Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

PHẠM TIẾN DUẬT


1.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật (1941) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Ông hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt
tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống".
Phạm Tiến Duật dưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong
thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi
nổi, trẻ trung hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính
và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
2. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra rất ác
liệt trên con đường chiến lược Trường Sơn.
b) Xuất xứ: Nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo
Văn nghệ 1969 – 1970. Chùm thơ khẳng định giọng thơ riêng của ông. Sau này được đưa
vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa" (1970).
c) Nội dung: Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo - những chiếc xe không kính, qua đó
làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiện ngang, dũng
cảm, trẻ trung, sôi nổi.
1. Vẻ đẹp của phong thái ung dung, tư thể hiện ngang (Khổ 1):
- Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được "mĩ lệ hóa",
"lãng mạn hoá" chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của nhà
thơ Phạm Tiến Duật. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du từng viết:
Đùng đùng gió giục mây vẫn
Một xe trong cõi hồng trần như bay
(Chiếc xe đưa Kiều ra đi với Mã Giám Sinh)
- Tế Hanh trong bài “Quê hương" tả con thuyền rất lãng mạn:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mải chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
- Chính Phạm Tiến Duật trong bài thơ "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”:
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
- Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp của
Chính Hữu trong bài Đồng chí, Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về những chiếc xe
không kính thật đơn giản, tự nhiên:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thắng.
Đến với khổ thơ đầu tiên ta cảm nhận được hình ảnh những “chiếc xe không
kính” trần trụi, méo mó trên tuyến lửa Trường Sơn.
- Ý 1: Hình ảnh “chiếc xe không kính” bị bom đạn bắn cho méo mó là một hình ảnh hết
sức quen thuộc trên tuyến đường Trường Sơn. Đó là một hình ảnh chẳng có gì nên thơ
nhưng hình ảnh ấy đã đi vào thơ Phạm Tiến Duật một cách tự nhiên và trở thành một
hình ảnh thơ độc đáo
Không có kính không phải xe không có kính
- Câu thơ dài đến 10 âm tiết, ngôn ngữ không có gì mượt mà, trau chuốt mà mộc mạc, tự
nhiên, giản dị như một lời nói, như một câu văn xuôi.
- Điệp ngữ “không có kính" kết hợp với cụm từ “không phải” đã tạo nên một giọng điệu
khác lạ cho câu thơ, tạo cho người đọc một ấn tượng đặc biệt, ấn tượng về chiếc xe không
kính.
- Câu thơ đầu như một lời phân bua của người lính lái xe. Câu thơ 10 chữ có tới 3 chữ
"không” kết hợp với nhịp thơ 3/3/4 tạo nên một chất giọng hệt như lời tranh luận đậm
chất khẩu ngữ với giọng điệu pha chút thản nhiên ngang tàng đã diễn tả chân thực hình
ảnh những chiếc xe vận tải trên tuyến dường Trường Sơn.
- Để lý giải cho hiện tượng những chiếc xe không kính, tác giả đưa ra hình ảnh: “Bom
giật bom kính vỡ đi rồi"
- Câu thơ đột nhiên ngắn lại như nén chặt, như dồn chứa cảm xúc trong từng từ ngữ. Điệp
từ “bom” kết hợp với các động từ "giật" “rung" “vỡ" đã diễn tả sự khốc liệt của chiến
tranh, sự tàn phá dữ dội của bom đạn Mĩ. Nó gợi tả được một hình ảnh những chiếc xe đi
vào chiến trường trong mưa bom bão đạn, diễn tả được sự gian khổ, hiểm nguy mà những
người lính lái xe luôn phải đối mặt. Họ luôn phải chịu cảnh bom rơi đạn nổ, phải đối mặt
với cái chết cận kề.
- Trong câu thơ có sự đối lập về âm điệu: nửa câu đầu có âm điệu mạnh mẽ gợi tả sự khốc
liệt của chiến tranh; nửa câu sau lại có âm điệu nhẹ nhàng khoan thai diễn tả thái độ bình
thản của người lính trước hoàn cảnh chiến tranh gian khổ. Không tô vẽ, không cường
điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người đọc suy nghĩ, hình dung mức độ ác
liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính
nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe - con người của trẻ trung, của tư thế ung dung, coi
thường gian khổ với lòng hy sinh cao cả.
