Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 43

MỤC LỤC

DẪN NHẬP.....................................................................................................................................1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI..............................................................................................2
I. CÁI NHÌN THỰC TẾ..........................................................................................................2
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................................................2
III. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.................................................................................................3
1. NGÔ ĐỨC THỊNH, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam trong đổi mới và hội nhập........................................................................................3
2. NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng Việt Nam.................................4
3. TRẦN NGỌC THÊM, Cơ sở văn hóa Việt Nam.............................................................4
4. NGUYỄN VĂN NAM, Đôi nét Đạo Trời, Đạo Hiếu, Đạo Công Giáo............................5
5. HOÀNG THANH MINH, Văn hóa cuộc sống.................................................................5
IV. ĐỊNH NGHĨA CÁC HẠN TỪ.........................................................................................5
1. Nhân cách..........................................................................................................................5
2. Lòng biết ơn......................................................................................................................7
3. Tín ngưỡng........................................................................................................................7
4. Giá trị................................................................................................................................7
CHƯƠNG II: LÝ THUYẾT VÀ KHUNG LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI................8
I. CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.....................................................................8
1. Lý Thuyết Của Erik Erikson................................................................................................8
Định Chế Xã Hội....................................................................................................................9
2. Ý Kiến Và Thái Độ..............................................................................................................9
3. Nhân Cách Gồm Những Yếu Tố..........................................................................................9
4. Các Giá Trị.........................................................................................................................10
5. Sự Đổi Thay Và Mất Bản Ngã (Nhân Cách)......................................................................10
II. CÁC GIẢ THUYẾT ĐƯA RA.............................................................................................10
III. KHUNG LÝ THUYẾT........................................................................................................11
CHƯƠNG III: LÒNG BIẾT ƠN CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN
GIAN.............................................................................................................................................12
I. NGUỒN GỐC....................................................................................................................12
1. Nguồn gốc lịch sử...........................................................................................................12
2. Nguồn gốc siêu hình.......................................................................................................12
II. BIỂU HIỆN CỦA LÒNG BIẾT ƠN..................................................................................14
1. Tín ngưỡng phồn thực.....................................................................................................14
2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.........................................................................................15
3. Tín ngưỡng sùng bái con người......................................................................................17

1
CHƯƠNG IV: SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ LÒNG BIẾT ƠN TRONG XÃ HỘI HÔM NAY.........19
I. NHỮNG GIÁ TRỊ ĐƯỢC ĐỀ CAO TRONG XÃ HỘI HÔM NAY................................19
1. Những giá trị tinh thần....................................................................................................19
2. Lối sống thực dụng.........................................................................................................21
3. Giá trị vật chất.................................................................................................................22
4. Giá trị giáo dục................................................................................................................24
II. CÁC YẾU TỐ DẪN ĐẾN NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG TÂM LÝ VỀ LÒNG
BIẾT ƠN....................................................................................................................................26
1. Giao lưu văn hóa.............................................................................................................26
2. Tiếp thu thiếu chọn lọc....................................................................................................27
3. Lãng quên những giá trị truyền thống.............................................................................27
4. Thiếu vắng những giá trị tâm linh...................................................................................28
CHƯƠNG V: VỀ NGUỒN ĐỂ SỐNG LÒNG BIẾT ƠN............................................................29
I. NHỮNG HƯỚNG ĐI CẦN ĐƯỢC PHÁT HUY..............................................................29
1. Tìm lại giá trị của lòng biết ơn........................................................................................29
2. Điều chỉnh sự lệch lạc của các giá trị vốn có..................................................................31
II. GIÁO DỤC KITÔ GIÁO VÀ LINH ĐẠO PHAN SINH VỚI LÒNG BIẾT ƠN VÀ VẤN
ĐỀ MÔI SINH...........................................................................................................................34
1. Giáo dục nhân bản Kitô giáo về lòng biết ơn..................................................................34
2. Lòng biết ơn theo linh đạo Phan Sinh và vấn đề môi sinh..............................................36
CHƯƠNG VI: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..............................................................................39
I. KẾT LUẬN........................................................................................................................39
II. KIẾN NGHỊ - BÀI HỌC CÁ NHÂN.................................................................................39
1. Kiến nghị............................................................................................................................39
2. Bài học cá nhân..................................................................................................................40

2
DẪN NHẬP
Trong Bài Giáo Lý của Đức Thánh Cha Phanxicô về Ba Lời Quan Trọng trong Gia Đình
có viết: “Sự tử tế và khả năng biết cảm ơn bị coi như một dấu chỉ của yếu đuối, đôi khi thậm chí
còn gây ra nghi ngờ. Chúng ta phải chống lại khuynh hướng này ngay cả trong lòng của gia đình.
Chúng ta phải kiên quyết trong việc giáo dục về lòng nhớ ơn, lòng biết ơn: cả phẩm giá con
người lẫn công bằng xã hội đều đi qua đó. Nếu đời sống gia đình coi thường cách sống này, ngay
cả đời sống xã hội cũng sẽ mất nó. Còn đối với một tín hữu, lòng biết ơn là trung tâm của đức
tin: một Kitô hữu không biết cảm ơn là người đã quên ngôn ngữ của Thiên Chúa. Đồng thời,
Đức Thánh Cha còn khẳng định: “Lòng biết ơn là một loại cây chỉ mọc ở vùng đất của những
linh hồn cao quý.”1 Quả thực, lòng biết ơn là một thái độ sống tốt đẹp và cần thiết trong tương
giao giữa người với người, bởi “biết ơn tức là hiểu và ghi nhớ công ơn của người khác đối với
mình”. Chúng ta biết rằng “không ai là một hòn đảo” nên mọi người đều có liên đới với nhau,
đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của nhau không ít thì nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, nếu
thái độ biết ơn được phát huy trong cuộc sống hằng ngày thì xã hội sẽ tràn ngập tình yêu và lòng
nhân nghĩa, bởi mọi người đều có thể làm ơn cho nhau và đều đón nhận công ơn của người khác.
Chính nhờ biết ơn mà chúng ta mới biết cám ơn, đền ơn. Tương quan hỗ tương của lòng biết ơn
sẽ xóa đi khoảng cách giữa người với người, sẽ xóa đi những quan niệm sai lầm tự coi mình là
kẻ ban ơn hay tự ti cho mình là vô dụng, chỉ biết nhận mà không biết cho... Trong văn hóa và
nhân cách người Việt, lòng biết ơn không chỉ đơn thuần là nguyên tắc xã giao mà sâu xa hơn,
thâm trầm hơn, đó là cả một truyền thống văn hóa của dân tộc, truyền thống “uống nước nhớ
nguồn”. Lòng biết ơn của người Việt Nam trước tiên được thể hiện trong các tín ngưỡng dân
gian, mỗi hình thức diễn tả một vẻ khác nhau. Bởi mỗi tín ngưỡng được hình thành và bồi đắp
bằng những quan niệm khác nhau tùy hoàn cảnh lịch sử và môi trường sống. Trong những tín
1
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, Ba Lời Quan Trọng Trong Gia Đình, Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ, truy cập
ngày 19/10/2022, trích trong https://www.kath-vietnamesen.de/bai-giao-ly-cua-duc-thanh-cha-phanxico-ve-ba-loi-
quan-trong-trong-gia-dinh/
3
ngưỡng này, lòng biết ơn vừa được bày tỏ giữa người với người, vừa bày tỏ với trời đất, thần
linh và cả với thiên nhiên nữa. Như vậy, lòng biết ơn đã trở thành một giá trị đẹp, đáng trân trọng
và đáng tự hào của dân tộc. Tốt đẹp vì nó là nhân cách, là tinh hoa của dân tộc, được hình thành
và bồi đắp nhờ những giá trị văn hóa, tinh thần lâu đời của dân tộc, tựa như phù sa được dòng
sông lịch sử văn hóa dân tộc bồi đắp qua bao thế hệ.

