Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------

BUỔI THẢO LUẬN TUẦN THỨ HAI

CHỦ ĐỀ:
GIAO DỊCH DÂN SỰ

Bộ môn :Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế
Giảng viên :ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải
Lớp :TM47.4 – Nhóm 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NGÀY 8 THÁNG 3 NĂM 2023


THÀNH VIÊN:
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Võ Minh Thư 2253801011287
2 Bạch Hoài Thương 2253801011288
3 Phạm Uyên Thy 2253801011297
4 Nguyễn Hồ Thủy Tiên 2253801011299
5 Lê Thị Thanh Tuyền 2253801011324
6 Phạm Minh Uyên 2253801011332
7 Trần Dương Bảo Uyên 2253801011333
8 Trần Ngọc Bảo Uyên 2253801011334
9 Đặng Thị Thùy Vân 2253801011335
10 Nguyễn Thị Thanh Vi 2253801011340
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. – BLDS: Bộ luật Dân sự.
2. – BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. – BLHNVGĐ: Bộ luật Hôn nhân và Gia đình.
4. – GDDS: Giao dịch dân sự.
5. – TAND: Tòa án nhân dân.
6. – CSPL: Cơ sở pháp lý.
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CHỦ THỂ TRONG
XÁC LẬP GIAO DỊCH .................................................................................. 1

Tóm tắt Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long. .............................................................................................. 1
Câu 1.1. So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên. ............ 1
Câu 1.2. Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền
sở hữu nhà ở tại Việt Nam? ............................................................................ 3

Câu 1.3. Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với
bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu? ............................................................. 4
Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của
chủ thể) về căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu ? .................... 4

VẤN ĐỀ 2: GIAO DỊCH XÁC LẬP BỞI NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ


NĂNG NHẬN THỨC ..................................................................................... 6

Tóm tắt Quyết định số 329/2013/DS-GDT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao. ................................................................................ 6
Câu 2.1. Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức
và từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
........................................................................................................................ 6

Câu 2.2. Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay
sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự? ................................ 7

Câu 2.3. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô
hiệu không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào? ............................................. 7
Câu 2.4. Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà
anh/chị biết. .................................................................................................... 8

Câu 2.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối
cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ
sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý. ................................................................ 8
Câu 2.6. Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao
dịch đó có bị vô hiệu không? Vì sao? ............................................................ 9

VẤN ĐỀ 3: XÁC LẬP GIAO DỊCH DO CÓ LỪA DỐI ........................... 10

Tóm tắt Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/08/2010 của Toà án nhân
dân tối cao. ................................................................................................... 10
Tóm tắt Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao. .............................................................................. 10

Câu 3.1. Điều kiện tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo
BLDS 2005 và BLDS 2015. ........................................................................ 11

Câu 3.2. Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hóa nhượng
đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối? ............................................................... 11
Câu 3.3. Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
tiền lệ anh/chị biết. ....................................................................................... 12
Câu 3.4. Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS 2015 không? Vì
sao? ............................................................................................................... 12
Câu 3.5. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu? ................ 12
Câu 3.6. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao? .................... 13

Câu 3.7. Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao? ........... 13

Câu 3.8. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết trong Quyết định số 210? .... 13
VẤN ĐỀ 4: HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU .............. 15

Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GDT ngày 13-8-2013
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao. .................................. 15

Tóm tắt Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất. .................................................................................................. 16
Tóm tắt Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội. ............................................................................................. 16

Câu 4.1. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa
các bên không? ............................................................................................. 17
Câu 4.2. Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công
ty Phú Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao? .... 17

Câu 4.3. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào? .................................... 17

Câu 4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi
xác định hợp đồng vô hiệu. .......................................................................... 18

Câu 4.5. Hướng xử lý của Hội đồng Thẩm phán đối với khối lượng công việc
mà công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ
không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch
vụ vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/ chị về chủ đề này như thế nào?
...................................................................................................................... 18
Câu 4.6. Trong Quyết định số 75, vì sao Toà án quyết định hợp đồng vô hiệu?
...................................................................................................................... 19

Câu 4.7. Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án nhân dân tối cao xác định hợp
đồng vô hiệu trong quyết định trên. ............................................................. 19

Câu 4.8. Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành ông
Sanh sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời. ........................................................................................................... 19
Câu 4.9. Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy
chứng nhận cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên
hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?........... 20
1

VẤN ĐỀ 1: NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA CHỦ THỂ


TRONG XÁC LẬP GIAO DỊCH

Tóm tắt Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
Nguyên đơn: Ông J Ph T, Bà A Th Ph (L Th H) là người Việt Nam đã nhập
quốc tịch Mỹ, cùng người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh L Th Ph.
Bị đơn: Bà L K Đ (bà Đ) là người Việt Nam, cùng người đại diện theo ủy
quyền là Ph H D T.
Tranh chấp: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung: Năm 2004 vợ chồng nguyên đơn gửi tiền về mua đất nhờ bị đơn
đứng tên, nguyên đơn mua đất của bị đơn 2 lần, lần thứ nhất 31/05/2004 mua nền thổ
cư 200m2, bị đơn đã lập giấy cho nền thổ cư cho nguyên đơn. Lần thứ hai ngày
02/06/2004 có giấy nhường đất thổ cư của bà Đ thực chất là phần đất vườn có diện
tích 1.051,8m2. Ngày 16/03/2011 bà Đ có làm giấy chuyển nhượng nhà và đất cho
nguyên đơn. Phía nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Đ giao trả toàn bộ phần đất và
nhà như đã thỏa thuận, tuy nhiên sau đó phía nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu trả lại giá trị nhà và đất là 550.000.000 đồng, phía bị đơn chỉ đồng ý trả lại
350.000.000 đồng.
Quyết của Tòa án: Vô hiệu giao dịch dân sự giữa ông T và bà H với bà Đ do
vi phạm điều cấm của pháp luật, buộc bà Đ hoàn trả số tiền 350.000.000 đồng.
Câu 1.1. So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
Điều kiện có hiệu
lực của giao dịch BLDS 2005 BLDS 2015
dân sự
Điều 122 quy định: Điều 117 quy định:“Chủ thể
“Người tham gia giao dịch có năng lực pháp luật dân sự,
có năng lực hành vi dân năng lực hành vi dân sự phù
sự”,“Người tham gia giao hợp với giao dịch dân sự
dịch hoàn toàn tự được xác lập”,“Chủ thể tham
nguyện”. gia giao dịch dân sự hoàn
Chủ thể của giao Do vậy chủ thể tham gia toàn tự nguyện”.
dịch dân sự giao dịch dân sự là cá Như vậy BLDS 2015 thay đổi
nhân. cách quy định từ “người”
sang “chủ thể”, cách thay đổi
này làm mở rộng chủ thể của
GDDS, bao gồm cả cá nhân,
pháp nhân. Điều này phù hợp
với thực tiễn cuộc sống, cho
2

phép pháp nhân tham gia vào


GDDS.