 Như vậy, hai câu đầu là lời giải thích vừa bất ngờ, vừa hợp lý, giản dị, dễ hiểu. Ngôn
ngữ thơ rất gần với văn xuôi, giọng thơ ngất ngưởng, ngang tàng rất lính. Hình ảnh
“những chiếc xe không kính” vốn không hiếm trong chiến tranh nhưng phải là
người có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ thì Phạm Tiến
Duật mới nhận ra được và đưa nó trở thành hình tượng độc đáo.
- Tuy nhiên cái nhìn của Phạm Tiến Duật không nghiêng về phía miêu tả hiện thực khốc
liệt của chiến tranh mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp của những con người mang trong mình
dòng máu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng dũng cảm, can trường, giàu lòng lạc quan
thiết tha, yêu đời, yêu tố quốc trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ ác liệt. Cái ác liệt của
chiến tranh chỉ là phông nền làm nổi bật bức chân dung người lính. Bởi thế ngay sau
hình ảnh “những chiếc xe không kính”, tác giả tập trung bút lực của mình khắc hoạ
chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.
- Sự tài tình của nhà thơ là đặt từ “ung dung" lên đầu câu. Từ láy “ung dung” cùng nghệ
thuật đảo ngữ không chỉ thể hiện tư thể hiện ngang bình tĩnh, tinh thần bất chấp hiểm
nguy gian khổ mà còn thể hiện được sự tự tin, kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự
hào về sứ mệnh vẻ vang của mình.
- Đảo ngữ, điệp từ “nhìn”, hình ảnh không gian “đất, trời, thẳng” tô đậm phong thái
ung dung, tự thể hiện ngang. Cái nhìn tập trung cao độ, vừa khoáng đạt của người lính
trên đường ra trận bởi các anh phải nhìn đất để tránh hố tử thần, nhìn trời để tránh "Thần
sấm con ma" – những loài diều quạ hắc ám bầu trời Tổ quốc, nhìn thẳng để tiến ra tiền
tuyến, để khỏi lạc lối lầm đường.
- Câu thơ ngắt thành 3 nhịp 2/2/2 chắc nịch giống nhịp thăng bằng của chiếc xe đang lao
nhanh về phía trước đồng thời gợi ra tâm trạng phơi phới tự tin của người lính.
2. Vẻ đẹp tâm hồn trẻ trung lãng mạn (khổ 2):
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đẳng
Nhìn thấy con đường chạy thắng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
- Bốn câu thơ với nhịp thơ 2/2/2 nhịp nhàng đều đặn khiến cho người đọc liên tưởng đến
nhịp bánh xe lăn đều trên đường ra trận. Tất cả những sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các
chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện một thái độ bình tĩnh thản nhiên
trước nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế.
- Sau những điệp từ “nhìn thấy, nhìn" là những hình ảnh liệt kê hết sức chân thực cụ thể
diễn tả tầm nhìn cũng như nhấn mạnh những cảm giác ấn tượng dồn dập liên tiếp của các
anh khi ngồi trên những chiếc xe không kính. Vì xe không có kính bảo vệ nên bao nguy
hiểm đến với các anh nào là gió phả làm cho cay mắt, rát mặt, nào là cảm giác rợn ngợp
như con đường lao thẳng vào trái tim mình rồi đất đá, cành cây hay những cánh chim lạc
bất cứ lúc nào cũng có thể quăng, ném, va đập vào trong buồng lái gây thương tích cho
người lính lái xe.
- Thông thường viết về những gian khổ, những hiểm nguy trong chiến tranh nếu không
khéo người ta sẽ dễ bị sa vào những vần thơ lụy làm mất tinh thần chiến đấu, nhưng
Phạm Tiến Duật lại khác. Thực tế gió thổi làm mắt người chiến sĩ bị cay, hứng bao nhiêu
khó bụi của chiến tranh nhưng nhờ động từ “xoa" mà ta có cảm giác mắt người chiến sĩ
bớt bị đắng, bị cay.