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

I. CÁI NHÌN THỰC TẾ


Thế giới đang trong cơn men say quay cuồng của sự phát triển kinh tế - khoa học kĩ thuật
và công nghệ thông tin, nhân loại đang chìm đắm trong sự hưởng thụ những thành tựu khoa học,
không nằm ngoài sự vận hành chung của toàn cầu, kinh tế Việt Nam cũng đang trên đà phát
triển. Thế nhưng, có một sự thật phũ phàng đang hiển hiện là khi con người ta chỉ chú trọng đến
sự phát triển kinh tế, chăm lo đến đời sống vật chất, khoái lạc... thì những giá trị đạo đức, những
nhân cách tốt, những nét sống đẹp lại bị đưa xuống hàng thứ yếu. Bước vào một nền kinh tế thị
trường cùng với sự giao lưu, hội nhập của các nền văn hóa thì một bộ phận người Việt Nam hôm
nay dường như đang vội vã chạy theo sự cuốn hút của những giá trị thời đại là vật chất, danh
vọng, quyền lực... mà lãng quên, thậm chí là đánh mất những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc,
đặc biệt là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” - một nhân cách Việt. Mọi mối quan hệ đều
chịu ảnh hưởng bởi làn sóng của nền kinh tế thời đại 4.0, mối tương quan cha mẹ - con cái, thầy
- trò, bạn bè, đồng nghiệp... dường như đều bị đảo lộn, giá trị đạo đức bị xói mòn. Trên các mặt
báo, các phương tiện truyền thông tràn lan những hình ảnh, bài viết nói về những sự xuống cấp
của giá trị sống, của giá trị nhân bản đáng lẽ phải có và được đề cao nơi xã hội, nơi mỗi con
người. Thay vì sống lòng biết ơn với các đấng bậc sinh thành, dưỡng dục thì có những con người
sẵn sàng đánh đập, cửi bới, xúc phạm thậm chí còn giết chết cha me, anh em...chỉ vì lợi ích vật
chất, như báo Thanh Niên đã đưa tin về vụ việc con gái đánh đập, ngược đãi mẹ ruột đã 79 tuổi
tại Long An vì đã không để lại tài sản gì. 2 Đâu rồi lời dạy của cha ông “Làm con phải lấy chữ
hiếu làm đầu”. Không chỉ có vậy, sự vô ơn còn thể hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày khi mà
hai chữ “cảm ơn” trở nên khan hiếm, cứu giúp người bị nạn lại bị người nhà nạn nhân kiện cáo,
hành hung... Như vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa đang có xu hướng ảnh hưởng sâu đậm đến
đời sống của người dân, thì đâu là cội nguồn cho việc sống tử tế với lòng biết ơn, đâu là những
2
ĐỨC HUÂN, Con gái đánh mẹ, đổ rác lên đầu do bức xúc mẹ không để lại tài sản, truy cập ngày 19/10/2022, trích
trong https://m.thanhnien.vn/con-gai-danh-me-do-rac-len-dau-do-buc-me-khong-de-lai-tai-san-post991990.html
4
giá trị đạo đức cần được bảo tồn và phát huy và đâu là những lý do cho sự biến chuyển tâm lý
trong nhân cách con người Việt? Trong bài nghiên cứu nhỏ này, người viết xin đề cập đến những
vấn đề trên.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trước tiên, người viết sẽ trình bày đề tài dựa trên phương pháp diễn giải, nghiên cứu tài
liệu để đi tìm cội nguồn của lòng biết ơn của dân Việt xưa trong các tín ngưỡng dân gian. Tiếp
đến, bằng phân tích và suy tư, người viết sẽ tiếp cận những giá trị mới đang chiếm ưu thế trong
xã hội hôm nay dưới khía cạnh tiêu cực của những giá trị này, và tìm hiểu xem đâu là định
hướng hình thành nên những giá trị đó. Thứ đến, bài viết sẽ trình bày hiện trạng, nguyên nhân và
phân tích những biến chuyển tâm lý của người Việt về lòng biết ơn trong xã hội hôm nay. Đồng
thời, những trang cuối của bài viết sẽ đề cập đến giáo dục Kitô giáo với lòng biết ơn và trong
việc tôn trọng, bảo vệ môi sinh. Và cuối cùng, người viết sẽ đưa ra những bài học cá nhân để áp
dụng vào cuộc sống thực tiễn của mình.
III. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. NGÔ ĐỨC THỊNH, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt
Nam trong đổi mới và hội nhập
Cuốn sách này là một trong những công trình nghiên cứu về văn hóa tại Việt Nam mà
Giáo sư Ngô Đức Thịnh cùng với đồng nghiệp đã đóng góp vào nền nghiên cứu văn hóa, phong
tục của đất Việt. Cuốn sách có 7 chương được chia thành 2 phần. Phần thứ nhất gồm chương 1
và chương 2. Ở phần này, cuốn sách đã đề cập đến lý thuyết nghiên cứu các giá trị và hệ giá trị
tổng quát văn hóa truyền thống Việt Nam. Phần thứ hai gồm 5 chương còn lại. Trong phần này,
tác giả tập trung vào ba nội dung chính sau: Thứ nhất, đề cập đến việc tiếp thu và xây dựng một
hệ thống các lý thuyết về văn hóa và hệ giá trị văn hóa, coi đó như là công cụ phương pháp luận
để nhận thức hệ giá trị văn hóa Việt Nam. Thứ hai, cuốn sách đề cập đến hệ giá trị tổng quát
truyền thống Việt Nam - một vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu tiền bối khám phá và nghiên
cứu. Các tác giả đã kế thừa kết quả nghiên cứu của người đi trước, đồng thời nghiên cứu nó
trong bối cảnh khu vực và toàn cầu hiện nay. Thứ ba, ngoài nghiên cứu hệ giá trị tổng quát, cuốn
sách còn phân tích các giá trị văn hóa thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống dân
tộc, như thích ứng, khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đời sống vật chất
thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, trong cách thức tổ chức và ứng xử xã hội, trong sáng tạo văn
học - nghệ thuật, trong đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, trong giáo dục đào tạo, trong giao
lưu văn hóa, trong đấu tranh chống ngoại xâm…
Ở cuốn sách, các tác giả đã có một cách nhìn văn hóa và hệ giá trị văn hóa phong phú và
đa dạng hơn từ văn hóa người Kinh cho đến văn hóa các dân tộc thiểu số, qua đó, nhận biết tính
chung cũng như những nét độc đáo của mỗi dân tộc trong đại gia đình văn hóa Việt Nam. Bên
5
cạnh đó, các tác giả còn nhìn nhận vấn đề hệ giá trị văn hóa một cách hệ thống và đặc biệt là đặt
nó trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đã và đang hội nhập với văn hóa khu vực và toàn nhân loại.
Theo các tác giả, giá trị văn hóa cũng như bản sắc văn hóa, hình thành và định hình trong lịch sử,
là yếu tố khá bền vững. Tuy nhiên, các giá trị đó không phải là bất biến, mà luôn biến đổi theo sự
biến đổi của xã hội. Do vậy, cần phải nhìn các giá trị văn hóa trong động thái thay đổi. Điều này
đặc biệt quan trọng trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trền đà hội nhập quốc tế giữa một thế
giới đầy biến động. Đặc biệt, ở chương 5, cuốn sách đã đề cập đến việc thờ cúng tổ tiên trong
đạo Công Giáo cũng như trường hợp tín ngưỡng thờ đạo Mẫu tại Việt Nam.
2. NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng Việt Nam  
Tôn giáo tín ngưỡng cũng như nhiều hiện tượng khác, đều là sản phẩm của một xã hội,
phản ánh nhận thức xã hội. Do tính đặc thù của nó, tôn giáo tín ngưỡng không chỉ là một bộ
phận của đời sống văn hóa tinh thần, mà còn là bộ phận hữu cơ gắn bó mật thiết với sinh hoạt
văn hóa của cộng đồng. Do vậy, các nhà nghiên cứu văn hóa, nhất là văn hóa dân gian không
thể không từ góc độ đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng để có thể tiếp cận văn hóa dân tộc
một cách sâu sắc hơn. Trong công trình này, ngoài một số quan điểm lý luận và phương pháp
liên quan tới tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng, các tác giả đi vào nghiên cứu một số tín
