 40
2.2. Tiêu chí xác định quyền lực thị trƣờng của doanh 41
nghiệp
2.2.1. Thị phần 41
2.2.2. Rào cản gia nhập thị trƣờng 44
2.3. Chủ thể lạm dụng quyền lực thị trƣờng và các 51
hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng.
2.3.1. Chủ thể lạm dụng quyền lực thị trƣờng 51
2.3.2. Một số hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng 54
CHƢƠNG 3: 76
PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT LẠM DỤNG

QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

3.1. Những qui định chung về hành vi lạm dụng vị trí 77


thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí độc quyền
3.1.1. Chủ thể 77
3.1.2. Thị trƣờng liên quan 83
3.1.3. Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị 87
trƣờng, vị trí độc quyền (xác định quyền lực thị
trƣờng).
3.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, 94
lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm
3.2.1. Quan điểm, cách tiếp cận của Luật cạnh tranh về 94
hành vi lạm dụng bị cấm
3.2.2. Các hành vi lạm dụng bị cấm 96
3.3. Một số biện pháp cần thiết đảm bảo thi hành qui 100
định pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền ở góc độ pháp
luật nội dung
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đến cuối những năm 80, sau một thời gian khá dài áp dụng cơ chế kinh
tế kế hoạch hóa - tập trung, nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ rõ những khuyết
điểm và yếu kém không thể khắc phục trong thời kỳ mới. Do vậy Đảng và
Nhà nước ta đã quyết tâm xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cho đến nay, những kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới
đã chứng minh cho quyết tâm của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn
và có cơ sở. Diện mạo kinh tế của đất nước đã thay da đổi thịt từng ngày, các
thành phần kinh tế đa dạng tham gia kinh doanh sôi động và hào hứng góp
phần đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân trên 7%/năm.

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, lợi ích và hiệu quả của một cơ
chế mới là không thể phủ nhận và bàn cãi. Tuy nhiên cơ chế thị trường không
phải là hoàn hảo tuyệt đối mà nó cũng có những mặt trái, những vấn đề tiêu
cực nhất định. Cạnh tranh là quy luật cơ bản và quan trọng của nền kinh tế thị
trường, nó là yếu tố nội tại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhưng ở
một khía cạnh khác, cạnh tranh chính là nhân tố tạo ra sự bất ổn của nền kinh
tế. Cạnh tranh gay gắt và quyết liệt sẽ dẫn tới tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh hay hạn chế cạnh tranh và độc quyền. Với những khuyết tật này,
nền kinh tế thị trường sẽ bị thách thức rất lớn nếu để chúng tự do phát triển và
hoành hành.

Như ta vẫn biết, nền kinh tế thị trường có những qui luật nội tại vận
hành rất hiệu quả. Mặc dù vậy tự thân nó cũng không thể loại bỏ được những
khuyết tật như đã nêu trên mà phải nhờ tới sự can thiệp của Nhà nước, hay
nói cách khác là phải nhờ vào “bàn tay hữu hình” chứ không thể trông đợi vào
“bàn tay vô hình” được. Nhà nước can thiệp vào bằng nhiều cách, trong đó

-1-
công cụ pháp luật được biết đến với tính ưu việt mà khó có biện pháp nào có
thể thay thế.

Pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật kiểm soát độc quyền nói
riêng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cạnh tranh, tạo môi trường
kinh tế ổn định và hiệu quả cho các chủ thể kinh doanh phát huy hết sức mạnh
của mình. Vì lẽ đó mà Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 6 (năm 2004) đã thông qua Luật cạnh tranh. Luật có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/07/2005 [53].

Luật cạnh tranh Việt Nam được ban hành chủ yếu dựa trên sự học hỏi
kinh nghiệm của quốc tế và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên
thế giới. Thực ra điều này không có gì là ngạc nhiên khi biết rằng chúng ta
mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường chưa được 20 năm, kinh nghiệm
của ta về vấn đề này hầu như không có gì. Hơn nữa việc nghiên cứu Luật
cạnh tranh trong nước cũng chỉ mới ở những bước đi đầu tiên, theo đó hầu hết
các nghiên cứu tập trung vào những vấn đề chung và bao quát của Luật cạnh
tranh. Mặt khác, có thể thấy Luật cạnh tranh vừa được ban hành chưa được cụ
thể và chi tiết lắm, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu để có
được sự nhận thức thống nhất và đúng đắn hoặc cụ thể hóa nhằm làm cho
việc thực thi Luật cạnh tranh được hiệu quả. Ví dụ cho vấn đề này là các qui
định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng quyền lực thị trường.

Với những phân tích trên cho thấy việc nghiên cứu pháp luật cạnh tranh
nói chung và đặc biệt là các vấn đề khác của pháp luật cạnh tranh ở mức độ
cụ thể là rất cần thiết. Đó cũng chính là lý do để chúng tôi quyết định lựa
chọn đề tài nghiên cứu của Luận văn này.
2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Pháp luật cạnh tranh về mặt nội dung thông thường được chia thành hai
lĩnh vực cơ bản là pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật
kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền). Trong đó lĩnh
vực pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh có ba bộ phận pháp luật

-2-
chính tạo thành là: (i). Thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel); (ii). Lạm dụng
quyền lực thị trường và (iii). Tập trung kinh tế. Luận văn này không có tham
vọng giải quyết tất cả các vấn đề của pháp luật cạnh tranh và cũng không
nghiên cứu lĩnh vực pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh một cách
chung chung mà đi sâu hơn, cụ thể hơn bằng cách tập trung nghiên cứu pháp
luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường – một bộ phận của
pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Xuất phát từ tính cấp thiết và phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như
căn cứ vào những quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về chính
sách và pháp luật cạnh tranh. Luận văn có mục đích làm rõ hơn cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật pháp luật
kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, góp phần tạo dựng một môi
trường kinh doanh lành mạnh mang tính cạnh tranh cao cho nền kinh tế Việt
Nam.

Để đạt được mục đích đề ra như vậy, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật kiểm soát hành vi
lạm dụng quyền lực thị trường.
- Nghiên cứu thực trạng hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt
Nam và pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt
Nam.

- Đề xuất một số kiến nghị ban đầu phục vụ cho việc thi hành Luật
cạnh tranh mới có hiệu lực.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các vấn đề dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm, chính sách và
định hướng của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề kinh tế, pháp luật, xã hội.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: phương pháp biện

-3-
chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với
thực tiễn, phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp.
5. Bố cục của luận văn

Luận văn được bố cục theo trình tự:

Phần mở đầu

Chương I: Một số vấn đề lý luận về lạm dụng quyền lực thị trường

Chương II: Các tiêu chí cơ bản để xác định hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường
Chương III: Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường
ở Việt Nam.
Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

-4-
CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

1.1. Khái niệm thị trường và cạnh tranh


1.1.1. Khái niệm thị trường

Thị trường không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng
xã hội, có nghĩa là nó chỉ xuất hiện trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch
sử nhất định, khi những điều kiện cho sự ra đời của nó đã đầy đủ. Thị trường
với ý nghĩa là đặc trưng của nền kinh tế chỉ xuất hiện trong điều kiện của nền
kinh tế sản xuất hàng hóa, tức là nền kinh tế sản xuất ra sản phẩm để bán trên
thị trường chứ không phải là sản xuất ra sản phẩm để tự cung tự cấp như
trong nền kinh tế tự nhiên hay sản xuất sản phẩm theo kế hoạch của Nhà nước
như trong nền kinh tế bao cấp ở nước ta trước đây. Thị trường càng ngày càng
phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất, lao động chuyên môn hóa, lưu
thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ.

Thị trường là khái niệm được nhiều ngành khoa học tiếp cận nghiên
cứu với mục đích riêng tùy theo yêu cầu của ngành khoa học đó. Nhưng có lẽ
đây là khái niệm được sử dụng nhiều nhất trong ngành khoa học kinh tế và
trên cơ sở của những kết quả nghiên cứu của khoa học kinh tế về thị trường,
các ngành khoa học khác đã sử dụng và phát triển một cách phù hợp theo yêu
cầu của mình.

Kinh tế chính trị Mác – Lênin cho rằng thị trường là lĩnh vực trao đổi
mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa
và mức sản lượng hàng hóa tiêu thụ [29, tr. 75].

Khoa học Marketing xác định thị trường bao gồm tất cả các khách hàng
có nhu cầu (needs) hay mong muốn (wants) chưa thỏa mãn, có khả năng và
sẵn sàng tham gia trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu hay mong muốn đó

-5-
[28, tr. 12]. Khái niệm này thể hiện quan điểm của khoa học marketing dưới
góc nhìn của những người muốn bán hàng và tìm cách bán hàng.

Kinh tế học vi mô sau khi đưa ra một loạt khái niệm khác nhau về thị
trường đã kết luận đặc điểm của thị trường thể hiện là nơi người mua và
người bán tiếp xúc với nhau (tiếp xúc có thể là trực tiếp hay có thể là gián tiếp
qua điện thoại, fax…) và tìm cách để tối đa hóa lợi ích của mình. Người bán
muốn tối đa hóa lợi nhuận, người mua muốn tối đa hóa sự thỏa mãn thu được
từ sản phẩm họ mua [22, tr. 162].

Nói chung qua các phân tích về thị trường nêu trên ta có thể đi đến một
cách hiểu đơn giản hơn về thị trường để áp dụng trong khoa học pháp lý: thị
trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ của người mua và người
bán nhằm mục đích tối đa hóa các lợi ích của mình.

Đầu tiên khi mới xuất hiện, thị trường có thể được xác định rõ ràng và
không mấy khó khăn vì với điều kiện của sản xuất hàng hóa lúc đó, con người
chỉ có thể gặp gỡ trực tiếp để trao đổi hàng hóa trong một khu vực địa lý giới
hạn. Cùng với thời gian và sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người
không cần phải trực tiếp gặp gỡ để trao đổi hàng hóa mà có thể gián tiếp
thông qua các phương tiện thông tin truyền thông, thị trường từ chỗ nhỏ bé
như một cái chợ làng đã phát triển rộng khắp toàn cầu.

Thị trường luôn có những yếu tố cấu thành cơ bản là người bán, người
mua và hàng hóa, dịch vụ được trao đổi giữa người bán và người mua. Ngoài
ra tùy thuộc vào từng loại thị trường mà các yếu tố khác có trở nên quan trọng
hay không. Những yếu tố này có thể là chất lượng sản phẩm, số lượng sản
phẩm, các điều kiện mua bán… Đây có thể xem như những đặc điểm riêng
làm nên đặc trưng của mỗi loại thị trường.

Người bán (nguồn cung) là một yếu tố cơ bản của thị trường, đây là đối
tượng cung cấp sản phẩm hàng hóa cho người mua. Giữa những người bán
luôn có sự cạnh tranh với nhau nhằm chiếm lĩnh được phần thị trường lớn
hơn. Sự cạnh tranh này làm cho nền kinh tế phát triển thông qua việc các bên

-6-
phải tìm mọi cách để phát huy khả năng của mình như đổi mới phương thức
sản xuất, công nghệ, đầu tư cải tiến chất lượng sản phẩm, hạ giá thành… cách
thức cạnh tranh này là rất tích cực nên cần được khuyến khích. Tuy nhiên các
bên cũng có thể áp dụng những cách thức cạnh tranh không lành mạnh hay
thậm chí là các biện pháp để hạn chế cạnh tranh nhằm loại bỏ đối thủ để tìm
kiếm vị trí độc quyền.

Người mua (nguồn cầu) là đối tượng mà người bán luôn hướng tới để
tiêu thụ sản phẩm mà mình tạo ra. Giữa người mua và người bán luôn có
những mâu thuẫn tồn tại như việc người bán luôn muốn bán sản phẩm với giá
cao nhất có thể, trong khi đó người mua lại muốn mua sản phẩm với giá thấp
nhất có thể. Để cân bằng mâu thuẫn này, giá cả hàng hóa dịch chuyển đến vị
trí mà cả hai đều chấp nhận được. Việc giá cả hàng hóa dịch chuyển theo
chiều hướng có lợi cho ai hơn phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề, trong đó vấn đề
quyền lực thị trường của người bán cao hay thấp là rất quan trọng.

Hàng hóa, dịch vụ được cung cấp trên thị trường là đối tượng tác động
của cả người mua và người bán để đáp ứng lợi ích của mình. Người mua tác
động vào hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, người bán tác động vào
hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, người mua và
người bán tác động qua lại với nhau trên thị trường để xác định ba vấn đề
trọng tâm của tổ chức kinh tế: đó là sản xuất cái gì? Như thế nào? Và cho ai?
Người mua đã giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế và là đối tượng hướng tới
của mọi doanh nghiệp. Do vậy ngày càng thỏa mãn thị hiếu và đáp ứng sở
thích của người tiêu dùng đã trở thành phương châm, kim chỉ nam cho hành
động của các doanh nghiệp (người bán). Tuy nhiên với điều kiện có quyền lực
thị trường, người bán luôn có xu hướng giảm sản lượng sản xuất trong tương
quan với khả năng sản xuất của mình và nhu cầu, khả năng tiêu dùng của
người mua nhằm mục đích tạo sự khan hiếm hàng hóa, làm giá cả hành hóa
tăng cao qua đó thu về lợi nhuận độc quyền.
1.1.2. Khái niệm cạnh tranh

-7-
Cũng giống như thị trường, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội, nó chỉ
xuất hiện trong những điều kiện kinh tế – pháp lý cụ thể.

Kinh tế thị trường được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại, nhất là khi chúng ta đã từng
biết đến nền kinh tế tự nhiên với sự phát triển chậm chạp của xã hội, nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, trói buộc sự
năng động và sáng tạo của con người. Các học thuyết về kinh tế thị trường
hiện đại dù thuộc trường phái kinh tế tự do hay trường phái kinh tế can thiệp
đều chung quan điểm khi cho rằng cạnh tranh với tính cách là động lực phát
triển của nền kinh tế chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường.

Cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận và bảo hộ
các loại hình sở hữu, khi tự do kinh doanh, tự do hợp đồng được bảo đảm.
Nhà nước không can thiệp sâu vào quá trình kinh doanh của các chủ thể mà
để các chủ thể tự xác định trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mà nhà nước đã đặt
ra, đặc biệt nhà nước không tạo ra các rào cản để hạn chế sự nhập cuộc của
các chủ thể kinh doanh tiềm năng vì như vậy sẽ sớm dẫn đến độc quyền trong
lĩnh vực đó. Độc quyền là thái cực trái ngược của cạnh tranh, thể hiện ở chỗ
không có cạnh tranh nếu có độc quyền và không có độc quyền nếu cạnh tranh
thực sự diễn ra.

Cạnh tranh là một hiện tượng phức tạp do vậy có nhiều cách hiểu khác
nhau về nó. Với mục đích chung nhất, cạnh tranh là thuật ngữ để chỉ nỗ lực
của hai hay nhiều người (hoặc nhóm người) cùng đạt một mục tiêu xác định.
Cạnh tranh theo nghĩa đó diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội, từ thi đấu thể thao, thi đua văn nghệ… cho đến cạnh tranh trong kinh
doanh.

Từ điển kinh doanh xuất bản tại Anh năm 1992 đã định nghĩa về cạnh
tranh “là sự ganh đua, sự kình địch của các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách
hàng về phía mình”.

-8-
Nói tóm lại, cạnh tranh theo nghĩa kinh tế được hiểu là sự ganh đua,
chạy đua giữa các doanh nghiệp kinh doanh cùng loại hàng hóa hoặc hàng
hóa có thể thay thế cho nhau trên một thị trường xác định với mục đích lôi
kéo được càng nhiều khách hàng, chiếm lĩnh được càng nhiều thị phần cho
mình càng tốt. Cạnh tranh có một số đặc trưng sau: (i). phải tồn tại thị trường;
(ii). Có sự tham gia của ít nhất hai hoặc nhiều người cung cấp hoặc có nhu
cầu và khả năng cung cấp; (iii). những người này có ít nhất một mục đích đối
lập nhau, việc đạt mục đích của người này chỉ có thể so sánh với sự chưa
thành công hoặc thất bại của người kia hoặc ngược lại. Tuy nhiên xét trên
bình diện lợi ích của toàn xã hội thì cạnh tranh luôn có những tác động rất
tích cực.

Giống như quy luật sinh tồn và đào thải tự nhiên đã được Darwin phát
hiện, quy luật cạnh tranh có tác dụng thải loại những thành viên yếu kém của
thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất của thị trường thông
qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển của toàn xã hội. Cạnh tranh là
một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Không có cạnh
tranh thì không có nền kinh tế thị trường hoặc ngược lại. Trong nền kinh tế thị
trường, khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của doanh nghiệp. Kết quả
của cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, và vì vậy,
mỗi doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù
hợp để vươn tới vị thế cao nhất. M. Porter đã đưa ra năm yếu tố lực lượng
quyết định mức độ cạnh tranh trong một ngành (hoặc một thị trường cụ thể)
là:

- Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành;

- Quyền lực thương lượng của phía những người cung ứng;

- Quyền lực thương lượng của phía những người tiêu thụ;

- Sự đe dọa của những người mới (hoặc sẽ) nhập cuộc;


- Sự đe dọa của những sản phẩm hoặc dịch vụ thay thế [31, tr. 12].

-9-
Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường chỉ mang tính tương đối, vì vậy
trên thực tế, bên cạnh những phương thức chiến lược để nâng cao vị trí của
mình, một số doanh nghiệp còn tìm cách làm giảm vị thế tuyệt đối của các đối
thủ hoặc kiềm chế số lượng đối thủ tham gia nhập cuộc. Như vậy bên cạnh
các phương thức cạnh tranh tích cực, doanh nghiệp còn sử dụng cả các biện
pháp cạnh tranh tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến đối thủ và nguy hại hơn cả là
triệt tiêu động lực phát triển của nền kinh tế. Những biện pháp cạnh tranh tiêu
cực này do vậy cần được kiểm soát và ngăn cấm.

Nhận dạng cạnh tranh:

Nhận dạng canh tranh thực ra là cách thức phân loại cạnh tranh trên thị
trường. Công việc này có vai trò quan trọng để xác định tính chất và mức độ
biểu hiện của cạnh tranh trên từng loại hình thị trường, trên cơ sở đó pháp luật
cạnh tranh sẽ có những biện pháp tác động phù hợp, hiệu chỉnh những hành vi
sai lạc để lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào đời sống
kinh tế, ta có cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước.

* Cạnh tranh tự do là một hình thức không có sự can thiệp của nhà
nước. Hình thức này, nếu xem xét ở mức độ chung nhất thì có thể nói rằng
hiện nay không còn quốc gia nào áp dụng nữa. Đây là qui luật đặc thù của
phương thức sản xuất tư bản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi mà giai cấp tư
sản vừa mới giành được chính quyền nên khuyến khích sự tự do của mọi
người đúng theo tiêu chí của cuộc cách mạng tư sản đã đề ra. Thời kỳ này
cũng là giai đoạn giai cấp tư sản bắt đầu tích lũy và tập trung tư bản trên nền
tảng “tự do được nuôi dưỡng bởi chính tự do”. Cạnh tranh tự do được xây
dựng trên nền tảng học thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith. Học thuyết
này được phát biểu như sau: trong khi chạy theo tư lợi thì có một bàn tay vô
hình buộc con người kinh tế đồng thời phải thực hiệm nhiệm vụ không có
trong dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi khi họ còn đáp ứng tốt hơn ngay
cả khi họ có ý định làm điều đó từ trước. “Bàn tay vô hình” chính là các qui

- 10 -
luật kinh tế khách quan tự phát, chi phối hoạt động của con người một cách
hiệu quả. Sự can thiệp của Nhà nước được coi là kẻ thù của cạnh tranh.

* Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là loại hình tồn tại trong nền
kinh tế hiện đại. Cho đến nay, không có quốc gia nào là không có sự can thiệp
vào đời sống kinh tế, có khác chăng đó chỉ là mức độ can thiệp mà thôi. Điều
này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1933. Cuộc
khủng hoảng kinh tế đã chứng kiến sự sụp đổ của hình thái thị trường cạnh
tranh tự do và học thuyết “bàn tay vô hình” khi chúng để lại những khuyết tật
không thể hàn gắn trong nền kinh tế như thất nghiệp, lạm phát, phá sản, lãng
phí tài nguyên… và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các khuyết tật đó không
thể được giải quyết chỉ bởi “bàn tay vô hình” mà cần có sự can thiệp của Nhà
nước, một tổ chức có quyền lực mạnh mẽ.
Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, ta có
cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
* Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh đẹp và trong sáng, cạnh
tranh bằng những tiềm năng vốn có của doanh nghiệp như công nghệ, trình độ
quản lý, khả năng về vốn, giá thành… và phải tuân theo những chuẩn mực
kinh doanh truyền thống, không được trái pháp luật.

* Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh ngược lại
với cạnh tranh lành mạnh. Biểu hiện của nó là các hành vi của chủ thể kinh
doanh nhằm mục đích cạnh tranh đã không trung thực, gian dối, không phù
hợp với các hành vi xử sự lành mạnh, cao thượng trong sản xuất và kinh
doanh.

Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành,
một lĩnh vực kinh tế, ta có cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo
mà biểu hiện cao độ là độc quyền.

* Cạnh tranh hoàn hảo: thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường
trong đó cả người mua và người bán đều cho rằng các quyết định mua và bán

- 11 -
của họ không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường [13, tr. 24]. Cạnh tranh hoàn
hảo có những đặc trưng sau:

- Có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Số lượng được
coi là nhiều khi những giao dịch bình thường của một người mua hoặc một
người bán không ảnh hưởng gì đến giá mà ở đó các giao dịch được thực hiện.

- Tất cả các đơn vị hàng hóa được trao đổi được coi là giống nhau,
nghĩa là sản phẩm của các doanh nghiệp là đồng nhất hoặc tiêu chuẩn hóa
hoàn hảo. Dễ nhận thấy trong thị trường thực tế có đặc trưng này như thị
trường than đá, thị trường xăng cùng một cấp chất lượng, người mua không
mấy khi quan tâm họ mua sản phẩm của đơn vị bán nào.
- Mỗi doanh nghiệp trong ngành phải chiếm một thị phần rất nhỏ, điều
này đảm bảo rằng việc thay đổi sản lượng của một hoặc một số doanh nghiệp
không ảnh hưởng gì tới giá thị trường. Tương tự, người mua cũng mua với số
lượng nhỏ để không tạo ra lợi thế áp đặt giá.

- Mọi yếu tố đầu vào của sản xuất được tự do dịch chuyển để phản ứng
nhanh chóng với những thay đổi có thể xảy ra.

- Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông
tin liên quan đến việc trao đổi. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi tất cả
người mua và người bán đều có liên hệ với tất cả những người trao đổi tiềm
năng, biết tất cả các đặc trưng của những hàng hóa trao đổi, biết tất cả giá
người mua đòi và giá người bán trả. Mọi người có liên hệ mật thiết với nhau
và thông tin giữa họ là liên tục.
- Không có gì cản trở việc gia nhập và rút khỏi thị trường. Ở mỗi thời
điểm, mỗi người đều phải được tự do để trở thành người mua hoặc người bán,
được tự do gia nhập thị trường và được trao đổi ở cùng mức giá như những
người trao đổi hiện hành. Tương tự, nó đòi hỏi không có trở ngại nào ngăn
cản không cho một người nào đó thôi không là người mua hoặc người bán
trong thị trường và vì thế rút khỏi thị trường.

- 12 -
Trên thực tế không thể có cạnh tranh hoàn hảo vì chính những mâu
thuẫn trong bản thân học thuyết này. Các đặc trưng phải có của cạnh tranh
hoàn hảo cũng chính là những nhân tố không thể cùng xảy ra trên thực tế. Do
vậy cạnh tranh hoàn hảo chỉ có ý nghĩa làm cơ sở cho các phân tích lý thuyết
chứ không có giá trị thực tiễn.

* Cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu
thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các chủ thể kinh doanh có quyền lực thị
trường tương đối lớn để có thể kiểm soát giá cả sản phẩm đầu ra hoặc đầu vào
của họ. Cạnh tranh không hoàn hảo có mấy loại sau: cạnh tranh mang tính
độc quyền, độc quyền nhóm và độc quyền.

- Cạnh tranh mang tính độc quyền (Moloplistic Competition) là hình


thức cạnh tranh mà ở thị trường có một số lượng đông người bán sản xuất ra
các sản phẩm có sự khác biệt. Trong nhiều trường hợp, những người bán có
thể bắt buộc những người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ định ra.
Trong thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền, mức độ cản trở sự
gia nhập thị trường ở mức thấp hơn so với trường hợp độc quyền nhóm và
độc quyền. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tham gia thị trường với
những sản phẩm mang tính khác biệt và điều chỉnh tăng hay giảm giá bán sản
phẩm của mình nhiều hơn trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Lợi
nhuận mà các chủ thể cạnh tranh thu được trong thị trường chỉ là hữu hạn, khi
đó, chi phí sản xuất và số lượng các sản phẩm khác biệt mới tham gia thị
trường thay đổi không đáng kể. Cạnh tranh mang tính độc quyền tạo ra sự dư
thừa các sản phẩm mới, trong khi các sản phẩm chỉ có sự khác biệt nhau đôi
chút. Các nhà kinh tế học cho rằng, việc xoá bỏ sự khác biệt không cần thiết
giữa các sản phẩm mới sẽ thực sự làm giảm chi phí và giảm giá. Tuy nhiên,
lập luận về việc giảm bớt các nhà cạnh tranh độc quyền sẽ có tác dụng làm
giảm chi phí, song cùng với nó, sẽ làm hạn chế quyền lựa chọn của người tiêu
dùng khi hàng hoá không còn tồn tại đa dạng nữa.

- 13 -
- Độc quyền nhóm: là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có một ít các
nhà sản xuất. Những hoạt động thực hiện chính sách giá cả của một doanh
nghiệp độc quyền nhóm thường gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến giá cả
thị trường và sự quyết định giá của doanh nghiệp khác. Hay nói một cách
khác, độc quyền nhóm (tập đoàn độc quyền) còn được gọi là cạnh tranh giữa
một số lượng nhỏ các doanh nghiệp (Theo P.A Samuelson, số lượng nhỏ các
nhà doanh nghiệp có thể từ 2 đến 10 hoặc 15 doanh nghiệp). Sự thay đổi về
giá của một doanh nghiệp gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu đối
với sản phẩm của các doanh nghiệp khác và ngược lại. Ở những nước phát
triển, hình thái cạnh tranh này thường xuất hiện ở những ngành nghề sản xuất
ôtô, thép, xi măng…

- Độc quyền là hình thức biểu hiện cao độ của cạnh tranh không hoàn
hảo, khi đó có thể nói cạnh tranh đã không thể diễn ra. Đây là hình thức mà ở
đó chỉ có duy nhất một doanh nghiệp cung cấp sản phẩm mà không có doanh
nghiệp nào khác cung cấp sản phẩm tương tự như thế. Việc gia nhập ngành
sản xuất này là rất khó khăn hoặc không thể thực hiện được.

Cạnh tranh mang tính độc quyền, độc quyền nhóm hay độc quyền (gọi
chung là độc quyền) có nguyên nhân từ chính quá trình cạnh tranh. Quá trình
cạnh tranh gay gắt đã loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, trong khi đó
những doanh nghiệp hiệu quả thì ngày càng được củng cố vị thế trên thị
trường. Do đó những doanh nghiệp nào còn tồn tại được nhưng không hiệu
quả không thể cạnh tranh được, mặt khác những doanh nghiệp tiềm năng dù
có gia nhập thị trường được cũng phải mất nhiều thời gian và sức lực để bám
đuổi, cùng thời gian đó những doanh nghiệp hiệu quả vẫn được củng cố.
Ngoài nguyên nhân cạnh tranh thì độc quyền còn có những nguyên nhân
chính khác là (i). đặc thù công nghệ và ngành hàng; (ii). thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp trong ngành và (iii). những rào cản cho sự gia nhập thị trường
của các doanh nghiệp tiềm năng.

- 14 -
Độc quyền không hẳn hoàn toàn xấu mà ngược lại, trong một số lĩnh
vực nhất định độc quyền mới là biện pháp hiệu quả được lựa chọn cho ngành
kinh tế (dịch vụ công, lĩnh vực liên quan đến an ninh – quốc phòng…) Hơn
nữa một số trường hợp độc quyền chính là kết quả của quá trình kinh doanh
đúng đắn của doanh nghiệp và điều này cần sự khuyến khích. Trường hợp
khác, chỉ khi doanh nghiệp độc quyền nhóm hay doanh nghiệp độc quyền có
những hành vi lạm dụng vị thế của mình thì mới thực sự nguy hiểm. Nhà
nước cần kiểm soát độc quyền được hình thành hợp pháp và đối với độc
quyền hình thành bất hợp pháp thì cần có sự cấm đoán và xử lý triệt để.

Tuy nhiên trên thực tế, khi đã chiếm được vị trí độc quyền, hầu hết các
doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để duy trì địa vị thống trị thị trường của mình
với các thủ đoạn như: thôn tính, tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh, ngăn cản
không cho các doanh nghiệp tiềm năng gia nhập thị trường... tiếp tục củng cố
ưu thế và sức mạnh thị trường bằng việc rủ rê các đối thủ liên kết tạo sức
mạnh, phân chia thị trường, định giá cả... Ngay từ thế kỷ XX, Adam Smith
trong “Của cải của các dân tộc” đã chỉ ra bản chất của độc quyền là: “Bằng
cách làm cho thị trường luôn luôn không đủ dự trữ, các nhà độc quyền... đã
bán hàng hoá của họ với mức giá cao hơn giá tự nhiên rất nhiều, và nhờ đó,
tăng phần thu nhập của họ dưới dạng tiền thưởng hay lợi nhuận...” Độc quyền
trở thành lực cản, gây trở ngại cho môi trường cạnh tranh. Do vậy khi nói đến
độc quyền mọi người nghĩ ngay đến vấn đề tiêu cực cho dù về lý thuyết
không hoàn toàn là như vậy.

Lạm dụng quyền lực thị trường thực chất là hành vi của doanh nghiệp
độc quyền sử dụng vị thế độc quyền của mình trên thị trường vào mục đích
hạn chế cạnh tranh, bóc lột người tiêu dùng. Lạm dụng quyền lực thị trường
chỉ là một hình thức biểu hiện cụ thể của độc quyền và chỉ tồn tại trong môi
trường cạnh tranh không hoàn hảo. Ngoài môi trường này sẽ không có hành
vi lạm dụng quyền lực thị trường.
1.2. Khái niệm và đặc điểm hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

- 15 -
1.2.1. Khái niệm hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

Để đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường thật sự không phải dễ bởi đây là vấn đề có nội dung phức tạp. Kinh
nghiệm của quốc tế và các nước phát triển cũng không chú trọng nhiều vào
việc đưa ra một định nghĩa chuẩn và chính xác cho hành vi này mà thường
xác định những tiêu chí cơ bản để nhận diện hành vi lạm dụng quyền lực thị
trường. Tuy nhiên, một đinh nghĩa tương đối về hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường cũng rất có ý nghĩa vì nó giúp cho việc xác định các tiêu chí nhận
diện hành vi lạm dụng quyền lực thị trường được đầy đủ và có hệ thống.

Trước tiên, muốn xác định hành vi lạm dụng quyền lực thị trường cần
phải hiểu thế nào là quyền lực thị trường. Theo từ điển thương mại quốc tế
(Walter Good), địa vị thống trị thị trường (quyền lực thị trường) là khả năng
của một doanh nghiệp có thể gây ảnh hưởng đến cách xử sự của một doanh
nghiệp khác bất kỳ là ngược hay xuôi. Theo đó quyền lực thị trường là khả
năng ảnh hưởng của một doanh nghiệp đến hành vi của một doanh nghiệp
khác trên thương trường.

