Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Chuyên gia Nguyễn Thành Trung- Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội

Lê Thánh Tông (1442-1497), là vị Hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê trong lịch
sử Việt Nam. Ông tên thật là Lê Tư Thành, còn có tên khác là Lê Hạo. Ông sinh
ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, nổi tiếng là vị minh quân. Nhà vua Lê
Thánh Tông ở ngôi được 38 năm, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Trong suốt thời
gian trị vì, vua Lê Thánh Tông đã tiến hành những cuộc cải cách lớn trên nhiều
lĩnh vực quan trọng như chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự…và đã đạt được
nhiều kết quả to lớn. Ba mươi tám năm so với lịch sử quốc gia chỉ là một thời
gian rất ngắn,  nhưng ba mươi tám năm dưới thời trị vì của Vua Lê Thánh Tông
là những năm tháng mà quốc gia Đại Việt phát triển cường thịnh nhất.
NỘI DUNG
Câu 1. Mục tiêu và những nguyên tắc chủ yếu trong cuộc cải cách bộ máy
nhà nước của Lê Thánh Tông
Cuộc cải cách bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông, nếu không nói là cuộc cải
tổ đầu tiên, thì cũng là cuộc cải tổ lớn nhất và thành công nhất trong lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam. Mô hình nhà nước thời Lê Thánh Tông trở thành mẫu
mực cho những đời vua sau đó và những triều đại vua sau này mô phỏng theo.
Mục tiêu cơ bản của công cuộc cải tổ bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông là
củng cố và hoàn thiện một bước mới nền quân chủ chuyên chế phong kiến. Hay
nói cách khác là nhằm tập trung tuyệt đối quyền lực nhà nước vào trong tay nhà
vua theo nguyên tắc “tôn quân quyền” của Nho giáo và tăng cường hiệu lực của
bộ máy quan liêu, cũng tức là nâng cao sự thể hiện và hiệu quả của quyền lực
hoàng đế.
Ba nguyên tắc chủ yếu mà cuộc cải tổ này theo là:
- Bỏ bớt một số chức quan, cơ quan và cấp chính quyền trung gian, để bảo
đảm sự tập trung quyền lực của nhà vua.
- Các cơ quan giám sát, kiểm soát lẫn nhau để loại trừ sự lạm quyền và
nâng cao trách nhiệm
- Nguyên tắc tản quyền, không để tập trung quá nhiều quyền hành vào một
cơ quan mà được tản ra cho nhiều cơ quan, để ngăn chặn sự tiếm quyền.
Cuộc cải tổ bộ máy nhà nước được vua Lê Thánh Tông tiến hành trong
suốt cả quãng đời làm vua của ông. Trong đó, đỉnh điểm là vào năm Hồng
Đức thứ 2 (1471), khi nhà vua ra đạo dụ định quan chế mà sử sách thường
gọi văn bản này là Hoàng triều quan chế. Lê Thánh Tông đã tiến hành cải
tổ bộ máy nhà nước một cách toàn diện ở cả trung ương và địa phương, cả
ngạch dân và quân sự, cả quan chế và thể chế. Trong đó, những cải cách
khối cơ quan văn phòng trung ương là một phần quan trọng trong việc cải
cách bộ máy nhà nước ở trung ương của Vua Lê Thánh Tông.
Câu 2 Chính sách cải cách giáo dục và thi cử của vua Lê Thánh Tông