ngưỡng dân gian cụ thể, như thờ cúng Tổ tiên của các gia tộc, dòng họ và sự phóng đại của nó
trên bình diện quốc gia - dân tộc là thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương. Đây là một hình thức tín
ngưỡng nhằm thắt chặt quan hệ huyết thống của gia đình và dòng họ, phổ biến rộng khắp ở
người Kinh và một số dân tộc thiểu số. Cũng trong công trình nghiên cứu này, các tác giả còn
đề cập tới khái niệm văn hóa tôn giáo tín ngưỡng biểu hiện trên các hình thức khác nhau của
sinh hoạt tâm linh của cộng đồng, như nhạc lễ, hát thờ, múa thiêng, tranh thờ, giáng bút, diễn
xướng nghi lễ, lễ hội... Giúp bạn đọc thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa các hình thức nghệ
thuật tín ngưỡng và nghệ thuật đời thường.
3. TRẦN NGỌC THÊM, Cơ sở văn hóa Việt Nam
Trước hết, cuốn sách cho ta hiểu được khái niệm Văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Đối với Việt Nam thì
văn hoá được xác định thuộc văn hoá gốc nông nghiệp. Xét trên bình diện địa lý, văn hoá Việt lại
được chia thành các vùng văn hoá, đó là: Vùng văn hoá Việt Bắc, Tây Bắc, Bắc Bộ, Trung Bộ,
Tây Nguyên và Nam Bộ. Mỗi vùng văn hoá này lại mang những nét đặc trưng riêng nhưng vẫn
có những nét chung của một hệ thống văn hoá hoàn chỉnh. Cuốn sách cho bạn đọc thấy được cấu
trúc của hệ thống văn hoá gồm: Văn hoá tổ chức cộng đồng (gồm Văn hoá tổ chức đời sống tập
thể và Văn hoá tổ chức đời sống cá nhân), Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên (gồm Văn
hoá tận dụng môi trường tự nhiên và Văn hoá ứng phó với môi trường tự nhiên), Văn hoá ứng xử
6
với môi trường xã hội (gồm Văn hoá tận dụng môi trường xã hội và Văn hoá ứng phó với môi
trường xã hội) Văn hoá nhận thức (gồm Nhận thức về vũ trụ và Nhận thức về con người). Trong
mỗi thành tố của cấu trúc văn hoá, văn hoá Việt Nam lại được so sánh, đối chiếu với các nền văn
hoá như Trung Hoa, phương Tây,… để rồi xác định được bản chất độc đáo, thiên về âm tính, vừa
tổng hợp lại vừa linh hoạt, vừa dung hợp lại vừa tích hợp. Những đặc điểm này khiến cho văn
hoá Việt mang nét riêng, trải qua nhiều thăng trầm, biến cố của lịch sử nhưng vẫn giữ được cái
hồn cốt tinh tuý để không bị hoà lẫn với các nền văn hoá khác. 
4. NGUYỄN VĂN NAM, Đôi nét Đạo Trời, Đạo Hiếu, Đạo Công Giáo
Cuốn sách là những góp nhặt tư tưởng cùng những suy tư của tác giả về Đạo Trời - Đạo
Hiếu - Đạo Công Giáo. Xuất phát từ nhận định của một triết gia hiện sinh “Con người là hữu thể
có tôn giáo”, linh mục Nguyễn Văn Nam đã cho người đọc thấy được đôi nét tín ngưỡng và ảnh
hưởng của đạo Trời trong tâm thức người Việt “Lạy Trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy
ruộng tôi cày. Lấy bát cơm đầy. Lấy rơm đun bếp...”, hay về việc thờ kính tổ tiên để tỏ lòng biết
ơn đối với tổ tiên của người dân Việt, đó là đạo hiếu trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Từ
trong tín ngưỡng và tâm thức của người Việt về việc thờ Trời, thờ kính tổ tiên mà Đạo Công
Giáo đã vượt qua những sự hiểu lầm đáng tiếc trong quá khứ và ngày nay càng ảnh hưởng sâu
rộng đến đời sống của người tín hữu Việt Nam. Đạo Công Giáo như tìm được một mảnh đất màu
mỡ, ngày càng làm phong phú lòng hiếu thảo, sự biết ơn của những thế hệ con cháu đối với các
bậc tổ tiên, các đấng bậc sinh thành.
5. HOÀNG THANH MINH, Văn hóa cuộc sống
Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại, phát triển không ngừng. Trong thế giới
ấy không ai có thể đừng ngoài vòng chuyển động của cuộc sống. Cuộc sống con người ngày
càng văn minh tiến bộ thì cũng đòi hỏi những đổi thay cho phù hợp trong lối ứng xử, hành
động,... Cuốn sách của tác giả Hoàng Thanh Minh đã đưa ra những phép tắc ứng xử giữa người
với người, có thể được áp dụng trong nhiều mối tương quan, môi trường khác nhau. Cuốn sách
gồm có 6 chương. Chương 1 bàn về Nhịp sống khởi tin thời mới, chương 2 đề cập đến bạn trẻ
trong văn hóa cuộc sống, chương 3 cho người đọc biết về những cách thế để chinh phục tình cảm
của người khác. Đặc biệt trong chương này nhấn mạnh đến việc sống với lòng biết ơn, biết “cảm
ơn” sao cho thấm đượm tình người. Kế đến là chương 4 nói về phong cách xã giao trong thời
hiện đại, hòa hợp văn hóa Đông và Tây phương. Chương 5 bàn về việc sống dấn thân trong cuộc
sống, ở chương này tác giả cho người đọc thấy được tầm quan trọng của việc hiểu về chính bản
thân mình và việc lắng nghe người khác. Đó như là một nghệ thuật giao tiếp để thành công. Cuối
cùng ở chương 6 nói về văn hóa trong cuộc sống. Ở chương này, tác giả muốn nhắn gửi đến quý
độc giả lời động viên, khích lệ cũng như những yếu tố để phát triển nhân cách của văn hóa Việt.
Chính nhờ nhân cách và lối sống văn hóa mà mỗi người trở nên có giá trị hơn, gây dựng được sự
7
tin tưởng nơi người khác, cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp và một tương lai rộng mở cho
mỗi người.
IV. ĐỊNH NGHĨA CÁC HẠN TỪ
1. Nhân cách
Theo từ điển tiếng Việt “nhân cách là: tư cách và phẩm chất con người. Nhân cách biểu
lộ những hành vi không thuộc về hoạt động tinh thần của một người, đó là những cảm xúc, ý chí
và những khả năng hành động. Nhân cách bao gồm những cách hành xử của một người biểu lộ
theo những phương cách cụ thể theo nền văn hóa của mỗi cá nhân hay cộng đồng nhận được từ
xã hội mà họ là thành viên. Với lại, nhân cách còn là tổng thể những đặc tính tình cảm, cảm xúc
và tính năng động tương đối vững bền và tổng quát của một cá nhân trong tư cách một nhân vị
với phương cách phản ứng đến những tình trạng hoàn cảnh mà họ sống.3
Định nghĩa từ “Nhân Cách” theo nghĩa triết học và thông dụng của nó như sau: Nhân
cách là tư cách làm người với danh nghĩa một nhân vị sống có ý thức lý trí và tự do, chủ động tư
duy, lời nói, hành vi của mình và là chủ thể các bổn phận cùng những quyền lợi của mình.
Theo Burger: “Nhân cách là những mẫu mực hành vi nhất quán và những tiến trình nội
giới phát xuất từ cá nhân”. Hay theo Lucien Seve một triết gia người Pháp: “Nhân cách là hệ
thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội giữa các hành vi ứng xử”.
Theo Warren: “Nhân cách là tổ chức hòa hợp của tất cả mọi đặc điểm tri thức, tình cảm,
hoạt động và vật chất nhờ đó ta phân biệt các cá nhân khác nhau”4.
Nhân cách của con người có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách từng con
người là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể trong xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc
điểm nhân cách của từng người5.
Nhân cách gồm bốn yếu tố6: vật chất (nhà cửa, tiền bạc, áo quần ...), thân xác, tâm linh (trí
tuệ, đạo đức), xã hội (chức phận, danh tính, nghề nghiệp).
Như vậy “nhân cách” được định nghĩa căn cứ trên bản thể của con người nhân cách trước đã là
“con vật có lý trí”, ta đã phân biệt rằng chỉ có con người mới có thể có nhân cách ở trình độ nào
đó. Cây cỏ, thú không có nhân cách.7
“Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân quy định giá trị xã
hội và hành vi xã hội của cá nhân đó.”8 Như vậy, nhân cách bộc lộ tính tích cực của hoạt động xã
hội và tác động qua lại giữa nhân cách với môi trường xung quanh. Chính nhân cách cũng thể