Điểm a khoản 1 Điều 122 Điểm a khoản 1 Điều 117 quy


quy định: “Người tham định: “Chủ thể có năng lực
gia giao dịch có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự.” hành vi dân sự phù hợp với
Chỉ đề cập đến năng lực giao dịch dân sự được xác
hành vi dân sự của chủ thể. lập.”
Như vậy BLDS 2015 ngoài
đề cập tới năng lực hành vi
dân sự còn bổ sung thêm
Năng lực của chủ năng lực pháp luật dân sự,
thể tham gia vào bên cạnh đó BLDS 2015 còn
GDDS quy định thêm rằng năng lực
hành vi này phải phù hợp với
GDDS được xác lập, việc bổ
sung này là hợp lý vì không
phải tất cả các GDDS đều có
mục đích và nội dung giống
nhau và yêu cầu về mức độ
năng lực hành vi dân sự của
cá nhân phụ thuộc vào từng
giao dịch cụ thể.
Điểm b, c khoản 1 Điều Điểm b, c khoản 1 Điều 117
122 quy định: “b) Mục quy định: “b) Chủ thể tham
đích và nội dung của giao gia giao dịch dân sự hoàn
dịch không vi phạm điều toàn tự nguyện;
cấm của pháp luật, không c) Mục đích và nội dung của
trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự không vi
c) Người tham gia giao phạm điều cấm của luật,
dịch hoàn toàn tự không trái đạo đức xã hội.
Vị trí các điểm
nguyện”. BLDS 2015 đã đưa tính tự
nguyện của chủ thể tham gia
giao dịch dân sự lên trước
mục đích và nội dung của
giao dịch dân sự, cho thấy đã
có sự đề cao tính ý chí của
chủ thể khi tham gia vào giao
dịch dân sự”.
3

Điểm b khoản 1 Điều 122 Điểm c khoản 1 Điều 117 quy


quy định: “Mục đích và định: “Mục đích và nội dung
nội dung của giao dịch của giao dịch dân sự không vi
không vi phạm điều cấm phạm điều cấm của luật,
của pháp luật, không trái không trái đạo đức xã hội”.
đạo đức xã hội.” BLDS 2015 đã thay từ “pháp
Phạm vi hoạt động Pháp luật ở đây bao gồm luật” thành “luật”, luật là văn
luật, nghị định, thông tư và bản do Quốc hội ban hành,
những văn bản dưới luật. điều này nhằm thu hẹp phạm
vi điều cấm mà chủ thể có thể
mắc phải.

Khoản 2 Điều 122 quy Khoản 2 Điều 117 quy định:


định: “Hình thức giao “Hình thức của giao dịch dân
dịch dân sự là điều kiện có sự là điều kiện có hiệu lực
hiệu lực của giao dịch của giao dịch dân sự trong
trong trường hợp pháp trường hợp luật có quy
luật có quy định”. định”.
Khoản 2 Điều 124 quy Khoản 2 Điều 119 quy định:
Hình thức giao định: “Trong trường hợp “Trường hợp luật quy định
dịch dân sự pháp luật quy định giao giao dịch dân sự phải được
dịch dân sự phải được thể thể hiện bằng văn bản có
hiện bằng văn bản, phải có công chứng, chứng thực,
công chứng hoặc chứng đăng ký thì phải tuân theo
thực, phải đăng ký hoặc quy định đó”.
xin phép thì phải tuân theo BLDS 2015 thay “pháp luật”
các quy định đó”. thành “luật”, đồng thời bỏ đi
hình thức xin phép.
Như vậy BLDS 2015 đã có rất nhiều điểm đổi mới tích cực so với BLDS 2005,
BLDS 2015 đã bổ sung những điều mà BLDS 2005 còn thiếu sót như mở rộng về chủ
thể tham gia, năng lực của chủ thể trong giao dịch dân sự, đồng thời khắc phục những
hạn chế trong BLDS 2005 cho phù hợp với thực tiễn, cũng như bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điều này góp phần quy định chặt chẽ hơn, thể hiện
sự tiến bộ và đổi mới trong tư duy của các nhà làm luật.
Câu 1.2. Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền
sở hữu nhà ở tại Việt Nam?
Đoạn của bản án số 32/2018/DS-ST, thuộc phần nhận định của Tòa án cho
thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam như sau:
Hơn nữa ông Ph J T và bà L Th H là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập
quốc tịch Mỹ thì theo quy định Luật đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở
năm 2005 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt
4

Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu
tư lâu dài tại Việt Nam, người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hóa,
nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự
nghiệp xây dựng đất nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối
tượng khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”.
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt
Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng
lẻ hoặc một căn hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở
nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam.
Câu 1.3. Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với
bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?
Đoạn của bản án số 32/2018/DS-ST, thuộc phần nhận định của Tòa án cho
thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu như sau:
Do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và
đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy cho nền thổ cư ngày
31/05/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004, giấy cam kết ngày 16/03/2011
bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và do không tuân thủ quy định về hình
thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự và căn cứ theo Điều 131 của Bộ luật
dân sự thì các đương sự phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận.
Và phần quyết định của Tòa án:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Vô hiệu giấy cho nền thổ cư ngày 31/05/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày
02/6/2004 và giấy cam kết ngày 16/03/2011 mà các bên đã xác lập do vi phạm điều
cấm của pháp luật.
- Buộc bà L K Đ hoàn trả cho J Ph (Ph J T) và bà A Th Ph (L Th H) số tiền 350.000.000
đồng.
Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật
của chủ thể) về căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu ?
Theo em, căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu là hoàn toàn hợp
lý vì những lý do sau:
Thứ nhất, trong lần mua đất đầu tiên vào ngày 31/05/2004, vợ chồng nguyên đơn mua
nền thổ cư 200m2 với giá 60.000.000 nhưng lại không rõ chữ viết trong hợp đồng là
của ai, chỉ biết chữ ký là của bị đơn. Như vậy về mặt hình thức đã không rõ ràng,
chính xác, gây cản trở, khó khăn trong quá trình xác lập giao dịch dân sự.
Thứ hai, cả hai loại giấy tờ cho đất thổ cư và nhường đất thổ cư đều không tuân theo
quy định của pháp luật, không có công chứng, chứng thực theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai 2003 và Bộ luật Dân sự 2015.
5

Thứ ba, ông T và bà H là người Việt Nam đã nhập quốc tịch Mỹ, và không thuộc các
trường hợp để người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở theo quy định tại
Điều 126 Luật nhà ở 2005, như vậy hợp đồng đã vi phạm điều cấm của luật định.
Dựa vào các căn cứ trên cho thấy hợp đồng giữa ông T, bà H với bà Đ đã vi
phạm hình thức giao dịch và quy định khác có liên quan như Điều 117, Điều 123,
Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015.
Vì vậy Tòa tuyên bố giấy cho nền thổ cư, giấy nhường đất thổ cư và giấy cam
kết vô hiệu là hoàn toàn thuyết phục, căn cứ theo Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2015
thì các đương sự phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận.
6

VẤN ĐỀ 2: GIAO DỊCH XÁC LẬP BỞI NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ


NĂNG NHẬN THỨC

Tóm tắt Quyết định số 329/2013/DS-GDT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Kim Ánh.
Bị đơn: Bà Phạm Thị Hương.
Tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất.
Nội dung: Vợ chồng ông Đặng Hữu Hội và bà Phạm Thị Hương có 5 người
con là Đặng Thị Kim Ánh, Đặng Văn Bình, Đặng Thị Hòa Minh, Đặng Thị Thu Thủy
và Đặng Văn Toàn. Năm 2007, Ông Đặng Hữu Hội (ba của nguyên đơn) bị tai biến
nằm một chỗ không đủ khả năng nhận thức. Nguyên đơn Đặng Thị Kim Ánh kiện mẹ
chị là bà Phạm Thị Hương tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất 167,3m2 gắn liền
với 1 ngôi nhà có giá 580.000.00 đồng vào ngày 08/02/2010 tuy nhiên mẹ chị lại
không bàn bạc với các con, chỉ hỏi anh Đặng Văn Bình. Ngày 07/05/2010, ông Hội
đã bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Ngày 29/10/2010, ông Hội mất.
Tòa án sơ thẩm quyết định hủy hợp đồng mua bán do ông Hội, bà Hương với vợ
chồng ông Hùng, bà Trinh vì cho rằng ông Hội mất năng lực hành vi dân sự. Tòa án
phúc thẩm công nhận hợp đồng mua bán do ông Hội, bà Hương với vợ chồng ông
Hùng, bà Trinh vì cho rằng ông Hội bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự sau khi
thực hiện hợp đồng. Tại phiên giám đốc thẩm, Tòa án cho rằng cả hai quyết định trên
đều sai vì ngoài diện tích 120m2 đất ông Hội, bà Hương được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất còn có 43,7m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và trên đất có nhà diện tích 56,7m2 nhưng không có trong hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất chưa được Tòa án xem xét, xác minh.
Quyết định của Tòa án: Tòa án quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm,
giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm lại.
Câu 2.1. Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức
và từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự?
Theo quyết định giám đốc thẩm số: 329/2013/DS-GĐT thuộc phần nhận định
của Tòa án cho thấy: Năm 2007, ông Hội không còn khả năng nhận thức do bị tai
biến, phải nằm một chỗ.
Trong phần xét thấy của quyết định: “bà Hương và anh Hùng cho rằng lúc bà
ký hợp đồng ông Hội còn nhận thức được, không mất năng lực hành vi dân sự, đến
ngày 07/05/2010, ông Hội mới bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, nên
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà và ông Hùng là đúng pháp luật”.
7

Do đó ông Hội bị Tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự vào từ ngày
07/05/2010.
Câu 2.2. Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay
sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
Ngày 08/02/2010 ông Hội, bà Hương lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông
Hùng và vợ là bà Trinh quyền sử dụng thửa đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cấp cho ông Hội, bà Hương, diện tích 120m2 với giá 300.000.000đ, có chứng
thực của chính quyền địa phương ngày 09/02/2010. Bà Hương và anh Hùng cho rằng
lúc ký hợp đồng ông Hội còn nhận thức được, không mất năng lực hành vi dân sự,
nhưng đến ngày 07/05/2010 Tòa án ra quyết định tuyên bố ông Hội mất năng lực
hành vi dân sự nên giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước
khi ông Hội bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Câu 2.3. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô
hiệu không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội bị vô hiệu.
Ông Hội, bà Hương thực hiện giao dịch với vợ chồng ông Hùng, bà Trinh vào
ngày 08/02/2010. Nhưng đến ngày 07/05/2010 ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự. Vậy nên khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào
ngày 08/02/2010 là đúng luật, chưa vi phạm điều kiện về năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, trước đó vào năm 2007, ông Hội bị tai biến nằm
một chỗ không thể nhận thức được, tài sản trong việc giao dịch trên là tài sản chung
giữa ông Hội và bà Hương nên có thể đây chỉ là sự tự nguyện từ một phía là bà
Hương, chưa có sự đồng ý, tự nguyện từ ông Hội vì thực tế ông Hội đã không còn
nhận thức và việc thực hiện giao dịch dân sự của ông phải do người đại diện theo
pháp luật xác lập. Vì vậy, việc thực hiện giao dịch đã vi phạm điều kiện hoàn toàn tự
nguyện của chủ thể. Do đó, giao dịch của ông Hội bị vô hiệu.
Cơ sở pháp lý: Điều 22, Điều 117, Điều 122 BLDS 2015.
Theo Điều 117 BLDS năm 2015, giao dịch dân sự bị vô hiệu khi thiếu một
trong các điều kiện sau:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
8