Quyền lực thị trường cũng có thể được hiểu là khả năng kiểm soát thực
tế hoặc tiềm năng đối với thị trường của một hay một nhóm doanh nghiệp. Sự
kiểm soát có thể căn cứ trên các cơ sở: thị phần, doanh thu hàng năm, qui mô
tài sản, số lượng nhân viên… ngoài ra nó còn được căn cứ vào khả năng của
doanh nghiệp trong việc tăng (hoặc giảm) giá trên (hoặc dưới) mức cạnh tranh
trên thị trường trong một giai đoạn nhất định [27, tr. 50-55].

Dựa trên nhận thức của khoa học kinh tế, có quan điểm cho rằng quyền
lực thị trường là khả năng của doanh nghiệp chi phối thị trường thông qua
việc tác động vào các yếu tố của thị trường. Yếu tố của thị trường ở đây có
thể là người mua (người bán), sản lượng hàng hóa, giá cả hàng hóa hoặc
những điều kiện mua bán hàng hóa khác. Ví dụ: doanh nghiệp có thể nâng giá
bán hàng hóa trên thị trường vượt mức giá tự nhiên mà không cần quan tâm
đến phản ứng của các doanh nghiệp cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng.

- 16 -
Nói chung, những quan điểm về quyền lực thị trường nêu trên mới
phản ánh hiện tượng ở góc độ kinh tế một cách thông thường. Nếu vận dụng
vào khoa học pháp lý (đặc biệt ứng dụng vào pháp luật cạnh tranh) thì vẫn
chưa thực sự đầy đủ. Trong hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo,
theo cách hiểu thông thường như vậy thì bất cứ một doanh nghiệp nào cũng
có quyền lực thị trường, bởi vì bản thân doanh nghiệp là độc quyền đối với
sản phẩm của mình do vậy dù ít hay nhiều họ cũng có quyền lực thị trường.
Điều quan trọng là không phải hiểu quyền lực thị trường với ý nghĩa như vậy
vì nó sẽ không giải quyết được bất cứ vấn đề gì. Quyền lực thị trường cần
phải được làm rõ hơn, tức là phải đo lường được mức độ quyền lực thị trường
của một hay một nhóm doanh nghiệp cụ thể.

Những nhân tố có xu hướng tạo ra quyền lực thị trường bao gồm mức
độ tập trung cao độ về kinh tế, sự tồn tại của những rào cản gia nhập thị
trường và thiếu khả năng lựa chọn với một sản phẩm được cung cấp bởi các
doanh nghiệp cho rằng có quyền lực thị trường.
Theo pháp luật cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có quyền lực thị
trường phải đạt đến mức độ mà nếu muốn, doanh nghiệp có thể sử dụng
quyền lực thị trường để hạn chế cạnh tranh hoặc bóc lột người tiêu dùng,
ngược lại doanh nghiệp sẽ không được coi là có quyền lực thị trường. Mức độ
này được xác định trên các tiêu chí thị phần, rào cản gia nhập thị trường hoặc
một số yếu tố khác làm doanh nghiệp có khả năng hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể như năng lực tài chính, số lượng nhân viên, trình độ khoa học,
công nghệ, nhãn hiệu hàng hóa, qui mô của hệ thống phân phối… (các tiêu
chí thị phần và rào cản gia nhập doanh nghiệp sẽ được phân tích cụ thể trong
chương II). Hầu hết những nước đã xây dựng pháp luật cạnh tranh đều sử
dụng tiêu chí thị phần làm thước đo chính cho mức độ quyền lực thị trường.

Tuy vậy, thực tế cũng chỉ ra rằng rất khó đưa ra tiêu chí cụ thể để xác
định quyền lực thị trường của doanh nghiệp trong mọi trường hợp. Ví dụ ở
Mỹ, quyền lực độc quyền không được qui định trong văn bản luật nhưng Tòa

- 17 -
án thường xác định là “quyền kiểm soát giá cả thị trường hoặc loại trừ cạnh
tranh”. Thị phần không phải là yếu tố duy nhất được xem xét trong việc xác
định liệu quyền lực thị trường có tồn tại hay không. Các yếu tố khác, như là
không có rào cản gia nhập thị trường, có thể cho thấy một doanh nghiệp
không có quyền lực thị trường cho dù doanh nghiệp đó nắm giữ thị phần lớn
trong thị trường liên quan. Ví dụ trong vụ Michelin, Tòa án Cộng đồng Châu
Âu ra phán quyết rằng, căn cứ vào điều 82 Hiệp ước thành lập Cộng đồng
kinh tế Châu Âu (EEC) doanh nghiệp có quyền lực thị trường được hiểu là
sức mạnh kinh tế cho phép doanh nghiệp hành động độc lập với đối thủ cạnh
tranh và người tiêu dùng. Bên cạnh thị phần, lợi thế về mặt cấu trúc cũng rất
quan trọng. Ví dụ trong vụ United Brand, Tòa án Cộng đồng Châu Âu đã
phán quyết rằng: việc Công ty này có phạm vi liên kết dọc lớn và chiến lược
quảng cáo của nó chỉ nhằm vào một nhãn hiệu duy nhất là “Chiquita”, do đó
đã đảm bảo cho Công ty này một lượng khách hàng ổn định và rằng Công ty
đã kiểm soát được mọi giai đoạn của quá trình phân phối mà khi kết hợp với
nhau đã tạo cho Công ty một lợi thế vô cùng to lớn so với đối thủ cạnh tranh.
Kết quả là, quyền lực thị trường có được do sự kết hợp của rất nhiều yếu tố
mà nếu tách rời nhau, sẽ không có tính quyết định đến vậy [27, tr. 54].

Có quyền lực thị trường được hiểu là vị trí của không chỉ một doanh
nghiệp mà còn có thể là của một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Ở đây
rõ ràng muốn đề cập tới những thị trường có độ tập trung cao như trong
trường hợp độc quyền nhóm, khi mà một nhóm doanh nghiệp kiểm soát phần
lớn thị trường, do vậy các doanh nghiệp này có thể thống lĩnh và hành động
như một doanh nghiệp độc quyền.
Một vấn đề cần phải chú ý khi tìm hiểu quyền lực thị trường của doanh
nghiệp là bản thân quyền lực thị trường không phải là hạn chế cạnh tranh,
mặc dù vế tiếp theo của nó là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường luôn đi
kèm với doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Hiểu
rõ vấn đề này là rất cần thiết để có cách đánh giá và xử lý đúng đắn với doanh

- 18 -
nghiệp có quyền lực thị trường, tránh thái độ gộp chung cả doanh nghiệp có
quyền lực thị trường vào chung với doanh nghiệp có hành vi hạn chế cạnh
tranh, coi đó như những tiêu cực nguy hiểm cần phải xử lý triệt để. Nhưng
cũng phải thừa nhận một thực tế là khoảng cách giữa quyền lực thị trường và
hành vi lạm dụng quyền lực thị trường rất gần nhau.

Thực tiễn sinh động trong nền kinh tế thị trường ở nhiều quốc gia trên
thế giới đã chứng tỏ rằng, sự tồn tại của các doanh nghiệp có quyền lực thị
trường mang tính tất yếu khách quan trong quá trình tích tụ và tập trung tư
bản lâu dài ở môi trường cạnh tranh. Hơn thế, sự hình thành các doanh nghiệp
có quyền lực thị trường còn mang tính tự nhiên trong một số ngành kinh tế
mà sản xuất đòi hỏi chi phí cố định cao, qui mô sản xuất tối thiểu, hiệu quả
lớn, tạo ra rào cản tự nhiên cản trở sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp
tiềm năng. Mặt khác, sự hình thành các doanh nghiệp có địa vị thống trị thị
trường trong các ngành kinh tế khác còn do một số nguyên nhân như độc
quyền hợp pháp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm có đăng ký patent, do
lợi thế tuyệt đối về chi phí vận tải, do lợi thế tuyệt đối về nguyên vật liệu hoặc
các ngành mà nhà nước phải độc quyền vì lý do an ninh và xã hội [13, tr.
131]. Như vậy trên thương trường, đã và sẽ có các doanh nghiệp có quyền lực
thị trường do hoạt động có hiệu quả và phát triển không ngừng mà không cần
tới sự trợ giúp của công quyền, của chụp giật và thiếu lành mạnh. Đương
nhiên pháp luật không thể cấm hay hạn chế sự phát triển lành mạnh đó. Song
để duy trì cạnh tranh, pháp luật không thể không nhìn thấy trước nguy cơ tiềm
tàng của việc lạm dụng quyền lực thị trường của các doanh nghiệp này và dự
kiến các biện pháp xử lý khi chúng xuất hiện.
Nói đến quyền lực thị trường, không thể không nhắc tới cách tiếp cận
vấn đề này của nhiều môn khoa học kinh tế (đại diện là khoa học Marketing)
trong so sánh với pháp luật kiểm soát độc quyền. Nhìn qua tưởng như có sự
đối lập khi pháp luật kiểm soát độc quyền tìm cách kiểm soát hoặc hạn chế
doanh nghiệp có quyền lực thị trường, trong khi đó khoa học Marketing lại

- 19 -
tìm mọi cách để doanh nghiệp có càng nhiều quyền lực thị trường càng tốt.
Tuy nhiên mục đích của cả hai lại giống nhau. Pháp luật kiểm soát độc quyền
tiếp cận vấn đề từ mặt trái của nó, coi quyền lực thị trường và lạm dụng
quyền lực thị trường là nguy cơ rất lớn của hạn chế cạnh tranh nên cần phải
kiểm soát hoặc hạn chế để đảm bảo môi trường kinh doanh mang tính cạnh
tranh, các doanh nghiệp có điều kiện để phát huy tối đa năng lực của mình.
Khoa học Marketing tiếp cận vấn đề ở góc độ tích cực, đó là khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nói chung, không phải của một doanh nghiệp cụ thể
nào. Doanh nghiệp càng có khả năng cạnh tranh cao càng có lợi cho nền kinh
tế, càng thể hiện tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh do vậy cần được
nâng cao khả năng cạnh tranh cũng có nghĩa là nâng cao quyền lực thị trường.

Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường:


Bản thân từ “lạm dụng” đã chỉ rõ bản chất của khái niệm này. Đó
không phải là một hành vi mang ý nghĩa tích cực mà mang ý nghĩa tiêu cực,
không được khuyến khích và ủng hộ. Một doanh nghiệp có quyền lực thị
trường nếu sử dụng ưu thế này của mình vào những mục đích đúng đắn có lợi
cho người tiêu dùng thì luôn được khuyến khích vì lợi ích nó tạo ra lớn hơn
hẳn các doanh nghiệp không có quyền lực thị trường. Tuy nhiên khi doanh
nghiệp chỉ biết đến lợi ích của riêng mình, sử dụng ưu thế này vào mục đích
xấu, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và hạn chế cạnh tranh thì việc sử dụng
đó được gọi là lạm dụng.

Như vậy, lạm dụng quyền lực thị trường là hành vi của doanh nghiệp
có quyền lực thị trường sử dụng để bóc lột người tiêu dùng hoặc gây hạn chế
cạnh tranh nhằm duy trì hay tăng cường vị thế của nó trên thị trường.

Án lệ của Tòa án Châu Âu trong vụ United Brand (United Brand v.


Commission, Case 27/76 [1978] ECR 207, [1978] CMLR 429) cho rằng lạm
dụng quyền lực thị trường được hiểu như vị thế của sức mạnh kinh tế đạt
được có thể cho phép sự cản trở cạnh tranh hiệu quả trên thị trường xác định

- 20 -
bằng việc ảnh hưởng đáng kể đến tính độc lập của đối thủ cạnh tranh, khách
hàng và những người tiêu dùng cuối cùng.

Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường có thể là bất cứ hành vi nào của
doanh nghiệp có quyền lực thị trường với mục đích hạn chế cạnh tranh, bóc
lột người tiêu dùng. Tuy nhiên pháp luật cạnh tranh không thể liệt kê hết được
các hành vi này (điều này cũng phi thực tế) mà chỉ có thể liệt kê một số hành
vi tiêu biểu như: bán phá giá; phân biệt đối xử; ấn định gia bán lại; hạn chế
nhập khẩu song song; áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau trong giao
dịch như nhau; ngăn cản sự tham gia thị trường của đối thủ cạnh tranh mới…
(các hành vi làm dụng quyền lực thị trường tiêu biểu sẽ được phân tích cụ thể
tại chương II).
1.2.2. Đặc điểm của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường có một số đặc điểm sau:

* Chủ thể của hành vi phải là các chủ thể tham gia kinh doanh (như các
doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh… gọi chung là doanh nghiệp) mà không
phải là các chủ thể khác của luật cạnh tranh như hiệp hội ngành nghề, cơ quan
nhà nước… (nghĩa là các chủ thể không tham gia kinh doanh nhưng vẫn có
ảnh hưởng tới thị trường, tới cạnh tranh). Như vậy, chủ thể của hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường phải tham gia thị trường với tư cách là một lực
lượng thị trường. Các chủ thể khác đứng ngoài thị trường, không phải là lực
lượng thị trường dù có quyền lực tác động đến thị trường sẽ không được coi
là chủ thể của hành vi này.

Trường hợp đặc biệt. Có một loại chủ thể mà có thể hành vi của nó
cũng dẫn đến hạn chế cạnh tranh, gây hậu quả đối với cạnh tranh tương tự
như hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của doanh nghiệp đó là các cơ
quan nhà nước. Loại chủ thể này không được xếp vào nhóm chủ thể của hành
vi lạm dụng quyền lực thị trường nhưng hành vi của nó rất có ảnh hưởng đến
cạnh tranh, đặc biệt ở các nền kinh tế chuyển đổi. Nhiều tài liệu nghiên cứu
đặt tên cho hành vi gây hạn chế cạnh tranh của cơ quan nhà nước là “độc

- 21 -
quyền hành chính” (hoặc là sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước có được
do các quyết định hành chính mang lại).

* Hành vi lạm dụng là của doanh nghiệp có quyền lực thị trường, nếu
doanh nghiệp không có quyền lực thị trường sẽ không có loại hành vi này.
Đây là đặc trưng riêng có của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường bởi các
doanh nghiệp tham gia cartel không nhất thiết phải có quyền lực thị trường
cũng có thể thực hiện được các hành vi hạn chế cạnh tranh. Hoặc trong trường
hợp tập trung kinh tế cũng vậy, không nhất thiết các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế phải có quyền lực thị trường mà pháp luật chỉ quan tâm đến
kết quả của việc tập trung xem liệu có hình thành một thực thể mới có quyền
lực thị trường hay không.
* Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường luôn diễn ra trên một thị
trường xác định bởi vì đây là hành vi cụ thể của một hoặc một số doanh
nghiệp cụ thể chứ không phải là một hành vi chung chung, do đó nó phải thể
hiện ở trên một thị trường có thể xác định và nhận biết được. Trong khoa học
Marketing, thị trường được phân thành nhiều khúc khác nhau căn cứ vào
nhiều tiêu chí. Tuy nhiên cách phân loại này chỉ phục vụ cho việc bán hàng
của doanh nghiệp chứ không thể áp dụng để xác định hành vi lạm dụng quyền
lực thị trường được. Pháp luật cạnh tranh đã xây dựng một khái niệm về thị
trường để phục vụ cho công việc này, đó là “thị trường liên quan”. Chúng ta
sẽ xem xét cụ thể khái niệm này ở phần sau, trong Chương II.

* Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của doanh nghiệp luôn thể
hiện tính đơn phương, không có sự thỏa thuận hay hợp tác với bất cứ một
doanh nghiệp nào. Trường hợp nhóm doanh nghiệp có hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường thì cũng không phải họ đã thỏa thuận hay hợp tác với
nhau để thực hiện hành vi mà do họ với tư cách từng doanh nghiệp một thực
hiện hành vi lạm dụng quyền lực thị trường một cách riêng rẽ, tổng hợp sức
mạnh của họ sẽ tạo ra một chủ thể mang quyền lực thị trường có các hành vi
gây hạn chế cạnh tranh nên cần được kiểm soát. Nếu nhóm doanh nghiệp này

- 22 -
có sự thỏa thuận, liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh thì đó là thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi này được điều chỉnh bởi qui định kiểm
soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) chứ không phải qui định kiểm soát
lạm dụng quyền lực thị trường.
Đặc điểm này rất quan trọng để phân biệt hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) và tập trung kinh tế.
Trong nhiều trường hợp, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế
cũng có sự tham gia của một hay nhiều doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp có quyền lực thị trường nhưng chúng đều là kết quả của sự chủ động
bàn bạc, thống nhất phương hướng hành động.

* Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường là hành vi thực tế, nghĩa là nó
đã được doanh nghiệp thực hiện và có hậu quả làm hạn chế cạnh tranh trên thị
trường, bóc lột người tiêu dùng. Hành vi và hậu quả của hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường luôn luôn xuất hiện cùng lúc. Thoả thuận hạn chế cạnh
tranh và tập trung kinh tế dù đã xảy ra trên thực tế (Ví dụ: các doanh nghiệp
đã thoả thuận nâng gia bán, thu hẹp sản lượng sản xuất; hợp nhất doanh
nghiệp thành doanh nghiệp có thị phần lớn) nhưng hậu quả làm hạn chế cạnh
tranh chưa chắc đã xảy ra. Với ví dụ trên, trường hợp hậu quả chưa xảy ra là
khi các doanh nghiệp chưa kịp thực thi thoả thuận trên thị trường (nó vẫn chỉ
tồn tại trên giấy) thì bị cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện và xử lý; trường
hợp tập trung kinh tế mới làm xuất hiện một doanh nghiệp có thị phần lớn,
chưa có hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng vẫn bị xử lý vì nguy cơ doanh
nghiệp đó thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh là rất cao.

* Tính nguy hại của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường không chỉ
dừng lại ở chỗ gây ảnh hưởng bất lợi đối với doanh nghiệp cạnh tranh hay
người tiêu dùng như hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà nguy hại hơn,
nó tác động xấu đến môi trường cạnh tranh nói chung, làm ảnh hưởng xấu tới
lợi ích công cộng. Chính ảnh hưởng thứ hai mới là nguyên nhân chính để nhà
nước can thiệp. Sự can thiệp của nhà nước vì thế không cần đợi có chủ thể bị

- 23 -
ảnh hưởng tố cáo, khiếu kiện mà nhà nước can thiệp ngay khi phát hiện ra bởi
bất kỳ nguồn thông tin nào. Sự can thiệp của nhà nước ở mỗi quốc gia khác
nhau có sự khác nhau nhất định phụ thuộc vào sự nhìn nhận hành vi này.
Quốc gia xem trọng tính hiệu quả kinh tế thì hành vi lạm dụng quyền lực thị
trường sẽ được đánh giá bằng nguyên tắc hợp lý (rule of season). Nguyên tắc
này xem xét hành vi lạm dụng quyền lực thị trường có mang lại hiệu quả kinh
tế lớn hơn thiệt hại kinh tế do hạn chế cạnh tranh gây ra không, nếu lớn hơn
hành vi này có thể được chấp nhận. Quốc gia đề cao tính cạnh tranh của nền
kinh tế thì không cần xem xét hiệu quả kinh tế của hành vi lạm dụng quyền
lực thị trường mà chỉ cần biết hành vi đã xảy ra gây hạn chế cạnh tranh là bị
xử lý. Cách xử lý này thể hiện tính mặc nhiên nguy hại của hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường mà không thể có sự lý giải nào khác (rule of perse). Có
quốc gia kết hợp cả hai cách đánh giá nêu trên đối với hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường, với một số hành vi cụ thể thì áp dụng rule of season, còn
hành vi khác áp dụng rule of perse hoặc ngược lại.

* Việc xác định hành vi lạm dụng quyền lực thị trường mang tính
không triệt để về mặt nội dung. Không thể có một cách xác định rõ ràng về
hành vi này trong mọi trường hợp, điều duy nhất có thể khẳng định chỉ là tiêu
chí hạn chế cạnh tranh của nó (tiêu chí này cũng trừu tượng và khó xác định)
hoặc tiêu chí bóc lột người tiêu dùng một cách rõ ràng. Trong những trường
hợp cụ thể, tuỳ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà một hành vi
được xác định là có lạm dụng quyền lực thị trường hay không. Đây là đặc
trưng của pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật kiểm soát hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường nói riêng, vì các ngành luật khác khi xem xét một
hành vi cụ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật thường xác định rất rõ
ràng về mặt nội dung của hành vi đó tạo điều kiện cho sự điều chỉnh được
chính xác và hiệu quả cũng như tránh sự áp dụng tuỳ tiện của cơ quan có
thẩm quyền áp dụng luật.
1.3. Kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

- 24 -
1.3.1. Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường bắt
nguồn từ hậu quả xấu mà hành vi này gây ra đối với kinh tế, xã hôi. Hậu quả
của hành vi này cũng chính là hậu quả của độc quyền nói chung (vì hành vi
lạm dụng cũng là một dạng độc quyền cụ thể) nhưng mức độ có nghiêm trọng
hơn vì tính thực tế của hành vi và đặc điểm có quyền lực thị trường đáng kể
hoặc rất lớn của doanh nghiệp.

Sự tồn tại sức mạnh độc quyền sẽ làm cho nền kinh tế hoạt động kém
hiệu quả; giá sản phẩm luôn cao hơn gấp nhiều lần so với chi phí sản xuất;
chất lượng hàng hoá không được chú trọng đề cao; khi môi trường cạnh tranh
tích cực bị phá vỡ, áp lực của cạnh tranh không còn, nhu cầu chi phí sản xuất
tỏ ra không cần thiết và vì vậy, việc đổi mới áp dụng công nghệ mới cũng
không còn đáng quan tâm.

Tác hại lớn nhất của độc quyền là có khả năng ấn định một mức giá độc
quyền cao hơn nhiều so với chi phí sản xuất ra nó để thu lợi nhuận độc quyền.
Ở mức giá này, nhà độc quyền có thể sản xuất một khối lượng hàng hoá ít hơn
đòi hỏi nhu cầu xã hội, do đó, không những nó kìm hãm sự phát triển sản
xuất, mà còn gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Độc quyền theo xu hướng
giảm sản lượng, tăng giá bán hàng hoá gây tổn thất cho người sản xuất, người
tiêu dùng xã hội, đẩy người lao động đến tình trạng thất nghiệp và từ đó nhà
độc quyền có cơ hội để thuê công nhân một cách rẻ mạt hơn.

Hậu quả của độc quyền không chỉ gây ra những tác động tiêu cực đến
quá trình cạnh tranh, mà nghiêm trọng hơn, nó tạo ra sức ì rất lớn đối với
chính bản thân các doanh nghiệp độc quyền, làm tê liệt khả năng cạnh tranh,
dẫn tới sản xuất và thị trường trì trệ, vấn đề chế độ chính sách đối với người
lao động như tiền lương, việc làm, thu nhập, bảo hiểm... và công bằng xã hội
cũng bị ảnh hưởng. Không những thế, hậu quả của độc quyền còn thể hiện ở
chỗ làm cho lợi nhuận sản xuất kinh doanh chỉ tập trung vào tay một số
người, hoạt động sản xuất bị duy trì ở mức độ chi phí cao mà không có động

- 25 -
lực cắt giảm những chi phí sản xuất không cần thiết (những động lực này chỉ
xuất hiện khi có môi trường cạnh tranh). Nhu cầu tiêu dùng trong xã hội bị
khống chế, hạn hẹp do độc quyền phân phối hàng hoá, sản phẩm dịch vụ.

Ở nhiều quốc gia, mặc dù độc quyền đã bị điều tiết bởi việc đánh thuế
độc quyền và đem tái phân phối cho lợi ích công cộng, song hậu quả của độc
quyền gây ra vẫn khó có thể khắc phục. Đối với sản xuất, việc giảm sản lượng
đồng nghĩa với việc giảm sức sản xuất, lãng phí nguồn lực. Sản xuất dưới
mức bình thường gây tổn hại không thể phục hồi sự tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, việc lãng phí nguồn lực còn thể hiện ở các khía cạnh khác như để
giữ vị thế độc quyền, các nhà độc quyền đầu tư cho việc quảng cáo quá mức,
vận động hành lang, tăng chi phí nhập ngành... Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
và tính toán những mất mát về phúc lợi ở Mỹ do các nhà độc quyền giảm sản
xuất và bố trí sai lầm các nguồn lực là khoảng từ 0,5% đến 2% tổng thu nhập
quốc dân.

Các doanh nghiệp độc quyền luôn có xu hướng liên hệ và tranh thủ sự
ủng hộ của các cơ quan quản lý Nhà nước để bảo vệ vị thế độc quyền, tìm
kiếm các ưu đãi có tính phân biệt đối xử so với các chủ thể kinh doanh khác.
Điều này, làm xuất hiện nguy cơ tham nhũng, tha hoá trong bộ máy Nhà
nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, khi các Chaebol vượt ra ngoài
tầm kiểm soát, chúng quay trở lại khống chế, lôi kéo các quan chức, gây nạn
tham nhũng trầm trọng. Hàn Quốc cũng nhận được bài học lớn từ việc Nhà
nước thành lập và hỗ trợ các Chaebol. Điều này không những ảnh hưởng tiêu
cực đến cấu trúc thị trường, hạn chế cạnh tranh, mà còn làm méo mó bản chất,
giảm hiệu quả kinh tế ở chính các doanh nghiệp độc quyền.

Ảnh hưởng của độc quyền bao giờ cũng tác động trực tiếp đến hiệu quả
nền kinh tế, hạn chế việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện tượng độc
quyền còn dẫn đến tình trạng "cửa quyền" hay "đặc quyền" cho một nhóm
người có lợi ích và điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
sinh hoạt và sản xuất trong xã hội.

- 26 -
Tình hình ở Việt Nam

Mặc dù nền kinh tế thị trường nước ta còn non trẻ, quá trình tích lũy và
tập trung kinh tế chưa đủ để làm xuất hiện nhiều doanh nghiệp thực sự có
tiềm lực kinh tế mạnh, có vị trí thống lĩnh và độc quyền nhưng không thể nói
là hậu quả của độc quyền chưa rõ nét. Hậu quả của độc quyền ở Việt Nam có
đặc thù riêng của nền kinh tế chuyển đổi. Đó là sự chênh lệch về sức mạnh
kinh tế giữa các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước với sức mạnh
kinh tế áp đảo chiếm lĩnh hầu hết hoặc toàn bộ những thị trường lớn và quan
trọng (trong đó lại tập trung vào một số ít doanh nghiệp lớn – 96 tổng công ty
nhà nước với khoảng 1500 thành viên chiếm tới 60% tổng tài sản của toàn bộ
5800 doanh nghiệp nhà nước, đa số các doanh nghiệp này có vị trí thao túng
thị trường). Ở chiều ngược lại, chiếm số lượng áp đảo là doanh nghiệp dân
doanh nhưng đại đa số thuộc loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, nghĩa là
doanh nghiệp có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người [8, tr. 804]. Bên cạnh đó loại hình doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu có sức mạnh ngày càng tăng trên thị
trường dựa trên lợi thế về công nghệ, kinh nghiệm quản lý và vốn.

Với đặc điểm các thành phần kinh tế như vậy, điều dễ nhận thấy là
hành vi lạm dụng quyền lực thị trường và kiểu kinh doanh độc quyền chủ yếu
do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện, và việc thực hiện lại tương đối dễ
dàng khi doanh nghiệp nhà nước dù thế nào vẫn có sự ưu ái từ phía các cơ
quan chủ quản (cơ quan hành chính). Các hành vi này biểu hiện rất đa dạng,
có thể là phân biệt đối xử, giao dịch loại trừ, áp đặt giá hàng hóa, dịch vụ quá
cao hoặc làm ăn tắc trách… Thêm vào đó, tuy số lượng các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chưa nhiều nhưng với ưu thế của mình, các doanh
nghiệp này cũng đã có dấu hiệu lạm dụng quyền lực thị trường như bán phá
giá, tăng giá hàng hoá quá cao so với mức bình thường, quảng cáo và tiếp thị
nhằm độc quyền hóa… (P&G bán hàng mỹ phẩm giảm 75% giá so với giá
bình thường và chi tới 70% doanh thu cho quảng cáo; Coca-Cola với chiến

- 27 -
lược đem hàng trăm tấn sản phẩm biếu không và “thêm 50% nhưng giá không
đổi” [13]; “Đại gia” phân phối dược phẩm Zuellig Pharma độc quyền phân
phối hầu hết thuốc từ các nước G7 và tăng giá bán rất cao nhưng khéo che
giấu [36]…)
Một điểm nữa cần nhấn mạnh cho sự cần thiết phải kiểm soát hành vi
lạm dụng quyền lực thị trường ở Vịêt Nam hiện nay là: nền kinh tế phát triển
với tốc độ nhanh chóng đã hình thành ngày càng nhiều những doanh nghiệp
có tiềm lực thuộc các thành phần kinh tế, hơn thế còn có xu hướng khuyến
khích việc tập trung sức mạnh kinh tế vào một số doanh nghiệp lớn của Nhà
nước ta. Chính sách này có thể xuất phát từ tính hiệu quả kinh tế nhưng nó
cũng rất dễ trở thành con dao hai lưỡi đối với môi trường kinh doanh nước ta
nếu như không có sự chuẩn bị đối phó với những tình huống xấu có thể xảy ra
(Các Chaebol Hàn Quốc là minh chứng cụ thể cho trường hợp này). Cùng với
chính sách này của Nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới đã bắt đầu
tăng cường đầu tư vốn vào nước ta tạo nên những công ty có vốn đầu tư nước
ngoài lớn mạnh. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ mới 9 tuần đầu năm 2005,
tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được hơn 1,2 tỷ USD, Công ty liên doanh
Honda Việt Nam được chấp thuận điều chỉnh tăng vốn đầu tư để sản xuất và
lắp ráp xe hơi (tập đoàn Honda Việt Nam sẽ tăng từ 151,2 triệu USD lên
209,2 triệu USD), Yamaha Motor cũng đã đầu tư thêm 47,6 triệu USD xây
dựng nhà máy sản xuất phụ tùng, dự án hợp tác kinh doanh mạng điện thoại
CDMA tại Hà Nội với vốn đầu tư 655,9 triệu USD, dự án Coralis xây dựng
cao ốc 65 tầng tại Hà Nội có vốn đầu tư 114,6 triệu USD, dự án sản xuất giày
tại Đồng Nai của Pousung Việt Nam vốn đầu tư 190 triệu USD… [37].
1.3.2. Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

Để kiểm soát các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, Nhà nước có
thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, từ sử dụng các biện pháp hành chính
– kinh tế như chính sách thuế, quốc hữu hoá, kiểm soát giá cả, điều chỉnh độc
quyền… cho đến ban hành pháp luật cạnh tranh.

- 28 -
Chính sách thuế: Chính sách này được áp dụng vì lợi nhuận là mục
đích kinh doanh của doanh nghiệp nên doanh nghiệp lạm dụng quyền lực thị
trường để khai thác tối đa lợi nhuận trong thời gian dài. Để giải quyết các bất
hợp lý này, Nhà nước đánh thuế rất nặng vào các doanh nghiệp lạm dụng
quyền lực thị trường nhằm điều tiết thu nhập và khi lợi nhuận của doanh
nghiệp cũng không hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành là mấy, doanh
nghiệp (gồm cả các doanh nghiệp khác) sẽ từ bỏ ý định lạm dụng quyền lực
thị trường mà mình có. Tuy nhiên biện pháp này cũng có hạn chế với doanh
nghiệp có quyền lực thị trường ở mức độ nhất định, thuế đánh càng cao họ sẽ
nâng giá càng cao, điều này làm cho mục đích đánh thuế không đạt được hiệu
quả.