3
NGUYỄN VINH SƠN, Cơ sở giáo dục nhân bản, Từ Điển Bách Khoa, Tp. Hồ Chí Minh, 2012, tr. 12-13
4
VÕ DOÃN NHẪN, Giáo trình tâm lý học, Học Viện Phanxicô, lưu hành nội bộ, 2014, tr. 90
5
x.PHẠM MINH HẠC - LÊ ĐỨC PHÚC, Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, Chính Trị Quốc Gia, 2004, tr. 23
6
VÕ DOÃN NHẪN, sđd, tr. 91
7
Từ điển tiếng Việt, Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977.
8
BÙI VĂN HUỆ, PHAN THỊ HẠNH MAI, NGUYỄN XUÂN THỨC, Giáo trình tâm lý học tiểu học, Đại Học Sư
Phạm, 2008, tr. 71
8
hiện sự thống nhất mang tính biện chứng của cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và cái đặc
thù trong đời sống tinh thần con người. Vì thế, nhân cách cũng là sản phẩm của xã hội và vừa có
tính chủ thể lẫn khách thể trong mối quan hệ. Tính chủ thể, vì trong các quan hệ xã hội, chủ thể
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới khách quan, còn tính khách thể, vì nhân cách là sản phẩm
chịu ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, của hoạt động và giao tiếp.9
Cấu trúc của nhân cách có hai thành phần là đức và tài. Trong đó, “đức” gồm phẩm chất
xã hội, cá nhân, ý chí và cách thức ứng xử; còn “tài” gồm năng lực xã hội hóa, chủ thể hóa, hành
động và giao tiếp với người khác. Như thế, sự hình thành nhân cách là một quá trình nảy sinh,
hình thành và chuyển hóa giữa các giai đoạn phát triển dựa trên những hoạt động tri thức và kinh
nghiệm xã hội để tạo nên chứ nhân cách không được sinh ra.10
2. Lòng biết ơn
Biết ơn là hiểu và nhớ công ơn của người khác đối với mình. Lòng biết ơn là tấm lòng
tri ân, luôn ghi nhớ công ơn nuôi dạy, giúp đỡ của người khác với mình. Lòng biết ơn được biểu
hiện ở cả trong suy nghĩ lẫn những hành động từ cụ thể đến lớn lao. Đó là suy nghĩ, thái độ trân
trọng, kính mến, là hành động trả ơn, báo đáp công ơn của bản thân với những người có ơn với
mình.11
3. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào thực thể, lực lượng siêu nhiên, hay nói gọn
lại là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái trần tục, hiện hữu mà ta có thể
sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng, tức
là niềm tin vào “cái thiêng”.12
4. Giá trị
Giá trị là sản phẩm của quá trình tư duy, sản xuất tinh thần của con người, là yếu tố cốt
lõi nhất của văn hóa. Giá trị văn hóa là một hình thái của đời sống tinh thần, được phản ánh và
kết tinh đời sống văn hóa của con người, giúp điều tiết hành vi và định hướng sự phát triển tới
chân - thiện - mỹ, góp phần tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của các quốc gia - dân tộc trên
thế giới.13

9
x. BÙI VĂN HUỆ, PHAN THỊ HẠNH MAI, NGUYỄN XUÂN THỨC, Giáo trình tâm lý học tiểu học, Đại Học
Sư Phạm, 2008, tr. 72
10
x. BÙI VĂN HUỆ, PHAN THỊ HẠNH MAI, NGUYỄN XUÂN THỨC, Giáo trình tâm lý học tiểu học, Đại Học
Sư Phạm, 2008, tr. 75-77
11
HOÀNG PHÊ, Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn Ngữ Học, 2021, tr. 81
12
NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, nxb Trẻ, 2012, tr. 9
13
https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/gia-tri-van-hoa-viet-nam-nhin-tu-cac-chieu-canh-gia-tri-quoc-gia-
vung-mien-toc-nguoi, truy cập ngày 19/10/2022
9
CHƯƠNG II: LÝ THUYẾT VÀ KHUNG LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

I. CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


1. Lý Thuyết Của Erik Erikson14
1.1. Nguyên lý phát triển và hình thành nhân cách
Theo ông, một sinh thể sẽ phát triển qua những giai đoạn đã được định sẵn xảy ra trong
quá trình phát triển. Những bước phát triển đầu tiên sẽ ảnh hưởng thuận lợi hay bất lợi đến các
giai đoạn sau. Ông chú trọng đến cả quãng đời của mỗi cá nhân, và quan niệm nhân tố quan
trọng trong quá trình phát triển bản ngã đó là môi trường, văn hoá xã hội rộng lớn. Con người và
môi trường xã hội có ảnh hưởng lẫn nhau trong suốt cuộc đời mỗi người, đây là ảnh hưởng đa
chiều giữa con người và môi trường xung quanh. Môi trường góp phần tạo nên sự phát triển nhân
cách, trong khi nhân cách tác động đến môi trường để tạo ra sự tiến hoá xã hội từng bước như
chúng ta đã biết trong lịch sử.
Mỗi giai đoạn của cuộc đời được hình thành với một bước ngoặt, một đức hạnh cơ bản và
theo một trình tự riêng. Mỗi bước ngoặc là một xung đột nảy sinh bên ngoài sự tương tác giữa sự
trưởng thành về sinh lý và những nhu cầu xã hội, bước ngoặt đó có cả mặt tích cực và tiêu cực.
Nếu xung đột được giải quyết một cách hiệu quả sẽ mang lại tiềm năng tích cực và góp phần vào
sự phát triển của bản ngã con người, và ngược lại.
1.2. Hành trình phát triển ở người
Theo Erik Erikson thì sự hình thành nhân cách con người trải qua tám giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất là thời thơ ấu: trong giai đoạn đầu tiên của đời người (ở tuổi sơ sinh là giai đoạn
cảm giác miệng trong khoảng 18 tháng đầu), những yếu tố gây ra khủng hoảng và xung đột là
niềm tin cơ bản và sự mất lòng tin. Phẩm chất nổi bật đầu tiên để giải quyết xung đột là niềm hy