Câu 2.4. Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà
anh/chị biết.
Trong thực tiễn xét xử, từng có vụ việc giống hoàn cảnh của ông Hội. Đó là
vụ việc của ông Diện trong Quyết định số 102/2015/DS-GĐT ngày 10/04/2015 của
Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết của Tòa án với vụ việc này: Tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu toàn bộ do vi phạm quy định tại Điều 133 BLDS 2005 (Giao dịch dân sự vô hiệu
do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình)
Tóm tắt: Ngày 16/01/1993, ông Diện viết giấy nhượng tài sản để chuyển
nhượng cho ông Sơn ba gian nhà tranh. Tại quyết định số 07/2009, ngày 15/12/2009,
TAND huyện Từ Liêm tuyên bố ông Diện mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên,
tại giấy chứng nhận 744 ngày 07/08/2007, bệnh viện tâm thần Hà Nội chứng nhận
ông Diện bị bệnh tâm thần phân liệt được điều trị 7 lần từ ngày 14/03/1983 đến ngày
24/10/2003 tại biên bản giám định pháp y tâm thần số 41 ngày 25/11/2009 trung tâm
hoát định giám y tâm thần sở y tế Hà Nội: ông Diện bị bệnh tâm thần phân liệt từng
giai đoạn với thiếu sót ổn định, khả năng nhận thức và làm chủ hành vi bị hạn chế,
cần có người giám hộ. Như vậy, ông Diện xác lập giao dịch dân sự ở thời điểm chưa
bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự nhưng thực tế ở thời điểm đó ông đã bị bệnh
tâm thần phân liệt. Hướng giải quyết của Tòa án: Tòa án giám đốc thẩm đã theo hướng
có cơ sở để xác định tại thời điểm lập giấy chuyển nhượng tài sản ông Diện đã mất
năng lực hành vi dân sự. Lẽ ra trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án sơ cấp thẩm và
tòa án cấp phúc thẩm phải làm rõ có hay không sự gian dối khi hai bên kết hợp hợp
đồng chuyển nhượng sử dụng đất. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, ông Diện đã bị
tâm thần thì quyền chuyển nhượng có hợp pháp và có bị áp dụng về thời hiệu.
Câu 2.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối
cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ
sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.
Hướng giải quyết như trên của Tòa án là thuyết phục, cần được thừa nhận và
phát triển rộng rãi. Chúng ta nên lấy ngày cá nhân thực sự mất năng lực hành vi dân
sự làm mốc nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người này hay người kế thừa quyền,
nghĩa vụ của họ. Trong vụ việc, trên thực tế ông Hội đã bị mất năng lực hành vi dân
sự từ năm 2007 nhưng mãi đến ngày 07/05/2010 Tòa án mới tuyên bố ông bị mất
năng lực hành vi dân sự. Mà giao dịch của ông được thực hiện trước ngày ông bị Tòa
án tuyên bố là 08/02/2010. Khi thực hiện giao dịch, ông Hội chỉ nằm một chỗ, không
thể nhận thức được, lúc điểm chỉ vào hợp đồng chỉ có mặt của bà Hương, ông Hội,
anh Bình và chị Minh nhưng chị chị Minh không biết rõ về nội dung của hợp đồng.
Ông Hội không chỉ không nhận thức được hành vi của mình vào thời điểm xác lập
giao dịch mà còn không nhận thức được hành vi của mình từ trước khi xác lập giao
dịch. Việc thực hiện giao dịch trên đã vi phạm điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS năm
2015: “Chủ thể giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện”. Hướng giải quyết của Tòa
9

án đã bảo vệ được quyền lợi của ông Hội trong vụ việc tranh chấp hợp đồng mua bán
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất.
Điều kiện giao dịch dân sự có hiệu lực là người tham gia giao dịch có năng lực
hành vi dân sự và người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Như vậy, giao dịch
dân sự được xác lập bởi một người không đủ năng lực hành vi dân sự hay không hoàn
toàn tự nguyện thì sẽ không có giá trị pháp lý (vô hiệu). Đối với trường hợp trên của
ông Hội, ông không có khả năng nhận thức, giao dịch không có sự tự nguyện nên đã
vi phạm Điều 117, Điều 122 BLDS 2015. Do đó, giao dịch giữa họ được xác lập là
vô hiệu theo quy định.
Câu 2.6. Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao
dịch đó có bị vô hiệu không? Vì sao?
Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó
không bị vô hiệu. Vì căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 125 BLDS năm 2015:“Giao
dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực
hiện giao dịch với họ.”. Nghĩa là giao dịch chỉ làm phát sinh quyền cho người mất
năng lực hành vi dân sự thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, trong giao
dịch tặng cho thì ông Hội chỉ là người nhận tài sản được cho chứ không phải thực
hiện một nghĩa vụ nào đối với người thực hiện giao dịch tặng cho nên trong trường
hợp này giao dịch đó vẫn có hiệu lực mà không bị tuyên bố là vô hiệu.
10