Canh tân khoa cử là một cống hiến vượt bậc của vua Lê Thánh Tông đối
với đất nước. Vua Lê Thánh Tông theo phương châm "lấy trọng đạo sùng
Nho làm việc trước, kén kẻ sĩ làm trước tiên phong trong phép trị nước.
Nghiên cứu chế độ thi cử dưới triều vua Lê Thánh Tông, người ta thấy có những
ưu điểm nổi bật sau:
1/ Về thu hút và bồi dưỡng nhân tài: Vua Lê Thánh Tông cho bãi bỏ chế độ bổ
dụng các vương hầu, quý tộc vào các trọng trách của triều đình, mà chỉ lấy
những người có khả năng thực sự. Các thân vương, công hầu…được ban cấp
bổng lộc nhiều, quyền lợi lớn hơn các vị quan chức đại thần, nhưng nếu không
có tài năng, không qua đỗ đạt thi cử Nho học thì cũng không được bổ nhiệm
làm quan. Đây là một chính sách cải cách rất mạnh mẽ nhằm loại bỏ tầng lớp
địa chủ quý tộc nắm giữ quyền lực cả về kinh tế và chính trị vốn vẫn là rường
cột của các vương triều trước đây; loại bỏ nguy cơ cát cứ địa phương. Với chủ
trương khuyến khích Nho học và một chế độ khoa cử nề nếp, cùng lúc vua Lê
Thánh Tông đạt được 2 mục đích: vừa tuyển chọn được những người có thực
lực tài năng cho đất nước; vừa đưa được Nho học thâm nhập sâu trong đời sống
xã hội. Như vậy, trên nền tảng tư tưởng chính trị Nho giáo, chính sách đào tạo
của vua Lê Thánh Tông đã nâng cao trình độ văn hóa trong toàn xã hội; đặc biệt
chú trọng tiêu chuẩn hóa trình độ học vấn của đội ngũ quan lại nhằm có được
một bộ máy cai trị có chất lượng, phục vụ triều đình và đất nước. Trong vòng
hơn 40 năm cai trị, vua Lê Thánh Tông đã thường xuyên, liên tục tổ chức các kỳ
thi tuyển nhân tài cung cấp cho bộ máy nhà nước; đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi
của xã hội thời đó. Hầu hết các vị đỗ đạt trong các kỳ thi này đều được tham gia
vào nhiều vị trí quyền lực trong triều đình và các địa phương.
2/ Về hệ thống đào tạo: Thời kỳ này tồn tại đồng thời 2 hệ thống trường công và
trường tư.
Trường công do triều đình quản lý và tổ chức . Đó là Quốc Tử Giám và các
trường đặt ở phủ huyện. Cơ quan quản lý việc học là Bộ Lễ. Bộ Lễ có khá nhiều
nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực như: văn hóa, y tế, ngoại giao, tế lễ, yến tiệc, đi sứ,
thiên văn, biểu tấu, tăng đạo, giáo phường, nhã nhạc. Vì vậy, việc học ở hệ
thống nhà nước như là một bộ phận hành chính giúp đào tạo hệ thống quan lại.
Quốc Tử Giám là cơ quan giáo dục cao nhất trong nước. Ở thời Lê Thánh Tông
đã rất quan tâm củng cố tổ chức này. Vua đã cắt cử chức Tế tửu- là chức quan
đứng đầu Quốc Tử Giám, có nhiệm vụ phụ trách chung và làm chủ tế ở Văn
Miếu; cấp phó là chức tư nghiệp đặc trách việc giảng dạy và học tập. Các chức
Giáo thụ làm nhiệm vụ dạy học và nhiều chức sắc khác giúp việc trông coi,
nghiên cứu, lưu giữ tư liệu, thư viện sách chữ Nho…
Những người được vào học Quốc Tử Giám được chia làm 2 loại. Một loại là
giám sinh gồm có con cái các quan viên đã thi đỗ 4 trường kỳ thi hương. Một
loại gọi là học sinh gồm quân và dân đã thi đỗ 4 trường kỳ thi hương( loại này
tới năm 1483 mới lập ra). Các giám sinh được chia thành 3 loại gồm: thượng xá
sinh học được nhận 10 quan tiền học bổng mỗi tháng; loại thứ 2 là trung xá sinh
học được nhận 9 quan tiền học bổng mỗi tháng; loại thứ 3 là hạ xá sinh nhận
học bổng 8 quan tiền. Đây là những người đã đỗ kỳ thi Hương và trúng tuyển
kiểm tra của Bộ Lễ. Họ được phép lưu trú tại Quốc Tử Giám, được nhận học
bổng và ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi Hội . Vua  Lê Thánh Tông đã cho tu bổ
lại Quốc Tử Giám (vào năm 1483) trở thành không chỉ là nơi thờ tự của đạo
Nho mà còn là một” học cung”, học đường thật sự trang trọng; nơi lưu giữ và đề
cao tên tuổi những người có trình độ Nho học uyên thâm, những nhà khoa bảng
tài tình của đất nước.Ở hệ thống trường tư: trong lịch sử giáo dục nước ta,
trường tư xuất hiện trước trường công. Dưới thời Lê Thánh Tông thì trường tư
đã trở nên khá phổ biến.Việc học được chú trọng nên đâu đâu cũng có trường
tư. Nhà Nho nào cũng có quyền mở lớp dạy học trò. Nhiều gia đình có điều kiện
thì mới hẳn thầy Nho về nhà dạy học cho con, và có thể nhận thêm học sinh
trong làng đến học. Những trường, lớp tư này gọi là Hương học. Tuy là trường