- Động từ rất nhẹ "xoa" khiến cho hiện thực nặng nề bổng nhẹ tênh, bao gian khó hy sinh
bỗng biến tan trong khoảnh khắc. Song không chỉ vậy, các anh còn thấy:
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
- Đọc câu thơ ta tưởng như mình đang ngồi trên buồng lái cảm nhận rõ những ấn tượng
cảm giác của người lính lái xe. Câu thơ xuất phát từ tình huống thật khi người lính cho xe
đi trên đoạn đường dốc. Con đường như chạy lại về phía xe đang lao nhanh. Vượt lên ý
nghĩa tả thực, hình ảnh thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi nhiều chiều liên tưởng sâu
xa. Con đường Trường Sơn hay là con đường Cách mạng, con đường giải phóng miền
Nam mà các anh theo đuổi và luôn thao thức trong tim? Bước lên xe, người lính bỏ lại tất
cả phía sau tầm mắt, giờ chỉ còn lại con đường phía trước, trong trái tim các anh chỉ có
nhiệm vụ thiêng liêng mà Tổ quốc giao phó.
- Cái “thấy” đây vừa là cảm nhận bằng mắt thường vừa được cảm nhận bằng lòng yêu
nước, bằng ý chí chiến đấu, và bằng sứ mệnh của người chiến sĩ. Ngồi trên xe, các anh
còn:
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
- Nhà thơ diễn tả chính xác cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái.
Hình ảnh thơ rất thực mà cũng đầy thi vị. Từ láy "đột ngột” được sử dụng rất ấn tượng.
Cảm giác đột ngột là cảm giác thường trực của người lính khi ngồi trên xe không kính.
Cái bất ngờ ấy có thể là nguy hiểm rập rình bất cứ lúc nào, cái bất ngờ ấy còn là những
điều hết sức thi vị mà chiếc xe không kính đem lại.
- Nghệ thuật so sánh “cánh chim” và “sao trời" “như sa như ùa vào buồng lái" đã làm
nổi bật lên không gian bao la, khoáng đạt, thơ mộng rất đỗi bình yên – cái khoảnh khắc
hiếm hoi giữa những ngày mưa bom bão đạn. Phạm Tiến Duật cho ta hiểu bom đạn, kẻ
thù không thể tận diệt được cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên. Chỉ có điều, chỉ có những
ai có tâm hồn lãng mạn mới nhận ra được vẻ đẹp đó. Người lính lái xe như biến thành lữ
khách du ngoạn bình thản ung dung trên hành trình khám phá núi rừng Trường Sơn:
Xe ta băng qua chiến trường
Xe ta bon bon trên chặng đường
Kìa làng quê ta băng qua núi đèo đồi nương
 Cách viết của nhà thơ đã tô đậm, làm đẹp hơn vẻ đẹp tinh thần của người lính lái xe
lạc quan, yêu đời, lãng mạn.
Liên hệ:
- Người chiến sĩ lái xe đã khám phá ra vẻ đẹp của thiên nhiên và chính trong khung cảnh
thiên nhiên đẹp kì lạ đó tầm vóc của các anh được nâng bổng hoàn thiện hơn. Có thể dễ
dàng nhận thấy nhà thơ Phạm Tiến Duật và Chính Hữu có điểm gặp gỡ nhau: họ đều phát
hiện ra vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh chiến dấu gian khổ
ác liệt, tâm hồn các anh vẫn lãng mạn đầy chất thơ. Các anh không chỉ biết cầm súng với
tinh thần hiên ngang, dũng cảm, kiến cường mà các anh còn là những con người lạc quan
yêu đời, gần gũi với thiên nhiên rất lãng mạn, thơ mộng.
 Như vậy, hai khổ đầu với những hình ảnh thơ vừa chân thực vừa lãng mạn cùng các
nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, so sánh, tác giả đã diễn tả thành công cảm giác của
người lính về những khó khăn gian khổ mà họ gặp phải trên đường khi lái những
chiếc xe không kính, qua đó ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn lấp lánh ánh lạc
quan yêu đời và khí thế sục sôi đầy nhiệt huyết của những người lính thời kì chống
Mỹ. Đoạn thơ cũng cho ta thấy hướng khai thác hiện thực chiến tranh của tác giả. Rõ
ràng chiến tranh là khốc liệt nguy hiểm nhưng qua cái nhìn trẻ trung, lạc quan, Phạm
Tiến Duật muốn thể hiện chất thơ của hiện thực ấy. Hiện thực là phông nền làm nổi
bật sự dũng cảm, niềm lạc quan, tâm hồn trẻ trung yêu đời của những người lính vừa
rời ghế nhà trường. Chính tinh thần ấy tạo nên sức mạnh chiến thắng và làm nên vẻ
đẹp cho thơ.