14
BARRY D.SMITH AND HAROLD J.VETTER, Các học thuyết về nhân cách, người dịch Nguyễn Kim Dân, Văn
Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2005, tr. 121 - 128
10
vọng. Thời niên thiếu là giai đoạn thứ hai (giai đoạn liên hệ đến các cơ vòng nơi hậu môn của
thời kỳ thơ ấu, từ 18 tháng cho đến 3 đến 4 tuổi), nơi đây có sự khủng hoảng về tự do ý chí của
mỗi cá nhân để chống lại sự rụt rè và lòng nghi ngờ, những điều được ấp ủ do liên tục bị bắt
buộc lệ thuộc. Cha mẹ phải cho trẻ đang trong giai đoạn tăng trưởng được độc lập và tự do ý chí
hơn. Giai đoạn thứ ba là sự phát triển về hệ sinh dục (giai đoạn này kéo khoảng từ 3-4 đến 5-6
tuổi). Trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu học hỏi để đấu tranh trong chính bản thân, hình thành nên
mục đích của mình và nổ lực để đạt được mục đích đó. Giai đoạn thứ tư (từ 6-12 tuổi) là khi trẻ
đi học chính thức và được nhận những phần thưởng dành cho sự làm việc chăm chỉ, dần dần hình
thành nên tính siêng năng. Giai đoạn thứ năm (từ 18-20 tuổi) là giai đoạn trưởng thành, đây là
thời kỳ chuyển đổi và xáo trộn. Sự xung đột trong giai đoạn này là sự đột biến cá tính phát sinh
bên ngoài nhu cầu, hình thành nên cảm giác hòa hợp nhân cách. Giải pháp cho sự đột biến cá
tính trong thời thanh niên là giai đoạn thứ sáu (từ 20-30 tuổi), giai đoạn này cho phép cá nhân
tìm kiếm những mối quan hệ thân thiết sâu sắc, gồm cả tình yêu. Giai đoạn phát triển là giai đoạn
thứ bảy, việc sinh sản chú trọng đến thế hệ kế tiếp và xã hội mà thế hệ đó lớn lên. Nếu người lớn
có trách nhiệm đối với việc sinh sản sẽ hình thành nên sự quan tâm, một đặc tính cơ bản quan
trọng. Trưởng thành là giai đoạn cuối cùng của cuộc đời (vào khoảng tuổi 60), là sự phản ánh
những thành công đạt được trước đó. Sự hoàn thiện bản ngã phát triển khi cá nhân hài lòng với
những gì đạt được.
Định Chế Xã Hội
Để hiểu rõ hơn về định chế xã hội, chúng ta cùng tìm hiểu một trong những định chế xã
hội cơ bản đó là định chế gia đình, liên quan đến hôn nhân, gia đình, họ hàng thân tộc, và quá
trình xã hội hóa trẻ em.15
1.3. Xã Hội Và Cá Nhân, Quá Trình Xã Hội Hóa
Ngành xã hội học quan tâm đến con người trước hết với tư cách là một con vật xã hội,
một con người xã hội. Xã hội học không quan tâm con người với tư cách một cá thể đơn lẻ, mà
là một con người trong mối tương quan với người khác, con người với tư cách là thành viên của
một xã hội, một cộng đồng hay một tập thể nào đó. Rõ ràng con người là sản phẩm của các thiết
chế và văn hóa của xã hội mà trong đó mình sinh trưởng. Nhân cách cá nhân được hun đúc chủ
yếu theo mẫu mực nào đó mà xã hội đã hình thành. Hệ quả là những lối xử sự nào được coi là
bình thường hay bệnh hoạn là hoàn toàn tùy thuộc vào nhân sinh quan và cách nhìn của từng xã
hội nhất định, và có thể là ngược lại với một xã hội khác.16

15
x. TRẦN HỮU QUANG, Xã hội học nhập môn, Tp. Hồ Chí Minh, 1992-1993, tr. 58-59
16
TRẦN HỮU QUANG, Xã hội học nhập môn, Tp. Hồ Chí Minh, 1992-1993, tr. 14-16
11
2. Ý Kiến Và Thái Độ
Chúng ta thắc mắc không biết việc hiểu biết về nhân cách có ảnh hưởng như thế nào đến
thái độ cũng như nhận thức? “Những thái độ đầu tiên của mỗi con người được hình thành từ bé,
nhờ quá trình dạy dỗ ban đầu trong gia đình. Có thể coi đấy là những thái độ mang tính chất nền
tảng, nằm sâu xa trong tâm khảm mỗi người, dần dà hình thành nên thái độ cụ thể” 17. Như vậy,
với sự hiểu biết về nhân cách có thể ảnh hưởng đến thái độ trong việc mở mang kiến thức cho
mọi người.
3. Nhân Cách Gồm Những Yếu Tố18
Yếu tố vật chất: gồm những thứ như quần áo, nhà cửa, tiền bạc và vật dụng hằng ngày.
Yếu tố thân xác: cơ thể là yếu tố quan trọng. Thân xác gần với tôi hơn là các vật dụng vì
thân xác không còn là một vật ở ngoài tôi mà tham dự vào bản ngã tôi một cách mật thiết.
Yếu tố tâm linh: tức là phần trí tuệ và đạo đức. Về mặt trí tuệ, nhân cách bao gồm những
hoạt động tâm lý, đáng kể nhất là trí thông minh, năng khiếu, lý trí, ký ức, trực giác. Các yếu tố
đạo đức là những đức hạnh như công bằng, bác ái, lòng khoan dung, quảng đại.
Yếu tố xã hội: đó là danh tính, chức phận, nghề nghiệp và tất cả những ý tưởng người
khác có về mình. Các yếu tố này tuy quan trọng nhưng vẫn không đủ để tạo thành nhân cách vì
đó là những “mặt nạ” khoác lên bỏ xuống mãi. Tôi có thể đổi tên, họ cũng có thể đổi nghề
nghiệp.
4. Các Giá Trị
Giá trị xã hội được xem như những tiêu chuẩn chung của hành vi cá nhân, là điều mà xã
hội hay một nhóm người thừa nhận cho là đúng (chân), là phải (thiện), là đẹp (mỹ), và nó trở
thành “cái thang định chuẩn giá trị” cho các thành viên trong xã hội dựa vào đó để ứng xử và
hành động19. Như vậy, các giá trị tốt đẹp sẽ tạo ra cho ta một khuôn mẫu thích hợp nhất. Việc ý
thức về nhân cách sống, sẽ mở mang tầm nhìn cho các bạn trẻ để thấy được giá trị sống đích
thực. Đó là trách nhiệm của mọi người.
5. Sự Đổi Thay Và Mất Bản Ngã (Nhân Cách)20
Trong đời sống bình thường: một nhân cách có thể thay đổi bản ngã vì các yếu tố cấu tạo
bản ngã không luôn hợp thành một toàn thể bất biến.
Trong trường hợp bệnh: cần nhắc lại định nghĩa tổng quát của nhân cách: nhân cách là
một toàn thể hòa hợp, duy nhất có ý thức, quân bình và tự chủ. Khi một người mất quân bình, tự
chủ và ý thức về mình, tâm lý học gọi người ấy mắc bệnh mất nhân cách. Được chia làm 2 loại
mất nhân cách “thần kinh suy nhược và thần kinh thác loạn”.
17
TRẦN HỮU QUANG, Xã hội học nhập môn, Tp. Hồ Chí Minh, 1992-1993, tr. 33
18
VÕ DOÃN NHẪN, Tâm Lý Học, Học Viện Phanxicô lưu hành nội bộ, 2014, tr. 86
19
HUỲNH CÔNG BÁ, Xã hội học, Thuận Hoá, Huế, 2012, tr. 152
20
VÕ DOÃN NHẪN, Tâm Lý Học, Học Viện Phanxicô lưu hành nội bộ, 2014, tr. 87
12
II. CÁC GIẢ THUYẾT ĐƯA RA
Qua kết quả tìm tòi, người nghiên cứu xin đưa ra giả thuyết như sau:
Từ ngàn xưa, lòng biết ơn của người Việt Nam đã thể hiện ra với các bậc tổ tiên, ông bà,
cha mẹ, những người thân hay họ hàng qua tục thờ cúng, với thiên nhiên, Ông Trời qua những
tín ngưỡng dân gian. Bên cạnh đó, lòng biết ơn còn thể hiện giá trị của mỗi cá nhân trong cộng
đồng.
Ngày nay, với sự thay đổi của xã hội, lòng biết ơn cũng được biến chuyển cách sâu sắc,
lòng biết ơn biểu hiện rộng hơn nhờ có những truyền thống tốt đẹp của cha ông để lại qua những
tấm gương và những tín ngưỡng dân gian còn sống trong trhời hiện đại này. Tuy nhiên, lòng biết
ơn dường như đang phai nhạt trong tâm thức của một bộ phận giới trẻ hôm nay, vì ảnh hưởng
của nền văn hóa phương Tây – đề cao sự tự do cá nhân, vì cuộc sống hiện đại chỉ đề cao vật chất
mà đánh mất đi những giá trị đạo đức làm người.