Kiểm soát giá cả: Mục tiêu chính của kiểm soát giá cả là Nhà nước
ngăn cấm và giảm bớt quyền định giá của các doanh nghiệp có quyền lực thị
trường nhằm khắc phục tình trạng các doanh nghiệp lạm dụng vị thế này để
tăng, giảm giá tuỳ tiện gây thiệt hại cho người sản xuất, người tiêu dùng và
lợi ích xã hội. Biện pháp này nếu được sử dụng cũng phải rất cẩn thận vì nó
có thể làm mất tính linh hoạt của thị trường hay cản trở quá mức vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.

Điều chỉnh độc quyền: Là sử dụng một số biện pháp mang tính Nhà
nước nhằm ngăn cản sự lạm dụng quá mức quyền lực thị trường của doanh
nghiệp như: Quy định về hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi ích của các
doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Quy định rõ các danh mục và số lượng
sản phẩm được phép sản xuất và lưu thông. Quy định các điều kiện để khống
chế đầu vào, đầu ra, tiêu chuẩn và chất lượng hàng hoá, dịch vụ, giá cả sản
phẩm...

Quốc hữu hoá các doanh nghiệp độc quyền ở một số lĩnh vực trong nền
kinh tế: Đây là biện pháp được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên, việc áp dụng đối với các doanh nghiệp trong một nền kinh tế thì
cần phải hạn chế, chỉ áp dụng trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thật

- 29 -
cần thiết. Thông thường, giải pháp quốc hữu hoá được áp dụng đối với các
doanh nghiệp độc quyền tự nhiên (là loại doanh nghiệp độc quyền hình thành
do những nguyên nhân hợp pháp hoặc sự hình thành doanh nghiệp độc quyền
là không thể khác được vì lợi ích của nó đối với xã hội) nhằm bảo đảm cung
ứng các loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cho xã hội một cách bình thường,
đặc biệt là những ngành, những vùng mà ở đó khó có thể tồn tại tính cạnh
tranh do hiệu quả kinh tế mang lại không cao.

Các biện pháp mang tính hành chính – kinh tế đã lý giải vì sao có
những trường hợp ngoại lệ trong việc xử lý vấn đề lạm dụng quyền lực thị
trường bằng biện pháp pháp luật, bởi vì dù ít nhiều thì mỗi biện pháp đều có
những ưu thế nhất định mà không có biện pháp nào có thể thay thế được. Do
đó, nó được lựa chọn áp dụng trong một số những trường hợp cụ thể.
Trong số các biện pháp Nhà nước có thể can thiệp để kiểm soát hành vi
lạm dụng quyền lực thị trường thì biện pháp ban hành pháp luật mang ý nghĩa
hiệu quả nhất xuất phát từ chính các thuộc tính của pháp luật. Pháp luật kiểm
soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường chỉ là một bộ phận nhỏ của pháp
luật cạnh tranh nói chung. Nó là bộ phận ra đời muộn hơn so với bộ phận
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh vì lý do phải có quá trình các
doanh nghiệp mới tập trung được sức mạnh kinh tế, trên cơ sở đó doanh
nghiệp mới thực hiện được hành vi lạm dụng và lúc này pháp luật cần được
ban hành để điều chỉnh.

- 30 -
CHƢƠNG 2:
CÁC TIÊU CHÍ CƠ BẢN ĐỂ XÁC ĐỊNH
HÀNH VI LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

Trong Chương này, Luận văn tập trung phân tích các tiêu chí cơ bản để
nhận diện hành vi lạm dụng quyền lực thị trường. Những tiêu chí này gắn liền
với hành vi lạm dụng quyền lực thị trường và là biểu hiện, là môi trường tồn
tại của hành vi này. Có thể nói, nếu không nhận diện được các tiêu chí này thì
cũng không thể nhận diện được hành vi lạm dụng quyền lực thị trường là như
thế nào, mức độ và biểu hiện ra sao. Như vậy sẽ không có cơ sở cho việc điều
chỉnh pháp luật đối với hành vi lạm dụng quyền lực thị trường.
2.1. Thị trường liên quan

Như đã phân tích ở phần trước, hành vi lạm dụng quyền lực thị trường
phải diễn ra trên một thị trường xác định. Theo pháp luật cạnh tranh, thị
trường này được gọi là thị trường liên quan. Thị trường liên quan là khái niệm
được sử dụng chung cho việc đánh giá các doanh nghiệp độc quyền nói chung
(bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng quyền lực thị trường, tập
trung kinh tế), không nhất thiết chỉ áp dụng cho việc đánh giá doanh nghiệp
lạm dụng quyền lực thị trường. Xác định thị trường là nhiệm vụ đầu tiên và
quan trọng nhất trong các phân tích về cạnh tranh. Tất cả các tính toán, đánh
giá và phán xét về hành vi kinh doanh của doanh nghiệp độc quyền và tác
động của nó đều phải dựa vào qui mô và loại thị trường liên quan. Trong
trường hợp lạm dụng quyền lực thị trường, nếu thị trường nhỏ mà doanh
nghiệp có thị phần lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp có quyền lực thị trường hay
có được vị trí hành động độc lập rất cao mà không cần quan tâm đến phản
ứng của đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Ngược lại, thị trường lớn mà
doanh nghiệp có thị phần nhỏ thì không thể coi doanh nghiệp có quyền lực thị
trường để lạm dụng hoặc nếu có quyền lực thị trường thì mức độ cũng chỉ

- 31 -
tương đối, doanh nghiệp không thể độc lập cao trong hành động của mình mà
không chú ý đến phản ứng của các bên bị ảnh hưởng.

Thị trường liên quan, nơi cung cầu tương tác với nhau tạo ra một khuôn
khổ cho việc phân tích nhân tố nào gây hạn chế cạnh tranh mà các doanh
nghiệp đang phải đối mặt. Mục tiêu trong việc xác định thị trường liên quan là
xác định các doanh nghiệp, trong một thời gian xác định, đang cạnh tranh với
nhau với cùng một sản phẩm hay trên cùng một khu vực địa lý nhất định, từ
đó biết được liệu các doanh nghiệp có thể khống chế một cách hiệu quả giá cả
của doanh nghiệp được coi là độc quyền không. Nói cách khác, việc xác định
thị trường liên quan của doanh nghiệp là xác định những đối thủ cạnh tranh có
tác động đến hành vi của doanh nghiệp, ngăn cản doanh nghiệp hành động
bằng áp lực cạnh tranh. Theo phân tích trên có thể thấy hai bộ phận quan
trọng hợp thành thị trường liên quan là thị trường sản phẩm liên quan và thị
trường địa lý liên quan, ngoài ra thị trường ở phương diện thời gian cũng là
một bộ phận quan trọng trong những trường hợp nhất định.
Trước khi phân tích kỹ hơn về thị trường liên quan, chúng ta khảo sát
qua về cách phân chia thị trường của khoa học Marketing để hiểu rõ hơn mục
đích của việc xây dựng khái niệm này. Khoa học Marketing sử dụng khái
niệm phân khúc thị trường để phân chia thị trường cho mục đích nghiên cứu
của mình, theo đó phân khúc thị trường là chia thị trường không đồng nhất
thành các khúc thị trường đồng nhất để làm nổi rõ lên sự khác biệt về nhu
cầu, tính cách hay hành vi. Điều này cho phép doanh nghiệp biết rõ các khúc
thị trường để từ đó đưa ra được chiến lược marketing – mix (là tập hợp các
công cụ marketing mà doanh nghiệp lựa chọn để đạt được mục tiêu trong
trong một thị trường đã chọn, gồm 4 công cụ là sản phẩm, giá, phân phối và
xúc tiến) thích hợp cho từng khúc thị trường [28, tr. 85].

Có rất nhiều tiêu thức để khoa học Marketing dựa vào đó để phân khúc
thị trường. Phân khúc theo khu vực địa lý, phân khúc theo dân số, phân khúc
theo tâm lý khách hàng, phân khúc theo hành vi mua hàng… Sau khi phân

- 32 -
khúc thị trường, doanh nghiệp sẽ đánh giá từng phân khúc và chọn ra những
thị trường phù hợp với tiềm lực của mình, có khả năng mang lại lợi nhuận cao
để làm thị trường mục tiêu (là thị trường mà doanh nghiệp sẽ tập trung tham
gia để kinh doanh).
Như vậy, khoa học Marketing phân khúc thị trường nhằm mục đích
chọn ra một phần thị trường nhất định có các đặc điểm tương tự nhau để tham
gia kinh doanh nhằm tận dụng triệt để các nguồn lực của mình phù hợp với
khúc thị trường này cho việc thu lợi nhuận tối đa. Cách phân khúc thị trường
này không thể hiện chính xác môi trường cạnh tranh mà các doanh nghiệp
phải đương đầu, nó chỉ thể hiện môi trường tiêu thụ hàng hóa của doanh
nghiệp, thông qua đó doanh nghiệp có thể bán hàng một cách tốt nhất. Điều
này cho phép chúng ta đi đến kết luận là cần phải xây dựng một khái niệm thị
trường riêng cho pháp luật kiểm soát độc quyền nói chung và hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường nói riêng. Không thể máy móc áp dụng cách phân
loại thị trường của những ngành khoa học khác được.
2.1.1. Thị trường sản phẩm liên quan

Thị trường sản phẩm liên quan được định nghĩa thông qua quá trình xác
định phạm vi sản phẩm thay thế cho một sản phẩm cụ thể do các doanh
nghiệp giả định vi phạm pháp luật kiểm soát độc quyền cung cấp. Theo giải
thích của Tòa án tối cao Mỹ “thị trường được tạo thành từ những sản phẩm có
khả năng thay thế lẫn nhau một cách hợp lý và được sản xuất ra vì mục đích
giá cả, giá trị sử dụng và chất lượng”. Trong luật cạnh tranh của Ấn Độ, thị
trường hàng hóa liên quan là thị trường gồm các hàng hóa và dịch vụ mà
người tiêu dùng có thể chuyển đổi hoặc có thể thay thế được cho nhau vì đặc
điểm giá cả, công dụng của hàng hóa dịch vụ đó [27, tr. 29]. Nói cách khác,
xác định thị trường sản phẩm liên quan là xác định sản phẩm trên một thị
trường nhất định, mục tiêu của nó là bản thân sản phẩm hàng hoá được trao
đổi.

- 33 -
Có một định nghĩa khác về thị trường sản phẩm liên quan là: Một sản
phẩm hoặc nhóm sản phẩm được mua bán trên một khu vực địa lý nhất định
với giả thiết rằng doanh nghiệp vì mục đích lợi nhuận tối đa, là chỉ có một
doanh nghiệp bán các sản phẩm đó có thể nâng giá lên một lượng nhỏ nhưng
đáng kể trên mức cân bằng của thị trường trong một khoảng thời gian dài
[26].

Một cách khái quát nhất, các định nghĩa đều thể hiện một đặc điểm cực
kỳ quan trọng của thị trường sản phẩm liên quan là “khả năng thay thế của
hàng hóa này đối với hàng hóa kia một cách hợp lý”. Đặc điểm này có ý
nghĩa xác định các loại hàng hóa của thị trường sản phẩm liên quan, xác định
những loại hàng hóa có thể cạnh tranh với hàng hóa của doanh nghiệp đang
được xác định thị trường sản phẩm liên quan. Một doanh nghiệp được xác
định có thị trường sản phẩm liên quan đối với một sản phẩm của doanh
nghiệp chỉ trong phạm vi sản phẩm đó nếu không có sản phẩm nào khác có
thể thay thế cho nó một cách hợp lý (không có hàng hóa nào khác có thể cạnh
tranh được với nó), hoặc nếu có một hay một số sản phẩm khác có thể thay
thế được cho nó thì thị trường sản phẩm liên quan của doanh nghiệp được xác
định mở rộng ra, bao gồm cả một hay một số hàng hóa đó (các hàng hóa có
khả năng cạnh tranh với sản phẩm của doanh nghiệp đang được xác định thị
trường sản phẩm liên quan). Để đánh giá được vấn đề này thực không dễ, đây
là vấn đề rất phức tạp, đặc biệt khi muốn xây dựng một công thức chung cho
việc đánh giá đặc điểm này.

Vậy, thực chất của quá trình xác định thị trường sản phẩm liên quan là
gì? Đó chính là quá trình giải đáp câu hỏi “thế nào là khả năng thay thế của
hàng hóa này đối với hàng hóa kia một cách hợp lý”. Trả lời được câu hỏi này
sẽ cho ta cái nhìn toàn diện về thị trường sản phẩm liên quan, không những
thế nó còn cho ta biết cách thức cơ bản để xác định thị trường sản phẩm liên
quan.

- 34 -
Để trả lời câu hỏi này, công việc xác định thị trường sản phẩm liên
quan sẽ bắt đầu bằng cách giả thiết rằng có một nhà độc quyền trên một thị
trường tạm thời đối với một sản phẩm nào đó. Khi đó ta có thể đặt câu hỏi,
nếu nhà độc quyền giả định tăng giá sản phẩm lên một “mức nhỏ nhưng đáng
kể” trong một khoảng thời gian dài thì liệu số lượng người mua nhất định có
chuyển sang những sản phẩm khác để làm cho việc tăng giá sản phẩm đó
không mang lại lợi nhuận cho nhà độc quyền hay không? Nếu tồn tại những
sản phẩm thay thế như vậy, những sản phẩm đó sẽ được đưa vào thị trường
sản phẩm mới tạm thời. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới khi không thể xác
định được sản phẩm thay thế gần gũi nào và thị trường sản phẩm tạm thời đã
xác định sẽ được kết luận là thị trường sản phẩm liên quan. Như vậy cần phải
đi sâu vào các yếu tố chính của quá trình này, đó là: tăng giá, phản ứng của
người mua và sản phẩm thay thế.

Tăng giá

Việc tăng giá giả thiết chỉ ảnh hưởng tới sản phẩm trên thị trường tạm
thời, giá của sản phẩm đang xem xét để xác định thị trường sản phẩm liên
quan có thể tăng nhưng giá của các sản phẩm thay thế vẫn ổn định. Điều này
nhằm mục đích loại trừ sự tăng giá do nguyên nhân lạm phát. Việc tăng giá
cũng được giả thiết phải lâu dài, tức là dự kiến sẽ tiếp tục trong tương lai có
thể nhìn thấy trước như vậy mới có thể đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng
của việc tăng giá. Người mua hầu như không có phản ứng với sự thay đổi về
giá trong ngắn hạn và cần phải chú ý rằng việc tăng giá tạm thời không làm
hại nhiều tới người tiêu dùng [26, tr. 41].

Tăng giá với một mức độ như thế nào thì được coi là đáng kể? Tăng giá
với mức độ rất lớn có được coi là phương pháp để đo phản ứng của người tiêu
dùng không? Nói chung việc tăng giá có thể là nhỏ nhưng được gọi là đáng kể
khi người mua vì sự tăng giá này mà phản ứng chuyển sang mua sản phẩm
khác thay thế hợp lý cho sản phẩm tăng giá. Mức tăng giá nhỏ nhưng đáng kể
thường được tính toán theo tỉ lệ phần trăm (%), Mỹ và Canada sử dụng mức

- 35 -
tăng giá từ 5% trở lên trong hầu hết các trường hợp [26, tr. 41]. Việc tăng giá
cũng có giới hạn của nó, không phải cứ tăng giá với mức độ bất kỳ, người
mua phản ứng chuyển sang sản phẩm khác là kết luận đó chính là sản phẩm
thay thế và đưa vào thị trường sản phẩm liên quan. Bởi vì khi một sản phẩm
tăng giá rất cao, nó tạo ra phản ứng của người tiêu dùng nhưng không phản
ánh chính xác phản ứng của người tiêu dùng cho mục đích xác định thị trường
sản phẩm liên quan. Phản ứng của người tiêu dùng khi này không phải là
chuyển sang sản phẩm khác có thể thay thế hợp lý cho sản phẩm tăng giá mà
là thay đổi nhu cầu tiêu dùng của mình, có thể họ từ bỏ nhu cầu mua sản
phẩm tăng giá hoặc thay đổi nhu cầu mua sản phẩm tăng giá bằng mua sản
phẩm khác đáp ứng nhu cầu khác. Do đó không thể coi sản phẩm mà người
tiêu dùng chuyển sang mua là sản phẩm thay thế của sản phẩm tăng giá được,
nếu coi như vậy sẽ là một sai lầm trong việc xác định những mặt hàng có thể
cạnh tranh được với sản phẩm tăng giá.

Phản ứng của người mua


Không phải tất cả mọi người mua đều có phản ứng sẵn sàng chuyển
sang những mặt hàng thay thế gần với nó, có những đặc điểm nhất định của
từng nhóm người mua đối với sản phẩm tạo ra những phản ứng khác nhau đối
với việc tăng giá. Ví dụ, nhóm khách hàng có thu nhập cao hầu như ít có thay
đổi với sự tăng giá ở mức bình thường của thị trường hàng tiêu dùng (quần
áo, giày dép…) có nhãn hiệu nổi tiếng, trong khi đó nhóm khách hàng có thu
nhập trung bình hoặc thấp rất dễ phản ứng đối với sự tăng giá của các mặt
hàng này; Đối với sản phẩm xe máy thì nhóm khách hàng Hà Nội ít có phản
ứng hơn đối với sự thay đổi giá của các loại xe máy mang nhãn hiệu nổi tiếng
so với sự phản ứng của người tiêu dùng trong Nam , nếu giá tăng ở mức đáng
kể, người tiêu dùng trong Nam sẵn sàng chuyển sang sử dụng các loại xe máy
chất lượng thấp hơn do Trung Quốc sản xuất; Người mua là nhà sản xuất thì
phản ứng đối với thay đổi về giá của sản phẩm thấp hơn nhiều lần đối với
phản ứng của người mua là người tiêu dùng…

- 36 -
Với đặc điểm nêu trên, trước khi điều tra phản ứng của người tiêu dùng
cần phải đánh giá xem những nhóm khách hàng nào là đại diện chủ yếu cho
sản phẩm, qua đó chú trọng vào phân tích phản ứng của họ đối với sự tăng
giá. Đây là công việc rất quan trọng, có mục đích tránh tình trạng quá thiên
lệch vào những nhóm khách hàng không đại diện cho sản phẩm, bởi như vậy
phản ứng của họ không chắc đã là phản ứng của đa số khách hàng sử dụng
sản phẩm, có khi đó chỉ là phản ứng của số ít người sử dụng sản phẩm.

Trong cuộc điều tra, có bao nhiêu người tiêu dùng phản ứng với sự tăng
giá là đủ để kết luận sản phẩm thay thế thuộc thị trường sản phẩm liên quan?
Để tính số lượng người như vậy chỉ có cách là tính tỉ lệ phần trăm số người
phản ứng chuyển sang mua sản phẩm khác thay thế trên số lượng người tiêu
dùng được điều tra. Tỉ lệ phần trăm số người người này là bao nhiêu? 30%?
40%? hay 50% hoặc hơn? khó có thể trả lời câu hỏi này một cách chính xác
tuy nhiên mức nên áp dụng nhất là trên 50% bởi như vậy nó thể hiện rõ nhất
phản ứng của đa số người tiêu dùng. Một câu hỏi khác đặt ra là số lượng
người được điều tra là bao nhiêu? về nguyên tắc, số lượng người được điều
tra càng nhiều thì mức độ chính xác càng lớn, nếu số người được điều tra là
toàn bộ khách hàng thì đó là một điều lý tưởng. Tuy nhiên điều đó lại không
thực tế nên cần phải lựa chọn một con số cụ thể tối thiểu, con số này có ý
nghĩa vừa giúp cho cơ quan quản lý cạnh tranh thực hiện được công việc điều
tra, vừa đảm bảo thể hiện chính xác phản ứng người tiêu dùng nói chung trên
thị trường liên quan.

Sản phẩm thay thế

Sản phẩm thay thế phải hợp lý, tức là sản phẩm thay thế phải có giá cả,
tính năng sử dụng và chất lượng có mối lên hệ mật thiết (tính tương đồng) với
sản phẩm tăng giá. Không thể có sản phẩm thay thế nếu nó khác xa sản phẩm
tăng giá về các tiêu chí trên. Ví dụ: tivi không thể là mặt hàng thay thế của
máy bơm nước cũng như đồ trang sức không thể là sản phẩm thay thế của
quần áo thông thường. Một số trường hợp, nhãn hiệu cũng như kiểu dáng và

- 37 -
một số đặc tính khác của sản phẩm (kiểu kinh doanh độc đáo…) cũng có ảnh
hưởng nhất định tới phản ứng của người mua khi lựa chọn sản phẩm thay thế.

Như thế nào thì các tiêu chí giá cả, tính năng sử dụng, chất lượng sản
phẩm thay thế được coi là “tương đồng” với sản phẩm tăng giá? Vấn đề này
rất khó xác định được rõ ràng về mặt định lượng mà phải căn cứ từng trường
hợp cụ thể cũng như căn cứ vào truyền thống của thị trường để xác định. Các
sản phẩm trên thị trường liên quan không nhất thiết phải thay thế hoàn hảo
cho nhau, không nhất thiết chất lượng phải giống nhau, không nhất thiết có
một mức giá giống hệt nhau hay không nhất thiết phải có công dụng tương tự
nhau. Điều quan trọng là trong trường hợp cụ thể, người mua nghĩ rằng nó có
thể thay thế được cho nhau để đáp ứng nhu cầu không đổi của mình và phản
ứng bằng cách chuyển sang mua hoặc sẽ chuyển sang mua ngay sản phẩm
thay thế đó.

Có một phương pháp mang tính kinh tế thuần túy để xác định thị
trường sản phẩm liên quan là áp dụng cách tích độ co dãn chéo của cầu. Cách
này không phải được áp dụng nhiều mà nó chỉ là phương pháp bổ trợ cho
cách xác định của pháp luật cạnh tranh, hoặc có thể là phương pháp độc lập
trong những trường hợp cần thiết. Nói chung, cũng khó có thể đưa ra một
hoặc các điều kiện theo đó phương pháp tính độ co dãn chéo của cầu được áp
dụng. Vấn đề này chỉ có thể được kiểm nghiệm trên thực tế khi có những
hành vi lạm dụng quyền lực thị trường xảy ra và tùy tình hình cụ thể, cơ quan
quản lý cạnh tranh sẽ phải quyết định.
2.1.2. Thị trường địa lý liên quan

Thị trường địa lý liên quan được xác định bởi quan điểm của người
mua về khả năng thay thế của những sản phẩm được sản xuất hay được bán
tại những địa điểm khác nhau. Nếu người mua mua một sản phẩm tại vị trí
này chuyển sang mua sản phẩm đó tại một địa điểm khác để phản ứng với
một sự tăng giá đáng kể và có ý nghĩa trong một thời gian không mang tính
nhất thời, khi đó hai địa điểm nằm trong cùng một thị trường địa lý liên quan.

- 38 -
Mặt khác, nếu người mua không có phản ứng chuyển sang mua sản phẩm tại
địa điểm khác trong trường hợp nêu trên thì hai địa điểm đó không thuộc một
thị trường địa lý liên quan [26, tr. 47].

Luật cạnh tranh Ấn Độ xác định thị trường địa lý liên quan là thị trường
của các khu vực mà các điều kiện cạnh tranh về cung cấp hàng hóa hay dịch
vụ hoặc nhu cầu về hàng hóa có tương đồng rõ rệt và có thể phân biệt với các
điều kiện chủ yếu của các thị trường lân cận [27, tr. 29]. Thị trường địa lý
cũng được hiểu là một khu vực trong đó người cung cấp một sản phẩm, dịch
vụ cụ thể hoạt động mà không gặp phải sự trở ngại đáng kể nào.

Xác định thị trường địa lý liên quan cũng là cách xác định khả năng
thay thế về sản phẩm nhưng không phải là khả năng thay thế của sản phẩm
này cho sản phẩm kia như trong thị trường sản phẩm liên quan mà là khả
năng thay thế của sản phẩm ở địa điểm này với sản phẩm ở địa điểm khác.
Cách xác định thị trường địa lý liên quan cũng dựa vào giả định có một sự
tăng giá nhỏ nhưng đáng kể của một sản phẩm trong một thời gian hợp lý như
trong cách xác định thị trường sản phẩm liên quan. Các sản phẩm được nhắc
tới ở đây phải là sản phẩm trong cùng một thị trường sản phẩm liên quan, nếu
không phải là sản phẩm trong cùng một thị trường sản phẩm liên quan sẽ
không thể có sự cạnh tranh với nhau trong cùng một địa điểm chứ chưa nói đó
là ở hai hoặc nhiều địa điểm khác nhau. Như vậy muốn xác định thị trường
địa lý liên quan trước hết phải xác định được thị trường sản phẩm liên quan.

Trong thực tế, giới hạn của các thị trường địa lý liên quan thường được
xác định bằng các chi phí vận tải, thời gian vận chuyển, thuế quan và các rào
cản khác. Ví dụ, thị trường cát, sỏi và các sản phẩm khác nặng nhưng có giá
thị thấp thường là những thị trường khá nhỏ về khu vực địa lý vì chi phí vận
chuyển với quãng đường dài là rất lớn so với giá thành sản phẩm. Chi phí vận
chuyển còn có thể ảnh hưởng gián tiếp đến việc giới hạn của thị trường địa lý
liên quan. Ví dụ, nhà sản xuất máy móc tinh vi và đắt tiền mà có thể vận
chuyển ở khoảng cách xa. Tuy nhiên họ cũng khó bán cho khách hàng ở nơi

- 39 -
xa đó được vì chi phí cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật như đưa các
chuyên viên kỹ thuật đến chỗ người mua, duy trì kho chứa linh kiện thay thế
tại địa điểm xa đó là rất cao. Thời gian cần thiết để vận chuyển một sản phẩm
dễ hỏng đối với quãng đường xa cũng có thể giới hạn qui mô của thị trường
địa lý liên quan.

Thuế quan và các rào cản gia nhập khác cũng có thể là nhân tố cản trở
sự mở rộng của thị trường địa lý liên quan. Nếu nhà sản xuất nước ngoài phải
chịu thuế, tăng chi phí, giá thành đối với sản phẩm của họ, có thể người tiêu
dùng trong nội địa sẽ không mua hàng của họ nữa. Khi đó thị trường địa lý
liên quan sẽ không thể mở rộng ra ngoài thị trường nội địa. Các qui định như
bảo vệ sức khỏe, an toàn vệ sinh dịch tễ hoặc các đòi hỏi về giấy phép… cũng
là các rào cản cho thị trường địa lý liên quan. Các rào cản cho việc mở rộng
thị trường địa lý liên quan thực chất cũng là các rào cản cho sự gia nhập thị
trường của doanh nghiệp. Thị trường địa lý liên quan không nhất thiết phải
tương ứng với ranh giới chính trị hay hành chính cũng không nhất thiết là các
vùng có sự tiếp giáp nhau, đó có thể là những vùng tách biệt hẳn với nhau về
mặt không gian như thị trường Hà Nội và thị trường Tp Hồ Chí Minh…
2.1.3. Thị trường liên quan ở phương diện thời gian

Đối với những hàng hoá, dịch vụ xuất hiện liên tục trên thị trường thì
vấn đề này không được đặt ra. Tuy nhiên có một số loại hàng hoá, dịch vụ chỉ
xuất hiện vào những thời điểm nhất định, và khi chúng xuất hiện thì không có
bất cứ một sản phẩm liên quan nào cạnh tranh với nó, ngược lại khi chúng
không có trên thị trường thì mới có sự xuất hiện và có mặt của những sản
phẩm liên quan. Do vậy, những loại hàng hoá, dịch vụ này có thể trong cùng
thị trường sản phẩm liên quan, trong cùng thị trường địa lý liên quan nhưng
nếu không xuất hiện và có mặt cùng thời điểm trên thị trường và không cạnh
tranh với nhau được do tính độc lập tại thời điểm đó thì chúng cũng không thể
nằm trong thị trường liên quan để xác định hành vi cạnh tranh.

- 40 -
Khi xác định thị trường liên quan ở phương diện thời gian cần chú ý
rằng tuy các sản phẩm không xuất hiện cùng thời điểm nhưng nếu chúng vẫn
có sự ảnh hưởng cạnh tranh tới các sản phẩm liên quan xuất hiện ở thời điểm
khác thì vẫn phải xếp chúng vào thị trường liên quan. Ví dụ: quả vải Bắc
Giang chỉ xuất hiện một đến hai tháng trong năm, tuy nhiên ngoài thời gian
này quả vải nhập khẩu từ Thái Lan có mặt trên thị trường và được người tiêu
dùng đón nhận dẫn đến nhu cầu của họ giảm khi đến mùa vải Bắc Giang.
Trường hợp này được coi là vẫn có sự cạnh tranh của vải Thái Lan nhập khẩu
đối với vải Bắc Giang cho dù chúng không xuất hiện và có mặt cùng thời
điểm vì nhu cầu người tiêu dùng về số lượng vải không thay đổi nhiều nhưng
về thời gian đáp ứng nhu cầu họ có thể chấp nhận thay đổi mà không thấy có
sự phiền toái nào.

2.1.4. Một số chú ý khi xác định thị trường liên quan

* Thị trường độc quyền của người mua: Sức mạnh thị trường cũng
được tạo ra từ phía người mua. Đối với vấn đề này, chúng ta cũng sử dụng
phương pháp xác định thị trường liên quan như trên, nhưng câu hỏi được đặt
ngược lại cho người bán khi xác định quyền lực thị trường.

Việc sử dụng sức mạnh độc quyền của người mua dẫn tới giá giảm
xuống thấp hơn mức giá cạnh tranh. Do vậy khi xác định thị trường sản phẩm
liên quan, người ta giả thiết rằng một người mua độc quyền tiến hành giảm
giá xuống một mức nhỏ nhưng đáng kể trong một khoảng thời gian dài, khi
đó câu hỏi đặt ra là liệu số người bán đáng kể có chuyển sang cung cấp những
sản phẩm thay thế khác không. Nếu câu trả lời là có thì thị trường phải được
mở rộng ra bao gồm cả những sản phẩm thay thế đó. Khi xác định thị trường
địa lý, người ta đặt câu hỏi sau khi có một sự giảm giá do người mua độc
quyền gây ra, liệu một số lượng đáng kể người bán có chuyển sang bán sản
phẩm của mình trên những thị trường địa lý khác không. Nếu câu trả lời là có
thì thị trường địa lý liên quan bao gồm cả những địa điểm thay thế đó.

- 41 -
Ví dụ khá điển hình về sức mạnh độc quyền của người mua ở những
nền kinh tế chuyển đổi và trong những nền kinh tế đang phát triển là lĩnh vực
nông sản và chế biến nông sản. Giả định có một nhà sản xuất, chế biến thịt bò
trong khi có nhiều người nông dân bán bò cho nhà máy này. Nếu nhà máy
quyết định giảm giá thịt bò mua của nông dân xuống một mức đáng kể trong
một thời gian dài, câu hỏi đặt ra là liệu sự giảm giá này có làm cho nhiều
người nông dân quyết định không bán thị bò nữa mà chuyển sang bán thịt lợn
cho nhà máy hay không. Nếu câu trả lời là có, chúng ta phải đưa thịt lợn vào
thị trường sản phẩm liên quan cùng với thịt bò. Câu hỏi tương tự cũng đặt ra
đối với thị trường địa lý: liệu người nông dân đáng kể nuôi bò có chuyển sang
bán cho người chế biến nơi khác không?

* Nguyên tắc xác định thị trường liên quan bao giờ cũng theo “nguyên
tắc thị trường nhỏ nhất” [26, tr. 40]. Nghĩa là khi xác định thị trường sản
phẩm liên quan, đầu tiên phải giả thiết rằng có một sản phẩm duy nhất đang
xem xét thuộc thị trường sản phẩm liên quan. Tiếp tục, thị trường sẽ được mở
rộng dần với những sản phẩm thay thế của nó cho đến khi không thể xác định
được sản phẩm nào khác có thể thay thế cho nó được nữa. Khi xác định thị
trường địa lý liên quan, tương tự, ta cũng xác định một địa điểm nhỏ nhất có
thể, và sau đó mở rộng ra các khu vực địa lý tiếp theo nơi sản phẩm có thể
thay thế được.