3. Vẻ đẹp tinh thần lạc quan trước khó khăn (Khổ 3+4)
a) Nghệ thuật điệp cấu trúc câu ở câu 1+3 mỗi khổ tô dậm gian khổ của người
lính Trường Sơn, nối tiếp mùa khô với mùa mưa, giọng thơ thản nhiên coi gian
khổ khó khăn là lẽ thường đời lính, làm hiện lên tư thế hiên ngang, khẩu khí ngang
tàng, ngạo nghễ trước khó khăn.
b) Khổ 3:
Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
- Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ
nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.
- Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của
bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả
chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn
bụi nơi đây:
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.
- Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính
biến anh thành hình tượng đáng yêu qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người
già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con
người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe
được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế.
- Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
- Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần
rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như
không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn
luyện ý chí, sức mạnh của mình.
- Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục đích, lí tưởng cao cả “vì Miền
Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái
độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối
như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như văng vẳng tiếng cười, tiếng
hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm,
kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.
- Liên hệ: Cũng là miêu tả tiếng cười, Chính Hữu viết về anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến
chống Pháp đã chú ý đến hình ảnh "miệng cười buốt giá”, còn Lê Minh Khuê - một nhà văn
nữ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đã diễn tả miêu tả nụ cười của các cô
thanh niên xung phong "Cười thì hàm răng loá lên, khuôn mặt nhem nhuốc". Ta nhận ra ở
các tác giả trên đều có chung một cái nhìn, một cảm hứng đó là phát hiện ra tinh thần lạc
quan, yêu đời của người lính trong những hoàn cảnh gian nan thử thách hiểm nguy. Đúng là
càng khó khăn thử thách, người lính càng có cơ hội để thể hiện bản lĩnh kiên cường, tinh
thần dũng cảm của mình. Họ chính là những người anh hùng đóng góp bao mồ hôi xương
máu cho tổ quốc.
c) Khổ 4:
- Điệp từ “mưa”, động từ mạnh “tuôn, xối”, nghệ thuật so sánh “như ngoài trời” tô
đậm cái dữ dội của những trận mưa đại ngàn Trường Sơn - những trận “mưa bạc trắng cả
cây rừng" (Bằng Việt). Những cơn mưa hết đợt này đến đợt khác liên tiếp khiến người
lính ngồi trong ca bin mà như đang ở ngoài trời vậy. Không chỉ ướt áo mà còn bao khó
khăn nữa khi lái xe dưới trời mưa. Mưa xối vào mặt, táp vào mắt khiến đổi mắt mờ đi cay
xè, thế mà tay lái vẫn vững vàng tâm thế vẫn phải ung dung. Câu thơ một lần nữa nhấn
mạnh những khó khăn gian khó mà người lính phải đối mặt khi ngồi trên những chiếc xe
không kính. Gian khổ là thế vậy mà vượt lên tất cả vẫn là thái độ thản nhiên chấp nhận
mọi khó khăn thử thách của người lính:
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
- Câu thơ làm ngời sáng lên một tinh thần, một ý chí trách nhiệm cao cả. Những cơn mưa
rừng, những bộ quần áo ướt,... tất cả đã không thể làm người lính sờn lòng, nhụt chí. Số
từ "trăm” gợi ra cả một quãng đường dài người lính lái xe trong điều kiện khắc nghiệt
ấy. Lời thơ thản nhiên nhưng lại khiến cho người đọc xúc động. Ta nhận ra lòng yêu
nước, sự nhiệt tình của tuổi trẻ được đo bằng những cung đường cụ thể “trăm cây số
nữa”. Từ câu nói bình dị của người lính, ta thấy sáng lên tinh thần khẩn trương trên con
- Thanh điệu: 6 trên 7 chữ thanh bằng, động từ nhẹ “ngừng, lùa, khô", âm điệu thơ
nhẹ nhõm, giọng thơ nhẹ nhàng, hiện thực nặng nề bỗng hóa nhẹ tênh khiến lời thơ như
lời tự nhủ của người chiến sĩ lái xe. Người lính tự nhủ với lòng mình để củng cố ý chí,
nghị lực vượt qua khó khăn, gian khổ. Câu thơ giống như lời động viên nhau của người
lính, ấm áp nghĩa tình. Câu thơ góp phần tổ đậm vẻ đẹp lạc quan, cảm giác nhẹ nhõm ung
dung thanh thản, sự hóm hỉnh trong người lính.
 Đó là chứng tích của cái nhìn lạc quan khỏe khoắn của những người lính lái xe.
4. Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội (khổ5+6)
a) Khổ 5:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã vào đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
- Khổ thơ như là sự lí giải về việc hình thành tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe đã
băng qua chặng đường Trường Sơn đầy mưa bom bão đạn, nơi mà sự sống và cái chết chỉ
cách nhau trong gang tấc, giờ đây trở về quây quần bên nhau tụ họp thành "tiểu đội xe
không kính” trong nghĩa tình đồng đội.
 Những lời thợ mộc mạc ấy gợi không khí ra trận của một thời, một thế hệ, một dân tộc
đang hừng hực sục sôi lên đường cứu nước.
- Câu thơ cuối đoạn “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi" là một hình ảnh thơ hết sức độc
đáo.
 “bắt tay” là hình ảnh thực: cái nắm tay đồng đội
 “Cửa kính vỡ": hình ảnh thực về chiến tranh, sức tàn phá của bom đạn
 Câu thơ ghi lại một cách chân thực vì xe không kính nên trên những chặng đường
xuôi ngược chiến tranh, xe đỗ sát xe, người lính có thể ngồi trong buồng lái mà châm
cho nhau điều thuốc, mà bắt tay nhau qua ô cửa vỡ rồi. Câu thơ còn gợi sự hóm hỉnh,
trẻ trung, gợi tình đồng chí đồng đội trở thành sức mạnh giúp người lính vượt khỏi
gian khổ, thử thách. Bom đạn kẻ thù có thể tàn phá những giá trị vật chất nhưng
không thể hủy diệt được những giá trị tinh thần. 
b) Khổ 6:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đây
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời thêm xanh.
- Phạm Tiến Duật đã đưa vào trong thơ những chi tiết rất thực của đời sống chiến tranh để
dựng lên khung cảnh dã chiến. Trong số rất nhiều những chi tiết của hiện thực gian khổ
ông đã chọn hình ảnh “Bếp hoàng cầm" hẳn là có dụng ý. Lúc đầu câu thơ Vốn là
"Bếp lửa rừng ta dụng giữa trời”, về sau đổi cụm từ “Bếp lửa rừng" thành “bếp
Hoàng Cầm". Nói đến “Bếp Hoàng Cầm”, ta nghĩ ngay đến sản phẩm sáng tạo của anh
hùng nuôi quân tên là Hoàng Cầm, loại bếp dã chiến khi đun khói tin vào lòng đất tránh
được cặp mắt diều hâu cú vọ của kẻ thù.
- Phải chăng bếp lửa là một tín hiệu vui gợi sự ấm áp quây quần. Bên bếp lửa ấy, những
người lính đến "từ trong bom rơi" đã chia sẻ với nhau bữa cơm đã chiến. Trong bữa
cơm vội vàng, những người lính xa lạ bỗng chốc trở thành thành ruột thịt của nhau trong
không khí gia đình ấm cúng khi họ cùng chung bát đũa, chung bữa cơm.
 Có thể nói hai câu thơ là một định nghĩa hết sức giản dị về gia đình. Khái niệm ấy
được đo bằng sự trải nghiệm của những lần vào sinh ra tử, của biết bao lần cận kề cái
chết. Chính tình cảm này đã giúp cho người lính lái xe thêm chắc tay lái vì miền Nam
thân yêu.
- Sau những giờ phút nghỉ ngơi, người lính lái xe lại lên đường:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời thêm xanh.
- Dù trong hoàn cảnh nào, những anh lính cụ Hồ vẫn mơ mộng, lạc quan, vẫn sáng lên vẻ
đẹp tình đồng chí đồng đội thắm thiết.
- Câu thơ tái hiện một cách tinh tế gian khổ mà những người lính lái xe Trường Sơn phải
trải qua. Đó là cuộc sống gian khổ, phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn ngày trên xe
giữa những làn mưa bom của giặc đang ngày đêm trút xuống nhằm huỷ diệt sự sống.
- “Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ "chông chênh" gợi tả tư
thể không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi. Chống chênh gợi nhịp võng
lắc trên chiếc xe gợi đến con đường Trường Sơn gập ghềnh khó khăn, nguy hiểm, giúp ta
hình dung về những giây phút nghỉ ngơi không bình yên của người lính lái xe khi họ thay
nhau làm nhiệm vụ. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời
gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu hết sức gian khổ,
họ phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn trên xe hoặc trên dọc đường đi giữa làn mưa
bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt sự sống.