III. KHUNG LÝ THUYẾT

NGUỒN NHỮNG GIÁ


GỐC TRỊ ĐƯỢC ĐỀ
CAO

CÁC YẾU TỐ
LÒNG BIẾT ƠN TRONG TÍN SỰ BIẾN LÒNG BIẾT ƠN TRONG XÃ HỘI DẪN ĐẾN
NGƯỠNG DÂN GIAN - XƯA CHUYỂN HÔM NAY SỰ THAY
ĐỔI

NHỮNG
BIỂU HIỆN HƯỚNG ĐI
CẦN ĐƯỢC
13 PHÁT HUY
CHƯƠNG III: LÒNG BIẾT ƠN CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN
GIAN

I. NGUỒN GỐC
1. Nguồn gốc lịch sử
Tín ngưỡng dân gian là tập hợp những niềm tin hình thành và phản ánh ước nguyện của
một cộng đồng người. Tuy nhiên, những tín ngưỡng này không nhất định thành tổ chức tôn giáo.
Các tín ngưỡng này dựa trên các quan niệm nhân gian. Con người tin vào thần linh, có thể là linh
hồn người chết, cây cối, con vật hay bất kì thứ gì trong tự nhiên. Từ sự sợ hãi với thiên nhiên,
dần người ta sinh ra sự sùng bái và tin tưởng, tín ngưỡng dân gian hình thành. 21 Chúng được xem
là “những sản phẩm văn hóa của con người được hình thành tự phát trong mối quan hệ giữa con
người với chính mình, với người khác và với thế giới tự nhiên”.22 Tín ngưỡng là sản phẩm của xã
hội ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo.
Khi nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, nhiều tác giả cũng đưa ra những nhận định về
nguồn gốc lịch sử và những hình thức của chúng. Theo đó, các tác giả chia tín ngưỡng dân gian
thành nhiều hình thức: thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng làng, tín ngưỡng nghề nghiệp, tín
ngưỡng thờ thần...23 Mặc dù những tín ngưỡng này không phải là đặc thù của người Việt nhưng
nó được hình thành độc lập dựa trên tâm thức và niềm tin của người Việt. Linh mục Nguyễn Thế

21
BẢO LONG, Các tín ngưỡng dân gian nổi bật tại Việt Nam, trích trong https://baolongbrass.com/cac-tin-nguong-
dan-gian-noi-bat-tai-viet-nam-hien-nay, truy cập ngày 19/10/2022
22
NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, nxb Trẻ, 2012, tr. 10
23
X. NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, nxb Trẻ, 2012, tr. 13
14
Thoại cũng đồng ý với quan điểm này khi viết: “Tín ngưỡng dân gian xuất hiện ngay từ thời
nguyên thủy của loài người”. Tác giả Nguyễn Đăng Thục khi trình bày về sự hình thành tín
ngưỡng đã viết: “Nhân loại lúc đầu sống trong bầu không khí thần linh thiêng liêng, khí thiêng
liêng sông núi. Rồi dần dần cái không khí thiêng liêng ấy bàng bạc làm nguồn gốc cho ý nghĩa
về giá trị mới ngưng đọng, kết tinh vào một số vật thành ra khí riêng giới hạn vào một chỗ nhất
định”24. Qua cách diễn tả này, tác giả cho thấy rằng đời sống tín ngưỡng của người Việt nói riêng
cũng như của nhân loại nói chung đã xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu của xã hội loài người.
2. Nguồn gốc siêu hình
Khi nghiên cứu tín ngưỡng dân gian Việt Nam dựa trên nội dung và ý nghĩa của các tín
ngưỡng này, nhiều học giả đã cho rằng, ba nguyên nhân chính hình thành nên tín ngưỡng dân
gian là sự sợ hãi, lòng tin tưởng hướng về siêu việt và lòng biết ơn. Trong đó, lòng biết ơn được
xem là yếu tố thiết yếu nhất.
2.1. Sự sợ hãi
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng “tín ngưỡng chẳng qua là niềm tin của những người có
trình độ hạn chế nhìn thấy ở hiện thực một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như
thần thánh”.25 Đặt mình vào vị trí của con người thời tiền sử, có lẽ chúng ta cũng hiểu được phần
nào cái nhìn của họ về những sức mạnh thiêng liêng. Đứng trước sự hùng vĩ của thiên nhiên và
những sức mạnh tàn phá của nó qua những thiên tai xảy ra, con người bỗng cảm thấy mình nhỏ
bé, yếu ớt trước thiên nhiên, đồng thời họ thấy nơi thiên nhiên như ẩn chứa sức mạnh linh thiêng.
Do đó, họ siêu nhiên hóa thiên nhiên thành những vị thần để thờ lạy. Thế nên có người đã cho
rằng: “Tín ngưỡng là một biểu hiện của ý thức về một hiện tượng thiêng liêng, một sức mạnh
thiêng liêng do con người tưởng tượng ra hoặc do con người suy tôn, gán cho một hiện tượng,
một sức mạnh chỉ cảm thụ được mà chưa nhận thức được”. Người Việt tin rằng “núi có thổ công,
sông có hà bá”, thế nên “có thờ có thiêng, có kiêng có được”. Do đó người Việt cảm nhận như
nhận xét của Linh mục L.Cadiere như sau:
Thần ở khắp nơi trong thiên nhiên, thần tham dự vào cuộc sống con người và ảnh hưởng trên số phận
của họ ... Thần cho sống được sống, bắt chết phải chết. Thần là nguyên nhân của bệnh tật, thiên tai, ôn
dịch ... Các thế giới thần linh ấy có thể nói đã bao hàm đời sống của người Việt, thúc đẩy họ phải cúng
lễ. Trước khi hành động phải cầu che chở của thần linh. Điều này có thể được thấy qua việc thờ cúng
thú dữ như ông hổ ở những vùng rừng núi mà thú dữ thường tấn công con người, hay ở những khúc
sông mà nhiều người bị chết đuối, người ta cũng lập miếu thờ hà bá để cầu khấn, để xin được bình an.26