tư, nhưng các thầy đồ Nho vẫn dạy trò đầy đủ chương trình học từ thấp lên cao
để có đủ trình độ đi thi. Có nhiều học trò từ các trường tư vẫn đỗ Tiến sĩ. Học
trò trường công và trường tư được đối xử ngang nhau khi đi thi. Họ cùng thi
một đề, một hội đồng giám khảo, và khi thi đỗ thì đều được bổ dụng.
Hoàn thiện thể lệ thi cử trở thành chế độ cấp nhà nước: Tổ chức thi cử là độc
quyền thuộc triều đình quản lý do Bộ Lễ đảm nhiệm. Những nội dung và quy
định cụ thể mỗi kỳ thi do Bộ Lễ đề xuất và Vua là người quyết định cuối cùng.
Thể lệ này đến đời vua Lê Thánh Tông đã rất hoàn chỉnh.
Thứ nhất, về cấp độ và tần suất tổ chức thi: Việc thi cử được tổ chức theo trình
tự từ thấp lên cao lần lượt các kỳ thi: thi Hương được tổ chức ở cấp địa phương.
Thi Hội và thi Đình là kỳ thi tuyển cấp quốc gia, giành cho những người đã
trúng tuyển qua kỳ thi hương và các giám sinh đã mãn khóa học ở Quốc Tử
Giám. Nếu họ đỗ ở các kỳ thi Hội và thi Đình sẽ là sự vẻ vang tột đỉnh của một
Nho sĩ. Các kỳ thi này cũng là sự kiểm tra đánh giá tài năng thật sự của mỗi
Nho sĩ để rồi được tuyển dụng bổ nhiệm các chức quan trong triều. Từ năm
1463, vua Lê Thánh Tông bắt đầu định lệ thi Hội và thi Đình 3 năm một lần.
Thứ 2,  về đối tượng dự thi: ưu tiên chủ yếu cho những người đã đỗ trong kỳ thi
hương. Nhưng cấm một số đối tượng như nếu có liên quan đến tội: phản nghịch,
bất hiếu, bất nghĩa, loạn luân… Thậm chí những người thuộc phường chèo, con
hát cũng không được thi. Đây là một quy định thể hiện sự kỳ thị phân biệt
những người làm nghề phường chèo, gánh hát của vua Lê Thánh Tông thời đó.
Ngoài ra, có mở rộng cho một số đối tượng quan lại chưa đỗ kỳ thi Hương nếu
muốn thi cũng được phép thi.
Thứ 3, về số lượng dự thi: Vua quy định, mỗi huyện lớn nhất được cử 200 sĩ tử;
huyện vừa được cử 150 sĩ tử, huyện nhỏ được 100 sĩ tử dự kỳ thi Hương. Danh
sách này được gửi lên Bộ Lễ duyệt lại và chốt danh sách chính thức. Chỉ những
ai đỗ kỳ thi hương mới tiếp tục được vào Quốc Tử Giám (làm giám sinh ôn
luyện ở đây); hoặc có thể học tư để dự kỳ thi Hội và thi Đình.
Thứ 4, về quy chế thi:  Đã quy định khá chặt chẽ các kỳ thi Hương, thi Hội, thi
Đình. Thi Hương bao gồm 4 kỳ thi; thí sinh phải đỗ kỳ 1 mới được thi tiếp kỳ 2,
đỗ kỳ 3 mới tiếp tục thi kỳ 4. Ai đỗ cả 4 kỳ mới được thi cấp cao hơn là thi Hội
và thi Đình( còn gọi là Đại khoa). Thi Hội cũng gồm 4 kỳ tương tự như thi
Hương nhưng với chất lượng cao hơn. Ai đỗ cả 4 kỳ thi hội mới được tiếp tục
vào kỳ thi Đình.Thi Đình còn gọi là Điện thí, tức là thí sinh thi ngay tại sân
cung điện của nhà vua và do vua trực tiếp ra đề thi. Tất cả các kỳ thi Hương, thi
Hội, thi Đình đều có quy định chặt chẽ về trông thi, làm bài thi của thí sinh và
chấm thi.
Thứ 5, danh hiệu thi cho người đỗ đạt: Những người đỗ cả 4 kỳ thi Hương được
gọi là Hương cống hoặc Cử nhân; bậc thấp hơn thì gọi là Tú tài hoặc Sinh đồ.
– Những người đỗ 4 kỳ thi Hội được cấp bằng Tiến sĩ. Đây là danh hiệu cao
nhất giành cho người tham gia đầy đủ các khoa thi. Tại kỳ thi Đình sẽ xếp loại
các Tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội theo 5 bậc từ cao xuống thấp gồm: Trạng nguyên;
Bảng nhãn; Thám hoa; Hoàng giáp; Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Trong
đó, 3 bậc đầu còn gọi là Tam khôi.
Trong hơn 800 năm tồn tại của Khoa cử Nho học Việt Nam, chỉ có 183 khoa thi
với 2.898 người đỗ. Còn theo sách  “ Các nhà Khoa bảng Việt Nam” thống kê:
Dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì ( từ 1460-1497),  đã tổ chức được 12 kỳ thi
Đại khoa; trong đó có tất cả 501 người đỗ đạt gồm: có 9 Trạng nguyên; 10 Bảng
nhãn; 10 Thám hoa; 159 Hoàng giáp; 313 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Đây quả là một cống hiến vượt bậc của vua Lê Thánh Tông đối với đất nước.
Đúng như Phan Huy Chú đã nhận định trong  sách Lịch triều Hiến chương loại
chí : “ Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách
chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp”.
Câu 3 Ý nghĩa của cuộc cải cách hành chính dưới thời Lê Thánh Tông
+ Góp phần kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương.