VẤN ĐỀ 3: XÁC LẬP GIAO DỊCH DO CÓ LỪA DỐI

Tóm tắt Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/08/2010 của Toà án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Danh Đô, bà Phạm Thị Thu.
Bị đơn: Bà Trần Thị Phố (Trần Thị Phú), anh Nguyễn Thế Vinh.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú
Vân.
Tranh chấp: hợp đồng mua bán nhà.
Nội dung: Bà Phố thỏa thuận ký kết hợp đồng mua bán nhà với ông Đô và bà
Thu với giá là 330 lượng vàng. Nhưng khi thanh toán bà Phố chỉ trả 230 lượng vàng,
còn thiếu 100 lượng vàng theo thỏa thuận. Anh Nguyễn Thế Vinh (con trai bà Phố)
chưa qua trao đổi với bà Phố đã tự ý thỏa thuận với vợ chồng bà Thu hoán nhượng
cho bà Thu sở hữu ½ diện tích nhà, đất tại thửa 2352, tờ bản số 1, phường An Lợi
Đông, quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh với điều kiện hoán nhượng là bà Phố không
phải thanh toán 100 lượng vàng còn lại. Nhưng tại thời điểm giao dịch hoán nhượng
thì thửa đất hoán nhượng đã có quyết định thu hồi của Ủy ban Nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc anh Vinh thực hiện giao dịch với vợ chồng bà Thu là có
sự lừa dối do chưa có sự đồng ý của bà Phố và anh Vinh đã không thông báo việc thu
hồi đất cho vợ chồng bà Thu.
Quyết định của Tòa án: Xét thấy quyết định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm
còn nhiều sai sót nên quyết định giám đốc thẩm hủy toàn bộ kết quả trước đó, tiến
hành giao lại vụ án cho TAND quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm
lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Châu Thị Nhất.
Bị đơn: Nguyễn Văn Dưỡng.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: 1. Võ Thị Hậu; 2. Võ Văn Tân; 3. Võ
Minh Tài; 4. Võ Minh Tiến.
Tranh chấp: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung: Vợ chồng ông Dưỡng và bà Nhất có tài sản chung là 5 lô đất. Trong
quãng thời gian bà Nhất đi Đài Loan làm ăn thì ông Dưỡng đã giả mạo chữ ký bà
Nhất để chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất số 2 (đứng tên bà Nhất) cho ông Võ
Minh Tài làm chủ sở hữu. Sau khi phát hiện vụ việc, bà Nhất đã khởi kiện tại tòa và
yêu cầu tòa tuyên hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối. Việc tòa thụ lý yêu cầu của bà Nhất
là không đúng vì đã quá thời hiệu khởi kiện. Từ sai sót trên đã dẫn đến nhiều vấn đề
chưa được làm rõ tại phiên Tòa phúc thẩm như việc xác định tình trạng hôn nhân của
11

ông Dưỡng và bà Nhất; quyền yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu (trong vụ việc này chỉ
có ông Tài có quyền yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu vì là một bên tham gia giao
dịch, còn bà Nhất không có quyền đó); các vấn đề phát sinh khác…
Quyết định của Tòa án: Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy toàn bộ kết quả của phiên tòa
phúc thẩm và sơ thẩm trước đó, tiến hành giao lại vụ án cho Tòa án nhân dân huyện
Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại vụ án.
Câu 3.1. Điều kiện tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo
BLDS 2005 và BLDS 2015.
Theo Điều 132 BLDS 2005 và Điều 127 BLDS 2015, điều kiện tuyên bố một
giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối có sự tương đồng. Cụ thể tại Điều 132 BLDS
2005 và Điều 127 BLDS 2015 đều quy định: “Khi một bên tham gia giao dịch dân
sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa; cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu.”
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình. Tại Điều 127 BLDS 2015 có bổ sung thêm “...tài sản của mình hoặc của người
thân thích mình”.
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lửa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép
thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Câu 3.2. Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hóa nhượng
đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối?
Thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên bố vô hiệu do có lừa dối trong quyết định
số 521 qua đoạn:
Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vân -
họ hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà,
đất mà các bên thỏa thuận hốn đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà
đã có quyết định tháo dỡ do trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường theo
giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì do không đủ điều kiện để mua nhà tái định
cư theo Quyết định số 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tái
bản “Thỏa thuận hoán nhượng” không có chữ ký của ông Đô (chồng bà thu) và là
người cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ
của anh Vinh). Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và Bà
Thu vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132 BLDS để giải quyết.
12

Câu 3.3. Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn
tắt tiền lệ anh/chị biết.
Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ.
Vì theo nguyên tắc áp dụng tiền lệ: Khi áp dụng tiền lệ thì tên tiền lệ, tính chất,
tình tiết tương tự của tiền lệ và các tính chất, tình tiết của vụ việc được tiền lệ giải
quyết, hay các vấn đề pháp lý được tiền lệ giải quyết phải được viện dẫn, nêu rõ, phân
tích.
Có thể thấy, quyết định số 521/2010/DS-GDDT ngày 19/08/2010 của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao không hề đề cập đến một tiền lệ hay văn bản nào như đã
giải thích ở trên. Chúng ta nhận thấy rằng hướng giải quyết của Tòa là sử dụng các
điều luật trong Bộ luật Dân sự 2005 và các luật khác có liên quan để ra quyết định.
Câu 3.4. Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS 2015 không? Vì
sao?
Hướng giải quyết trên vẫn còn phù hợp với BLDS 2015 theo quy định tại Điều
132 BLDS 2005 và Điều 127 BLDS 2015 về Giao dịch dân sự do bị lừa dối.
Dù sử dụng BLDS 2005 hay BLDS 2015 để giải quyết vụ việc này thì kết quả
vẫn tương đồng là giao dịch dân sự vô hiệu. Bởi lẽ cả hai BLSD đều quy định: “Khi
một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu”.
Câu 3.5. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
Theo tòa án, trong vụ việc này thì ông Tài được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng có tranh chấp vô hiệu nếu ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ ký
của bà Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì
ông là một bên tham gia trong mối quan hệ dân sự này. Do vậy ông Tài được yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu.
Theo tòa án, trong vụ việc này thì bà Nhất không được yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu vì theo BLDS 1995 và BLDS 2005 thì bà Nhất
không phải là một bên tham gia giao dịch với ông Tài nên bà Nhất không có quyền
nêu trên. Ngoại lệ, bà Nhất được quyền khởi kiện theo Điều 28 BLHNVGĐ (chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung) để xác định hợp đồng chuyển nhượng về quyền
sử dụng đất nêu trên bị vô hiệu theo điểm b khoản 1 Điều 122 và Điều 127 BLDS
2005. Điểm b khoản 1 Điều 122 quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Điều 127 quy
định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
13