24
NGUYỄN ĐĂNG THỤC, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, nxb tp. Hồ Chí Minh, 1992, tr. 44
25
TRẦN NGỌC THÊM, Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, nxb Giáo Dục, 1998, tr. 126
26
L.CADIÈRE, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập 3, dịch giả ĐỖ TRINH HUỆ, nxb
Thuận Hóa, 2018, tr. 61 - 68
15
2.2. Lòng tin hướng về siêu nhiên
Khi trình bày về ý thức thần thoại và tín ngưỡng vật linh, tác giả Nguyễn Đăng Thục đã
cho rằng trong thế giới cổ xưa, con người không có cái nhìn về thế giới như con người hôm nay,
mà với họ thế giới và con người là một, cả hai hòa quyện trong nhau. Đó là thái độ sống hồn
nhiên qua lại giữa nội giới và ngoại giới, tâm với vật, chưa đối lập nội giới và ngoại giới. Thái độ
này được bộc lộ qua ý thức thần thoại với những câu truyện về tương quan thân thiết giữa con
người và thần linh. Sống trong bầu khí ấy, thế giới và sự vật đều được nhìn qua thần linh. Và dân
tộc Việt Nam tin vào Thần Linh như một thế lực thần bí, huyền nhiệm, vô hình, bàng bạc khắp
nơi, thấm nhuần tất cả khiến cho sự vật trở nên thần vật.27
Linh mục học giả L.Cadière cũng nhận xét rằng: “Có thể nói rằng người Việt sống trong
một không không khí siêu nhiên. Bất cứ ở đâu nó cũng nhìn thấy ảnh hưởng của thế lực bí ẩn
hành động vào đời sống của nó … Người ta phê bình rằng đấy là sự sợ hãi gây nên những tín
ngưỡng ấy. Bất luận, dù nguyên nhân là tình cảm này hay tình cảm khác, sự thật vẫn là người
Việt tin mình cử động, sinh hoạt trong thế giới siêu nhiên … Thần linh ở tại khắp nơi, một hòn
đá lớn, một gốc cây cổ thụ, một rừng sâu, một vực sông, ngọn núi cao, một vũng nước giữa
đồng, mỗi thỏi đất, thửa ruộng, một góc âm u, đều là cơ sở của Thần linh. Thần ở khắp cả, thấm
nhuần khắp cả, tất cả đều của Thần”.28 Đối diện với thiên nhiên huyền bí, khát vọng siêu nhiên
giúp con người cảm nhận được sự bao bọc chở che của thần linh, sự hỗ trợ của sức mạnh thiên
nhiên và của đồng loại trong cộng đồng. Ý thức này khơi nguồn cho lòng biết ơn nơi người Việt
ngay từ thời xa xưa. Lòng biết ơn chính là yếu tố thiết yếu hình thành và là nét đáng trân trọng
nơi tín ngưỡng dân gian.
2.3. Lòng biết ơn
Văn hóa của mỗi dân tộc trên thế giới luôn chất chứa những giá trị tốt đẹp, những tinh hoa
của truyền thống dân tộc. Văn hóa Việt Nam cũng có những giá trị truyền thống thật phong phú và
đáng trân trọng. Trong những giá trị truyền thống của dân tộc, thì lòng biết ơn là một giá trị nổi
bật. Nó thể hiện rõ nét tính cách con người Việt Nam, thể hiện chữ NHÂN trong văn hóa Việt
Nam. Vì sao lòng biết ơn lại là một giá trị truyền thống? Vì vốn phát xuất từ một dân tộc gắn liền
với ngành nông nghiệp lúa nước, người Việt xa xưa đã xây dựng đời sống trên nền tảng là sự gắn
bó làng xã, tức là yếu tố định canh định cư với những tương quan giữa con người với thiên nhiên
và con người với con người. Những tương quan này đòi hỏi con người phải thể hiện đạo làm
người, tức là lòng biết ơn. Tín ngưỡng dân gian được hình thành trong những mối tương quan đó
nên có thể nói rằng tín ngưỡng dân gian Việt Nam cũng được hình thành chủ yếu dựa trên lòng
biết ơn.
27
X. NGUYỄN ĐĂNG THỤC, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, nxb tp.Hồ Chí Minh, 1992, tr. 178 -185
28
ĐỖ TRINH HUỆ, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L. Cadière, nxb Thuận Hóa,
2006, tr. 111 -118
16
II. BIỂU HIỆN CỦA LÒNG BIẾT ƠN
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam rất đa dạng phong phú, nhưng tựu trung có thể gồm vào
ba nhóm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. 29
Mặc dù có nhiều hình thức nhưng tất cả đều muốn diễn tả sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của con
người với thần linh, với thiên nhiên và với tiền nhân là nguồn phát sinh sự sống, là nơi che chở và
bảo vệ cuộc sống của họ.
1. Tín ngưỡng phồn thực
Tín ngưỡng phồn thực là một trong những hình thức tín ngưỡng được hình thành từ rất
sớm trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người
Việt cổ được thể hiện nơi các di chỉ để lại như: trống đồng, thạp Đào Thịnh cũng như những kiến
trúc và những phong tục, lễ hội truyền thống của tín ngưỡng cho đến ngày nay vẫn còn (các lễ hội
phồn thực tại Việt Nam: Lễ hội Linh Tinh Tình Phộc ở Phú Thọ; lễ hội “Ông Đùng Bà Đùng ở
Thái Bình”) này đã cho thấy điều đó. Với sự hồn nhiên ở thời sơ khai, con người ngạc nhiên trước
sự sinh sôi của thiên nhiên và của con người. Họ không có một lý giải khoa học về sự sinh sản
nhưng trái lại, họ có một cái nhìn đầy huyền diệu về những “dụng cụ” phát sinh sự sống.
Tác giả Trần Ngọc Thêm nhận định rằng: “Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống đã là
một nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Đối với văn hóa nông nghiệp, hai việc này lại càng bội
phần hệ trọng. Để duy trì cuộc sống, cần cho mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống, cần cho
con người sinh sôi … Từ một thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam Á đã phát triển theo
hai hướng, những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khách quan để lý giải hiện thực, kết quả là tìm
được triết lý âm dương. Còn những người có trình độ hạn chế thì nhìn thấy ở hiện thực một sức
mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như thần thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn
thực (phồn – nhiều, thực – nảy nở)”.30
Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Hà nhận xét rằng “Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng bản địa
của các nước nông nghiệp. Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện qua sự tôn sùng sinh sản và hoạt
động tính giao. Tín ngưỡng này ra đời từ rất cổ, khi con người không hiểu hoặc hiểu sai về nguyên
nhân sinh sản đến chỗ bắt đầu hiểu được nguồn gốc phát sinh của muôn vật và loài người là sự kết
hợp đực-cái, âm-dương … Sự sinh sản ấy của vạn vật khiến cho cuộc sống no đủ, con người dần
lấp đầy mặt đất, đông đúc vui vẻ. Sự sinh sản vì vậy trở nên linh thiêng, và sự phát hiện ra nguyên
nhân chính xác của sự sinh sản là một phát hiện mới mẻ khiến con người sùng bái”.31 Khi tìm hiểu
nguồn gốc phát sinh của sự sống, con người đã nhận ra giá trị của sự sống qua sinh sản. Họ sùng
bái cơ quan sinh dục (sinh thực khí nam-nữ) không phải vì chủ trương khoái lạc dâm bôn như