Nguyên tắc này nhằm tránh việc tạo ra một thị trường quá đa dạng và
quá rộng làm mờ đi sự nhận dạng hành vi hạn chế cạnh tranh.
2.2. Tiêu chí xác định quyền lực thị trường của doanh nghiệp

Quyền lực thị trường của doanh nghiệp được xác định thông qua các
tiêu chí thị phần, rào cản gia nhập thị trường hoặc những yếu tố giúp cho nó
có khả năng hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể như công nghệ, nhãn hiệu,
hệ thống phân phối… Trong đó tiêu chí thị phần và rào cản gia nhập thị
trường được chú ý nhất, đây là hai tiêu chí không thể thiếu trong việc xác
định quyền lực thị trường của doanh nghiệp, một số yếu tố khác có khả năng

- 42 -
gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể cũng được công nhận nhưng nó
không mang tính phổ biến mà chỉ được áp dụng trong những trường hợp cụ
thể. Mặt khác nó đóng vai trò như những yếu tố bổ trợ cho tiêu chí thị phần và
rào cản gia nhập thị trường trong việc xác định mức độ quyền lực thị trường
của doanh nghiệp.
2.2.1. Thị phần

Thị phần được xem như chỉ số phản ánh tầm quan trọng của doanh
nghiệp trên thị trường. Thị phần có thể xác định theo một số cách khác nhau
như dựa vào doanh thu, doanh số mua vào, sản lượng hàng hóa dịch vụ bán
ra, qui mô dự trữ sản phẩm, năng lực sản xuất… Nếu căn cứ theo doanh thu
bán hàng thì thị phần là tỉ lệ phần trăm (%) giữa doanh thu của doanh nghiệp
với tổng doanh thu của thị trường liên quan, nếu căn cứ vào sản lượng hàng
hóa dịch vụ thì thị phần là tỉ lệ phần trăm (%) giữa sản lượng của doanh
nghiệp với tổng sản lượng của thị trường liên quan, thị phần theo các tiêu chí
khác cũng được xác định tương tự. Để lựa chọn một tiêu chí nào đó nhằm xác
định thị phần phải phụ thuộc vào thị trường liên quan cũng như đặc điểm của
những loại hình doanh nghiệp tham gia thị trường.
Nếu các sản phẩm trong thị trường là đầy đủ và thống nhất như kim
loại tinh luyện hay nông sản thì sản lượng bán ra có thể sử dụng để đo thị
phần. Thị trường của những sản phẩm không đồng nhất, bao gồm nhiều loại
hàng tiêu dùng có thể đo lường chính xác hơn bằng doanh thu bán ra. Trong
các ngành chế tạo, công nghiệp năng, thị phần thường được đo bằng năng lực
sản xuất.

Một số thị trường được đặc trưng bởi những vụ giao dịch lớn, không
thường xuyên, ví dụ: đơn đặt hàng phục vụ việc xây dựng các nhà máy điện
lớn, việc xây dựng các công trình giao thông rất lớn (như hầm xuyên núi,
xuyên biển…) Doanh thu đạt được trong một năm nhất định không đủ để cho
thấy tầm quan trọng của doanh nghiệp trên thị trường vì có quá ít các vụ giao
dịch trong khoảng thời gian đó, trong trường hợp như vậy, tỉ trong doanh thu

- 43 -
trong một khoảng thời gian dài hơn sẽ cho thấy bức tranh chính xác hơn về
quyền lực thị trường của doanh nghiệp.

Có quan điểm cho rằng trên thị trường đấu thầu, doanh thu đạt được
thông qua một quá trình đấu thầu mang tính cạnh tranh của các doanh nghiệp
có thể là khác nhau, nhưng nếu các doanh nghiệp này đạt điều kiện để tham
gia đấu thầu thì phải coi họ là những doanh nghiệp có thị phần bằng nhau.
Bởi lẽ quá trình đấu thầu là cạnh tranh nên không ai có thể lạm dụng quyền
lực thị trường của mình được mà chỉ có thể sử dụng quyền lực thị trường một
cách chính đáng, như vậy việc phân tích quyền lực thị trường theo pháp luật
cạnh tranh không có ý nghĩa.

Thị phần của doanh nghiệp được đo bằng kết quả của những hoạt động
kinh doanh trước đó (doanh thu, sản lượng… ), vậy những kết quả kinh doanh
đó được xác lập trong khoảng thời gian là bao lâu? một tháng hay một năm
hay một khoảng thời gian nào? Vấn đề này cũng cần có cách nhìn linh hoạt vì
đối với đặc điểm của từng thị trường liên quan nó sẽ rất khác nhau, không cần
thiết phải có sự qui định cứng nhắc cho vấn đề này. Đó có thể là doanh thu,
doanh số, của một tháng, một quí, một năm hay nhiều hơn...

Doanh nghiệp chiếm bao nhiêu thị phần trên thị trường liên quan thì
được coi là có quyền lực thị trường? Con số được thừa nhận rộng rãi trên thế
giới đối với một doanh nghiệp là 30% trở lên. Ở Anh qui định là 25%, tại Ba
Lan là 40%, Cộng hòa Séc và Bồ Đào Nha là 30%. Trường hợp xác định
quyền lực thị trường của một nhóm các doanh nghiệp thì thị phần được xác
định là thị phần kết hợp của nhóm các doanh nghiệp này, ở Đức qui định 3
Công ty trở xuống có thị phần 50% trở lên, 5 công ty trở xuống chiếm 2/3 thị
phần trở lên và không áp dụng cho các công ty có doanh thu dưới 100 DM
(bây giờ tiền DM đã chuyển thành tiền Euro) vào năm kinh tế liền kề. Còn
luật Latvia qui định 3 doanh nghiệp chiếm 70% thị phần, luật liên bang Nga tỉ
lệ này là 65% [27, tr. 53].

- 44 -
Trong mọi trường hợp, dù tính theo cách nào, thị phần cần phải được
xem xét một cách cẩn trọng để có thể mô tả được tầm quan trọng của doanh
nghiệp trên thị trường. Khi thấy thích hợp, những con số tính toán có thể được
điều chỉnh tăng giảm tùy thuộc vào các thông tin khác. Ví dụ, thị phần của
một doanh nghiệp đang bán một khối lượng nguyên liệu thô nhưng có nguồn
dự trữ đang giảm xuống cần phải được khấu trừ (hoặc thị phần cần phải tính
trên cả nguồn nguyên liệu dự trữ). Một doanh nghiệp với công nghệ cũ kỹ hay
lạc hậu sẽ bị đánh giá kém hơn doanh nghiệp có cùng doanh số nhưng công
nghệ hiện đại hơn nhiều lần.

Nhìn chung, để xác định chính xác quyền lực thị trường của doanh
nghiệp, bên cạnh thị phần của doanh nghiệp cần phải xem xét đến qui mô thị
phần của các doanh nghiệp khác trên thị trường liên quan. Ví dụ, nếu một
doanh nghiệp có thị phần 50%, quyền lực thị trường của doanh nghiệp sẽ bị
hạn chế hơn so với tỉ lệ này nếu phần còn lại của thị trường chỉ bao gồm một
số doanh nghiệp có thị phần tương đối lớn cạnh tranh quyết liệt. Ngược lại,
phần còn lại của thị trường gồm rất nhiều các doanh nghiệp có thị phần nhỏ
thì quyền lực thị trường của doanh nghiệp sẽ mở rộng hơn so với tỉ lệ 50% thị
phần này.
2.2.2. R ào cản gia nhập thị trường

Rào cản gia nhập thị trường được hiểu là một số nhân tố nhất định có
thể ngăn cản hay trì hoãn việc gia nhập thị trường của một doanh nghiệp mới
thậm chí cả khi các doanh nghiệp đi trước đang kiếm được lợi nhuận siêu
ngạch.

Vấn đề quan trọng là khi muốn biết trên thị trường có hay không có rào
cản gia nhập thị trường phải đặt ra câu hỏi: liệu giá cả siêu cạnh tranh trên thị
trường liên quan có lôi kéo sự thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp
khác để làm cho giá cả xuống trở lại ở mức cạnh tranh không? nếu câu trả lời
là không thì rõ ràng có tồn tại rào cản gia nhập thị trường. Lợi nhuận luôn là

- 45 -
mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, do vậy không lý nào khi một nơi có
cơ hội lớn lại bị họ từ bỏ, trừ khi điều đó nằm ngoài khả năng của họ.

Rào cản gia nhập thị trường không phải là tiêu chí trực tiếp mang lại
quyền lực thị trường cho doanh nghiệp, nó cũng không phải là yếu tố nội tại
mang lại quyền lực thị trường cho doanh nghiệp như thị phần mà nó là yếu tố
bên ngoài và gián tiếp mang lại quyền lực thị trường cho doanh nghiệp thông
qua việc ngăn cản hay trì hoãn doanh nghiệp khác tham gia thị trường qua đó
cạnh tranh, chia sẻ thị trường với doanh nghiệp. Rào cản gia nhập thị trường
hiện diện ở cả thị trường sản phẩm liên quan cũng như thị trường địa lý liên
quan. Tại thị trường sản phẩm liên quan, nó hạn chế hoặc không cho phép
doanh nghiệp tiềm năng tham gia cung cấp sản phẩm thay thế cho sản phẩm
đang có trên thị trường liên quan (doanh nghiệp tiềm năng chưa kinh doanh
sản phẩm có thể thay thế cho sản phẩm đang có trên thị trường liên quan). Tại
thị trường địa lý liên quan, nó hạn chế hoặc không cho phép doanh nghiệp
tiềm năng mang sản phẩm thay thế cho sản phẩm đang có trên thị trường liên
quan từ địa điểm khác sang.

Ở góc độ nhất định, có thể nhận xét rằng các doanh nghiệp có quyền
lực thị trường một cách đơn lẻ hay theo nhóm khi người mua không có đủ lựa
chọn về những nhà cung cấp độc lập với nhau. Trong nền kinh tế thị trường tự
do, người tiêu dùng có thể mua hàng hoá của bất cứ doanh nghiệp nào và các
doanh nghiệp cũng có thể thâm nhập vào bất kỳ thị trường nào. Do đó, quyền
lực thị trường sẽ không tồn tại khi không có trở ngại thâm nhập thị trường vì
khi một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp cố gắng đẩy giá lên hoặc
hạ thấp chất lượng so với mức cạnh tranh thì ngay lập tức sẽ xuất hiện doanh
nghiệp khác chiếm lĩnh thị trường.

Các loại rào cản gia nhập thị trường

Rào cản gia nhập thị trường được phân loại theo nhiều tiêu chí khác
nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là cách phân loại theo nguồn gốc xuất hiện
của nó [26, 27]. Theo tiêu chí này, rào cản gia nhập thị trường có hai loại là

- 46 -
rào cản cơ cấu (hay rào cản kinh tế) và rào cản chiến lược (rào cản hành vi).
Dưới đây chúng ta xem xét một số loại rào cản cơ bản.

* Rào cản cơ cấu: là loại rào cản phát sinh từ đặc điểm của ngành kinh
tế nền tảng như công nghệ, cung và cầu, nằm ngoài sự kiểm soát của các
thành viên tham gia thị trường. Gồm một số loại như pháp luật, các qui định,
quyết định của nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được nhà nước uỷ quyền ban
hành có giá trị bắt buộc thi hành (gọi chung là qui định); Chi phí rút khỏi thị
trường (chi phí chìm); Lợi thế tuyệt đối về chi phí; Tính kinh tế nhờ qui mô;
Nhu cầu vốn lớn...

Qui định. Nhà nước ban hành qui định để kiểm soát nền kinh tế thị
trường và trong số đó có những qui định tạo ra các rào cản gia nhập thị
trường. Có những qui định trực tiếp tạo ra rào cản gia nhập thị trường nhưng
cũng có qui định chỉ gián tiếp tạo ra rào cản gia nhập thị trường. Có những
qui định thể hiện chủ ý của nhà nước nhưng cũng có qui định không thể hiện
chủ ý của nhà nước.

Điển hình cho những qui định trực tiếp tạo ra rào cản là các loại giấy
phép kinh doanh hoặc giấy tờ tương tự mà doanh nghiệp phải xin trước khi
tham gia kinh doanh tại một thị trường nào đó, thông thường là những thị
trường có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Để đánh giá tính hiệu quả của
những qui định này không phải dễ vì mục đích cấp giấy phép không phải khi
nào cũng tốt nhưng lại luôn được ẩn giấu dưới mục đích quản lý nhà nước. Có
những giấy phép được tạo ra không nhằm kiểm soát thị trường mà có những
mục đích ngầm lớn hơn, mang lợi ích cục bộ của những đối tượng có liên
quan trong đó. Do đó, cần phải có cơ chế đánh giá tính hợp lý của các loại
giấy phép này thường xuyên và khoa học, bảo đảm rằng chúng được ban hành
thể hiện đúng mục đích và sự cần thiết chứ không phải là tác nhân gây hạn
chế cạnh tranh trên thị trường, nếu giấy phép kinh doanh không hợp lý thì cần
bãi bỏ ngay.

- 47 -
Những qui định gián tiếp tạo ra rào cản gia nhập thị trường thông
thường là những qui định về một vấn đề nào đấy không hề có liên quan đến
vấn đề thâm nhập thị trường, nhưng việc thực thi chúng làm cản trở sự gia
nhập thị trường của doanh nghiệp tiềm năng. Ví dụ: khi các tiêu chuẩn về môi
trường được qui định khắt khe hơn thì những doanh nghiệp đang hoạt động sẽ
có lợi thế hơn so với doanh nghiệp mới ở chỗ nó được áp dụng có lộ trình,
không phải ngay tức khắc. Ngược lại, doanh nghiệp mới phải áp dụng ngay
khi thâm nhập thị trường. Việc này rõ ràng tạo ra sự không bình đẳng về chi
phí giữa các doanh nghiệp.

Chi phí rút khỏi thị trường (chi phí chìm). Chi phí chìm là những chi
phí mà doanh nghiệp bị mất khi rút khỏi thị trường. Khi doanh nghiệp tham
gia vào thị trường, điều bắt buộc phải có là những khoản đầu tư tạo nền tảng
cho hoạt động kinh doanh, những khoản đầu tư này có thể cao thấp hay hình
thức có thể khác nhau (tiền, tài sản, nhân lực, thời gian…) nhưng chúng đều
có thể tính toán thành giá trị được. Khi rút khỏi thị trường, doanh nghiệp có
thể không thu hồi lại đủ giá trị đã đầu tư khi thâm nhập thị trường, nghĩa là
doanh nghiệp đã bị lỗ. Ví dụ: một doanh nghiệp đầu tư xây dựng một nhà
máy chế biến nông sản lớn, tuy nhiên do nhiều lý do doanh nghiệp không
kinh doanh nữa mà phải bán lại nhà máy để rút khỏi thị trường, vấn đề là
không có ai mua lại nhà máy với giá bằng giá đầu tư ban đầu mà chỉ trả thấp
hơn, thậm chí thấp hơn rất nhiều. Chênh lệch giữa hai giá này chính là khoản
chi phí chìm mà doanh ngiệp phải chịu. Độ lớn của chi phí chìm không thể có
công thức chung nào đo được chính xác, nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố của thị
trường cũng như từng trường hợp cụ thể. Chi phí chìm là loại chi phí mà
không một doanh nghiệp nào mong muốn và luôn tìm mọi cách giảm thiểu vì
nó không mang lại lợi ích nào cho doanh nghiệp.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao chi phí chìm lại là rào cản gia nhập thị
trường? Trong kinh doanh, trước khi thâm nhập thị trường, hầu hết các doanh
nghiệp không thể khẳng định sự thành công một cách chắc chắn, luôn tồn tại

- 48 -
một tỉ lệ thất bại nhất định phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu tỉ lệ thất bại thấp
và chi phí chìm dự đoán cũng thấp thì doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường
một cách nhanh chóng vì doanh nghiệp tin tưởng vào sự thành công của việc
thâm nhập thị trường, sẽ không có chuyện rút khỏi thị trường nên không có
chi phí chìm. Thậm chí trong trường hợp xấu là thất bại và phải rút khỏi thị
trường thì chi phí chìm nhỏ nên không gây thiệt hại nhiều cho doanh nghiệp.
Ngược lại tỉ lệ thất bại cao hay chi phí chìm lớn thì doanh nghiệp sẽ phải cân
nhắc rất nhiều khi tham gia thị trường. Nếu không, những thiệt hại rất lớn khi
phải rút khỏi thị trường là điều khó tránh khỏi. Nói tóm lại, nếu dùng câu từ
của cuộc chiến thì chi phí chìm chính là đường thoát của doanh nghiệp, nếu
doanh nghiệp không có đường thoát tốt thì họ sẽ không dám mạo hiểm tấn
công. Không những thế, kể cả trường hợp tỉ lệ thành công của việc gia nhập là
tốt thì vẫn có nhiều lý do cho sự rút lui của doanh nghiệp, lúc này chi phí
chìm vẫn phải được tính toán như là điều kiện của việc gia nhập.

Lợi thế tuyệt đối về chi phí. Rào cản này thể hiện ưu thế về chi phí của
doanh nghiệp đi truớc so với các doanh nghiệp mới nhập cuộc, doanh nghiệp
mới nhập cuộc phải chịu các chi phí cao hơn so với doanh nghiệp đang hoạt
động trong nhiều trường hợp (nhưng không phải là mọi trường hợp). Nguồn
gốc của lợi thế này phản ánh sự nắm giữ những nguồn lực quan trọng của
doanh nghiệp đang hoạt động mà doanh nghiệp đi sau không thể có được,
hoặc nếu đạt được sẽ mất nhiều thời gian cũng như công sức. Ví dụ: doanh
nghiệp đang hoạt động được khai thác một mỏ khoáng sản có trữ lượng lớn và
chất lượng tốt nhất, trong khi đó doanh nghiệp mới tham gia chỉ được khai
thác các mỏ khoáng sản có trữ lượng nhỏ hơn, chất lượng thuộc loại trung
bình vì không còn mỏ khoáng sản nào tốt hơn; doanh nghiệp đang hoạt động
có rất nhiều kinh nghiệm, kỹ năng trong công việc kinh doanh qua đó hạn chế
đến mức thấp nhất các rủi ro, chi phí không đáng có, nhưng điều này lại
không đúng với doanh nghiệp mới tham gia kinh doanh; doanh nghiệp đang
hoạt động đầu tư vào khu du lịch có vị trí đẹp nhất và doanh nghiệp đến sau
không thể có được một vị trí nào tốt hơn…

- 49 -
Tính kinh tế nhờ qui mô. Kinh tế nhờ qui mô trong sản xuất tồn tại khi
chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm giảm đi đôi với sản lượng tăng lên. Đó
là kết quả chủ yếu của việc giàn trải một chi phí cố định lớn cho nhiều đơn vị
sản phẩm. Tính kinh tế nhờ qui mô trở thành rào cản gia nhập thị trường khi
đã có những doanh nghiệp có qui mô lớn tồn tại, những doanh nghiệp này với
lợi thế về chi phí thấp nên bán sản phẩm với giá rất cạnh tranh hoặc tuy bán
giá cao nhưng sẵn sàng hạ giá nếu có sự thâm nhập thị trường của doanh
nghiệp tiềm năng nhằm loại bỏ đối thủ. Các doanh nghiệp tiềm năng muốn
thâm nhập thị trường phải mạnh để đầu tư qui mô lớn mới có thể cạnh tranh
về giá với doanh nghiệp đang hoạt động. Điều này không phải doanh nghiệp
tiềm năng nào cũng có thể thực hiện được.

Nhu cầu vốn lớn. Gia nhập vào thị trường một số ngành luôn đòi hỏi
một số lượng vốn rất lớn. Ví dụ: Sản xuất, truyền tải điện; sản xuất ôtô; sản
xuất phôi thép… Nói chung rất ít các doanh nghiệp tiềm năng có thể đáp ứng
được nhu cầu vốn lớn này. Mặt khác, vốn đầu tư lớn thì quá trình đầu tư
thường mất nhiều thời gian hơn và chi phí chìm thông thường cũng là lớn.
Các yếu tố này đã làm nản lòng rất nhiều nhà đầu tư cũng như các nhà cung
cấp tài chính cho họ. Chính vì vậy mà ta có thể lý giải cho sự lo lắng về
khoản đầu tư của doanh nghiệp cũng như sự lo lắng về khoản nợ của người
cung cấp tài chính. Rào cản này càng trở nên nghiêm trọng ở các nước quá độ
và đang phát triển, nơi thị trường vốn non kém và sự cung cấp vốn cho sự gia
nhập là cả một vấn đề. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng càng làm cho vấn đề thêm
trầm trọng. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp mới gia nhập thậm chí cần
nhiều vốn hơn do phải làm quá nhiều thứ, như tự mình thực hiện phân phối,
tự lo đầu vào của quá trình sản xuất, v.v.

* Rào cản chiến lược (rào cản hành vi): Là những rào cản được doanh
nghiệp dựng lên để bảo vệ họ trước sự thâm nhập thị trường của các doanh
nghiệp mới. Có những hành vi tạo rào cản của doanh nghiệp không vi phạm
pháp luật cạnh tranh, tuy nhiên có những hành vi lại vi phạm pháp luật cạnh

- 50 -
tranh. Ví dụ: rất nhiều hành vi lạm dụng quyền lực thị trường thực chất là
những hành vi tạo rào cản gia nhập thị trường đối với doanh nghiệp tiềm
năng. Dưới đây là một số hành vi tạo rào cản gia nhập thị trường của doanh
nghiệp và có thể nói là không vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Định giá hạn chế. Đây là hành vi của doanh nghiệp đang hoạt động đặt
giá thấp đến nỗi, do tính kinh tế nhờ qui mô hoặc các lợi thế tuyệt đối về chi
phí, sẽ không có chỗ cho doanh nghiệp gia nhập nếu tin rằng các doanh
nghiệp đang hoạt động sẽ duy trì mức sản lượng và giá thấp như hiện tại.
Theo giả thuyết này, các doanh nghiệp cũ có thể bảo vệ mình khỏi sự đe doạ
gia nhập của doanh nghiệp mới thậm chí bằng cách lựa chọn một mức giá đủ
thấp. Với tính kinh tế nhờ qui mô hoặc lợi thế tuyệt đối về chi phí, việc định
giá hạn chế này vẫn lớn hơn chi phí trung bình của doanh nghiệp đang hoạt
động, nên vẫn thu được lợi nhuận. Có quan điểm cho rằng, rào cản này thực
chất cũng là rào cản tính kinh tế nhờ qui mô [26, tr. 283-289], tuy nhiên cần
phải phân biệt tính kinh tế nhờ qui mô phản ánh cấu trúc kinh tế mà không
phản ánh hành vi của doanh nghiệp. Tính kinh tế nhờ qui mô vẫn là rào cản
khi doanh nghiệp không hề có chủ ý định giá hạn chế, đơn giản là việc ban
hành một mức giá nhất định phù hợp với thị trường và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Trong khi đó định giá hạn chế là hành vi chủ ý của doanh
nghiệp lợi dụng ưu thế về chi phí của mình để tạo rào cản không cho doanh
nghiệp khác thâm nhập thị trường. Hơn nữa định giá hạn chế còn dựa trên cơ
sở của lợi thế tuyệt đối về chi phí nữa chứ không nhất thiết dựa trên tính kinh
tế nhờ qui mô.

Cũng có một số quan điểm cho rằng định giá hạn chế là hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường, vì với mức giá như vậy các doanh nghiệp khác
không thể tham gia cạnh tranh được với doanh nghiệp có quyền lực thị
trường, như thế là đủ để đánh giá có hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên chúng tôi
không cho là vậy bởi điều này chỉ có lợi cho người tiêu dùng và đó là hành vi
thể hiện sự kinh doanh đúng đắn và hợp lý của doanh nghiệp.

- 51 -
Sự khác biệt về sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đang hoạt động có
những sản phẩm chiếm được lòng tin và sự trung thành của khách hàng bởi
rất nhiều yếu tố như chất lượng, kiểu dáng, nhãn hiệu, mẫu mã, uy tín, thị
hiếu tiêu dùng… Lòng tin và sự trung thành của khách hàng đối với những
sản phẩm này lớn đến mức để cạnh tranh được, các sản phẩm của doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường hầu như không có cách nào để vượt qua. Sự
khác biệt về sản phẩm cũng tạo ra các chi phí đáng kể làm hạn chế việc
chuyển sang sử dụng sản phẩm khác của khách hàng khi sự thay đổi này chưa
thật sự cần thiết.

Nói tóm lại, các rào cản gia nhập một ngành sản xuất cụ thể rất khác
nhau phụ thuộc vào mức độ chặt chẽ hay sự phát triển của thị trường. Các rào
cản ước tính với một số ngành sản xuất nhất định trong một nền kinh tế chặt
chẽ bao gồm [27, tr. 56]:
Rào cản gia nhập cao Rào cản gia nhập trung bình Rào cản gia nhập thấp

- Sản xuất và phân phối - Bánh ngọt - Đồ hộp


điện - Nước giải khát - Bột mỳ
- Dịch vụ điện thoại tại - Thuốc lá - Rau và hoa quả đóng hộp
địa phương
- Tạp chí - Dệt sợi và len
- Báo chí
- Sản phẩm thạch cao - May mặc
- Bột giặt
- Hóa chất hữu cơ - Sản phẩm kim loại nhẹ
- Máy bay
- Thiết bị vệ sinh - Đồ gỗ gia dụng
- Công nghiệp ôtô
- Hóa dầu - Bao bì
- Sản xuất main máy tính
- Nhôm - ấn phẩm
- Thiết bị điện hạng nặng
- Máy công nghiệp hạng nặng - Giày dép
- Đầu máy xe lửa
- Thiết bị gia đình loại lớn - Vận tải đường bộ
- Bia
- Vận tải đường sắt
- Chế biến thực phẩm

2.3. Chủ thể lạm dụng quyền lực thị trường và các hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường.

- 52 -
2.3.1. Chủ thể lạm dụng quyền lực thị trường

Như đã phân tích tại phần các đặc điểm của hành vi lạm dụng quyền
lực thị trường, chủ thể của hành vi này đương nhiên là các chủ thể tham gia
kinh doanh và có quyền lực thị trường. Tuy nhiên đây là đặc điểm về mặt nội
dung. Tại phần này, chúng ta sẽ xem xét hình thức biểu hiện của chủ thể hành
vi lạm dụng quyền lực thị trường.

Chủ thể của hành vi này có thể là tổ chức hoặc cá nhân tham gia kinh
doanh và được gọi chung là doanh nghiệp hay thương nhân. Điều này có
nghĩa, bất cứ đối tượng nào tham gia kinh doanh một cách độc lập đều là chủ
thể của hành vi mà không có sự phân biệt về mặt hình thức. Theo luật bảo vệ
cạnh tranh Croatia thì chủ thể của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường là
thương nhân, và thương nhân gồm: các công ty, các thương nhân độc quyền,
thợ thủ công cũng như thể nhân và pháp nhân khác tham gia vào việc mua
bán hàng hóa, dịch vụ. Luật cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ qui định doanh nghiệp
lạm dụng quyền lực thị trường là “tự nhiên nhân hay pháp nhân sản xuất, mua
bán hàng hóa dịch vụ với tư cách là một thực thể kinh tế có khả năng hành
động một cách độc lập trên thị trường” [21, tr. 383].
Tính độc lập của doanh nghiệp biểu hiện như thế nào? Luật mẫu về
cạnh tranh của tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc cho rằng
“doanh nghiệp” dùng để chỉ các hãng, công ty hợp danh, công ty, tổng công
ty, hiệp hội và các pháp nhân khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh, do nhà
nước hoặc tư nhân thành lập và quản lý, kể cả các chi nhánh, công ty con,
công ty thành viên hay các thực thể khác do các doanh nghiệp này quản lý
một cách trực tiếp hay gián tiếp. Như vậy có thể thấy, doanh nghiệp được coi
là độc lập và là chủ thể của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường khi các
hoạt động kinh doanh của nó không chịu sự quản lý của bất kỳ một doanh
nghiệp nào khác. Trường hợp doanh nghiệp chịu sự quản lý của doanh nghiệp
khác thì cả doanh nghiệp quản lý và doanh nghiệp bị quản lý đều không được
coi là độc lập, tập hợp các doanh nghiệp đó mới được coi là một doanh

- 53 -
nghiệp độc lập. Mặt khác, các doanh nghiệp đó phải ở cùng một thị trường
liên quan. Ví dụ: một doanh nghiệp ở Mỹ đầu tư vào Việt Nam thành lập
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để sản xuất sản phẩm y hệt như Công ty
bên Mỹ sản xuất, tuy nhiên hai công ty không ở trong một thị trường liên
quan. Do vậy khi xem xét hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của Công ty
100% vốn nước ngoài ở Việt Nam không thể gộp cả Công ty mẹ bên Mỹ vào,
coi đó là một thực thể độc lập để xác định quyền lực thị trường mà chỉ có thể
coi chủ thể là Công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và xác định quyền
lực thị trường của riêng Công ty này.

Trường hợp các doanh nghiệp đều bị quản lý bởi một đối tượng không
tham gia kinh doanh (Ví dụ: hai cá nhân thành lập hai công ty kinh doanh trên
một thị trường liên quan; một tổ chức xã hội thành lập hai Công ty kinh doanh
trên một thị trường liên quan…) thì chắc chắn cũng phải coi hai doanh nghiệp
này là một chủ thể duy nhất cho dù không có doanh nghiệp nào quản lý doanh
nghiệp nào. Nhưng suy cho cùng, hoạt động của chúng vẫn phù hợp, thống
nhất với nhau như một nếu đối tượng quản lý muốn như vậy.

Một vấn đề nữa cần quan tâm là mức độ của sự quản lý phải thể hiện
như thế nào thì mới cho phép xác định tập hợp các doanh nghiệp trong quan
hệ quản lý này là một doanh nghiệp độc lập và là chủ thể lạm dụng quyền lực
thị trường? Câu hỏi này sẽ không đặt ra trong trường hợp một doanh nghiệp
toàn quyền quản lý doanh nghiệp khác, nghĩa là nó quyết định được mọi vấn
đề của doanh nghiệp khác, quyền quản lý trong trường hợp này thông thường
do doanh nghiệp quản lý sở hữu toàn bộ hoặc gần hết doanh nghiệp bị quản lý
(đó có thể là Công ty và chi nhánh Công ty; Công ty mẹ sở hữu 100% vốn của
Công ty con…) Câu hỏi này lại rất quan trọng trong trường hợp quyền quản
lý chỉ có giới hạn nhất định, doanh nghiệp quản lý không thể quyết định mọi
vấn đề của doanh nghiệp bị quản lý được vì nó phải chia sẻ quyền này với
những đối tượng khác. Đây thông thường là trường hơp doanh nghiệp bị quản
lý thuộc sử hữu chung của nhiều đối tượng khác nhau. Mức độ của sự quản lý

- 54 -
phải đáng kể để các hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp bị quản lý
phải phụ thuộc vào sự điều hành của doanh nghiệp quản lý, dưới mức độ này
thì không coi các doanh nghiệp quản lý, doanh nghiệp bị quản lý là một
doanh nghiệp độc lập với tư cách là chủ thể lạm dụng quyền lực thị trường mà
chỉ có thể coi từng doanh nghiệp một là chủ thể lạm dụng quyền lực thị
trường. Để định lượng mức độ quản lý này, có nhiều cách khác nhau, tuy
nhiên cách thích hợp và thuận tiện hơn cả là sử dụng mức độ sở hữu vốn của
doanh nghiệp bị quản lý để tính toán. Theo đó, mức độ sở hữu càng cao thì
quyền quản lý càng lớn và ngược lại. Ví dụ: Một doanh nghiệp sở hữu 80%
vốn của một doanh nghiệp khác thì có thể coi sự quản lý là đáng kể. Ngược
lại chỉ sở hữu 3% vốn của doanh nghiệp khác thì không coi có sự quản lý
đáng kể ở đây.
Cách định lượng bằng mức độ sở hữu vốn của doanh nghiệp bị quản lý
như trên cũng chỉ mang tính tương đối vì các trường hợp cụ thể khác nhau, sự
quản lý sẽ khác nhau không nhất thiết phụ thuộc vào mức độ sở hữu. Hơn nữa
với cùng mức độ sở hữu vốn nhưng đối với doanh nghiệp cụ thể này lại khác
với doanh nghiệp cụ thể khác. Phương pháp tốt nhất là sử dụng mức độ sở
hữu vốn kết hợp với các tình huống cụ thể của sự việc thực tế để đi đến kết
luận một doanh nghiệp có chịu sự quản lý đáng kể của doanh nghiệp khác hay
không.