+ Tăng cường quyền lực của nhà vua, chứng tỏ nhà nước quân chủ chuyên
chế dưới thời Vua Lê Thánh Tông đạt mức cao độ và hoàn thiện.

+ Ổn định chính trị để phát triển kinh tế, văn hóa.


Câu 4 Thành tựu cải cách pháp luật dưới triều Vua Lê Thánh Tông

Trên cơ sở các dữ liệu lịch sử thu thập, tổng hợp kết quả nghiên cứu có liên
quan, chúng tôi thấy, dưới triều Vua Lê Thánh Tông đạt được 8 thành tựu nổi
bật trong cải cách pháp luật và xây dựng bộ máy nhà nước sau đây:

Thứ nhất, triều đại Lê Thánh Tông đã tạo ra một bước tiến lớn về kỹ thuật
lập pháp và pháp điển hóa, thể hiện ở các tập hệ thống hóa pháp luật là
Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức thiện chính thư và đặc biệt là bộ Quốc
triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 

Bộ luật Hồng Đức là một bộ luật lớn, có đối tượng, phạm vi, nội dung điều
chỉnh rộng nhất trong các văn bản do nhà nước phong kiến ban hành. Mặc dù
được xây dựng theo mô hình của một bộ hình luật thời phong kiến (phần lớn các
quy định là xác định hình phạt và tội phạm) nhưng thực tế, Bộ luật Hồng Đức
đã vượt qua khỏi khuôn khổ của hình luật để điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã
hội như hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, tố tụng, quân sự,
bang giao quốc tế… Điều này làm Bộ luật trở nên toàn diện, hiếm thấy trong
thời đại phong kiến. So với một số bộ luật khác thì Bộ luật Hồng Đức có số
lượng điều luật lớn hơn hẳn: 722 điều, trong khi đó, bộ luật nhà Đường chỉ có
501 điều và bộ luật nhà Minh chỉ có 460 điều. 

Nội dung của Bộ luật Hồng Đức vừa thể hiện tính kế thừa vừa có tính phát triển
với những tư tưởng tiến bộ mới thời Hậu Lê; đã trực tiếp kế thừa, phát triển và
hoàn thiện nhiều thành tựu pháp luật của hệ thống pháp luật Lý - Trần. 