Câu 3.6. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
Trong quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối là không còn.
Vì theo lời bà Nhất trình báo tháng 08/2007 bà và ông Dưỡng mới ly hôn, sau
đó bà mới biết ông Dưỡng đã giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất (tài sản
chung của hai vợ chồng) cho ông Tài, nhưng mãi đến 10/12/2010 bà Nhất mới khởi
kiện vụ việc này. Theo Điều 136 BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu do lừa dối là 2 năm, kể từ ngày
giao dịch dân sự được xác lập. Và theo Điều 159 BLTTDS 2004 thì trong trường hợp
pháp luật không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
là 2 năm, kể từ ngày người có quyền khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình
bị xâm phạm. Quyết định thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị
lừa dối là 2 năm kể từ khi giao dịch dân sự được xác lập là năm 2003 nhưng đến năm
2010 bà Nhất mới khởi kiện. Vì vậy thời hiệu khởi kiện đã hết.
Câu 3.7. Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Thời điểm bà Nhất khởi kiện là 13/12/2010 như vậy áp dụng theo BLDS 2005.
BLDS 2005 chỉ đề cập đến việc còn hay mất quyền khởi kiện mà không quy định rõ
số phận pháp lý của giao dịch khi đã hết thời hiệu khởi kiện.
Đối với trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án hay Trọng tài tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn thì Tòa án nhân dân tối cao đã có
hướng dẫn theo hướng giao dịch dân sự có hiệu lực tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Như vậy,
căn cứ vào hướng dẫn của Tòa tối cao thì trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng.
Câu 3.8. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết trong Quyết định số 210?
Câu trả lời cho các câu hỏi trên là không thay đổi nếu áp dụng các quy định
tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết trong Quyết định số 210. Trong lúc giao dịch,
ông Tài không hề biết ông Dưỡng đã giả mạo chữ ký của bà Nhất và từ lúc phát hiện
đến lúc khởi kiện là chưa quá 2 năm nên vẫn có thể khởi kiện. Căn cứ theo khoản 1
Điều 132 BLDS 2015 thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đối
với các giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối là 2 năm kể từ ngày người bị nhầm
lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, bị lừa dối.
Theo lời bà Nhất thì thì vợ chồng bà ly hôn năm 2007, sau bà mới biết ông Dưỡng
giả chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài, nhưng đến 10/12/2010 bà mới
khởi kiện. Từ thời điểm biết giao dịch xác lập do lừa dối (năm 2007) đến thời điểm
khởi kiện (10/12/2010) là đã quá 2 năm. Vì vậy đã hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối. Theo khoản 2 Điều 132 BLDS 2015: “Trong trường
hợp nếu hết thời hiệu 2 năm nói trên mà các bên chủ thể không có yêu cầu Tòa án
14

tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực”. Do đó nếu áp
dụng BLDS 2015 thì Tòa án công nhận hợp đồng.
15

VẤN ĐỀ 4: HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GDT ngày 13-8-2013
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao.
Trong bản án sơ thẩm: Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Orange
Engineering (sau đây gọi tắt là Công ty Orange); Bị đơn: Công ty cổ phần phát triển
Phú Mỹ (sau đây gọi tắt là công ty Phú Mỹ).
Trong bản án giám đốc thẩm: Nguyên đơn Công ty Phú Mỹ; Bị đơn: Công ty
Orange.
Tranh chấp: Về vấn đề “Hợp đồng dịch vụ”.
Nội dung: Công ty Phú Mỹ chỉ định công ty Orange làm nhà thầu cung cấp
dịch vụ thiết kế cho Dự án đầu tư xây dựng công trình “Câu lạc bộ quốc gia và sân
Golf Đôi Chim Câu” tại xã Phú Mỹ, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Sau khi
kí kết hợp đồng, Công ty Orange đã triển khai ngay các công việc theo hợp đồng và
Công ty Phú Mỹ đã thực hiện việc thanh toán lần 1 và lần 2 với tổng số tiền là
240.000.000 KRW theo đúng cam kết. Trong suốt thời gian thực hiện theo hợp đồng,
Công ty Orange đã hoàn thành công việc và Công ty Phú Mỹ cũng đã sử dụng sản
phẩm của Công ty Orange mà không có khiếu nại gì. Công ty Phú Mỹ không tiếp tục
thực hiện việc thanh toán lần 3 với giá trị 160.000.000 KRW theo cam kết, nên Công
ty Orange khởi kiện yêu cầu chấm dứt hoạt động và buộc Công ty Phú Mỹ thanh toán
số tiền 141.969 USD cùng lãi suất chậm thanh toán tình từ ngày 30/09/2007 đến ngày
31/12/2010 là 141.969 USD x 39 tháng x 12%/12 tháng = 55.367 USD. Quyết định
của các cấp xét xử: Tòa án sơ thẩm: công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Sanh với anh Dư, chị Chúc, giao cho ông Sanh quyền sử dụng thửa
đất diện tích 100m2. Bác đơn của anh Dư, chị Chúc yêu cầu ông Sanh trả lại thừa đất
100m2. Tòa án phúc thẩm: tuyên bố giao dịch giữa anh Dư, chị Chúc và ông Sanh là
vô hiệu, buộc ông Sanh trả lại đất cho anh Dư, chị Chúc. Giao anh Dư, chị Chúc được
quyền sử dụng nhà xưởng lập trên diện tích đất 100m2, buộc anh chị trả lại và bồi
thường cho ông sanh tổng cộng 571.755.000đ. Tòa giám đốc thẩm: Hủy bản án dân
sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm. Giao hồ sơ cho TAND huyện Yên Lạc, tỉnh
Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Quyết định của Tòa án: Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc
thẩm số 127/2011/KDTM-PT ngày 12/8/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
08/2011/KDTM-ST ngày 7/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ
16

vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Sanh.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Dư.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Dương Thị Chúc (vợ của anh Dư).
Vụ án: tranh chấp hợp đồng quyền sử dụng đất
Nội dung: Ông Nguyễn Văn Sanh trình bày: Vợ chồng anh Dư, chị Chúc có
chuyển nhượng cho ông 100m2 đất thổ cư trị giá 160.000.000đ có xác nhận của
trưởng khu và UBND xã. Ông trả tiền cho vợ chồng anh Dư làm 2 lần, 1 lần tại Ngân
hàng Công thương, số còn lại trả cho chị Chúc cùng ngày. Sau, ông lên UBND làm
thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì vợ chồng anh Dư không ký vào hợp
đồng; Anh Nguyễn Văn Dư trình bày: Vợ chồng anh có vay ông Sanh 160.000.000đ
đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm tin, sau khi vay được vài tháng
thì vợ chồng anh đem tiền đến trả nhưng ông Sanh không nhận. Anh thừa nhận có
viết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Sanh nhưng hôm đó vợ anh đi nên
anh đã ký thay cho chị Chúc. Đề nghị ông Sanh tháo dỡ các công trình trên mảnh đất
đó và trả lại đất cho vợ chồng anh.
Quyết định Tòa: Hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do lỗi anh Dư và chị Chúc
không chịu hợp tác, sẽ phải chịu bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Sanh.
Tóm tắt Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
Nguyên đơn: Ông Bùi Tiến Văn, bà Nguyễn Thị Tằm.
Bị đơn: Anh Bùi Tiến Dậu, Bùi Tiến Bình, Bùi Tiến Sinh.
Nội dung: Năm 2008, anh Bùi Tiến Dậu có mượn trích lục đất của ông Bùi
Tiến Văn để thế chấp vay vốn ngân hàng làm ăn. Lợi dụng lúc bà Tằm đi vắng, bị
đơn đã lập sẵn các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, lừa nguyên đơn ký
vào và ký thay cho cả vợ mình là bà Tằm. Sau đó, bị đơn đã được cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2010, do mâu thuẫn, bị đơn đã
đuổi nguyên đơn ra khỏi nhà. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được bị đơn lập
thành 3 hợp đồng tặng cho đứng tên 3 người: Bùi Tiến Dậu, Bùi Tiến Sinh, Bùi Tiến
Bình. Nay nguyên đơn kiện ra Tòa yêu cầu hủy 3 bản hợp đồng trên và giấy chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật, buộc bị đơn trả lại 350m2 diện tích đất. Tòa
án sơ thẩm đã tuyên hủy giấy chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất của ông Văn,
bà Tằm cho các con và ông bà có quyền liên hệ với Ủy ban để xin lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Vì không đồng ý nên anh Dậu đã kháng cáo toàn bộ bản án.
17

Quyết định của Tòa án: Tòa án đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đơn kháng cáo
của bị đơn Bùi Tiến Bình; Bản án sơ thẩm có hiệu lực với bị đơn từ ngày 15/5/2017.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Bùi Tiến Dậu, giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
Câu 4.1. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa
các bên không?
Theo Điều 131 BLDS 2015 quy định:
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự
vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận. Trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
Trong trường hợp bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Nhưng
bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức
đó. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân
thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
Như vây, hợp đồng vô hiệu các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu và hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận trong đó có hoa lợi, lợi tức.
Câu 4.2. Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công
ty Phú Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng
với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng
với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện. Vì Công ty Orange đã
hoàn thành công việc đúng theo hợp đồng đã ký kết nhưng Công ty cổ phần phát triển
Phú Mỹ đã không thanh toán đủ số tiền được nêu trong hợp đồng.
Dựa vào khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 đã quy định: “Khi giao dịch dân sự
vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận”. Trong hợp đồng dịch vụ: Bên A (Công ty Phú Mỹ) thuê bên B (Công ty
Orange) làm một việc là vẽ bản thiết kế. Bên B bỏ công sức thời gian để vẽ sản phẩm,
cuối cùng bên A không sử dụng sản phẩm đó. Trong trường hợp này, nếu bên A trả
lại bản vẽ như ban đầu thì sẽ không đảm bảo tính công bằng. Cho nên ở đây phải quy
đổi thành 1 giá trị, khoản tiền tương ứng để trả lại sẽ đảm bảo tính công bằng.
Câu 4.3. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
Theo quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GDT ngày 13-8-2013 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, Hội đồng thẩm phán công nhận khối
lượng công việc mà Công ty Orange đã làm và yêu cầu Công ty Phú Mỹ thanh toán
số tiền tương ứng với khối lượng công việc đó. Chấp nhận chấm dứt hợp đồng giữa
Công ty cổ phần phát triển Phú Mỹ và Orange Engineering Co.LTD.
18

Hướng giải quyết của hội đồng thẩm phán rất công bằng, bảo đảm nguyên tắc
khách quan, công tâm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho Công ty Orange và buộc Công
ty Phú Mỹ phải thanh toán số tiền còn lại.
Câu 4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi
xác định hợp đồng vô hiệu.
Hướng giải quyết của Hội đồng Thẩm phán là hợp lí và hợp pháp vì phù hợp
với pháp luật, theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.”.
Theo hướng giải quyết trên hai bên đều công bằng, tránh trường hợp một bên bị tổn
hại và một bên có lợi từ hợp đồng trên.
Nếu sau khi làm rõ các vấn đề Hội đồng thẩm phán đưa ra mà Công ty Orange
chứng minh được đã thực hiện theo đúng Điều 4 Hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa
hai bên thì việc Công ty Phú Mỹ phải trả cho Công ty Orange một khoản tiền đúng
với công việc mà Công ty Orange đã thực hiện.
Câu 4.5. Hướng xử lý của Hội đồng Thẩm phán đối với khối lượng công việc
mà công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ
không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch
vụ vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/ chị về chủ đề này như thế nào?
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán khi hợp đồng vô hiệu là hợp lý.
Bởi lẽ sau khi giải quyết lại vụ án để có đủ cơ sở giải quyết chính xác thì theo
khoản 1 Điều 131 của BLDS 2015 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được
xác lập.” Theo khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015, khi giao dịch dân sự vô hiệu, công
ty Phú Mỹ phải hoàn trả lại cho công ty Orange giá trị tương ứng với khối lượng công
việc mà công ty Orange đã thực hiện vì dù không lập thành văn bản nhưng hai bên
đương sự đã trình bày thống nhất với nhau về sản phẩm. Vì vậy, có nghĩa là nếu sau
khi làm rõ các vấn đề Hội đồng thẩm phán đưa ra mà Công ty Orange chứng minh
được đã thực hiện theo đúng Điều 4 Hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa hai bên thì
việc Công ty Phú Mỹ phải trả cho Công ty Orange một khoản tiền ứng với công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện.
Trong trường hợp hợp đồng vô hiệu thì công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho
công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà công ty Orange
đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng, khác với trường hợp xác định hợp đồng
dịch vụ không vô hiệu là công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho công ty Orange phần
giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện theo thỏa
thuận tại hợp đồng và thanh toán tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của
pháp luật.
Theo em hướng giải quyết như vậy là hợp lý vì nếu hợp đồng trên không vô
hiệu thì đều đương nhiên là công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho công ty Orange gần
19

giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện theo thỏa
thuận tại hợp đồng nhưng do công ty Phú Mỹ thanh toán chậm trễ không đúng hạn
nên buộc phải thanh toán luôn phần lãi suất (theo Điều 306 Luật Thương mại năm
2005).
Câu 4.6. Trong Quyết định số 75, vì sao Toà án quyết định hợp đồng vô hiệu?
Vì theo Tòa án trong trường hợp này hợp đồng chuyển nhượng của vợ chồng
anh Dư, chị Chúc với ông Sanh vi phạm về hình thức cụ thể là vô hiệu do lỗi của vợ
chồng anh Dư và chị Chúc không chịu hợp tác để hoàn thiện các thủ tục về hình thức
của hợp đồng.
Câu 4.7. Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án nhân dân tối cao xác định hợp
đồng vô hiệu trong quyết định trên.
Việc Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu trong
quyết định trên là thuyết phục tại thời điểm đó theo Điều 134 Bộ luật Dân sự năm
2015 nhưng không thuyết phục ở thời điểm hiện tại vì: Căn cứ án lệ số 55/2022/AL.
Cụ thể trong trường hợp này, ngày 25 tháng 10 năm 2006 anh Dư, chị Chúc đã chuyển
nhượng cho ông Sanh mảnh đất thổ cư trị giá 160.000.000đ và ông Sanh cũng đã đưa
đầy đủ tiền cho anh Dư, chị Chúc vào chiều cùng ngày. Hai bên có lập một giấy
“chuyển nhượng đất” và một giấy “chuyển nhượng đất thổ cư và nhận tiền”. Cả hai
tài liệu trên đều có xác nhận của UBND xã Trung Kiên. Nhưng khi ông Sanh yêu cầu
phải hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của pháp luật thì vợ chồng anh
Dư, chị Chúc không thực hiện. Do ông Sanh đã thanh toán được 160 triệu đồng, tương
đương 82,051% giá trị hợp đồng, tức ông Sanh đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ của mình.
Do đó nên theo yêu cầu của ông Sanh, Toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của
giao dịch đó.
Câu 4.8. Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành ông
Sanh sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Theo Quyết định số 75, CSPL theo khoản 4 Điều 131 BLDS 2015 (Bên có lỗi
gây thiệt hại thì phải bồi thường). Tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao xét thấy lỗi là
của vợ chồng anh Dư và chị Chúc, nên anh Dư với chị Chúc phải bồi thường thiệt hại
cho ông Sanh. Theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, khi giá tăng, thiệt hại còn bao
gồm tiền chênh lệch giá trị theo tỉ lệ đã thanh toán. Từ những căn cứ trên, ông Sanh
sẽ được anh Dư và chị Chúc bồi thường toàn bộ thiệt hại giá trị công trình xây dựng
trên đất và thiệt hại chênh lệch giá. Ngoài ra, còn phải hoàn trả lại tiền ông Sanh đã
thanh toán.
Theo pháp luật hiện hành: Toà công nhận giao dịch có hiệu lực theo án lệ số
55/2022/AL.
20

Câu 4.9. Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy
chứng nhận cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên
hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?
Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng nhận
cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm
quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hệ quả của giao dịch
dân sự vô hiệu.
Lý giải: Giao dịch dân sự được lập ra nhằm để thực hiện một cách chặt chẽ,
công bằng, hiệu quả các vấn đề dân sự nên nếu một giao dịch dân sự rơi vào tình
trạng vô hiệu, không thể thực hiện giao dịch nữa thì sẽ không đúng với mục đích và
tinh thần của nó. Ông Văn và bà Tằm cho anh Dậu mượn trích lục đất để vay vốn, thế
chấp ngân hàng làm ăn; do tin lời của vợ chồng anh Dậu, ông Văn và bà Tằm đã đồng
ý cho mượn nhưng lợi dụng lúc bà Tằm đi vắng, anh Dậu đã lừa ông Văn ký vào hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ký thay cho cả bà Tằm. Khi đối chiếu chữ
ký của bà Tằm trên hợp đồng với chữ ký trên tài liệu giám định cho ra kết quả không
khớp. Kết luận rằng chữ ký trên hợp đồng không phải của bà Tằm mà là của ông Văn
do đó hợp đồng trái với luật quy định về nội dung, điều kiện hợp đồng giao dịch tại
điểm b Điều 117 BLDS 2005 nên hợp đồng bị vô hiệu theo Điều 127 Bộ luật này.
Vì vậy Tòa án đã hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông
Văn bà Tằm liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Đó là hệ quả của dân sự vô hiệu và vụ án đã được xử lý, giải quyết
đúng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Danh mục văn bản pháp luật
1.1. Bộ luật Dân sự 2005, 2015.
1.2. Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long.
1.3. Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội.
1.4. Quyết định số 329/2013/DS-GDT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
1.5. Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/08/2010 của Toà án nhân dân tối
cao.
1.6. Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
1.7. Quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GDT ngày 13-8-2013 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao.
1.8. Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
2. Danh mục các tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt
1.1. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 34-36;
1.2. Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Trương Tín, Giáo trình Những quy định
chung về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức -Hội Luật
gia Việt Nam 2018, Chương VI;
1.3. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.341 đến 343.

You might also like