Hình thức biểu hiện của doanh nghiệp theo như phân tích ở trên mang ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định qui mô và mức độ quyền lực thị
trường của doanh nghiệp cũng như rất quan trọng đối với việc xác định hành
vi của doanh nghiệp có phải là lạm dụng quyền lực thị trường không, rộng
hơn là xác định các hành vi vi phạm pháp luật kiểm soát độc quyền nói chung
của doanh nghiệp.

Ví dụ: Pháp luật kiểm soát lạm dụng quyền lực thị trường qui định rằng
một doanh nghiệp chiếm 30% thị phần trở lên, hai doanh nghiệp cùng hành
động có thị phần kết hợp là 50% trở lên, ba doanh nghiệp cùng hành động có

- 55 -
thị phần kết hợp từ 65% trở lên mà có hành vi lạm dụng quyền lực thị trường
gây hạn chế cạnh tranh sẽ bị nghiêm cấm và xử lý. Trên thực tế có ba doanh
nghiệp trên thị trường liên quan, trong đó doanh nghiệp A sở hữu 50% vốn
của doanh nghiệp B và doanh nghiệp C. Hoạt động của ba doanh nghiệp có
thể coi là thống nhất theo sự điều hành của doanh nghiệp A. Mỗi doanh
nghiệp A, B, C chiếm 10% thị phần. Trường hợp này, nếu không qui định chủ
thể của lạm dụng quyền lực thị trường là A + B + C mà chỉ coi từng doanh
nghiệp A, B, C là chủ thể thì thị phần của từng doanh nghiệp chưa đạt tới
30%, do đó theo qui định không thể bị xử lý. Nhưng điều xảy ra trong thực tế
lại không thể hiện như vậy, ba doanh nghiệp này hành động không khác gì
một doanh nghiệp có 30% thị phần, lạm dụng quyền lực thị trường gây hạn
chế cạnh tranh nhưng lại không bị xử lý.
Có ý kiến cho rằng, nếu trong ví dụ trên các doanh nghiệp không bị xử
lý theo pháp luật kiểm soát lạm dụng quyền lực thị trường thì cũng bị xử lý
theo pháp luật kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh vì ở đây có dấu hiệu
của thoả thuận, thống nhất hành động, không cần thiết phải có sự phân tích
như ở trên cho phức tạp sự việc. Ý kiến này không thể hiện rõ bản chất của sự
kiện bởi thoả thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng quyền lực thị trường có
bản chất và mức độ nguy hại khác nhau khác nhau (trường hợp ví dụ nêu trên
thể hiện tính chất điều hành hoạt động chứ không phải thoả thuận hoạt động),
do đó có thể bị xử lý theo những qui định khác nhau dẫn đến hậu quả pháp lý
có thể khác nhau. Hơn nữa, giả sử có cho rằng đó là thoả thuận hạn chế cạnh
tranh thì vẫn phải xác định các biểu hiện của doanh nghiệp như đã phân tích ở
trên mới có thể kết luận là có sự thoả thuận. Vì nếu không có sự quản lý đáng
kể thì doanh nghiệp này làm sao điều khiển được hoạt động của doanh nghiệp
khác và như vậy lấy cơ sở nào để chứng minh có thoả thuận đang diễn ra.
2.3.2. Một số hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

Có thể nói rằng, doanh nghiệp có bao nhiêu cách để kinh doanh, bao
nhiêu cách để cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường thì cũng có bấy nhiêu

- 56 -
cách để hạn chế cạnh tranh, lạm dụng ưu thế để thu lợi độc quyền. Điều này
bắt nguồn từ tính sáng tạo trong kinh doanh, đây là một ưu điểm luôn được
khuyến khích và ủng hộ, tuy nhiên mặt trái của nó là cũng sáng tạo ra rất
nhiều những hành vi xấu gây cản trở kinh doanh, gây thiệt hại cho người tiêu
dùng. Do vậy không thể có cách nào thống kê hết những hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường gây hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp mà chỉ có thể
nêu ra được một số hành vi tiêu biểu, ngoài ra các hành vi khác sẽ được xem
xét trong những trường hợp cụ thể để đánh giá xem đó có phải là hành vi lạm
dụng không dựa trên nguyên tắc cơ bản là tính hạn chế cạnh tranh, bóc lột
người tiêu dùng và có thể thêm vào tính bất hợp lý của hành vi.

Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường có thể được phân loại theo
nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào các tiêu chí đánh giá. Dưới đây Luận văn
xem xét các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường theo biểu hiện của hành
vi, theo đó là những hành vi như đặt giá quá cao một cách bất hợp lý, bán phá
giá, phân biệt giá, từ chối giao dịch, ấn định giá bán lại, bán kèm,…
2.3.2.1. Đặt giá quá cao một cách bất hợp lý

Đặt giá quá cao một cách bất hợp lý là hành vi của doanh nghiệp có
quyền lực thị trường lợi dụng ưu thế này để bán hàng hóa với giá rất cao
nhằm bóc lột người tiêu dùng, thu lợi nhuận tối đa. Trường hợp này, người
tiêu dùng đã phải trả một giá rất cao để mua hàng hóa mà lẽ ra họ có thể mua
với mức giá thấp hơn nếu doanh nghiệp không có quyền lực thị trường. Theo
cách hiểu khác, mức giá quá cao này là mức giá lớn hơn mức giá tự nhiên rất
nhiều.

Để khẳng định doanh nghiệp đã đặt giá quá cao một cách bất hợp lý,
điều đầu tiên là phải xác định được như thế nào là mức giá quá cao. Giá quá
cao thể hiện sự chênh lệch quá lớn giữa giá bán hàng hóa và chi phí để sản
xuất ra hàng hóa đó. Tuy nhiên để đánh giá mức giá như vậy có thực sự là quá
cao hay không một cách cụ thể lại không dễ chút nào. Có những sản phẩm sự
chênh lệch giá và chi phí chỉ tính bằng một vài chục phần trăm đã được coi là

- 57 -
quá cao nhưng có những sản phẩm sự chênh lệch lên tới cả mấy trăm phần
trăm cũng chưa bị coi là quá cao. Vậy, điều quan trọng là phải xác định được
sự bất hợp lý của mức giá cao đó, nghĩa là phải tìm cho ra nguyên nhân dẫn
tới việc giá quá cao chứ không phải là bản thân vấn đề giá cả.
Giá quá cao có thể vì rất nhiều lý do, do nhu cầu tăng, do chi phí sản
xuất tăng, do chất lượng hàng hoá rất tốt… hoặc do doanh nghiệp lạm dụng
quyền lực thị trường. Nói chung trong nền kinh tế thị trường, quyền định giá
hàng hoá là của doanh nghiệp và lợi nhuận là yếu tố quyết định việc gia nhập
hay rút khỏi thị trường của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp định giá cao
và kiếm được nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp này đã tạo động lực cho việc gia
nhập thị trường của những doanh nghiệp tiềm năng, như vậy đã tạo sự cạnh
tranh mạnh mẽ hơn trong thị trường liên quan và điều này chỉ có lợi cho
người tiêu dùng. Sự việc trở nên nghiêm trọng khi doanh nghiệp lạm dụng
quyền lực thị trường để tăng giá và có nhiều rào cản gia nhập thị trường ngăn
không cho các doanh nghiệp tiềm năng tham gia kinh doanh để cạnh tranh với
doanh nghiệp lạm dụng quyền lực thị trường, tức là càng tăng cường mức độ
quyền lực thị trường của doanh nghiệp lạm dụng. Với trường hợp này, sẽ
không có sự cạnh tranh hoặc cạnh tranh không đáng kể, do đó giá cả sẽ không
bị kéo về với giá trị thực của nó. Đây chính là yêu cầu cấp thiết để nhà nước
can thiệp kéo giá cả trở về vị trí đúng của nó khi thị trường hoạt động không
có hiệu quả.
2.3.2.2. Bán phá giá (đặt giá dưới chi phí)

Trái ngược với hành vi đặt giá quá cao là hành vi bán phá giá. Bán phá
giá được hiểu là hành vi của một doanh nghiệp lạm dụng quyền lực thị trường
bán hàng hoá với mức giá thấp hơn chi phí để có được hàng hoá đó (chi phí
sản xuất hoặc chi phí mua) hay còn gọi là giá gốc của hàng hoá, giá chưa có
lợi nhuận của doanh nghiệp. Chi phí để có được hàng hoá đó thông thường
được xác định theo các chuẩn mực kế toán – tài chính của từng nước hoặc
theo những phương pháp thích hợp.

- 58 -
Mục đích của việc đặt giá dưới chi phí là nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh
tranh ra khỏi thị trường, ngăn ngừa việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp
tiềm năng qua đó củng cố và mở rộng quyền lực thị trường của doanh nghiệp.
Chi phí cho công việc này là có thể nói là rất lớn, nhưng doanh nghiệp thực
hiện hành vi bán phá giá có thể sẽ đạt được lợi nhuận trong tương lai để bù
đắp những mất mát trong hiện tại. Nếu doanh nghiệp hoạt động trên nhiều thị
trường, việc bán phá giá ở một hay một số thị trường có thể sẽ được bù đắp
bằng lợi nhuận đạt được cao hơn ở một hay một số thị trường khác (với điều
kiện là lợi nhuận cao hơn đó được tạo ra bởi hành vi bán phá giá).

Nhìn vào hiện tại, hành vi bán phá giá có thể đem lại lợi ích cho người
tiêu dùng nhưng nó vẫn bị lên án bởi vì trong tương lai nó dẫn đến sự suy
giảm sản lượng và giá cả tăng vọt. Điều kiện để hành vi này có thể xảy ra là
các doanh nghiệp cạnh tranh khác trên thị trường có vị thế khá yếu và có sự
ngăn cản việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp tiềm năng, vì vậy sự phục
hồi cạnh tranh không thể xảy ra sau khi các doanh nghiệp yếu phải rời bỏ thị
trường, đồng thời lợi nhuận thu được sau thời kỳ bán phá giá phải đủ để bù
đắp được các chi phí mất đi. Nếu không đáp ứng được các điều kiện này thì
doanh nghiệp bán phá giá chỉ là cách tự hại mình mà thôi chứ không gây hại
đến cạnh tranh cho dù hiện tại có thể có những doanh nghiệp phải rút khỏi thị
trường. Nhà nước không nên quá quan tâm về hành vi đặt giá dưới chi phí của
doanh nghiệp trong trường hợp này. Ví dụ, việc thâm nhập thị trường là dễ
dàng thì cho dù doanh nghiệp bán phá giá có loại bỏ được đối thủ hiện tại
nhưng trong tương lai không có gì đảm bảo chắc chắn rằng doanh nghiệp sẽ
đặt được mức giá cao để thu lại những gì đã mất khi luôn có những doanh
nghiệp tiềm năng nhảy vào cạnh tranh nếu họ có động lực (giá cả tăng cao);
Mặt khác, trong thị trường tồn tại một số doanh nghiệp có quyền lực thị
trường ngoài doanh nghiệp bán phá giá thì việc bán phá giá không thể ảnh
hưởng đến những doanh nghiệp này hoặc ảnh hưởng không đáng kể.

- 59 -
Bán phá giá trong những trường hợp nhất định có thể được chấp nhận
như bán hàng tươi sống, hàng tồn kho, hàng theo mùa, hàng thanh lý hàng sắp
hết hạn sử dụng [13, tr. 134]… Tuy nhiên vẫn cần phải có sự đánh giá cẩn
thận hậu quả của những hành vi này tới cạnh tranh, nếu hậu quả lớn thì vẫn có
quyền ngăn cấm việc bán phá giá.

Bán phá giá trong thương mại quốc tế (anti dumping) có cách hiểu
khác với bán phá giá như phân tích ở trên. Điều VI của Hiệp định GATS đưa
ra khái niệm bán phá giá như sau: “Bán phá giá là hành động mang sản phẩm
của một nước sang bán thành hàng hoá ở một nước khác với mức giá xuất
khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó khi bán ở trong nước”.
2.3.2.3. Phân biệt đối xử

Phân biệt đối xử là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của doanh
nghiệp làm cho các chủ thể kinh doanh khác phải chịu trực tiếp hay gián tiếp
giá mua, giá bán không công bằng hoặc các điều kiện kinh doanh không công
bằng khác, với mục đích làm suy yếu khả năng cạnh tranh của họ trên thương
trường. Phân biệt đối xử có hai loại chính:
a. Phân biệt giá

Việc phân biệt giá là hành vi của một người bán tính những mức giá
khác nhau tuỳ theo loại khách hàng mà không dựa vào sự chênh lệch chi phí.
Phân biệt giá cũng có thể liên quan tới việc định một mức giá tương tự nhau
cho các khách hàng khác nhau mặc dù có sự khác biệt về chi phí cho việc
cung cấp những hàng hoá đó. Với hành vi này, một doanh nghiệp có thể thu
được những khoản lợi nhuận cao hơn khi tính một mức giá duy nhất dựa trên
chi phí cho tất cả người tiêu dùng. Lợi nhuận có thể gia tăng nhờ việc doanh
thu bán hàng tăng, và như vậy có thể làm tăng tổng sản phẩm của một doanh
nghiệp. Hơn nữa việc phân biệt giá còn là cách để doanh nghiệp phân biệt giá
bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp thứ ba trong quan hệ, tạo ra sự bất bình
đẳng về giá giữa các doanh nghiệp mua hàng của doanh nghiệp phân biệt giá.

- 60 -
Phân biệt giá có nhiều hình thức thể hiện khác nhau như mặc cả từng
lần, tính thu nhập, tính lượng sử dụng, trả tiền vì nhãn hiệu, trả tiền theo hoàn
cảnh, chiết khấu,… Tuy nhiên để chỉ ra được sự khác biệt về giá có phải là sự
phân biệt giá không, hoặc thậm chí chỉ ra sự phân biệt giá nào là có hại tới
người tiêu dùng và cạnh tranh có thể rất khó khăn. Trong nhiều trường hợp,
sự khác biệt về giá cả có thể không mang tính phân biệt vì nó có thể được giải
thích bằng chi phí phục vụ những khách hàng khác nhau. Ví dụ: Những khách
hàng trả phí bảo hiểm cao hơn hoặc lãi suất cao thường có rủi ro lớn hơn và vì
vậy chi phí trả cho những đối tượng này sẽ cao hơn những người trả phí bảo
hiểm hoặc lãi suất thấp. Trong trường hợp khác, sự khác biệt về giá cả có thể
giải thích bằng sự khác biệt về chất lượng. Ở những thời điểm khác nhau,
mức giá có thể cũng khác nhau.v.v. Kể cả trong trường hợp có sự phân biệt
giá nhưng nếu không xem xét kỹ thì cũng không có căn cứ để kết luận đó là
hành vi gây hại tới cạnh tranh và người tiêu dùng, trường hợp này có thể
doanh nghiệp không có quyền lực thị trường hoặc tuy có quyền lực thị trường
nhưng sự phân biệt giá xét trên tổng thể không làm tổn hại tới môi trường
canh tranh.

Về lý thuyết, sự phân biệt giá có thể là hành vi hạn chế cạnh tranh khi
một doanh nghiệp có quyền lực thị trường tính mức giá thấp hơn cho những
người mua có nhiều khả năng chuyển sang những người cung cấp khác. Tuy
nhiên, khó mà phân biệt được hành vi này với hành vi của một doanh nghiệp
bán hàng cho những khách hàng chỉ đồng ý trả một mức giá thấp hơn và do
đó cũng là mức giá mang tính phân biệt. Sự phân biệt giá trong trường hợp
này xuất phát từ phía người mua chỉ chấp nhận như vậy chứ không xuất phát
từ mong muốn của doanh nghiệp bán hàng. Hành vi này có thể dẫn tới việc
nhiều khách hàng được cung cấp hơn là trường hợp có một mức giá duy nhất
cho mọi khách hàng. Nhìn chung, nếu một chiến lược phân biệt giá làm tăng
số lượng sản phẩm bán ra thì chiến lược đó được xem như là ủng hộ cạnh
tranh.

- 61 -
Một hình thức hay được các doanh nghiệp áp dụng thể hiện sự phân
biệt giá là chiết khấu. Chiết khấu thông thường được áp dụng trong những
đơn đặt hàng lớn trong đó tính kinh tế nhờ qui mô dẫn tới việc giảm giá thành
đơn vị của sản phẩm cung cấp (ví dụ, trong vận tải hàng hoá), hoặc các hình
thức chiết khấu khác như chiết khấu thanh toán, chiết khấu do đặt trước việc
mua hàng trong một thời gian nhất định, chiết khấu trên số lượng hàng mua…
Mặc dù chiết khấu có thể làm tăng chi phí tham gia thị trường, đặc biệt khi áp
dụng với những hợp đồng dài hạn, nhưng kế hoạch chiết khấu là một công cụ
mạnh của sự cạnh tranh và thường đem lại lợi ích cho khách hàng. Hơn nữa
kế hoạch này có thể được bào chữa trên cơ sở tính hiệu quả, vì chúng giúp
doanh nghiệp chuyển đến khách hàng một sự giảm giá đáng kể như là một sự
đền bù cho việc giúp doanh nghiệp giảm nỗ lực để bán được nhiều hàng hoá.
Việc chiết khấu chỉ mang tính hạn chế cạnh tranh khi chiết khấu chỉ dành cho
những khách hàng đồng ý không mua sản phẩm của đối thủ cạnh tranh khác,
do đó làm tăng rào cản gia nhập thị trường.

Nói chung, để xác định hành vi phân biệt giá nào là hành vi gây hạn
chế cạnh tranh để xử lý là rất khó khăn bởi luôn có những ranh giới mỏng
manh cho việc phân định tính tốt xấu của hành vi này. Quan trọng là khi kết
luận hành vi phân biệt giá là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của doanh
nghiệp phải chứng minh được hậu quả hạn chế cạnh tranh của hành vi đã xảy
ra.
b. Phân biệt đối xử về các điều kiện thương mại khác

Trong một hợp đồng mua bán hàng hoá, giá cả là điều quan trọng
nhưng các điều khoản khác cũng không kém phần quan trọng và cũng là
những yếu tố mà doanh nghiệp có thể lợi dụng để thi hành quyền lực thị
trường của mình nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh. Những điều khoản đó có
thể là bảo hành, vận chuyển, thanh toán, hỗ trợ quảng cáo, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ
trợ vốn... Trên thực tế, mỗi một khách hàng khác nhau thì các điều kiện mua
bán là không thể giống nhau, ngay cả một khách hàng mua hàng hoá tại

- 62 -
những thời điểm khác nhau cũng không thể có những điều kiện giống nhau do
phải phụ thuộc vào quá nhiều hoàn cảnh, nên sự khác biệt về các điều kiện
thương mại có thể coi như một sự tất yếu và phổ biến.

Tuy nhiên nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường thực hiện các
hành vi phân biệt các điều kiện thương mại đối với các khách hàng khác nhau
mà dẫn đến hạn chế cạnh tranh thì đó lại là việc khác. Hành vi này không
được coi là tất yếu và hợp lý nữa vì nó không dựa trên những yếu tố kinh
doanh hợp lý và hợp pháp nên cần phải xử lý. Biểu hiện hạn chế cạnh tranh
của hành vi phân biệt là tạo ra các rào cản gia nhập thị trường cũng như tạo ra
sự chênh lệch chi phí giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Giống như sự phân biệt giá, sự phân biệt đối xử về các điều kiện thương mại
khác cũng rất khó xác định đã gây hạn chế cạnh tranh hay chưa. Công việc
này có lẽ hiệu quả nhất khi xem xét từng vụ việc cụ thể, chứ không thể có
những cách thức chung để đánh giá.
2.3.2.4. Ấn định giá bán lại

Việc ấn định giá bán lại được xem như là nỗ lực của doanh nghiệp
trong việc kiểm soát giá bán đối với sản phẩm của họ ở những kênh phân phối
khác nhau. Doanh nghiệp khi cung cấp hàng hoá ra thị trường thông thường
không thể tự mình thực hiện được mà phải thông qua những kênh trung gian
như đại lý, nhà phân phối… Hàng hoá lúc này được chuyển cho các kênh
trung gian phân phối, nhưng doanh nghiệp không muốn giá cả phụ thuộc vào
sự quyết định của các kênh trung gian này mà vẫn muốn mình quyết định nên
đặt ra các mức giá bán hàng hoá để kênh trung gian phải tuân theo. Mặc dù
hàng hoá không thuộc sở hữu của nhà sản xuất nữa.

Ấn định giá bán lại có ba hình thức chính là ấn định giá bán tối đa, ấn
định giá bán tối thiểu và ấn định một mức giá cụ thể . Hành vi ấn định giá bán
tối đa bắt buộc những kênh phân phối trung gian không được bán hàng hoá
với giá cao hơn mức giá đó. Nhìn chung hành vi này thể hiện tính tích cực,
bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng và thông thường không gây hại đến

- 63 -
cạnh tranh trừ khi đó là biện pháp để doanh nghiệp có quyền lực thị trường
duy trì hành vi bán phá giá của mình. Hành vi ấn định giá tối thiểu không cho
phép trung gian phân phối hàng hoá, dịch vụ với giá thấp hơn giá đã ấn định,
hành vi này có hậu quả gây hạn chế cạnh tranh lớn hơn, nó không chỉ làm cho
người tiêu dùng không mua được hàng hoá với mức giá thấp hơn mà còn là
cách để doanh nghiệp ấn định giá duy trì sự phân biệt giá của mình đối với
những khách hàng khác nhau. Hành vi ấn định một mức giá cụ thể bắt buộc
các trung gian phân phối hàng hoá, dịch vụ ở mức giá đã được ấn định đó,
không được cao hơn cũng như không được thấp hơn. Tuỳ thuộc vào từng
trường hợp mà tính nguy hại của hành vi ấn định một mức giá cụ thể có thể
khác nhau, nếu mức giá ấn định thấp hơn chi phí để có được hàng hoá nhằm
duy trì hành vi bán phá giá của doanh nghiệp thì nó rất nguy hiểm vì đã gây
hạn chế cạnh tranh, nếu mức giá ấn định nhằm tránh việc cạnh tranh giảm giá
thì nó lại bóc lột người tiêu dùng.

Ấn định giá bán lại là hành vi vi phạm thô bạo quyền tự do định đoạt
của chủ sở hữu hợp pháp đối với hàng hoá và dịch vụ mà nó cung ứng. Xét về
thực chất, ấn định giá bán lại là hành vi cưỡng bức của doanh nghiệp có
quyền lực thị trường đối với người được cung ứng để duy trì mức giá giả tạo:
Hoặc là quá cao gây thiệt hại cho khách hàng, hoặc là quá thấp gây thiệt hại
đến cạnh tranh. Nhìn chung những hành vi ấn định giá bán tối thiểu và ấn
định mức giá cụ thể bị coi là hành vi tự dạng và bị cấm triệt để trong khi đó
những hành vi ấn định giá tối đa thường không bị cấm [27, tr. 59].

Điều đáng chú ý là đối với các đại lý và cơ chế phân phối sản phẩm
thông qua uỷ thác, ký gửi… mà nhà cung cấp ấn định giá bán lại đồng thời là
chủ sở hữu đối với hàng hoá thì việc ấn định giá bán lại được coi là hợp pháp.
Việc ấn định giá bán lại trong trường hợp này thực chất là việc định giá bán
hàng của nhà cung cấp, khâu trung gian phân phối chỉ là nơi gửi hàng của nhà
cung cấp.

- 64 -
Hành vi ấn định giá bán lại chắc chắn phải do doanh nghiệp có quyền
lực thị trường thực hiện và phải thể hiện sự ràng buộc thực tế đối với trung
gian phân phối. Sự ràng buộc thực tế ở đây là những thoả thuận, sự đe doạ, sự
ưu ái… làm cho trung gian phân phối không thể làm trái hành vi ấn định giá
của doanh nghiệp, nếu làm trái thì chắc chắn sẽ gánh chịu những hậu quả bất
lợi do doanh nghiệp ấn định giá trừng phạt (như bị cắt hợp đồng cung cấp, cắt
các điều khoản ưu đãi…) Hậu quả này không nhất thiết phải đã xảy ra mà chỉ
cần trung gian phân phối tin tưởng một cách có cơ sở rằng hậu quả sẽ xẩy ra
khi họ không thực hiện việc ấn định giá là đủ. Nếu hành vi ấn định giá được
đưa ra nhưng không mang tính chất bắt buộc, chỉ có giá trị tham khảo và nhà
phân phối không bị ảnh hưởng gì khi không thực hiện việc ấn định giá đó thì
không thể coi là có sự ấn định giá.
2.3.2.5. Các ràng buộc

a. Hành vi bán kèm

Bán kèm là việc bán một sản phẩm (sản phẩm chính) với điều kiện
người mua phải mua thêm một sản phẩm khác (sản phẩm bán kèm). Những
hành vi bán kèm không bị coi là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường nếu
doanh nghiệp không có quyền lực thị trường. Thậm chí khi doanh nghiệp đó
có quyền lực thị trường thì việc nói rằng hành vi bán kèm đó mang tính lạm
dụng quyền lực thị trường đòi hỏi phải có sự phân tích chi tiết mục đích của
việc bán kèm và bối cảnh thị trường nơi diễn ra hành vi đó.

Doanh nghiệp phải có quyền lực thị trường ở thị trường sản phẩm
chính, nếu không có quyền lực thị trường thì người mua sẽ không mua sản
phẩm chính nữa (đây là mục đích của người mua) mà chuyển sang người
cung cấp khác. Như vậy, cả sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm đều không
bán được sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp nhiều hơn so với việc chỉ không
bán được sản phẩm bán kèm. Nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường cả ở
sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm thì khó có động lực để họ thực hiện
hành vi bán kèm theo nghĩa lạm dụng vì họ có thể bán được nhiều hàng hoá

- 65 -
hơn, thu được lợi nhuận cao hơn, khống chế thị trường tốt hơn khi bán các sản
phẩm một cách riêng rẽ.

Hành vi bán kèm thường được thực hiện bởi mong muốn của một
doanh nghiệp muốn duy trì hay tăng danh tiếng đối với chất lượng và độ tin
cậy của sản phẩm. Lý do này không nên bị coi là mang tính lạm dụng vì nó
làm tăng hiệu quả và nhu cầu của thị trường. Ví dụ, việc phục vụ kém của
một doanh nghiệp độc lập đối với một sản phẩm của doanh nghiệp có quyền
lực thị trường có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới danh tiếng của doanh nghiệp
có quyền lực thị trường và khiến cho doanh số giảm đi. Để tránh điều này,
doanh nghiệp có quyền lực thị trường có thể bán hàng hoá, dịch vụ chính kèm
với một số hàng hoá, dịch vụ khác do chính mình cung cấp để đảm bảo cho
việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ chính được tốt hơn. Tuy vậy, cũng cần chú ý
liệu mục đích hợp pháp của doanh nghiệp có quyền lực thị trường như trên có
thể dễ dàng đạt được bằng các biện pháp khác ít mang tính hạn chế cạnh tranh
hơn không, ví dụ như hoàn thiện qui trình phục vụ của doanh nghiệp độc lập,
đặt điều kiện đảm bảo chất lượng cho doanh nghiệp độc lập phải thực hiện
nghiêm túc, đặt ra các chế tài cho việc vi phạm cách thức, chất lượng phục vụ
của doanh nghiệp độc lập, khả năng chấp nhận các điều kiện đảm bảo chất
lượng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp độc lập…

Theo truyền thống mua bán hàng hoá, căn cứ vào những loại quan hệ
mua bán cụ thể, nếu sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm gắn bó mật thiết
với nhau, hỗ trợ nhau để việc sử dụng sản phẩm này cũng tối ưu hoá việc sử
dụng sản phẩm kia và nếu tách hai sản phẩm ra việc sử dụng sẽ không đảm
bảo hoặc chi phí cho việc sử dụng sẽ tăng cao hơn hoặc các sản phẩm nằm
trong một bộ tiêu chuẩn thiết kế – kỹ thuật phải tuân theo thì việc bán kèm có
thể sẽ được chấp nhận. Ví dụ, doanh nghiệp bán xe máy mà mình sản xuất sẽ
phải bán cả xe và gương chứ không bị bắt buộc tách hai sản phẩm này ra dù
chúng có thể độc lập trong những thị trường khác nhau vì trong tiêu chuẩn
thiết kế sản xuất, lắp ráp xe máy có cả gương xe là một bộ phận không thể

- 66 -
tách rời. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp bán cả giỏ đựng đồ kèm theo xe máy
thì có thể không được chấp nhận vì nó không là bộ phận bắt buộc trong thiết
kế – kỹ thuật cũng như nó có thể tách rời để mua bán mà không hề ảnh hưởng
gì tới tính năng sử dụng của nhau và không làm tăng thêm chi phí cho người
mua.

Nói chung, ngoài việc xác định lý do của hành vi bán kèm, việc xem
xét mối quan hệ của sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm cũng rất cần thiết
bởi nó giúp làm rõ hơn lý do và sự cần thiết của hành vi bán kèm. Thông
thường các doanh nghiệp có hành vi bán kèm luôn sử dụng lý do đảm bảo
chất lượng của sản phẩm chính và sự tiện dụng cho khách hàng mua để lý giải
cho hành vi của mình. Nhưng nếu sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm có
tính độc lập cao, hầu như không có quan hệ với nhau thì việc lý giải của
doanh nghiệp sẽ không thuyết phục. Mối quan hệ của các sản phẩm không
đơn thuần chỉ được tiếp cận ở góc độ hệ thống và kỹ thuật mà còn ở góc độ
thị trường, nghĩa là sự cần thiết của sản phẩm này đối với sản phẩm kia do thị
trường qui định. Ví dụ, ở thị trường kinh doanh bất động sản cao cấp, doanh
nghiệp kinh doanh bất động sản bán biệt thự cho khách hàng mà không bị bắt
buộc bán riêng đất theo yêu cầu của khách hàng để họ tự xây dựng.

Doanh nghiệp được coi là lạm dụng quyền lực thị trường thông qua
hành vi bán kèm khi việc bán kèm đó tước đoạt sự tự do lựa chọn sản phẩm
một cách hợp lý của khách hàng, cho phép tạo ra những khoản lợi nhuận trên
mức bình thường hoặc nó tạo ra các rào cản gia nhập thị trường và các ảnh
hưởng hạn chế cạnh tranh khác trên thị trường sản phẩm bán kèm. Hành vi
bán kèm cũng có thể là một sự lạm dụng nếu nó được sử dụng để tránh việc
điều tiết giá cả đối với sản phẩm chính. Giả thiết rằng doanh nghiệp có quyền
lực thị trường đối với sản phẩm chính, giá cả đối với sản phẩm chính này bị
điều tiết và do đó, doanh nghiệp này không thu được tất cả những lợi nhuận
độc quyền mà lẽ ra nó có thể được hưởng nếu không bị điều tiết. Doanh
nghiệp sẽ bán sản phẩm chính bị điều tiết giá cả với điều kiện bán kèm theo

- 67 -
một sản phẩm khác (mà giá của sản phẩm này không bị điều tiết) và đặt mức
giá của sản phẩm bán kèm này sao cho thu được tất cả những lợi nhuận độc
quyền đối với mặt hàng bị điều tiết. Thông thường, hành vi bán kèm theo
nghĩa lạm dụng quyền lực thị trường được thực hiện để thúc đẩy việc bán
hàng hoá tồn kho và đặc biệt là để tránh việc bị cạnh tranh mạnh mẽ từ các
sản phẩm thay thế khác.