- Song từ "chông chênh" còn gợi tả phong thái hiện ngang của người lính. Bom đạn của
kẻ thù tưởng như có thể dùng sức mạnh để huỷ diệt sự sống con người nhưng không!
Hình ảnh những chiếc võng mạc "chống chênh" trên tuyến đường Trường Sơn khói
lửa ấy đã chứng minh điều ngược lại sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một
tư thế kiêu hãnh, hiện ngang, tư thế của người chiến thắng.
- Nhưng vượt lên trên tất cả, họ luôn có tư thế tiến về phía trước:
Lại đi lại đi trời thêm xanh
- Câu thơ như tiếng hát nâng bước chân người ra trận. Điệp từ “lại đi” cùng nhịp thơ
nhanh phơi phới lãng mạn (2/2/3) tái hiện vòng bánh xe lăn tiến lên phía trước, rộng
hơn là đoàn xe vận tải lao nhanh ra mặt trận bỏ lại đằng sau tất cả đạn bom u ám để đến
với bầu trời xanh phía trước. Hình ảnh ẩn dụ trời xanh thêm kết thúc đoạn thơ như vẽ
ra một tương lai tươi sang với cuộc sống thanh bình đang chờ đón người lính. Với hình
ảnh này, ta thấy được niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của người lính vào chiến thắng.
Phải chăng đó là sức mạnh lớn lao để đoàn xe lăn bánh tới đích?
5. Vẻ đẹp lí tưởng chiến đấu vì miền Nam (khổ cuối)
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
- Khổ thơ có kết cấu đối lập bất ngờ sâu sắc giữa hai câu đầu và hai câu cuối: Nếu hai
câu đầu tác giả sử dụng kết cấu câu phủ định để làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe méo
mó, biến dạng thì hai câu sau tác giả sử dụng kết cấu phủ định nhấn mạnh ý chí quyết tâm
của những chiến sĩ lái xe vượt lên trên bom đạn thử thách. Vậy là trải qua mưa bom bão
đạn, những chiếc xe ban đầu đã không có kính, bị bom Mỹ làm cho biến dạng đến trần
bụi:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
- Với biện pháp liệt kê, điệp ngữ "không có” được nhắc lại 3 lần, 2 câu thơ nhấn mạnh
sự thiếu thốn đến biến dạng của những chiếc xe: Không những không có kính mà xe còn
không có đèn không có mui xe và thùng xe thì bị xước.
- Đằng sau sự biến dạng ấy của đoàn xe là sự khốc liệt của chiến tranh, mức độ ác liệt của
chiến trường. Hai câu thơ như lời kể lời phân bua của người lính, mỗi dòng thơ ngắt
nhịp 4/4 như những chặng đường gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn...
Nhưng điều kỳ lạ là không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kỳ diệu của những
chiếc xe trơ trụi ấy, chúng như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở
lao băng ra chiến trường với một tình cảm thiêng liêng:
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
- Hai câu thơ đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường
Sơn với tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam. Đoàn xe dù
đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tưởng như
không thể lăn bánh nhưng vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bời phía trước là miền Nam
đang vẫy gọi. Nghệ thuật nhân hóa "chạy vì miền Nam” khiến cho những chiếc xe trở
nên có hồn, đoàn xe đã chiến thắng, dũng cảm vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía
trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một “tình cảm thiêng liêng vì Miền Nam", vì cuộc
chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Câu thơ ca ngợi chiếc xe cũng
là ca ngợi những ng lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Họ đã sống và
chiến đấu cho 1 lý tưởng cao đẹp: giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
- “Miền Nam” là chiến trường, là tiền tuyến; là một nửa nước thương yêu đang chìm trong
máu lửa; là đồng bào ruột thịt, chung dòng máu lạc hồng Miền Nam là máu của máu Việt
Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không
bao giờ thay đổi" (Hồ Chí Minh).
- Sức mạnh làm nên điều kì diệu ấy của đoàn xe đã được tác giả lí giải bất ngờ: “Chỉ cần
trong xe có một trái tim"
- Tác giả đặt dấu hai chấm trước khi chuyển sang dòng thơ cuối. Câu thơ như lời lý giải
cho những ý thơ ở những câu trước, kết tinh ý tình cả bài nâng cao và khắc sâu hơn ý
nghĩa bài thơ. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim
người lính trái tim vì miền Nam - thì xe vẫn chạy, “tất cả cho tiền tuyến".