Thứ hai, những cải cách pháp luật của triều Vua Lê Thánh Tông đã đề cao
tư tưởng “trọng pháp”

Trong gần 40 năm trị vì, Vua Lê Thánh Tông đã đề ra những chính sách phát
triển đất nước với tư tưởng “trọng pháp” khá rõ ràng. Ông khẳng định với quần
thần: “Pháp luật là phép công của Nhà nước, ta và các ngươi đều phải tuân
theo” và “đặt luật để trừ kẻ gian, sao dung được cho bọn coi thường pháp luật”.
Điều đó không chỉ được thể hiện trong cách thức tổ chức và quản lý bộ máy nhà
nước mà còn thể hiện rất rõ qua các văn bản pháp luật, đỉnh cao là Bộ luật Hồng
Đức. Điều 683 quy định: trong bản án, khi luận tội quan xử án phải dẫn đúng
điều luật nói về tội phạm đó, không được thêm bớt. Còn theo Điều 685 thì
những chế sắc của vua luận tội gì, chỉ xét xử nhất thời chứ không phải là sắc
lệnh vĩnh viễn thì không được viện dẫn mà xử đoán việc sau. Theo Điều 708,
nếu xét những tội có điều nghi ngờ thì cứ chiểu theo tội đó mà giảm. Đặc biệt,
Điều 722 quy định hình quan khi định tội danh phải chiểu chính điều trong luật,
không được tự ý thêm bớt hoặc viện dẫn điều khác.
Thứ ba, Bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định mang giá trị nhân văn sâu sắc,
thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn tư tưởng pháp trị và đức trị, đồng thời chú
ý đến bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và những người yếu thế 

Sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị trong Bộ luật Hồng Đức thể hiện ở việc Vua
Lê Thánh Tông sử dụng lễ giáo để răn đe, kết hợp với hình phạt nghiêm khắc để
trừng trị người vi phạm. Trong khuôn khổ của đạo đức Nho giáo, Bộ luật có
những quy định củng cố và bảo vệ quan hệ gia trưởng trong gia đình, nhưng
cũng có nhiều quy định bảo vệ quyền của người phụ nữ, thể hiện sự tiến bộ so
với quan điểm phong kiến đương thời. Đặc biệt, có nhiều điều luật trong Bộ luật
Hồng Đức bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ mà trong các bộ luật phương
Đông đương thời không có, chẳng hạn người con gái được quyền chia tài sản
như con trai (Điều 388), trường hợp gia đình không có con trai, con gái trưởng
được quyền kế thừa hương hỏa (Điều 391), khi gia đình phải phân chia tài sản
thì tài sản do hai vợ chồng gây dựng nên được chia đôi (Điều 374, 375) và
trường hợp người chồng ruồng bỏ không đi lại với vợ trong 05 tháng thì người
vợ có quyền bỏ chồng (Điều 308). 

Bộ luật Hồng Đức ở mức độ nhất định đã bảo vệ và quan tâm đến đời sống của
dân thường, đặc biệt là những người nghèo khổ. Những quy định mang tính
nhân đạo này thể hiện tinh thần trị nước, thương dân, tư tưởng về nhân quyền
của Nhà vua.

Thứ tư, triều đại Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách bộ máy nhà nước
theo hướng thực việc, thực quyền

Song song với cải cách pháp luật, triều đại Lê Thánh Tông cũng đã thi hành
những cải cách táo bạo trong bộ máy nhà nước, sửa lại những phép cũ của tổ
tiên để phù hợp hơn với điều kiện mới – điều mà những người trước đó chưa
làm được. Tổ chức bộ máy chính quyền Trung ương với sáu bộ (Lại, Hộ, Lễ,
Binh, Hình và Công) đã được đặt ra từ thời Lý. Tuy nhiên, đây chỉ là những cơ
quan phụ trợ. Ở thế kỷ XIV mới xuất hiện một số thượng thư - người đứng đầu
bộ - song vị trí của bộ trong triều vẫn như cũ. Đầu thời Lê sơ nhà nước chỉ có
hai bộ là Lại và Lễ. Năm 1460, Vua Lê Nghi Dân cũng đặt sáu bộ nhưng phải
đến thời Lê Thánh Tông, sáu bộ này mới chính thức trở thành những cơ quan có
thực quyền, trông coi hầu hết các công việc chính của triều đình. 