Hành vi bán kèm phải là bắt buộc. Khách hàng chỉ mua được sản phẩm
chính khi họ đồng ý mua sản phẩm bán kèm, nếu khách hàng có thể lựa chọn
để mua các sản phẩm một cách riêng biệt thì không được coi là hành vi bán
kèm, đó có thể là sự gợi ý của doanh nghiệp cho việc mua bán và sử dụng sản
phẩm được tốt hơn và hiệu quả hơn.
b. Cam kết mua bán hai chiều

Cam kết mua bán hai chiều là việc người mua ra điều kiện mua hàng
của người bán nếu người bán cũng mua hàng của mình (hoặc ít nhất cũng
mua hàng ở nơi mình chỉ định). Hành vi này cũng tương tự như hành vi bán
kèm nhưng quyền lực thị trường trong trường hợp này thuộc về người mua.
Việc mua bán này sẽ rất bình thường nếu người bán cũng có nhu cầu phù hợp
với sản phẩm được yêu cầu mua, tuy nhiên để đánh giá được nhu cầu này là
rất khó khăn, khó khăn hơn nữa khi muốn chứng minh có sự áp đặt điều kiện
như vậy bởi một sự thoả thuận mua bán trong trường hợp này không thể hiện
rõ sự áp đặt của người mua, mặt khác người mua cũng đưa ra nhiều lý do hợp
lý để giải thích cho việc áp đặt, đó có thể là vì muốn kiểm soát chất lượng của
sản phẩm họ mua v.v.

Hành vi này gây hạn chế cạnh tranh ở chỗ, do có quyền lực mua hàng
nên người mua đã ép buộc người bán phải mua sản phẩm của mình qua đó
cạnh tranh không bình đẳng với các sản phẩm thay thế ở thị trường sản phẩm
ép buộc hay tạo ra các rào cản gia nhập thị trường. Hơn nữa, nó cũng hạn chế
khả năng lựa chọn mua hàng của người có nhu cầu và thu lợi nhuận độc
quyền từ việc đặt giá cao cho sản phẩm ép buộc. Ví dụ cho trường hợp này có

- 68 -
thể thấy nhiều ở thị trường nông sản. Những nhà thu mua hoặc chế biến chỉ
thu mua hàng của người nông dân khi những người nông dân này mua các sản
phẩm như máy công cụ, phân đạm… từ chính họ. Vì vậy, những doanh
nghiệp khác kinh doanh máy công cụ, phân đạm rất khó khăn khi tiếp cận thị
trường nông sản này hoặc phải tiếp cận bằng cách thông qua những nhà thu
mua, chế biến đã áp đặt các điều kiện với người nông dân, và điều tất nhiên là
chi phí của sản phẩm sẽ cao hơn tương ứng với phần mà những nhà thu mua,
chế biến này nhận được.
2.3.2.6. Giao dịch nhằm mục đích loại trừ

Giao dịch nhằm mục đích loại trừ là hành vi lạm dụng quyền lực thị
trường của doanh nghiệp buộc những người mua bán hàng hoá của doanh
nghiệp không được mua bán hàng hoá tương tự của những doanh nghiệp cạnh
tranh khác là đối thủ của nó.

Doanh nghiệp thực hiện được hành vi này vì nó có quyền lực thị trường
do đó đã buộc người mua bán hàng hoá của mình không được tham gia kinh
doanh với đối thủ của nó. Và như vậy làm tăng các rào cản gia nhập thị
trường, tức là không cho phép hoặc làm chậm quá trình các doanh nghiệp đối
thủ tham gia, mở rộng kinh doanh.

Giao dịch nhằm mục đích loại trừ thường được thực hiện ở những mối
quan hệ theo chiều dọc. Ví dụ, giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Giả sử
một doanh nghiệp có quyền lực thị trường ở lĩnh vực sản xuất bia nhưng
không phải là độc quyền mà cũng có nhiều doanh nghiệp khác kinh doanh
trong cùng thị trường liên quan, có nghĩa là doanh nghiệp có quyền lực thị
trường cũng chịu sự cạnh tranh từ những doanh nghiệp khác. Giả sử thêm
rằng, những nhà phân phối thường hay bán sản phẩm của nhiều doanh nghiệp
sản xuất bia. Cuối cùng, giả sử rằng doanh nghiệp có quyền lực thị trường
thoả thuận với những nhà phân phối theo hợp đồng độc quyền có điều khoản
là nhà phân phối không được phân phối bia cho bất cứ doanh nghiệp sản xuất
nào khác ngoài doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Kết quả là, trừ phi các

- 69 -
đối thủ sản xuất bia tìm được các nhà phân phối khác, nếu không mạng lưới
phân phối độc quyền của doanh nghiệp có quyền lực thị trường đã hạn chế
việc bán hàng của các đối thủ, qua đó tăng chi phí và giảm lợi nhuận của đối
thủ. Như vậy, giá cả mà người tiêu dùng phải trả cho việc mua bia của các đối
thủ sẽ tăng, điều này dẫn tới doanh nghiệp có quyền lực thị trường có thể sẽ
tăng giá bán cho các nhà phân phối độc quyền tương ứng với giá bia của đối
thủ trong khi chi phí hầu như không tăng. Do đó, người tiêu dùng sẽ bị thiệt
hại.

Qua ví dụ, có thể nhận xét là các hợp đồng độc quyền phân phối chỉ bị
coi là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường khi mạng lưới phân phối thực sự
khó khăn để các đối thủ tiếp cận hoặc xây dựng mới. Bởi vì dù có bị cản trở
bởi các hợp đồng độc quyền phân phối nhất định nhưng nếu đối thủ vẫn dễ
dàng tạo được những nhà phân phối mới với chi phí hầu như không tăng hoặc
tăng không đáng kể, do đó các đối thủ vẫn phân phối hàng một cách có hiệu
quả như không hề có chuyện gì xảy ra thì không thể nói đến việc đã gây hạn
chế cạnh tranh.

Các hợp đồng phân phối độc quyền (giao dịch nhằm mục đích loại trừ)
có thể giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn trong rất nhiều trường
hợp, thậm chí kể cả khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Ví dụ, một nhà
sản xuất áp đặt điều kiện này để ngăn cản nhà phân phối dụ dỗ người tiêu
dùng vào cửa hàng của mình nhưng lại chỉ bán sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh; Trường hợp khác, nhà sản xuất áp đặt điều kiện phân phối độc quyền
với một số ít nhà phân phối để đảm bảo tính độc đáo trong việc cung cấp sản
phẩm hay kiểm soát được chất lượng hàng hoá tốt hơn. Vì vậy, khi đánh giá
hành vi giao dịch nhằm mục đích loại trừ có mang tính lạm dụng hay không
phải rất cẩn thận.
2.3.2.7. Từ chối giao dịch

Từ chối giao dịch là hành vi không thực hiện kinh doanh với một đối
tượng xác định, nó có nghĩa như hành vi tẩy chay. Luật cạnh tranh nhìn chung

- 70 -
không áp đặt các doanh nghiệp có nhiệm vụ phải hợp tác với đối thủ cạnh
tranh. Khi một doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp có quyền lực thị trường) từ
chối giao dịch với một doanh nghiệp khác, tác động có thể không phải là hạn
chế cạnh tranh. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo từ chối không
mua đường của doanh nghiệp sản xuất đường có thể do những nguyên nhân
rất hợp lý, thậm chí là ủng hộ cạnh tranh như: sự kém tiếng tăm của doanh
nghiệp sản xuất đường hay chất lượng đường không tốt làm người tiêu dùng
mua bánh kẹo không đánh giá cao sản phẩm mình mua; chi phí mua đường
của nhà sản xuất cao hơn chi phí nhập khẩu đường…

Nói chung, để đánh giá sự lạm dụng trong những vụ từ chối giao dịch
cần phải đánh giá: quyền lực thị trường của doanh nghiệp, động cơ của sự từ
chối và hậu quả hạn chế cạnh tranh gây ra sau đó. Đặc biệt, trong vụ từ chối
giao dịch, cần phải cẩn trọng để không nhầm lẫn giữa những thiệt hại cho
cạnh tranh nói chung và những thiệt thòi cho từng đối thủ cạnh tranh nói
riêng. Những đơn đặt hàng yêu cầu các doanh nghiệp phải cho phép việc tiếp
cận với những thiết bị cần thiết chỉ đạt được khi lợi ích của việc cung cấp đó
lớn hơn chi phí. Như vậy, cần phải tránh một quan niệm cào bằng là doanh
nghiệp phải chấp nhận giao dịch với tất cả mọi đối tượng, kể cả với đối thủ
cạnh tranh, mà điều này chỉ làm lợi cho đối thủ cạnh tranh chứ không phải
cho sự cạnh tranh nói chung. Ngược lại, nếu hay áp đặt những doanh nghiệp
lớn phải có trách nhiệm tiến hành giao dịch với những đối thủ cạnh tranh lại
tạo ra rủi ro là không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hàng hoá và
dịch vụ mới nếu doanh nghiệp cảm thấy không thu hồi được lợi nhuận thích
hợp.
2.3.2.8. Hạn chế nhập khẩu song song

Là hạn chế nhập khẩu hành hoá khi có một hàng hoá tương tự đã xuất
hiện ở nước nhập khẩu. Tức là các sản phẩm này y hệt nhau, cùng chủ sở hữu
hoặc có mối liên kết về kinh tế, tổ chức hay về luật pháp và việc hạn chế các
sản phẩm này chỉ nhằm mục đích duy trì mức giá cao giả tạo [27, tr. 60-61].

- 71 -
Chủ sở hữu một nhãn hiệu có thể có được sức mạnh thị trường nhờ vào
chất lượng hàng hoá, quảng cáo rầm rộ và các hoạt động tiếp thị… Nếu nhãn
hiệu này được chấp nhận rộng rãi thì người chủ nhãn hiệu có thể đặt ra một số
hạn chế lên những người phân phối sản phẩm có nhãn hiệu này. Nhãn hiệu có
thể được sử dụng để loại trừ sản phẩm nhập khẩu, phân bổ thị trường và đôi
khi được dùng để áp đặt một mức giá rất cao. Tuy nhiên các doanh nghiệp
cũng có rất nhiều lý do chính đáng để hạn chế việc phân phối các sản phẩm
như để duy trì chất lượng, hạn chế hàng giả. Những biện pháp này bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ hợp pháp và lợi ích người tiêu dùng. Do dó cũng giống
như nhiều hành vi lạm dụng quyền lực thị trường khác, một nguyên tắc chung
luôn cần được quan tâm là phải xác định được tác động hạn chế cạnh tranh,
sự bóc lột người tiêu dùng của hành vi.
Về việc hạn chế nhập khẩu hàng hoá, chủ nhãn hiệu có thể tìm cách
hạn chế nhập khẩu hàng hoá mang nhãn hiệu này để loại trừ cạnh tranh hoặc
chủ nhãn hiệu cũng có thể sử dụng những nhãn hiệu khác nhau cho cùng một
sản phẩm từ đó có thể hạn chế việc nhập khẩu từ nước này sang nước kia:

Tại Nhật Bản, Công ty Old Parr đã buộc các đại lý không được cung
cấp rượu Wisky cho những thương gia nhập khẩu Wisky Old Parr từ nước
ngoài, hoặc những thương gia bán sản phẩm nhập khẩu dưới mức giá Công ty
qui định. Công ty này đã sử dụng một dấu hiệu đặc biệt để phát hiện những
nhà buôn không tuân thủ những qui định này. Uỷ ban thương mại công bằng
Nhật Bản đã điều tra vụ việc và cho rằng hành vi này là không công bằng và
buộc Old Parr phải chấm dứt hành động này.

Liên quan đến việc hạn chế nhập khẩu một sản phẩm tương tự đã có
mặt ở nước nhập khẩu, có một trường hợp là Công ty Cinzano ở Đức. Toà án
tối cao Đức đã quyết định rằng khi chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép các chi
nhánh ở các nước khác nhau được phép sử dụng nhãn hiệu để bán sản phẩm
này thì chủ sở hữu nhãn hiệu không được hạn chế hoạt động nhập khẩu của
các chi nhánh đối với sản phẩm này.

- 72 -
Một nhãn hiệu đăng ký ở hai (hoặc hơn hai) quốc gia có thể có cùng
nguồn gốc. Đối với sản phẩm được xuất khẩu sang các nước khác nhưng
không được sản xuất ở đó thì nhãn hiệu thường được uỷ quyền cho một nhà
phân phối độc quyền. Ví dụ Công ty Watts ở Anh và nhà phân phối độc
quyền của nó là Theal B.V ở Hà Lan bị Uỷ ban Châu Âu phạt vì đã sử dụng
nhãn hiệu để ngăn cản việc nhập khẩu song song vào Hà Lan. Uỷ ban cho
rằng, thoả thuận phân phối độc quyền và ngăn cản nhập khẩu song song cùng
sản phẩm này đã tạo ra một sự bảo vệ vững chắc cho Theal (các Công ty ở
Anh bị Watts cấm không được xuất khẩu sang Hà Lan). Việc này đã tạo cho
Theal một vị trí độc quyền để áp đặt giá.
2.3.2.9. Hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm

Hạn chế tiêu thụ sản phẩm là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường
của doanh nghiệp nhằm hạn chế thị trường sản phẩm, thị trường địa lý hoặc
khống chế số lượng sản phẩm của doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh với
nó. Về hình thức thể hiện, hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm có các dạng
cơ bản như sau:

Khống chế số lượng sản phẩm: Việc kiểm soát số lượng sản phẩm của
hãng độc quyền đối với các hãng bị kiểm soát thường nhằm hình thành cartel,
trong đó phân bổ hạn ngạch bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhằm đẩy giá
lên thu lợi nhuận độc quyền. Tuy nhiên có điểm khác trong cartel bắt buôc
với cartel ổn định giá là quyền lực của doanh nghiệp là khác nhau và thường
là doanh nghiệp độc quyền sẽ có quyền lực lớn hơn nhiều so với doanh
nghiệp bị hạn chế. Do vậy cartel bắt buộc thường gặp phải sự chống đối từ
các doanh nghiệp này nếu như quyền lợi của nó từ việc phân bổ hạn ngạch và
thu lợi nhuận độc quyền thường nhỏ hơn so với thị trường cạnh tranh. Hình
thức này thường áp dụng thông qua các điều khoản của các hợp đồng cung
ứng hay hợp đồng chuyển giao công nghệ nhằm hạn chế việc cạnh tranh của
doanh nghiệp khác đối với doanh nghiệp độc quyền.

- 73 -
Phân chia thị trường theo khách hàng: Là hình thức khống chế của một
doanh nghiệp có quyền lực thị trường đối với các doanh nghiệp nhỏ khác
không được bán hoặc hạn chế bán một loại sản phẩm cho một đối tượng
khách hàng nhất định. Lý do của việc này là mong muốn của nhà cung cấp
duy trì, khuyếch trương hình ảnh hay chất lượng của sản phẩm, hay là việc
người cung cấp có thể muốn giữ lại cho mình mối bán buôn cho khách hàng
lớn, như việc bán xe ôtô cho những công ty vận tải hoặc bán cho chính phủ.
Hành vi này còn được tạo ra để ngăn cản việc cung cấp hàng từ những người
bán lẻ giảm giá hay những người bán lẻ độc lập vì mục đích duy trì giá bán lại
và giới hạn các đại lý.

Phân chia thị trường theo lãnh thổ: Là hành vi lạm dụng quyền lực thị
trường của doanh nghiệp cung cấp hàng hoá trong những khu vực địa lý nhất
định; phân định một khu vực nhất định cho nhà phân phối, thoả thuận là
người phân phối sẽ không bán cho khách hàng ở ngoài khu vực đó, không bán
cho khách hàng có thể bán lại sản phẩm đó ở một khu vực khác. Hành vi này
có thể nói còn bao gồm cả hành vi hạn chế nhập khẩu song song, tuy nhiên
nhập khẩu song song diễn ra ở những quốc gia khác nhau còn hành vi này chỉ
đề cập tới thị trường địa lý trong một quốc gia.

Hạn chế thị trường sản phẩm: thông thường các hạn chế này được thể
hiện dưới dạng điều khoản chống cạnh tranh ở các hợp đồng cung ứng đầu
vào hoặc hợp đồng Lixăng, trong đó người mua không được sử dụng các đầu
vào trên hoặc công nghệ trong hợp đồng Lixăng để sản xuất một số sản phẩm
nhất định.
2.3.2.10. Hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ, hạn chế phát triển kỹ thuật và
công nghệ

Hạn chế phát triển kỹ thuật và công nghệ [13, tr. 140] là hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường của doanh nghiệp để hạn chế sự phát triển kỹ thuật
hoặc xâm phạm các giải pháp kỹ thuật cải tiến kỹ thuật của các doanh nghiệp

- 74 -
có quan hệ kinh doanh với nó nhằm hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp này hoặc hạn chế môi trường cạnh tranh nói chung.

Hạn chế phát triển kỹ thuật và công nghệ đã làm chậm việc phát triển
khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quá trình hoàn
thiện sản phẩm để giảm giá thành, đưa ra các sản phẩm mới, gây lãng phí
trong việc sử dụng các nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực được đào
tạo, gián tiếp gây thiệt hại cho lợi ích của người tiêu dùng và xã hội, kìm hãm
sản xuất. Do đó, pháp luật kiểm soát độc quyền của các nước đều cho rằng
đây là hành vi đặc biệt nguy hại cần được xử lý nghiêm khắc mà không có bất
cứ ngoại lệ nào.

Các doanh nghiệp bị khống chế cũng chống lại hành vi khống chế một
cách mạnh mẽ vì nó đã thủ tiêu một trong những động lực quan trọng nhất để
cạnh tranh. Bởi vậy các doanh nghiệp độc quyền chỉ có thể hạn chế các doanh
nghiệp này dưới hình thức hợp đồng Lixăng và hợp đồng cung ứng đầu vào
mà nhà cung ứng đầu vào có quyền lực thị trường tuyệt đối.. Như vậy, khác
với hình thức hạn chế cạnh tranh khác đều tác động tới giá cả và sản lượng
hiện tại, hạn chế phát triển kỹ thuật và công nghệ nhằm vào việc hạn chế sự
phát triển trong tương lai của kỹ thuật, công nghệ đối với khách hàng nhận
chuyển giao công nghệ hoặc mua sản phẩm độc quyền.

Đăng ký Patent nhằm hạn chế cạnh tranh [13, tr. 142] là hành vi phổ
biến ở các nước có nền kinh tế thị trường, đặc biệt là ở những quốc gia chưa
có pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh. Theo con số điều tra của Uỷ ban
kinh tế xã hội Châu Á - Thái Bình Dương 1997 thì hơn 80% Patent được cấp
ở những nước đang phát triển là cấp cho người nước ngoài, trong đó 90%
không được sử dụng để sản xuất tại nước đó. Có thể nói đây là hành vi gây
lãng phí rất lớn nguồn lực về khoa học và công nghệ, làm chậm lại quá trình
ứng dụng và phát triển sản phẩm, bóp méo cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.

Nhiều quốc gia còn coi hành vi sử dụng nhiều nhãn hiệu cho cùng một
sản phẩm là hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ vì nó đã phân đoạn thị

- 75 -
trường thành nhiều khúc khác nhau qua đó làm cho khách hàng nhầm tưởng
có sự khác biệt của hàng hóa để chấp nhận những mức giá khác nhau hoặc tạo
ra các rào cản cho việc thâm nhập thị trường của những doanh nghiệp khác.
Ví dụ trong vụ Centrafarm B.V chống lại công ty American Home Product
(AHP) [27]. Centrafarm khiếu nại rằng, với tư cách là nhà nhập khẩu song
song, nó có quyền bán không cần ủy quyền sản phẩm mang tên “Seresta”,
một loại thuốc viên có nguồn gốc của AHP và đồng thời chào bán sản phẩm
này tại Anh với cái tên “Serenid D”. Tòa án cho rằng hành động này làm hạn
chế thương mại trong EU và việc sử dụng nhãn hiệu khác nhau cho cùng một
sản phẩm chỉ nhằm mục đích phân đoạn thị trường và để duy trì mức giá cao
giả tạo.

Nói tóm lại, quyền sở hữu trí tuệ là một quyền quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, nó tạo ra động lực để mọi người sáng tạo do vậy bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ là rất cần thiết. Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, biện pháp
thông thường nhất là cho người sở hữu được độc quyền đối với sản phẩm sở
hữu trí tuệ của họ trong một thời gian nhất định. Quyền độc quyền có nội
dung rất rộng với mục đích để người có quyền khai thác tối đa lợi ích từ sản
phẩm sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên điều này đồng nghĩa với việc luôn có sự lạm
dụng từ phía những người có quyền, họ tìm mọi cách để mở rộng quyền vượt
khỏi phạm vi đã được giới hạn bởi nhà nước. Chỉ như vậy, lợi ích mà họ đạt
được sẽ lớn hơn rất nhiều. Nhưng ngược lại, họ đã làm ảnh hưởng tới cạnh
tranh, làm ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu dùng và hạn chế cạnh tranh. Vì lẽ
đó cần phải có sự quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng nội dung quyền độc
quyền cho phù hợp, tránh việc lạm dụng từ phía người có quyền. Đồng thời
cần giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng quyền độc quyền của chủ thể, sao cho
việc sử dụng luôn đảm bảo mối tương quan giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
cộng đồng.
2.3.2.11. Hành vi làm tăng chi phí của đối thủ

- 76 -
Hành vi này là hành vi của doanh nghiệp có quyền lực thị trường, lạm
dụng sức mạnh tạo ra rào cản cho việc gia nhập thị trường, cũng như loại bỏ
các đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường bằng cách làm tăng chi phí của hoạt
động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. Làm tăng chi phí của đối thủ có nội
dung trước tiên là chọn một yếu tố chi phí nhất định mà nếu tăng, tất cả hay
gần như tất cả các doanh nghiệp phải chấp nhận tăng theo, nếu không họ sẽ
gặp bất lợi trong kinh doanh. Sự bất lợi này luôn thể hiện rõ nét hơn sự bất lợi
nếu họ không chấp nhận tăng chi phí, do đó doanh nghiệp không thể cưỡng
lại việc tăng chi phí theo những đối thủ khác được. Chi phí tăng nhưng doanh
thu không tăng và đương nhiên lợi nhuận phải giảm. Những đối thủ cạnh
tranh yếu sẽ không thể chịu được tình trạng này và phải rút lui khỏi thị
trường, trong khi đó những doanh nghiệp tiềm năng không tìm thấy cơ hội
cho việc kinh doanh nên không nỗ lực gia nhập thị trường. Sau khi củng cố
được vị trí của mình trên thị trường, doanh nghiệp lạm dụng sẽ lại tìm mọi
cách thu lợi nhuận độc quyền như là kết cấu chung của hành vi lạm dụng. Đó
có thể là tăng giá hàng hóa hoặc giảm chi phí, tùy thuộc tình hình thị trường
mà cách thức nào tỏ ra hiệu quả hơn sẽ được áp dụng.

Cách thức phổ biến được các doanh nghiệp áp dụng làm tăng chi phí
của đối thủ là quảng cáo và tiếp thị quá mức. Bình thường quảng cáo và tiếp
thị là một phương thức kinh doanh cực kỳ hiệu quả mà không ai có thể phủ
nhận, hơn nữa phương thức kinh doanh này ngày càng chứng tỏ sức mạnh
trong nền kinh tế hiện đại, nơi mà các phương tiện truyền thông bùng nổ cả về
chất lượng lẫn số lượng. Vấn đề đáng quan tâm là không phải tìm sự hạn chế
cạnh tranh trong hình thức quảng cáo và tiếp thị mà phải tìm trong cách thực
hiện quảng cáo và tiếp thị.

Nếu quảng cáo được thực hiện với mục đích so sánh hoặc quảng cáo
không trung thực thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật kiểm soát
lạm dụng quyền lực thị trường, nó thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật kiểm soát lạm dụng quyền lực

- 77 -
thị trường quan tâm tới mức độ kinh tế của quảng cáo, có nghĩa là quan tâm
tới mức độ chi phí bỏ ra để quảng cáo trong những trường hợp nhất định. Khi
chi phí bỏ ra để quảng cáo rõ ràng là cao quá mức thì rất khó lý giải cho hành
vi này bởi vì tính kinh tế luôn là ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp, không có
lý do gì để họ phải chấp nhận những khoản chi phí lớn đến như vậy trừ khi họ
có những mục đích khác. Ví dụ, một doanh nghiệp kinh doanh máy móc
chuyên dùng bỏ ra tới hơn 50% doanh thu cho hoạt động quảng cáo thì không
thể coi là hoạt động bình thường.

Mục tiêu của hành vi lạm dụng này thể hiện qua cơ chế sau: doanh
nghiệp có quyền lực thị trường tăng chi phí quảng cáo qua đó chiếm lĩnh
được nhiều thị phần hơn, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường được nâng
cao hơn thì đồng nghĩa với việc đó là thị phần và uy tín của các doanh nghiệp
khác giảm đi hoặc không tăng (cũng có nghĩa là đã thất bại). Do vậy các
doanh nghiệp khác bắt buộc phải tăng chi phí quảng cáo theo nhằm mục đích
tối thiểu là duy trì thị phần và uy tín như cũ. Một mặt bằng chi phí quảng cáo
mới đã được thiết lập. Nếu doanh nghiệp nào nhỏ sẽ không thể chịu mức chi
phí này và không sớm thì muộn cũng phải rời bỏ thị trường vì kinh doanh
không hiệu quả.

Mức độ chi phí như thế nào được coi là quá mức tùy thuộc vào rất
nhiều câu hỏi, như: hàng hóa, doanh nghiệp được quảng cáo mới tham gia thị
trường hay tham gia lâu rồi? Hàng hóa, doanh nghiệp mới tham gia thị trường
nhu cầu quảng cáo sẽ cao hơn khi đã gia nhập được một thời gian. Hàng hóa,
doanh nghiệp quảng cáo thuộc lĩnh vực thị trường nào? nếu thuộc lĩnh vực
hàng tiêu dùng thì chi phí quảng cáo thông thường là cao hơn chi phí quảng
cáo trong lĩnh vực hàng tư liệu sản xuất…

Hành vi làm tăng chi phí của đối thủ còn có thể được thực hiện thông
qua nhiều cách thức khác nhau nữa, tuy nhiên khó có thể nhận biết được rõ
ràng như trong quảng cáo và tiếp thị quá mức. Ví dụ, hành vi tăng lương rất
cao cho nhân viên, tạo một mặt bằng lương mới rất cao, buộc các đối thủ phải

- 78 -
tăng lương theo nếu không sẽ mất nhân viên; Cố tình lôi kéo các đối thủ nhỏ
vào vòng kiện tụng, tranh chấp để tiêu hao tiền của và thời gian của họ (thông
thuờng hành vi này được thực hiện ở những môi trường sự kiện cáo rất phổ
biến và phí tổn cao như nước Mỹ chẳng hạn).

- 79 -
CHƢƠNG 3:
PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT LẠM DỤNG
QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

Với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật có mục tiêu chính thức về vấn đề
cạnh tranh và độc quyền, pháp luật kiểm soát lạm dụng quyền lực thị trường
chỉ hình thành khi Quốc hội khoá XI, tại kỳ họp thứ 6 thông qua Luật cạnh
tranh ngày 03/12/2004.

Luật cạnh tranh được ban hành không chỉ để điều chỉnh riêng hành vi
lạm dụng quyền lực thị trường mà còn điều chỉnh các vấn đề chung khác của
pháp luật cạnh tranh. Có thể nói Việt Nam xây dựng Luật cạnh tranh theo
cách mà nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng, đó là mô hình “một luật”.
Theo mô hình này, tất cả những vấn đề của pháp luật cạnh tranh được đưa vào
một đạo luật mà không tách ra thành nhiều đạo luật khác nhau, mỗi đạo luật
điều chỉnh một vấn đề riêng biệt. Luật cạnh tranh được Quốc hội khóa XI, kỳ
họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004 có hiệu lực vào ngày 1/7/2005 điều
chỉnh ba lĩnh vực lớn của pháp luật cạnh tranh là chống cạnh tranh không
lành mạnh, kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh (hai lĩnh vực này thuộc về
qui định nội dung) và thủ tục, biện pháp xử lý hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh (qui định hình thức). Luật canh tranh được chia thành 6 chương với 123
điều, có bố cục như sau:

- Chương I: Những qui định chung (gồm 7 điều, từ điều 1 đến điều 7).

- Chương II: Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh (gồm 31 điều, từ
điều 8 đến điều 38, được phân thành 4 mục: Mục 1 – Thoả thuận hạn chế
cạnh tranh; Mục 2 – Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền; Mục 3 – Tập trung kinh tế; Mục 4 – Thủ tục thực hiện các trường hợp
miễn trừ).

- 80 -
- Chương III: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (gồm 10 điều, từ
điều 39 đến điều 48).

- Chương IV: Cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh (gồm 7
điều, từ điều 49 đến điều 55)

- Chương V: Điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh (gồm 66 điều, từ điều


56 đến điều 121).

- Chương VI: Điều khoản thi hành (gồm 2 điều là điều 122 và 123).

Như vậy, Luật cạnh tranh đã không sử dụng khái niệm hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường mà sử dụng khái niệm hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền. Sự khác biệt này chỉ thể
hiện cách gọi hiện tượng mà không hề có sự khác biệt về nội dung. Theo cách
gọi của Luật cạnh tranh thì hành vi lạm dụng quyền lực thị trường được chia
thành hai hành vi với mức độ quyền lực thị trường khác nhau là: hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường có mức độ quyền lực thị trường không tuyệt
đối (doanh nghiệp vẫn bị canh tranh từ các đối thủ) và hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền có mức độ quyền lực thị trường tuyệt đối, hành vi này được coi là
một dạng đặc biệt của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh.

Trong phạm vi của Luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu những qui
định nội dung của Luật cạnh tranh liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền. Bao gồm những qui định chung về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền; các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm (Chương I,
Chương II Luật cạnh tranh) mà không xem xét đến các qui định thủ tục, biện
pháp xử lý hành vi này (qui định hình thức).
3.1. Những qui định chung về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền
3.1.1. Chủ thể

Theo điều 2, Luật cạnh tranh được áp dụng với các đối tượng:

- 81 -
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp
hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam;
- Hiệp hội ngành nghề ở Việt Nam;

Ngoài hai đối tượng này, Luật cạnh tranh còn áp dụng với cả cơ quan
quản lý nhà nước. Điều 6 qui định:

“Cơ quan quản lý nhà nước không được thực hiện những hành vi sau
đây để cản trở cạnh tranh trên thị trường:

1. Buộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải mua, bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp được cơ quan này chỉ định, trừ hàng
hoá, dịch vụ thuộc độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo
qui định của pháp luật;

2. Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp;


3. ép buộc các hiệp hội ngành nghề hoặc các doanh nghiệp liên kết với
nhau nhằm loại trừ, hạn chế, cản trở các doanh nghiệp khác cạnh tranh trên
thị trường;

4. Các hành vi khác cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh
nghiệp”.

Tuy nhiên chủ thể của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
lạm dụng vị trí độc quyền không phải là tất cả ba loại chủ thể nêu trên. Chủ
thể của hành vi này chỉ là doanh nghiệp chứ không thể là các chủ thể khác
không tham gia vào kinh doanh như hiệp hội ngành nghề hay cơ quan quản lý
nhà nước. Khoản 3, điều 3 Luật cạnh tranh qui định: Hành vi hạn chế cạnh
tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên
thị trường, bao gồm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị
trí độc quyền.