- Đối lập với tất cả những cái “không có" ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim - sức mạnh
của người lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy thay thế
cho tất cả những thiếu thốn không kính, không đèn, không mui", hợp nhất với người
chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống không gì tàn phá, ngăn trở được. Xe chạy bằng tim,
bằng xương máu của người chiến sĩ. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những
chiếc xe trái tim cầm lái
- Hình ảnh trái tim kết thúc bài thơ là hình ảnh hoán dụ độc đáo gợi ra biết bao ý nghĩa:
Trái tim trước hết là những người lính lái xe, chính họ đã làm nên điều kỳ diệu, phi
thường trên, sâu sắc hơn, rung động hơn trái tim ấy còn là biểu tượng cho phẩm chất và
tâm hồn tuyệt đẹp của người lính: sự kiến cường dũng cảm, là lòng yêu nước, căm thù
giặc, là ý chí chiến đấu, khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là ý thức
trách nhiệm của thế hệ trẻ trước vận mệnh của dân tộc. Trái tim mang tinh thần lạc quan
và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam.
- Ấn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý của
thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ tối
tân hiện đại... mà là con người - con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên
cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Đến đây ta có thể hiểu vì sao
một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam lại có thể chiến thắng liên tiếp 2 đế quốc hùng mạnh
như vậy. Như Tố Hữu đã từng ca ngợi:
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng củi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
 Có thể nói hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ,
bật sáng chủ đề, tỏa sáng về, đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Trái tim người
lính tỏa sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên một thế hệ
thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.
6. Đánh giá:
1. Nghệ thuật:
- Thể thơ kết hợp linh hoạt giữa thể 7 chữ với thể 8 chữ, có chỗ 6 hay 10 chữ tạo cho bài
thơ một điệu thơ gần với lời nói tự nhiên sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới, giọng
điệu mới của thơ ca chống Mỹ.
- Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến Duật,
góp phần khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe: giọng điệu bài thơ ngang tàng có cả
chất tinh nghịch phù hợp với đối tượng miêu tả - những chàng trai lái xe trên những chiếc
xe không kính.
- Sáng tạo hình ảnh thơ độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình
tượng trung tâm của bài thơ.
- Ngôn ngữ bài thơ giản dị ngồn ngộn chất sống, đời sống chiến trường, vừa làm giàu thêm
chất điệu thơ ca vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời thơ gần với lời văn
xuôi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ. Chất thơ toát lên từ những
hình ảnh độc đáo, từ vẻ hiên ngang, sôi nổi, trẻ trung của người lính, từ những ấn tượng
cảm giác cụ thể của họ khi ngồi trên những chiếc xe không kính.
2. Nội dung: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một hình ảnh
độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người
lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thể hiện ngang tinh thần lạc quan, dũng
cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
3. Mở rộng, nâng cao:
- Các anh chính là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ trong thời kỳ chống Mỹ 304 cứu nước,
một thế hệ: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai".
- Bài thơ cho ta thấy một biểu tượng đẹp về người lính Trường Sơn, từ đó giúp ta hiểu hơn
về thời kỳ lịch sử gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc, hiểu hơn về nhà thơ Phạm Tiến
Duật. Ông cũng là một người lính từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên tuyến đường
mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, có lẽ vì vậy mà tiếng nói của nhà thơ về mình và về đồng
đội mình hết sức chân thực và sống động.
- Cùng với những tác phẩm “Khoảng trời hố bom" của Lâm Thị Mỹ Dạ, "Những ngôi sao
xa xôi" của Lê Minh Khuê, .. bài thơ đã nối dài những khúc ca về người lính trong cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Cùng với một số bài thơ khác của tác giả: Trường sơn
đông. Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong thì "Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” góp phần khẳng định Phạm Tiến Duật là một gương mặt xuất sắc nhất
thời kì chống Mỹ.
- Bài thơ gợi trong người đọc sự khâm phục, trân trọng và xúc động trước những tình cảm
cao đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt, giúp ta hiểu sâu sắc về
cuộc sống kháng chiến đầy gian khổ của quân đội ta, biết ơn công lao của các thế hệ cha
anh đi trước đã chiến đấu bền bỉ, gian khổ đem lại độc lập tự do cho dân tộc.
Đánh giá: Ông được ca tụng là “con chim lửa Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng
già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức
mạnh của một sư đoàn”.

You might also like