Sau 05 năm giữ ngôi, vào năm 1465, Lê Thánh Tông đổi tên gọi sáu khoa được
lập từ thời Vua Lê Nghi Dân thành sáu tổ chức tương ứng với sáu bộ. Năm
1466, Vua tiếp tục cải cách thông qua bãi bỏ sáu viện, đặt lại sáu bộ và lập thêm
sáu tự. Như vậy, chỉ sau 07 năm trị vì, triều đình Vua Lê Thánh Tông đã hình
thành đầy đủ lục bộ, lục khoa, lục tự, có chức năng riêng và có quan hệ phối
hợp trong quản lý điều hành, thực thi các chính sách xây dựng đất nước trên các
mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội.
Ngoài các cơ quan chủ chốt đó, bộ máy chính quyền ở Trung ương dưới triều
Vua Lê Thánh Tông còn tổ chức thành các cơ quan, tổ chức chuyên trách. Mỗi
cơ quan, viên chức đều được quy định chức trách rõ ràng.

Thứ năm, triều đại Lê Thánh Tông đã tinh giản, thu gọn bộ máy nhà nước

Đức vua Lê Thánh Tông đã bãi bỏ các chức tể tướng như tam tư (Tư đồ, Tư mã,
Tư không), Tả, hữu Tướng quốc, Bộc xạ, Đại hành khiển. Vua tự mình giải
quyết mọi việc với sự giúp đỡ của một nhóm các Thái (sư, uý, phó, bảo) cùng
các đại học sỹ. Các cơ quan như Nội mật viện, Chính sự viện, Thượng thư sảnh,
Môn hạ sảnh, Tông nhân phủ cũng bị bãi bỏ. Vua làm việc trực tiếp với sáu bộ,
sáu tự và sáu khoa. Một số thư, cục cấp dưới không còn nữa. Bộ máy nhà nước
Trung ương trở nên gọn nhẹ, đơn giản hơn.

Năm 1467 (năm Quang Thuận thứ 8), Đức vua ra sắc lệnh bãi bỏ việc tổng binh
các đạo được kiêm nhiệm công việc thừa chính. Có việc này là do mặc dù ở
thừa ty đã đặt chức thừa chính sứ nhưng phần nhiều đều do tổng binh kiêm giữ. 

Thứ sáu, để đảm bảo hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, triều đại Lê
Thánh Tông rất coi trọng hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát nội bộ trong
bộ máy nhà nước

Để thực hiện giám sát đối với bộ máy quan lại bên dưới, trong kinh, ngoài Ngự
sử đài vốn có từ trước, Đức vua Lê Thánh Tông đã đặt thêm các ty ngự sử, đứng
đầu là giám sát ngự sử đạo để giám sát việc quân dân các đạo. Giám sát ngự sử
đạo được phân trông giữ việc quân dân của một hoặc hai, ba xứ (đạo). Cả thảy
có sáu ty ngự sử. Ngự sử đài trông coi cả công việc của ty ngự sử 13 đạo. Vua
định rõ nhiệm vụ cai trị của các ty ngự sử và giám sát ngự sử đạo thuộc Ngự sử
đài, đã phân ra các giám sát ngự sử đạo Thanh Hoa - Nghệ An, Hải Dương - An
Bang, Sơn Nam - Thuận Hoá - Quảng Nam, Sơn Tây - Hưng Hoá; Kinh Bắc -
Lạng Sơn, Thái Nguyên - Tuyên Quang.

Thứ bảy, Vua Lê Thánh Tông đã xây dựng một quy trình tuyển chọn quan
lại qua khoa cử, quy định chế độ công vụ, bổ cử, thăng giáng, thuyên chuyển
chuẩn mực, chặt chẽ nhằm tuyển chọn người tài cho bộ máy quan lại

Bên cạnh những cải cách trong bộ máy nhà nước, Đức vua Lê Thánh Tông đã
thực thi những chính sách để tuyển chọn người có thực tài phục vụ cho bộ máy
này. Đức vua Lê Thánh Tông cũng đặt ra mục tiêu xây dựng một đội ngũ quan
lại được đào tạo bài bản qua khoa cử. Đức vua bỏ chế độ bổ dụng vương hầu,
quý tộc vào các chức vụ của triều đình kiểu “cha truyền con nối” mà lấy thước
đo về học vấn và đức độ làm tiêu chuẩn dùng người. Những người nông dân
bình dị nhưng giỏi giang, qua khoa cử mà đã thay đổi hẳn địa vị xã hội của
mình. Bộ phận sĩ phu đó đã trở thành chỗ dựa của chính quyền. 
Đặc biệt, để đảm bảo tuyển chọn được những người có thực tài, lần đầu tiên
dưới thời phong kiến, Lê Thánh Tông thực hiện chế độ thử việc đối với quan lại
(hay còn gọi là thí chức). Người có chức vụ không chính thức, sau một thời gian
thử việc, nếu thấy được, không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho nhận chức
chính thức. 

Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông còn áp dụng phép “khảo khóa” để rà soát, chọn
lọc đội ngũ quan lại, loại bỏ những người kém đức, ít tài. Nhờ các biện pháp
trên, triều đại Lê Thánh Tông đã hình thành được một bộ máy quan lại chuyên
nghiệp vào loại hàng đầu trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Thứ tám, Vua Lê Thánh Tông đã đề ra những biện pháp kiểm tra, giám sát
chặt chẽ, chống lạm quyền đối với mọi quan lại đi kèm một chế độ đãi ngộ
phù hợp

Lê Thánh Tông đề ra nhiều biện pháp để đảm bảo bộ máy quan lại thực thi đúng
phép nước. Đức vua không cho phép quan lại nhậm chức ở ngoài ty lấy vợ trong
địa phận cai quản của mình. Nhà vua cũng cho thực thi chế độ luân chuyển đối
với quan lại. 

Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng củng cố những thành công cho cải
cách tổ chức nhà nước và bộ máy quan lại là Đức vua Lê Thánh Tông đã chú
trọng đến các điều kiện đảm bảo tính trong sạch cho hệ thống quan lại, đảm bảo
bộ máy quan lại tận tâm thực hiện trọng trách của mình. Nhà vua đã đặt ra các
chế độ bổng lộc, ban cấp ruộng đất, tập ấm, nhà ở, định lệ trí sĩ (hưu). Kết quả
là, theo sử cũ ghi chép, từ những năm 1480 cho đến cuối đời Lê Thánh Tông,
các thói tệ xấu trong hàng ngũ quan lại đã giảm đáng kể. Để giữ gìn thái bình
cho việc trị quốc, Đức vua Lê Thánh Tông cũng rất chú trọng đảm bảo sự hài
hoà các lợi ích trong bộ máy của triều đình. 

Nhờ những cải cách mạnh mẽ về pháp luật và bộ máy nhà nước, triều đại Lê
Thánh Tông đã xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, một bộ máy
nhà nước thông suốt và hiệu quả vận hành bởi một hệ thống quan lại thực việc,
thực tài. 

Những thành tựu này không chỉ là những mẫu mực của một vương triều phong
kiến mà còn để lại những bài học quý báu cho hiện tại, đặc biệt trong việc tiếp
thu có chọn lọc pháp luật nước ngoài đảm bảo phù hợp với truyền thống dân tộc
và đặc thù của quốc gia; tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ trên cơ sở phân
công, phân nhiệm rõ ràng; trọng dụng người tài và đảm bảo hài hòa các lợi ích.
Hiểu được những giá trị về cải cách pháp luật và bộ máy nhà nước của triều đại
Lê Thánh Tông giúp chúng ta tiếp thu những di sản của ông cha để phục vụ cho
sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày nay.
(Nhân Hội thảo Khoa học quốc gia “Cải cách pháp luật và xây dựng bộ máy nhà
nước dưới triều Vua Lê Thánh Tông – Những giá trị lịch sử và đương đại”, Báo
Pháp luật Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của TS. Phan Chí Hiếu – Thứ
trưởng Bộ Tư pháp.)
KẾT LUẬN
Thế kỷ XV là thế kỷ hình thành, xây dựng và phát triển của Nhà nước Lê Sơ,
được xem là đỉnh cao phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Đại Việt nửa
cuối thế kỷ XV giành được nhiều thành tựu to lớn, từ việc giữ vững nền độc lập,
tự chủ và mở rộng bờ cõi đến việc xây dựng, phát triển đất nước mạnh mẽ, toàn
diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Có được những kết
quả đó, một phần quan trọng là nhờ đóng góp của những cải cách quan trọng
trên mọi lĩnh vực của vua Lê Thánh Tông. Công tác tổ chức bộ máy nhà nước ở
trung ương thời Lê Thánh Tông có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với thực tiễn
lịch sử Việt Nam đương thời mà còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới, xây dựng đất nước ngày nay của nhân dân ta. 

You might also like