- 82 -
Doanh nghiệp theo qui định của Luật cạnh tranh được tiếp cận với một
quan điểm khác hẳn với quan điểm truyền thống, tức là không căn cứ vào
hình thức tổ chức kinh doanh xem có phải là pháp nhân hay cá nhân không,
không căn cứ vào chứng cứ pháp lý là có đăng ký kinh doanh hay không. Tất
cả các đối tượng tham gia kinh doanh dù là tổ chức hay cá nhân đều được coi
là doanh nghiệp. Do đó, Luật cạnh tranh cũng coi cả các chủ thể kinh doanh
không có đăng ký kinh doanh (thương nhân thực tế) là chủ thể hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền chứ không phải chỉ các chủ
thể có đăng ký kinh doanh hợp lệ.

Điều 2 dự thảo Nghị định qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật cạnh tranh ngày 25/1/2005 (Sau đây gọi là Dự thảo Nghị
định hướng dẫn Luật cạnh tranh) thì xác định thêm một điều kiện nữa để tổ
chức, cá nhân kinh doanh được coi là doanh nghiệp phải thuộc đối tượng nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định của pháp luật. Qui định này có giá
trị giúp nhận biết rõ hơn hoạt động kinh doanh và hoạt động lao động của cá
nhân hay hoạt động kinh doanh của tổ chức với hoạt động khác của tổ chức.
Bởi vì ranh giới giữa hai hoạt động này của cá nhân nói chung là tương đối
mỏng manh và đối với tổ chức thì không phải hoạt động nào cũng là hoạt
động kinh doanh mà đôi khi có những nhầm lẫn trong đánh giá. Nhưng thông
thường khi hoạt động của cá nhân, tổ chức được xác định là hoạt động kinh
doanh thì họ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp và ngược lại.

Như vậy, doanh nghiệp theo Luật cạnh tranh bao gồm (nhưng không
giới hạn) một số đối tượng sau:

- Doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân theo Luật doanh nghiệp năm 1999 và các công ty,
doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân
năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật công ty, Luật doanh
nghiệp tư nhân năm 1994.

- 83 -
- Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã
hội.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức
chính trị – xã hội.

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu
tư nước ngoài năm 1987 và Luật đầu tư nước ngoài năm 1996.

- Văn phòng luật sư được thành lập theo Pháp lệnh luật sư năm 2001.

- Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã.

- Tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức nghiên cứu và phát triển
được thành lập theo qui định của Luật khoa học và công nghệ năm 2000.

- Tổ chức, cá nhân hành nghề y, dược tư nhân theo qui định của Pháp
lệnh hành nghề y, dược tư nhân năm 2003.

- Chi nhánh thương nhân nước ngoài.


- Nhà thầu nước ngoài.

- Hộ kinh doanh cá thể.

- Hộ gia đình, tổ hợp tác.

Một ngoại lệ được đặt ra với trường hợp của doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích là không chịu sự kiểm soát thông thường của pháp
luật kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền
mà chịu sự kiểm soát của Nhà nước thông qua các biện pháp hành chính –
kinh tế. Điều 15 Luật cạnh tranh:

“1. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc
quyền nhà nước bằng các biện phap sau:

a) Quyết định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc
quyền nhà nước;

- 84 -
b) Quyết định số lượng, khối lượng, phạm vi thị trường của hàng hoá,
dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước.

2. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ công ích bằng các biện pháp đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo
giá hoặc phí do nhà nước qui định.

3. Khi thực hiện các hoạt động kinh doanh khác ngoài lĩnh vực độc
quyền nhà nước và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, các doanh
nghiệp không chịu sự điều chỉnh của qui định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này nhưng vẫn chịu sự điều chỉnh của các qui định khác của Luật này.”

Hiện tượng độc quyền nhà nước và doanh nghiệp công ích dù trong nền
kinh tế thị trường cũng rất cần thiết đối với một số lĩnh vực, đặc biệt với
trường hợp của Việt Nam, nơi mà thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Do vậy những “doanh nghiệp cần thiết” này nên có những qui định
điều chỉnh riêng biệt cũng là hợp lý.

Một vấn đề không được Luật cạnh tranh qui định là doanh nghiệp - chủ
thể của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền gồm những cơ cấu, bộ phận như thế nào (trong Chương I - Luận văn
gọi là hình thức biểu hiện của doanh nghiệp). Ví dụ, Tổng Công ty và các
công ty thành viên có phải là một doanh nghiệp hay không hay mỗi Công ty
là một doanh nghiệp? Công ty cổ phần sở hữu vốn góp trong Công ty cổ phần
(hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn) khác thì cả hai Công ty có được coi một
doanh nghiệp không hay mỗi Công ty là một doanh nghiệp? Trường hợp nào
thì được coi là một doanh nghiệp, trường hợp nào không được coi là một
doanh nghiệp?… Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ chưa có sự giải thích. Mặc dù vậy,
Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh cũng gián tiếp thừa nhận vấn
đề này thông qua qui định về tính thị phần của Tổng Công ty.

“Điều 5. Doanh thu, doanh số mua vào đối với một loại hàng hoá, dịch
vụ để xác định thị phần của Tổng công ty

- 85 -
1. Doanh thu, doanh số mua vào đối với một loại hàng hóa, dịch vụ để
xác định thị phần của Tổng công ty không theo mô hình công ty mẹ - công ty
con được tính bằng tổng doanh thu, doanh số mua vào đối với loại hàng hóa,
dịch vụ đó của các đơn vị sau đây:
a) Các đơn vị do Tổng công ty đầu tư toàn bộ vốn điều lệ bao gồm
công ty thành viên hạch toán độc lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước, Nghị đinh số 153/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2004 và Điều lệ
Tổng công ty ; đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp
hoạt động theo phân cấp của Tổng công ty theo quy định tại Điều lệ Tổng
công ty; công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên được tổ chức
và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và công ty tài chính.
b) Các đơn vị thành viên do Tổng công ty nắm giữ cổ phần, vốn góp chi
phối bao gồm công ty cổ phần có cổ phần chi phối của Tổng công ty hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp ; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên có vốn góp chi phối của Tổng công ty hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp; công ty liên doanh, trong đó Tổng công ty là đối tác giữ quyền chi
phối, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các doanh nghiệp
do Tổng công ty giữ cổ phần, vốn góp chi phối được thành lập ở nước ngoài,
tổ chức và hoạt động theo pháp luật của nước sở tại.

...

2. Doanh thu, doanh số mua vào đối với một loại hàng hóa, dịch vụ để
xác định thị phần của Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con
được tính bằng tổng doanh thu, doanh số mua vào đối với loại hàng hóa,
dịch vụ đó của công ty mẹ và các công ty con.”
Theo qui định trên, dù là qui định để tính thị phần doanh nghiệp nhưng
cũng gián tiếp cho thấy, Tổng Công ty được coi là một doanh nghiệp (trên cơ
sở đó mới tính được doanh thu, doanh số để xác định thị phần của Tổng Công
ty) thì tuỳ từng trường hợp, nếu là Tổng Công ty theo mô hình công ty mẹ –
công ty con, doanh nghiệp được coi là cả công ty mẹ và công ty con. Nếu

- 86 -
Tổng Công ty không theo mô hình công ty mẹ – công ty con thì doanh nghiệp
được coi là Tổng Công ty và một số Công ty, đơn vị khác được xác định phù
hợp. Như vậy lại nảy sinh một vấn đề, các Công ty khác không phải là Tổng
Công ty (doanh nghiệp nhà nước) theo qui định trên nhưng có sự đan xen về
sở hữu thì doanh nghiệp được xác định như thế nào? Ví dụ đó là Công ty hoạt
động theo Luật doanh nghiệp 1999, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hoặc doanh nghiệp nhà nước độc lập… Cả Luật cạnh tranh và Dự
thảo Nghị định hướng dẫn đều chưa có qui định, hay ít nhất là thể hiện quan
điểm về việc này.

Nên sử dụng yếu tố sở hữu vốn để xác định doanh nghiệp là chính xác
nhất và hiệu quả nhất trong giai đoạn đầu khi mới có Luật cạnh tranh. Có thể
qui định một doanh nghiệp mà sở hữu vốn điều lệ, vốn pháp định của một
hoặc nhiều doanh nghiệp (hoặc thực thể kinh doanh khác) từ trên 50% (là
mức được gọi là cổ phần, vốn góp chi phối) thì các doanh nghiệp này được
coi là một doanh nghiệp theo pháp luật kiểm soát lạm dụng quyền lực thị
trường.

Ý nghĩa, sự cần thiết của việc phân biệt doanh nghiệp và nhóm doanh
nghiệp đã được Luận văn phân tích tại Chương II.
3.1.2. Thị trường liên quan

Điều 3 Luật cạnh tranh giải thích khái niệm này như sau:

“Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị
trường địa lý liên quan.
Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch
vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.

Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có
những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh
tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận”.

Nói chung, cách xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh cũng
tương tự như nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó những yếu tố cơ bản nhất

- 87 -
để xác định thị trường đã được đề cập. Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật
cạnh tranh cũng tìm cách chi tiết hơn cách xác định thị trường liên quan và
nhấn mạnh tới những yếu tố có ảnh hưởng đến việc xác định thị trường liên
quan như khả năng thay thế về cung, khả năng thay thế về cầu, rào cản gia
nhập thị trường (nhấn mạnh những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định thị
trường liên quan là hợp lý, tuy nhiên cách xác định thị trường liên quan còn
những hạn chế nhất định).

Theo đó, yếu tố cơ bản, quan trọng nhất để xác định thị trường sản
phẩm liên quan là thuộc tính “có thể thay thế nhau của sản phẩm”. Thuộc tính
này được hiểu là khả năng có thể thay thế của sản phẩm này cho sản phẩm kia
ở các đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
Đặc tính của sản phẩm thể hiện ở tính chất vật lý, tính chất hoá học,
tính chất kỹ thuật, tác động phụ đối với người sử dụng, khả năng hấp thụ sản
phẩm; Mục đích sử dụng của các sản phẩm có thể thay thế nhau phải giống
nhau. Hơn nữa, mục đích sử dụng được xác định căn cứ theo mục đích sử
dụng chủ yếu nhất của sản phẩm bởi vì một sản phẩm không phải có duy nhất
một khả năng sử dụng mà có thể có rất nhiều khả năng tuỳ thuộc vào mục
đích sử dụng của người tiêu dùng, tuy nhiên do những đặc tính, mục đích sản
xuất ra nó và mục đích sử dụng của phần lớn người tiêu dùng nên có thể xác
định được mục đích sử dụng chính đại diện cho sản phẩm; Để khẳng định các
sản phẩm có thể thay thế nhau về yếu tố giá cả, có cách định lượng như sau:
điều tra ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh sống trong khu vực địa lý liên
quan, nếu trên 50% số người được điều tra chuyển sang mua hoặc có ý định
chuyển sang mua sản phẩm khác có cùng đặc tính, mục đích sử dụng khi giá
cả của sản phẩm đó tăng lên quá 10% thì xác định các sản phẩm đó có giá cả
thay thế được cho nhau. Giá cả của hàng hoá để làm căn cứ tính toán được
xác định theo giá bản lẻ niêm yết theo qui định của pháp luật về niêm yết giá.
Cách xác định sự thay thế về giá cả như vậy mới chỉ đề cập tới mức giá tăng
tối thiểu (10%) chứ chưa có sự lưu ý về mức giá tăng tối đa hoặc trong trường

- 88 -
hợp tăng rất cao sẽ giải quyết như nào, vì khi giá cả tăng rất cao thường
không phản ánh được chính xác khả năng thay thế của sản phẩm. Trong
trường hợp đặc biệt, thị trường sản phẩm liên quan còn có thể được xác định
là thị trường của một loại sản phẩm đặc thù hoặc một nhóm các sản phẩm đặc
thù căn cứ vào cấu trúc thị trường và tập quán của người tiêu dùng.

Cách xác định thị trường địa lý liên quan theo Luật canh tranh Việt
Nam cũng tương tự cách xác định của Luật cạnh tranh Ấn Độ [27] ở việc
nhấn mạnh sự tương đồng của môi trường kinh doanh trong thị trường địa lý
liên quan. Luật cạnh tranh của ấn Độ định nghĩa thị trường địa lý liên quan là
thị trường của các khu vực mà các điều kiện cạnh tranh về cung cấp hàng hoá
hay dịch vụ hoặc nhu cầu về hàng hoá hay dịch vụ có tương đồng rõ rệt và có
thể phân biệt với các điều kiện chủ yếu của các thị trường lân cận. Nói chung,
cách xác định này cũng là cách xác định khả năng thay thể của sản phẩm ở
khu vực địa lý này với khu vực địa lý khác (hay là các sản phẩm trong một
khu vực địa lý nhất định có thể thay thế cho nhau) nhưng nhấn mạnh vào môi
trường kinh doanh trong thị trường địa lý liên quan. Cho rằng, nếu môi trường
tương đồng thì các sản phẩm có thể thay thế được cho nhau hoặc ngược lại,
chúng không có khả năng thay thế nhau. Do vậy, Dự thảo Nghị định hướng
dẫn Luật cạnh tranh đã đi theo hướng xác định các yếu tố để coi điều kiện
cạnh tranh trên thị trường địa lý liên quan là tương tự và khác biệt với các khu
vực địa lý lân cận, qua đó nhận diện được thị trường địa lý liên quan và khu
vực địa lý không thuộc thị trường địa lý liên quan. Nhận thức này về cơ bản là
đúng nhưng không phải trong mọi trường hợp.

Theo chúng tôi, việc xác định điều kiện cạnh tranh trên thị trường địa
lý liên quan như Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh là chưa hợp
lý, không thực sự cần thiết cũng như làm rối hơn quá trình nhận thức và thi
hành Luật cạnh tranh. Nhất là tại khoản 2 Điều 16 xác định điều kiện cạnh
tranh trên thị trường địa lý liên quan là tương tự và khác biệt với khu vực địa
lý lân cận đơn giản chỉ dựa vào một hoặc cả hai điều kiện: chi phí vận chuyển

- 89 -
và thời gian vận chuyển làm giá bán lẻ hàng hoá tăng không quá 10%; có sự
hiện diện của một trong những rào cản gia nhập thị trường. Bởi vì một rào cản
gia nhập thị trường (còn chưa biết mức độ cao thấp) có thể sẽ không đủ để
phân loại thị trường theo khu vực. Hơn nữa, điều kiện cạnh tranh không phải
là yếu tố quyết định để xác định thị trường địa lý liên quan mà đó là khả năng
thay thế của các sản phẩm ở các khu vực địa lý khác nhau. Do vậy điều cần
phải làm là xác định khả năng thay thế của các sản phẩm ở những khu vực địa
lý khác nhau (các sản phẩm này phải cùng thị trường sản phẩm liên quan).
Theo như cách định lượng để xác định khả năng thay thế về giá cả của sản
phẩm ở thị trường sản phẩm liên quan, áp dụng tương tự để xác định thị
trường địa lý liên quan sẽ rất dễ dàng và đơn giản hơn rất nhiều: Điều tra một
lượng ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sống tại khu vực địa lý có sự tăng giá
quá 10% của sản phẩm (đi từ khu vực địa lý nhỏ nhất có thể), nếu trên 50% số
người tiêu dùng chuyển sang hoặc có ý định (ý định có khả năng trở thành
hành động thực tế) chuyển sang mua sản phẩm tại khu vực địa lý khác, nơi
không có sự tăng giá thì khu vực địa lý đó cùng với khu vực địa lý có sự tăng
giá của sản phẩm thuộc thị trường địa lý liên quan.

Như vậy, có thể thấy điều kiện cạnh tranh đóng vai trò khác nhau trong
việc xác định thị trường địa lý liên quan. Có thể những khu vực địa lý khác
nhau có những điều kiện cạnh tranh không giống nhau nhưng nếu người tiêu
dùng ở khu vực địa lý họ sinh sống vẫn chuyển sang mua sản phẩm tại khu
vực địa lý khác khi có sự tăng lên đáng kể về giá (ví dụ tăng quá 10%) tại khu
vực địa lý họ sinh sống thì vẫn được coi là cùng thị trường địa lý liên quan.
Điều kiện cạnh tranh, do đó, có thể khác nhau (Ví dụ, qui định của pháp luật
khác nhau, tập quán kinh doanh khác nhau, vị trí kinh doanh khác nhau…)
nhưng không nhất thiết làm cho giá cả của sản phẩm ở hai khu vực khác nhau
phải quá khác biệt. Nhiều khi, điều kiện cạnh tranh khác nhau lại làm cho giá
cả sản phẩm xích lại gần nhau hơn khi điều kiện ở khu vực này có mức độ
khó khăn tăng thì ở khu vực kia lại giảm và ngược lại, hoặc điều kiện ở khu
vực này có nhưng ở khu vực kia không có… qua đó chúng bù trừ cho nhau

- 90 -
một cách hợp lý. Chính vì vậy, điều kiện cạnh tranh chỉ là một yếu tố thêm
vào để xác định thị trường địa lý liên quan được chính xác hơn mà thôi. Nếu
quá chú trọng vào điều kiện cạnh tranh thì hầu như không thể xác định được
các quốc gia khác nhau là cùng một thị trường địa lý liên quan vì các quốc gia
khác nhau, điều kiện cạnh tranh thông thường là khác nhau (ít nhất về mặt
luật pháp).

Một phương pháp dự phòng để xác định thị trường liên quan được Dự
thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh đưa ra là phương pháp tính độ co
dãn chéo của cầu. Điều kiện để áp dụng phương pháp này không được xác
định cụ thể mà chỉ có qui định cho phép cơ quan quản lý cạnh tranh có thể áp
dụng trong trường hợp cần thiết. Qui định như vậy là hợp lý trong thời điểm
hiện nay.
3.1.3. Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền (xác
định quyền lực thị trường)

Như Chương I và Chương II của Luận văn đã phân tích, để xác định vị
trí thống lĩnh, vị trí độc quyền phải dựa trên ba tiêu chí là thị phần, rào cản gia
nhập thị trường và một số yếu tố khác làm cho doanh nghiệp có khả năng hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể. Trong đó, hai tiêu chí là thị phần và rào cản
gia nhập thị trường đóng vai trò quan trọng nhất. Hai tiêu chí này được đánh
giá như là yếu tố nội lực và yếu tố ngoại lực cùng hợp sức đưa doanh nghiệp
lên chiếm giữ và duy trì vị thế độc quyền.

Luật cạnh tranh và Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh cũng
tiếp cận vấn đề theo hướng chung này nhưng không đầy đủ và có phần thiếu
tính hợp lý. Không hề có bất cứ qui định nào thể hiện quan điểm phải xem xét
các rào cản gia nhập thị trường như là một tiêu chí xác định vị trí thống lĩnh
thị trường, vị trí độc quyền của doanh nghiệp. Trong lúc đó, Dự thảo Nghị
định hướng dẫn Luật cạnh tranh cũng đề cập đến các rào cản gia nhập thị
trường, nhưng các rào cản này được cho rằng chỉ có ảnh hưởng đến việc xác
định thị trường liên quan (nhất là thị trường địa lý liên quan) nên cần được

- 91 -
xem xét. Quan điểm này không mang tính hợp lý khi biết rằng, vai trò của các
rào cản đối vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mang tính chất gần như quyết
định một cách trực tiếp, ngược lại vai trò của các rào cản đối với thị trường
liên quan chỉ mang tính gián tiếp (sự thay thế của sản phẩm dựa trên giá cả,
đặc tính và công dụng của sản phẩm mới là yếu tố quyết định thị trường liên
quan).

Rào cản gia nhập thị trường bao gồm: (i). Rào cản về kỹ thuật, công
nghệ, nhãn hiệu hàng hóa, phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, tên gọi xuất sứ hàng hóa (ii). Rào cản về tài chính bao gồm chi
phí đầu tư vào sản xuất, phân phối, xúc tiến thương mại hoặc khả năng tiếp
cận với các nguồn cung cấp tài chính (iii). Quyết định hành chính của cơ quan
quản lý nhà nước (iv). Quy định của pháp luật về vấn đề sau đây: Điều kiện
sản xuất, sử dụng sản phẩm hoặc cung ứng, sử dụng dịch vụ; Các chuẩn mực
nghề nghiệp (v). Tập quán của người tiêu dùng (vi). Thuế nhập khẩu, hạn
ngạch nhập khẩu; các biện pháp tự vệ, các biện pháp chống bán phá giá, các
biện pháp chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định
của pháp luật.
a. Vị trí thống lĩnh thị trường

Điều 11 Luật cạnh tranh cho rằng doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường khi:
- Một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan
hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.

- Nhóm doanh nghiệp cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh
trên thị trường liên quan thuộc các trường hợp: Hai doanh nghiệp có tổng thị
phần từ 50% trở lên; Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên; Bốn
doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên.

Như vậy, một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nếu đáp ứng
được một trong hai điều kiện: đạt từ 30% thị phần trên thị trường liên quan
hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể; Nhóm doanh

- 92 -
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu đáp ứng được các điều
kiện: cùng hành động nhằm hạn chế cạnh tranh và có tổng thị phần từ 50% trở
lên đối với hai doanh nghiệp, 65% trở lên đối với ba doanh nghiệp, 75% trở
lên đối với bốn doanh nghiệp.
Cùng hành động nhằm hạn chế cạnh tranh

Cùng hành động có nghĩa là giữa các doanh nghiệp không hề có sự


thoả thuận, liên kết, thống nhất hành động. Mỗi doanh nghiệp đơn phương
thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, hoạt động kinh doanh của
nhóm doanh nghiệp tương tự nhau đến mức chúng có thể được xem xét như là
hoạt động của một doanh nghiệp. Nếu có sự liên kết, thoả thuận giữa các
doanh nghiệp thì những doanh nghiệp này không thuộc phạm vi điều chỉnh
của qui định kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc
quyền mà chịu sự điều chỉnh của qui định kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh
tranh.
Tuy nhiên trong cách xác định nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường không nên và cũng không hợp lý khi nhấn mạnh mục đích của hành
động là nhằm hạn chế cạnh tranh, vì mục đích này thể hiện sự lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường chứ không phải thể hiện vị trí thống lĩnh thị trường. Bản
thân vị trí thống lĩnh thị trường không phải là yếu tố đương nhiên gây hạn chế
cạnh tranh, vị trí thống lĩnh thị trường chỉ là khả năng, còn hạn chế cạnh tranh
chỉ xảy ra khi có sự lạm dụng vị trí này. Nếu cứ xác định mục đích hành động
của nhóm doanh nghiệp như vậy chẳng khác nào đồng nhất vị trí thống lĩnh
thị trường với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Có rất nhiều
trường hợp các doanh nghiệp cùng hành động tạo cho các doanh nghiệp một
quyền lực thị trường đáng kể (hoạt động của các doanh nghiệp có ảnh hưởng
rất lớn đến thị trường) nhưng lại không gây hạn chế cạnh tranh, những trường
hợp này vẫn cần phải coi là có vị trí thống lĩnh thị trường. Do vậy, Luận văn
không coi mục đích của hành động là một điều kiện để xác định vị trí thống
lĩnh thị trường của nhóm doanh nghiệp. Mục đích của hành động chỉ đặt ra

- 93 -
khi xem xét hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí
độc quyền.

Thị phần

Trước khi có Luật cạnh tranh, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông cũng
có qui định về thị phần. Thị phần được qui định không hoàn toàn nhằm mục
đích như Luật cạnh tranh mà nó nhằm mục đích xác định doanh nghiệp nào
có quyền tự ấn định giá dịch vụ viễn thông, doanh nghiệp nào không có
quyền ấn định giá dịch vụ viễn thông (doanh nghiệp không có thị phần khống
chế được tự định giá dịch vụ viễn thông, doanh nghiệp chiếm thị phần khống
chế không được tự đặt giá dịch vụ viễn thông mà phụ thuộc sự phê duyệt của
Bộ Bưu chính, Viễn thông), đặt ra nghĩa vụ của doanh nghiệp có thị phần
khống chế là không được sử dụng các ưu thế của mình để hạn chế hoặc gây
khó khăn cho hoạt động cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp viễn thông
khác. Nghĩa vụ này cho thấy pháp luật đã chú ý đến hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp.

Theo qui định của Pháp lệnh Bưu chính viễn thông, doanh nghiệp có
thị phần khống chế là doanh nghiệp chiếm giữ trên 30% thị phần của loại hình
dịch vụ viễn thông trên địa bàn được phép cung cấp và có thể gây ảnh hưởng
trực tiếp tới việc xâm nhập thị trường dịch vụ đó của các doanh nghiệp viễn
thông khác (danh mục các doanh nghiệp này do Bộ Bưu chính, Viễn thông
qui định theo từng thời kỳ). Thị phần được tính toán trên doanh thu hoặc lưu
lượng. Các doanh nghiệp có thị phần khống chế bao gồm [62]: (i). VNPT (đối
với dịch vụ điện thoại đường dài trong nước PSTN, điện thoại IP; điện thoại
quốc tế PSTN; dịch vụ cho thuê kênh quốc tế, liên tỉnh, nội tỉnh, nội hạt; các
dịch vụ của mạng điện thoại di động; dịch vụ kết nối internet, dịch vụ truy
nhập internet; dịch vụ Inmarsat) (ii). Viettel (đối với dịch vụ điện thoại quốc
tế IP) (iii). Vishipel (đối với dịch vụ Inmarsat). Như vậy có thể thấy VNPT
thực sự là một doanh nghiệp lớn, khống chế toàn bộ các dịch vụ viễn thông
hiện có ở Việt Nam.

- 94 -
Khoản 5, Điều 3 Luật cạnh tranh giải thích thị phần của doanh nghiệp
đối với một hàng hoá nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của
doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả doanh nghiệp kinh doanh loại
hàng hoá dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỉ lệ phần trăm giữa doanh
số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan
theo tháng, quý, năm.

Cách xác định thị phần này cũng tương tự như nhiều quốc gia trên thế
giới áp dụng. Có nhiều căn cứ để tính thị phần và Luật cạnh tranh đã chọn hai
căn cứ là doanh thu và doanh số. Doanh thu là tổng số tiền doanh nghiệp kinh
doanh thu được từ kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được xác định theo qui định
của pháp luật về chuẩn mực kế toán Việt Nam. Doanh số là tổng số tiền
doanh nghiệp bỏ ra để mua hàng hóa, dịch vụ được xác định theo qui định của
pháp luật thuế. Thực ra, nếu hợp lý hơn thì nên sử dụng cả qui định của pháp
luật về chuẩn mực kế toán và qui định của pháp luật thuế để tính toán doanh
thu và doanh số, tùy từng trường hợp mà sử dụng loại qui định nào hoặc có
thể kết hợp cả hai loại qui định. Pháp luật về chuẩn mực kế toán và pháp luật
thuế có mối quan hệ rất khăng khít với nhau về phương diện pháp luật cũng
như trong thực tế áp dụng của doanh nghiệp, nói chung không thể có sự tồn
tại độc lập của riêng loại qui định nào. Hoặc có thể qui định phương pháp tính
toán doanh thu, doanh số dựa vào “các qui định của pháp luật có liên quan”
(dự phòng trường hợp có thể có những qui định pháp luật khác có giá trị trong
việc tính toán. Ví dụ như pháp luật về thống kê, kiểm toán rất quan trọng
nhưng không thấy đề cập) mà không cần thiết phải qui định cụ thể làm khó
khăn hơn cho cơ quan quản lý cạnh tranh.

Về mặt thời gian, doanh thu, doanh số để tính thị phần của doanh
nghiệp cũng được qui định rất linh hoạt. Đó có thể là doanh thu của tháng,
quý hoặc năm. Chắn chắn rằng tùy trường hợp cụ thể mà thời gian để tính
doanh thu và doanh số sẽ được áp dụng cho phù hợp.

- 95 -
Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh đã xác định thêm một số
trường hợp cụ thể để tính thị phần như sau:

- Doanh thu, doanh số để tính thị phần của Tổng Công ty theo mô hình
công ty mẹ và công ty con là doanh thu, doanh số của cả công ty mẹ và công
ty con và được trừ doanh thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, dịch vụ
giữa công ty mẹ và công ty con; Doanh thu, doanh số để tính thị phần của
Tổng Công ty không theo mô hình công ty mẹ – công ty con là doanh thu,
doanh số của các đơn vị sau: Các đơn vị do Tổng công ty đầu tư toàn bộ vốn
điều lệ bao gồm công ty thành viên hạch toán độc lập hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp nhà nước, Nghị đinh số 153/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm
2004 và Điều lệ Tổng công ty; đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và đơn
vị sự nghiệp hoạt động theo phân cấp của Tổng công ty theo quy định tại
Điều lệ Tổng công ty; công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên
được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và công ty tài chính; Các
đơn vị thành viên do Tổng công ty nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối bao
gồm công ty cổ phần có cổ phần chi phối của Tổng công ty hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có
vốn góp chi phối của Tổng công ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; công
ty liên doanh, trong đó Tổng công ty là đối tác giữ quyền chi phối, hoạt động
theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các doanh nghiệp do Tổng công ty
giữ cổ phần, vốn góp chi phối được thành lập ở nước ngoài, tổ chức và hoạt
động theo pháp luật của nước sở tại. Doanh thu giữa các đơn vị nêu trên
không được tính vào doanh thu, doanh số của Tổng Công ty không theo mô
hình công ty mẹ – công ty con.
Cách tính thị phần trong trường hợp này có vẻ hơi phức tạp, không đại
diện đầy đủ cho những trường hợp tương tự (các tập đoàn tư nhân, các doanh
nghiệp sở hữu nhiều doanh nghiệp khác…) do không được xác định từ cái
gốc căn bản của sự việc đó là như thế nào là một doanh nghiệp. Nếu xác định
được một doanh nghiệp gồm những bộ phần cấu thành như thế nào rồi thì

- 96 -
đương nhiên sẽ tính được thị phần của doanh nghiệp này mà không cần phải
chia các trường hợp cụ thể để tính thị phần như trên mà vẫn không được đầy
đủ.

- Doanh thu để xác định thị phần của doanh nghiệp bảo hiểm được tính
bằng tổng phí bảo hiểm, phí tái bảo hiểm đã nhận của năm tài chính đó hoặc
được tính bằng tổng phí bảo hiểm, phí tái bảo hiểm đã nhận năm tài chính gần
nhất trong trường hợp chưa đủ năm tài chính.
- Doanh thu để xác định thị phần của tổ chức tín dụng được tính bằng
tổng các khoản thu từ những nguồn sau đây: Lãi suất tiền gửi; Lợi tức chứng
khoán; Lợi nhuận từ các khoản đầu tư vốn; Lợi nhuận từ các khoản vốn góp
liên doanh; Lợi nhuận từ các hoạt động tài chính; Các khoản phí và hoa hồng;
Lợi nhuận từ các hoạt động khác. Qui định này hơi thừa khi liệt kê rất nhiều
khoản sau đó lại có một khoản là “lợi nhuận từ các hoạt động khác”, hơn nữa
tính doanh thu lại dựa trên lợi tức và lợi nhuận (tức là những khoản tiền thu
được đã trừ thuế) thực sự không phù hợp với nghĩa của từ doanh thu. Thực ra
chỉ cần một qui định ngắn gọn: “doanh thu để tính thị phần của tổ chức tín
dụng là tổng số tiền mà tổ chức tín dụng thu được từ hoạt động tín dụng” có
thể sẽ diễn đạt khái quát hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn.
Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể

Theo Luật cạnh tranh, đây là một trong hai tiêu chí để xác định vị trí
thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp (tiêu chí kia là thị phần). Tuy nhiên
tiêu chí này chỉ được áp dụng đối với một doanh nghiệp chứ không được áp
dụng với nhóm doanh nghiệp. Nói cách khác, nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường chỉ được xác định dựa trên duy nhất một tiêu chí thị
phần (yếu tố cùng hành động chỉ là điều kiện để cho nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường, cũng tương tự như điều kiện phải là doanh nghiệp
mới là chủ thể của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Những điều
kiện này không thể hiện mức độ của vị trí thống lĩnh thị trường, trong khi tiêu
chí thì có). Việc áp dụng như vậy về mặt khoa học là không chuẩn xác vì một

- 97 -
doanh nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể mà
không cần dựa vào thị phần thì nhóm doanh nghiệp cũng có khả năng tương
tự. Nhưng có thể về mặt thực tiễn, xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể đối với nhóm doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn trường hợp chỉ
có một doanh nghiệp.

Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật cạnh tranh đã cụ thể hóa
các yếu tố để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
gồm một hoặc một số cơ sở chủ yếu: Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân
bỏ vốn thành lập doanh nghiệp; Năng lực tài chính của công ty mẹ; Năng lực
công nghệ; Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; Qui
mô của mạng lưới phân phối. Cách tiếp cận như này là hợp lý bởi đã nêu ra
được một số cơ sở chủ yếu để nhận diện khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể nhưng không giới hạn chỉ trong một số cơ sở chủ yếu đó mà còn
có thể gồm những cơ sở khác. Đây là cách tiếp cận mở theo đặc trưng của
pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật kiểm soát độc quyền nói riêng.
b. Vị trí độc quyền

Doanh nghiệp có vị trí độc quyền cũng là doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh nhưng nó được coi là một dạng đặc biệt của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh. Tính chất đặc biệt của vị trí độc quyền thể hiện ở chỗ: quyền lực thị
trường là tuyệt đối. Doanh nghiệp không phải san sẻ quyền lực thị trường cho
bất cứ đối thủ cạnh tranh nào khác. Vị thế tuyệt đối này thông thường ít diễn
ra trên thực tế vì có rất ít rào cản gia nhập thị trường có khả năng hạn chế các
doanh nghiệp tiềm năng tham gia kinh doanh để cạnh tranh, chia sẻ quyền lực
thị trường với doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Nếu có thì rào cản được chú
ý đầu tiên là các qui định pháp luật (sự cho phép của nhà nước).

Theo Điều 12 Luật cạnh tranh thì doanh nghiệp được coi là có vị trí độc
quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá và dịch vụ mà
doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.

- 98 -
Qui định như vậy có thể hiểu rằng thị phần của doanh nghiệp có vị trí
độc quyền là 100%. Đây là tiêu chí quyết định vị trí độc quyền của doanh
nghiệp. Do doanh nghiệp kinh doanh “một mình một chợ” vì vậy, nếu doanh
nghiệp lạm dụng vị trí này sẽ rất nguy hiểm do khả năng gây hạn chế cạnh
tranh của loại doanh nghiệp này là rất lớn. Quan điểm được thừa nhận rộng
rãi là cần phải có sự nghiêm khắc với loại doanh nghiệp này nhiều hơn.
3.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền bị cấm
3.2.1. Quan điểm, cách tiếp cận của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng bị cấm

Cách tiếp cận của Luật cạnh tranh về các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền mang tính liệt kê và đóng. Nghĩa là,
chỉ những hành vi đã được liệt kê mới là hành vi lạm dụng bị cấm, những
hành vi khác không được qui định sẽ không bị coi là hành vi lạm dụng. Cách
tiếp cận này có ưu điểm là tạo cho pháp luật một sự dự liệu rõ ràng, tuy nhiên
nhược điểm của nó là sẽ có thể bỏ lọt những hành vi lạm dụng khác. Bởi vì
các hành vi lạm dụng của doanh nghiệp cũng đa dạng và thường xuyên thay
đổi, phát triển như chính hoạt động kinh doanh trên thị trường. Rất khó để có
thể đưa ra một sự liệt kê đầy đủ, hơn nữa thời điểm này có thể là đầy đủ
nhưng một thời gian ngắn sau có thể đã khác.

Luật cạnh tranh xác định rằng hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền là rất nguy hiểm và coi những hành vi này
như những hành vi tự dạng. Nếu doanh nghiệp thực hiện hành vi này là bị xử
lý theo qui định của pháp luật ngay mà không cần xem xét đến tính hợp lý của
hành vi lạm dụng trong bối cảnh cụ thể. Việc thực hiện các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền đã là hạn chế cạnh tranh
với mức độ rất lớn mà không thể có sự giải thích nào biện hộ được. Trong khi
đó, tập trung kinh tế và thoả thuận hạn chế cạnh tranh lại được đánh giá, nhìn
nhận theo nguyên tắc hợp lý, tức là thái độ của Luật cạnh tranh với các hành
vi này mềm mỏng hơn, linh hoạt hơn so với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh

- 99 -
thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền. Quan điểm này thể hiện thông qua các
qui định miễn trừ của Luật cạnh tranh.

Qui định miễn trừ là qui định cho phép các hành vi bị cấm được thực
hiện vì một số lý do nhất định như hiệu quả kinh tế, sự tiến bộ của khoa học
và công nghệ... Đặc điểm của qui định miễn trừ là vẫn có sự xuất hiện của
hành vi bị cấm (hành vi lạm dụng, tập trung kinh tế...) nhưng do những lợi ích
của hành vi bị cấm mang lại lớn hơn hậu quả gây hạn chế cạnh tranh do chính
hành vi bị cấm gây ra nên nó có thể được chấp nhận. Trong phần các qui định
về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chỉ duy nhất hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền không có các qui định miễn
trừ, hai hành vi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế đều có
qui định miễn trừ.
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có thể được miễn trừ khi đáp
ứng được một trong những điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho
người tiêu dùng: Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao
hiệu quả kinh doanh; Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất
lượng hàng hoá, dịch vụ; Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn
chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm ; Thống nhất các điều
kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá giá và
các yếu tố của giá; Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm có thể được xem
xét khi: Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang đứng trong nguy
cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; Việc tập trung kinh tế có tác dụng
mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật
hoặc công nghệ.
3.2.2. Các hành vi lạm dụng bị cấm

a. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh.

- 100 -
Hành vi này này còn được gọi là bán phá giá. Nó có những đặc trưng
sau: (i). Giá bán thấp hơn giá thành toàn bộ và ( ii). Có mục đích nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh. Giá thành toàn bộ của hàng hoá và dịch vụ được xác định
bao gồm: giá thành sản xuất sản phẩm, dịch vụ; Chi phí lưu thông đưa hàng
hoá dịch vụ đến người tiêu dùng. Thông qua hành vi này, doanh nghiệp độc
quyền đã loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường để củng cố vị trí của mình.

Nếu hành vi bán hàng hoá dưới giá thành toàn bộ nhưng không có mục
đích loại bỏ đối thủ cạnh tranh thì không bị coi là hành vi lạm dụng. Dự thảo
Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh cho rằng đó là những hành vi như hạ
giá bán hàng hoá tươi sống; Hạ giá bán hàng hoá tồn kho do chất lượng giảm,
lạc hậu về hình thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng; Hạ giá bán
hàng hoá theo mùa vụ; Hạ giá bán hàng hoá trong chương trình khuyến mãi
theo qui định của pháp luật; Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản,
giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển
hướng sản xuất, kinh doanh.
b. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.

Đây cũng là một nhóm hành vi lạm dụng nữa liên quan đến giá. Áp đặt
giá mua bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp mua
hàng có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ép người bán hàng phải
bán với giá thấp hơn giá thành sản xuất hàng hoá trong khi không có khủng
hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa và chất lượng hàng hoá không hề thua kém
chất lượng hàng hoá đã mua trước đó. Ngược lại, khi là doanh nghiệp bán
hàng, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền đã áp đặt
giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng. Hành vi áp đặt giá bán là
hành vi lạm dụng khi đáp ứng các điều kiện: Giá bán lẻ trung bình của hàng
hóa trong thị trường liên quan tăng quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày
và không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa
trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.

- 101 -
Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là
việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại
hàng hóa thấp hơn mức giá đã qui định trước. Ngoài người tiêu dùng, các nhà
phân phối cũng bị ảnh hưởng đáng kể khi không thể chủ động tạo ra môi
trường kinh doanh cạnh tranh mà phải phụ thuộc vào nhà sản xuất. Như vậy,
Luật cạnh tranh chỉ cho rằng việc ấn định giá bán lại tối thiểu mới có nguy cơ
ảnh hưởng tới cạnh tranh, làm thiệt hại cho người tiêu dùng. Hành vi ấn định
giá tối đa không bị xem xét là hành vi lạm dụng.
c. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật gây thiệt hại cho khách hàng

Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ là hành vi cắt giảm
lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan so với lượng hàng
hóa, dịch vụ vẫn cung ứng trước đó trong điều kiện không có biến động lớn
về quan hệ cung cầu, không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc
không có tình trạng khẩn cấp; Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở
mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường; Găm hàng lại không bán để gây
mất ổn định thị trường. Hành vi này có mục đích chung nhất là tạo ra sự mất
cân bằng cung cầu trên thị trường làm mức giá hàng hóa, dịch vụ tăng lên
cao, qua đó doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thu được lợi
nhuận độc quyền từ sự bất ổn này.
Giới hạn thị trường là hành vi chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong
một hoặc một số khu vực địa lý nhất định (đối với doanh nghiệp bán có quyền
lực thị trường); Hoặc chỉ mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn
cung nhất định (đối với doanh nghiệp mua có quyền lực thị trường). Hậu quả
của hành vi này gây ra chính là sự giới hạn khả năng lựa chọn nguồn cung
ứng hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng cũng như giới hạn khả năng tiêu
thụ hàng hóa, dịch vụ của người cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Hệ quả là môi
trường cạnh tranh bị thu hẹp, bóp méo gây thiệt hại trực tiếp cho người tiêu
dùng.

- 102 -
Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ là hành vi mua phát minh,
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử
dụng; Đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công
nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó. Hành vi này có tính chất
cực kỳ nghiêm trọng, nó không chỉ làm đối thủ cạnh tranh suy yếu mà còn
làm cho sự phát triển khoa học và công nghệ nói chung bị kéo chậm lại. Điều
này là do trong nền kinh tế hiện đại, hàm lượng chất sản trong sản phẩm ngày
càng chiếm tỉ trọng lớn, sự phát triển của kinh tế nhiều khi được đánh giá
bằng chính sự phát triển của khoa học và công nghệ (đặc biệt trong lĩnh vực
ứng dụng).
d. Áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm
tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.

Đây là hành vi nhằm tạo sự bất bình đẳng trong cạnh tranh, là việc
phân biệt đối xử với các doanh nghiệp về các điều kiện mua bán, giá cả, thời
hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch tương tự về mặt giá trị hoặc
tính chất hàng hóa, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí
cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác. Tuy nhiên Luật cạnh tranh
vẫn chưa tính đến trường hợp phân biệt đối xử theo hướng ngược lại, nghĩa là
áp đặt các điều kiện thương mại như nhau cho các trường hợp giao dịch có sự
khác nhau. Hành vi này cũng tạo ra sự bất bình đẳng như hành vi mà Luật
cạnh tranh đã đề cập.
e. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết họp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng

Nhóm hành vi này thể hiện rõ nét sự lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế Việt Nam, hành vi này không
có gì là xa lạ, nó thường được gọi là cách đổi xử cửa quyền của các doanh
nghiệp nhà nước. Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng
mua bán hàng hóa, dịch vụ là việc đưa vào hợp đồng các điều kiện như là yếu
tố bắt buộc, nếu không sẽ không giao kết hợp đồng, các điều kiện đó là: Hạn

- 103 -
chế về sản xuất, phân phối hàng hóa khác. Mua, cung ứng dịch vụ khác không
liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo qui định của pháp
luật về đại lý; Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa; Hạn chế khách mua lại
hàng hóa; Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hóa được cung cấp.
Buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là gắn việc mua bán hàng hóa, dịch vụ
là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hóa, dịch vụ khác từ nhà
cung cấp (Hành vi bán kèm) hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện
thêm một số hành nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp
đồng.
f. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới

Nhóm hàng vi này thực chất là hành vi tạo ra các rào cản gia nhập thị
trường, ngăn cản các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, gồm các việc: Không giao
dịch hoặc yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh
tranh mới; Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ
không chấp nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới; Bán
hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị
trường nhưng không thuộc trường hợp bán phá giá.
g. Các hành vi lạm dụng bị cấm đối với riêng doanh nghiệp có vị trí độc quyền

Ngoài những hành vi bị cấm trên, riêng với doanh nghiệp có vị trí độc
quyền còn bị cấm thực hiện một số hành vi lạm dụng khác là áp đặt các điều
kiện bất lợi cho khách hàng hoặc lợi dụng vị thế để đơn phương thay đổi hoặc
hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng. Như vậy, Luật
cạnh tranh đã khắt khe hơn với doanh nghiệp có vị trí độc quyền, trong khi đó
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh mà cùng thực hiện các hành vi như vừa nêu
sẽ không bị coi là hành vi lạm dụng.

Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng là hành vi buộc khách
hàng phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách
hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng.

- 104 -
Đơn phƣơng thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không
có lý do chính đáng là không cần thông báo cho khách hàng việc thay đổi,
hủy bỏ hợp đồng nhưng không chịu biện pháp chế tài nào hoặc thay đổi, hủy
bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc một số lý do không liên quan
trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng và
không chịu biện pháp chế tài nào.
3.3. Một số biện pháp cần thiết đảm bảo thi hành qui định pháp luật về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền ở góc độ pháp luật
nội dung

Nhìn chung, Luật cạnh tranh được ban hành đã có thể nói là tương đối
toàn diện, tuy nhiên ở góc độ chi tiết thì mới chỉ nêu ra được các quan điểm
chung nhất về các hành vi cạnh tranh bị cấm và kiểm soát, đặc biệt về vấn đề
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. Với hiện trạng nêu trên, điều cần
làm đầu tiên là phải đẩy nhanh tiến độ soạn thảo các văn bản qui phạm pháp
luật hướng dẫn Luật cạnh tranh, trong đó chú ý tới việc xây dựng các qui định
nhận diện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền được rõ ràng
hơn. Quá trình soạn thảo các văn bản qui phạm pháp luật hướng dẫn Luật
cạnh tranh không phải muốn là làm được ngay bởi còn phụ thuộc rất nhiều
yếu tố. Việc thiếu kinh nghiệm thực tiễn là một vấn đề dễ dàng nhận thấy đầu
tiên. Ngay cả ở phương diện nghiên cứu, học thuật, vấn đề lạm dụng quyền
lực thị trường cũng còn rất mới mẻ đối với chúng ta. Do vậy, ở giai đoạn
trước mắt, cần tập trung vào việc soạn thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh
tranh (hiện nay đã có dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật cạnh tranh ngày
25/1/2005), các văn bản hướng dẫn khác ở cấp độ thấp hơn cần có lộ trình
xây dựng hợp lý, không nhất thiết phải gấp rút ban hành bởi vì cần phải có
thời gian để nhận thức và rút kinh nghiệm thực tế để đưa vào qui định, trên cơ
sở đó các văn bản mới dễ dàng đi vào cuộc sống. Không những thế, việc này
còn có tác dụng tránh những rủi ro quá lớn khi chính các qui định chi tiết
được ban hành vội vã trở thành những vật cản đối với việc thực thi pháp luật
cạnh tranh. Thậm chí nó còn có thể gây hại tới cạnh tranh nếu can thiệp quá

- 105 -
mức vào quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp
không thể chủ động trong kinh doanh.

Về phương pháp xây dựng qui định của các văn bản hướng dẫn. Phải
có cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh là các qui định không bắt buộc phải
thể hiện sự triệt để về mặt nội dung. Không nên cứng nhắc áp dụng phương
pháp xây dựng các ngành luật truyền thống khác như hình sự, hành chính…
bởi như vậy các qui định sẽ không thể bao quát được hiện tượng và sẽ không
thể nào áp dụng được hiệu quả vào trong thực tiễn. Nói như vậy không có
nghĩa là qui định nào cũng chung chung, nếu có những vấn đề nào đã chắc
chắn thì vẫn cần có sự thể hiện rõ ràng hoặc nếu đó là quan điểm của nhà
nước ta về chính sách cạnh tranh muốn như vậy. Đây là phương pháp xây
dựng pháp luật cạnh tranh (những qui định nội dung) mà đa số các nước trên
thế giới đã có pháp luật cạnh tranh áp dụng. Ngay cả Luật mẫu về cạnh tranh
của tổ chức thương mại và phát triển Liên hợp quốc cũng thể hiện quan điểm
này. Chỉ có các qui định hình thức (thủ tục, biện pháp xử lý hành vi vi phạm)
của Luật cạnh tranh mới cần phải có sự cụ thể, rõ ràng và chi tiết.

Với đặc điểm của Luật cạnh tranh nói chung và các qui định pháp luật
về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền nói riêng là
tính không triệt để về mặt nội dung. Điều quan trọng nhất để thi hành luật
cạnh tranh một cách có hiệu quả là vấn đề con người. Luật cạnh tranh trước
hết do cơ quan quản lý cạnh tranh và một số cơ quan có thẩm quyền khác áp
dụng, mà những hoạt động của các cơ quan này được thực hiện thông qua
những con người cụ thể. Do vậy cần phải tăng cường kiến thức của họ về
cạnh tranh và chính sách, pháp luật cạnh tranh cũng như phải quan tâm đến
đạo đức của họ. Kiến thức là để phục cho quá trình áp dụng pháp luật được
chuẩn xác, phù hợp với những trường hợp thực tế cụ thể mà không bị máy
móc phụ thuộc vào các qui định. Đạo đức rất cần để ngăn cản những lợi ích
cá nhân xen vào công việc, bởi vì quá trình áp dụng pháp luật phụ thuộc rất
nhiều vào cá nhân có thẩm quyền chứ không phải phụ thuộc nhiều vào những

- 106 -
qui định nên sẽ có rất nhiều đối tượng muốn lạm dụng đặc điểm này để bóp
méo sự việc cạnh tranh được giải quyết.

Với xã hội nói chung và các đối tượng bị áp dụng các qui định pháp
luật về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền là các doanh nghiệp nói
riêng. Cần phải phổ biến kiến thức về pháp luật cạnh tranh, pháp luật kiểm
soát lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền một cách tích cực và có
phương pháp để nâng cao nhận thức của họ, qua đó hạn chế đến mức thấp
nhất sự vi phạm do không hiểu qui định hoặc có tác dụng ngăn chặn ngay từ
đầu ý đinh vi phạm của những doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền. Hơn nữa, khi có kiến thức về các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị
trí độc quyền, chính các doanh nghiệp sẽ chủ động trong việc đấu tranh với
hành vi lạm dụng này để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Một
phương pháp có lẽ rất hiệu quả trong việc phổ biến pháp luật là cơ quan quản
lý cạnh tranh ban hành những bản hướng dẫn không mang tính pháp lý, trong
đó phân tích cạnh tranh và các qui định của pháp luật cạnh tranh một cách rõ
ràng và khoa học. Đối tượng hướng tới của bản hướng dẫn là tất cả mọi
người, không loại trừ một ai. Đó có thể là người có thẩm quyền áp dụng Luật
cạnh tranh như Thẩm phán, Điều tra viên của cơ quan quản lý cạnh tranh, hay
người bị áp dụng như doanh nghiệp… ai cũng có thể tiếp cận dễ dàng để tham
khảo.

Ngoài việc nâng cao kiến thức, đạo đức của người áp dụng pháp luật và
nhận thức của doanh nghiệp bị áp dụng. Một công việc rất cần thiết là phải
tiến hành rà soát các qui định pháp luật có liên quan để hỗ trợ và bổ sung cho
việc thi hành pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền được hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó có biện pháp để sửa đổi, ban hành
mới hay hủy bỏ những qui định không phù hợp. Ví dụ, liên quan trực tiếp đến
qui định nội dung của hành vi lạm dụng là các qui định hình thức, là các thủ
tục và biện pháp xử lý hành vi lạm dụng. Cần phải hoàn chỉnh các qui định
hình thức này một cách kịp thời nếu không qui định kiểm soát hành vi lạm

- 107 -
dụng sẽ bị khinh nhờn hoặc không có tính răn đe. Hoặc để tính toán thị phần
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thì pháp luật thuế và kế
toán – thống kê, kiểm toán mang tính quyết định. Các hệ thống pháp luật này
như là biện pháp kỹ thuật giúp tính toán thị phần của doanh nghiệp được
chính xác để không bỏ lọt doanh nghiệp vi phạm nhưng cũng không làm oan
doanh nghiệp làm ăn đứng đắn.

Bên cạnh các biện pháp nêu trên, biện pháp tăng cường vai trò của các
thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng cũng rất quan trọng.
Người tiêu dùng với tư cách riêng lẻ thì tiếng nói của họ rất khó có đủ sức
mạnh để tác động, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền hoặc hoạt động của cơ quan quản lý
cạnh tranh. Tuy nhiên khi tiếng nói của người tiêu dùng được tập hợp trong
một tổ chức có trình độ tổ chức cao, có sức mạnh và vai trò quan trọng thì ảnh
hưởng của nó đến các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khác có liên quan là
rất lớn. Ở Việt Nam hiện nay cũng tồn tại thiết chế này là Hội bảo vệ người
tiêu dùng nhưng vai trò của nó rất mờ nhạt, thậm chí nhiều người tiêu dùng
còn không hề biết đến sự tồn tại của nó chứ chưa nói đến việc tìm đến để
trông cậy.

- 108 -
KẾT LUẬN

Lạm dụng quyền lực thị trường hay còn gọi là lạm dụng vị trí thống
lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi hạn chế cạnh tranh và bóc lột người
tiêu dùng. Nó chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, bởi là nó
mặt trái, mặt tiêu cực của quy luật cạnh tranh. Ngược lại với qui luật cạnh
tranh mang tính tích cực, là động lực của sự phát triển, là yếu tố nội tại thúc
đẩy nền kinh tế thị trường tiến lên phía trước. Hành vi lạm dụng quyền lực thị
trường có hậu quả rất xấu đối với cạnh tranh và xã hội nói chung. Nó kìm nén
sự sáng tạo, triệt tiêu động lực của sự phát triển. Do vậy, nhu cầu kiểm soát
hành vi lạm dụng quyền lực thị truờng là một điều tất yếu. Có nhiều biện
pháp để kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường như các biện pháp
hành chính - kinh tế hoặc ban hành pháp luật, trong đó ban hành pháp luật vẫn
là một biện pháp mang lại hiệu quả nhất.

Để nhận diện được hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, thông
thường phải thông qua một số tiêu chí cơ bản như thị trường liên quan (là nơi
diễn ra các hành vi lạm dụng), chủ thể của hành vi lạm dụng (là các doanh
nghiệp tham gia kinh doanh), thước đo mức độ quyền lực thị trường của
doanh nghiệp (thị phần, rào cản gia nhập thị trường và một số yếu tố khác) và
đặc biệt là qua các dạng hành vi lạm dụng quyền lực thị trường như bán phá
giá, ấn định giá bán lại… Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là có thể tin
tưởng rằng việc nhận diện đã được chính xác. Không thể có một công thức
chung nào có tính chính xác cao trong việc nhận diện hành vi lạm dụng quyền
lực thị trường mà phải tuỳ trường hợp cụ thể để đánh giá.

Luật cạnh tranh Việt Nam được ban hành có mục đích trực tiếp là bảo
vệ môi trường cạnh tranh, chống lại các hành vi vi phạm, trong đó có hành vi
lạm dụng quyền lực thị trường. Nhưng do Luật cạnh tranh mới được ban
hành, đồng thời kinh nghiệm của Việt Nam trong lĩnh vực kiểm soát hành vi
hạn chế cạnh tranh nói chung và lạm dụng quyền lực thị trường nói riêng hầu

- 109 -
như đi từ con số không, nên để có được một hệ thống pháp luật cạnh tranh
hoàn chỉnh, hiệu lực thi hành cao đòi hỏi rất nhiều cố gắng hơn nữa của Nhà
nước ta cũng như của toàn xã hội.

- 110 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đào Ngọc Báu, Vấn đề độc quyền ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp số 11/2004.

[2] Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Nên tránh tư tưởng cứ thấy độc quyền
là phê phán”, http://www.vnn.vn, 11/5/2004.

[3] Nguyễn Hữu Huyên, Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu,
NXB Tư Pháp, 2004.

[4] Dương Đăng Huệ – Nguyễn Hữu Huyên, Mô hình cơ quan quản lý cạnh
tranh của Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 1/2004.

[5] Vũ Thị Phương Lan, Khái niệm thống lĩnh thị trường trong pháp luật
cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, Tạp chí Luật học số 5/2004.

[6] Phạm Duy Nghĩa, Ngày xuân mơ tới một xã hội cạnh tranh, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 1/2004.

[7] Phạm Duy Nghĩa, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Độc quyền hành
chính: góp phần nhận diện và tiếp cận từ pháp luật cạnh tranh.

[8] Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, 2004.

[9] Nguyễn Như Phát, Thị trường và Cạnh tranh, Báo đời sống và pháp luật,
số 24/2004.

[10] Nguyễn Như Phát, Độc quyền và xử lý độc quyền, Tạp chí nhà nước và
pháp luật, số 8/2004.

[11] Nguyễn Như Phát, Góp ý kiến vào dự thảo Luật cạnh tranh, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 1/2004.

106
[12] Nguyễn Như Phát, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt
Nam hiện nay, http://www.law-vnu.netnam.vn.

[13] Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về
cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, 2001.

[14] Nguyễn Ngọc Sơn, Phân biệt đối xử về điều kiện thương mại với khách
hàng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 6/2005.

[15] Nguyễn Thanh Tâm, Thực trạng pháp luật Việt Nam về chống cạnh
tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền sở
hữư công nghiệp trong hoạt động thương mại, Tạp chí nhà nước và pháp
luật số 11/2004.

[16] Đặng Văn Thanh, Phó chủ nhiệm UB kinh tế và ngân sách Quốc Hội,
Cạnh tranh bình đẳng vì sự phát triển, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
6/2004.

[17] Lê Bích Thọ – Nguyễn Thanh Tú, Nhập khẩu song song dược phẩm:
một số vấn đề pháp lý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 5/2004.

[18] Văn Tiến, Lạm dụng “vị trí thống lĩnh” mới là vi phạm,
http://www.vnn.vn, 30/5/2004.

[19] Bộ trưởng Trương Đình Tuyển, Giảm độc quyền nhưng phải có tập đoàn
kinh tế mạnh, http://www.vnn.vn, 29/5/2004.

[20] Ban soạn thảo dự án Luật cạnh tranh, Vụ việc và tài liệu về Luật thương
mại lành mạnh của Đài Loan (tài liệu lưu hành nội bộ), 2002.

[21] Bộ thương mại, Khuôn khổ pháp lý đa phương điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh và luật cạnh tranh của một số nước và vùng lãnh thổ, 2003.

[22] Bộ giáo dục và đào tạo, Kinh tế học vi mô, giáo trình dùng trong các
trường Đại học, Cao đẳng khối kinh tế, NXB Giáo dục, 1997.

107
[23] Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc – Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế TW, Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền kinh doanh. Dự án hoàn thiện môi trường kinh doanh,
2001.

[24] Cơ quan phát triển quốc tế Canada – Bộ thương mại, Luật cạnh tranh
Canada và bình luận, 2004.

[25] Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (Chủ biên: Nguyễn Cửu Việt), Lý
luận chung về Nhà nước và Pháp luật, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
2001.

[26] Ngân hàng thế giới - Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, Khuôn khổ
cho việc xây dựng và thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, 1998, bản
dịch của Bộ thương mại.

[27] Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), Luật mẫu
về cạnh tranh, 2003, bản dịch của Ban soạn thảo dự án Luật cạnh tranh.

[28] Trường Đại học kinh tế Tp HCM, Marketing căn bản, 2004.

[29] Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng kinh tế chính trị Mác –
Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 1995.

[30] Ủy ban kinh tế và ngân sách – Quốc hội khóa XI, Báo cáo thẩm tra Dự
án Luật cạnh tranh, 27/4/2004.

[31] Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Cơ sở khoa học và thực tiễn cho
việc xây dựng chính sách cạnh tranh ở Việt Nam, NXB Lao Động, 2000.

[32] Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (Chủ biên: TS Nguyễn Như Phát
và TS Nguyễn Đình Hảo), Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh
ở Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân, 2001.

[33] Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Nghiên cứu tiêu chí đánh giá tính
bất hợp pháp của Các-Ten trong luật cạnh tranh Hoa Kỳ, Cộng đồng

108
Châu Âu, Nhật Bản và một số bình luận về luật cạnh tranh của Việt
Nam, Thông tin khoa học pháp lý, 2004.

[34] Vụ Công tác lập pháp – Văn phòng Quốc hội, Những nội dung cơ bản
của Luật cạnh tranh, NXB Tư pháp, 2005.

[35] http://www.laodong.com.vn, Từ ngày 1.4, doanh nghiệp không được


mua than tại mỏ “độc quyền” để… xóa tiêu cực, 21/3/05.

[36] http://www.thanhnien.com.vn, Thuốc chữa bệnh: Phải hạ giá chứ không


phải “bình ổn”, 8/4/2005.

[37] http://www.thanhnien.com.vn, Các tập đoàn lớn đổ vốn vào Việt Nam,
14/3/2005.

[38] http://www.tuoitre.com.vn, Có thể quản lý độc quyền? 02/11/2004.

[39] http://www.tuoitre.com.vn, Phải tự do hóa thị trường điện, 12/6/2005.

[40] http://www.tuoitre.com.vn, Tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế tư
nhân ra đời, 2/6/2005.

[41] http://www.sggp.org.vn, Xi măng điêu đứng vì than tăng giá, 14/3/2005.

[42] http://www.vir.com.vn, Doanh nghiệp nhà nước mạnh hay yếu,


01/12/2004.

[43] http://www.vir.com.vn, Hội chứng tập đoàn kinh tế, 6/5/2005.

[44] http://www.vnn.vn, Tập trung phát triển 20 nhà phân phối hàng hóa lớn,
9/3/2005.

[45] http://vnexpress.net, Vừa thực thi Luật cạnh tranh, vừa rút kinh nghiệm,
1/7/2005.

[46] Bộ luật dân sự 1995.

[47] Bộ luật dân sự 2005.

109
[48] Bộ luật hình sự.

[49] Bộ luật tố tụng dân sự.

[50] Dự thảo Nghị định qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cạnh
tranh ngày 25/1/2005.

[51] Hiến pháp Việt Nam.

[52] Luật thương mại Việt Nam 2005

[53] Luật cạnh tranh Việt Nam, 2004

[54] Luật thương mại Việt Nam 1997

[55] Pháp lệnh bưu chính, viễn thông.

[56] Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.

[57] Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.

[58] Pháp lệnh về giá.

[59] Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.

[60] Quyết định số 217/2003/QĐ - TTg ngày 27/10/2003 của Thủ tướng
Chính phủ về quản lý giá cước dịch vụ bưu chính viễn thông.

[61] Tờ trình của Chính Phủ về dự án Luật cạnh tranh.

[62] Văn bản số 16 BBCVT – KHTC ngày 6/1/2004 hướng dẫn triển khai
Quyết định số 217/2003/QĐ - TTg ngày 27/10/2003 của Thủ tướng
Chính phủ.

[63] Các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại lành mạnh của Hàn
Quốc.

[64] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia,
2001.

110
111

You might also like