29
TRẦN NGỌC THÊM, Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, tr. 127 - 142
30
X. TRẦN NGỌC THÊM, Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, nxb Giáo Dục, 1998, tr 127
31
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ, Tín ngưỡng và giải mã tín ngưỡng trong văn hóa dân gian người Việt, truy cập ngày
21/10/2022 http://web.hanu.vn/vnh/mod/forum/discuss.php?d=2607
17
nhiều người lầm tưởng nhưng qua những hình thức ấy, họ muốn ca ngợi và tôn vinh nét kỳ diệu
của sự sống, đồng thời để cầu xin cho con người và mùa màng cũng được phong nhiêu, nảy nở.
2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
2.1 Thờ Trời
Người Việt Nam, thuộc mọi tầng lớp lớn nhỏ, trí thức hay bình dân, không cứ thuộc tôn
giáo nào đều tin nhận Ông Trời như Đấng Tạo Hóa, gần gũi, thân mật với con người, kêu van khấn
xin Trời như đấng có quyền ban muôn ơn lành xuống cho mọi người.32 Là một dân tộc gắn liền với
nền nông nghiệp lúa nước, suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, người Việt, từ xa xưa,
đã phải dựa vào trời. Dư dật, no đủ hay thất bát đều do trời.
“Nhờ trời mưa gió thuận hòa.
Nào cày, nào cấy, trẻ già đua nhau …”
Dưới mắt người Việt, Ông Trời thật quyền năng nhưng cũng thật hảo tâm, thương người.
Do đó, họ luôn hướng về trời với một lòng biết ơn. Tín ngưỡng thờ trời phát xuất một cách tự
nhiên từ lòng biết ơn này. Trời được xem là một thế lực thiện, che chở bảo vệ chúng sinh, nuôi
dưỡng vạn vật, để cho nhân loại nương tựa vào đấy mà sống còn, mà kinh sợ, làm thiện được
thưởng, làm ác bị phạt. Nhận định về ý niệm trời trong đời sống của người Việt, linh mục
L.Cadière đã viết: “Ý niệm về Trời khắc sâu đậm dấu ấn trong tinh thần người Việt và có lẽ những
ý nghĩa chính mà người Việt gán cho từ Trời tạo thành nền tảng triết học đặc thù của dân tộc Việt
Nam: một ông Trời vật thể; Trời được xem như là nguyên lý của những hiệnt ượng khí quyển và
mơ hộ được nhân cách hóa; Trời cũng được xem như là một hữu thể quyền năng ảnh hưởng đến
vận mạng con người.”33
Lòng biết ơn Trời được thể hiện cụ thể trong những kiểu nói của người Việt như: nhờ trời,
tạ ơn trời, đội ơn trời đất; hay qua những nghi thức thờ Trời rất phổ biến nơi các gia đình là bàn thờ
Ông Thiên trước sân nhà. Ngoài ra còn có lễ cầu đảo, lễ cầu mưa, trọng thể hơn nữa là Lễ Tế Nam
Giao tại Tế Đàn Nam Giao mà hoàng đế thay mặt toàn dân tế lễ trời đất để tạ ơn và khẩn cầu cho
quốc thái dân an.34
2.2 Thờ Mẫu
Một trong những đặc tính của văn hóa Việt Nam là Mẫu Tính, đề cao người phụ nữ. Theo
tác giả Trần Ngọc Thêm “đặc trưng âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả là trong
lãnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là
tình trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực, cho
nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ mà là các Bà Mẹ, các Mẫu”. 35 Trong xã hội nông

32
NGUYỄN VĂN NAM, Đạo Trời - Đạo Hiếu - Đạo Công Giáo, nxb Hồng Đức, 2015, tr. 2
33
L.CADIÈRE, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập 3, tr. 56
34
X. NGUYỄN VĂN NAM, Đạo Trời - Đạo Hiếu - Đạo Công Giáo, nxb Hồng Đức, 2015, tr. 3 -10
35
TRẦN NGỌC THÊM, Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, nxb Giáo Dục, 1998, tr 133
18
nghiệp, người phụ nữ giữ một vai trò quan trọng vì sự cần cù, lam lũ, hi sinh, tần tảo sớm hôm và
hơn nữa họ chính là người quản lý gia đình. Thêm nữa, người phụ nữ - nhất là người mẹ - là biểu
hiện của sự phong nhiêu. Thế nên, tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ sự tôn sùng nguồn sự sống và
tôn sùng nguồn nuôi sống con người là người mẹ, là đất, là nước, mà người Việt Nam gọi cách tôn
kính là Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước. Đây là ba nữ thần cai quản hiện tượng tự nhiên quan trọng nhất,
thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước.
Sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là
tôn sùng những nữ thần thiên nhiên: Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước và Tứ Pháp. Giai đoạn thứ hai là
thờ các thánh Mẫu như Âu Cơ, Man Nương, Liễu Hạnh… Giai đoạn thứ ba là thờ các nữ anh
hùng, những người có công với dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu… Ngoài ra, giáo sư Ngô Đức
Thịnh còn nhìn ở khía cạnh khác khi chỉ ra ba dạng thức thờ Mẫu của người Việt và có mối liên hệ
hữu cơ với nhau đó là: dạng thức thờ Mẫu Bắc Bộ (thờ Ỷ Lan Nguyên Phi, Bà chúa Kho, mẹ
Thánh Gióng), dạng thức thờ Mẫu Trung Bộ (thờ Tứ vị Thánh Nương, Ngũ Hành Nương
Nương...), dạng thức thờ Mẫu Nam Bộ (thờ Bà Chúa Xứ, Cửu Thiên huyền nữ...) 36 Có thể nói,
trong tâm thức của người Việt Nam luôn hiện diện hình ảnh người phụ nữ, người mẹ là chủ gia
đình… Chính những người mẹ đã đem lại sự yên ổn, thanh bình, yêu thương cho mọi người …
Tóm lại, người phụ nữ Việt Nam đã có mặt và đóng vai trò quan trọng trong tiến trình văn hóa của
dân tộc. Tín ngưỡng thờ Mẫu vừa cho thấy sự gắn bó thân thiết của người nông dân Việt Nam với
thiên nhiên, vừa diễn tả rõ lòng biết ơn của họ với mẹ thiên nhiên, đồng thời qua đó còn cho ta thấy
trong tâm thức người Việt từ xa xưa đã luôn có tấm lòng biết ơn, kính hiếu đối với những người
mẹ, người chị, những người phụ nữ có ảnh hưởng trên cuộc đời họ.
3. Tín ngưỡng sùng bái con người
3.1 Thờ cúng tổ tiên
“Cây có cội. Sông có nguồn. Con người cũng có tổ tiên.” Quả thực, nét đẹp trong việc thờ
cúng tổ tiên đã trở thành một nét đẹp truyền thống trong nền văn hóa cũng như nhân cách của
người dân Việt từ xưa đến nay. Nếu như lòng biết ơn được thể hiện một cách bao quát trong Tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên thì việc thờ cúng tổ tiên lại thu hẹp hơn trong môi trường của một gia
đình hay một dòng tộc. Nếu người Việt thờ Trời vì Trời cho họ cái ăn cái mặc, thì họ cũng thờ
cúng Tổ Tiên để bày tỏ lòng biết ơn ghi nhớ công sinh thành dưỡng dục. Dân tộc Việt là một dân
tộc luôn trân trọng tình gia đình, xem gia đình là gốc, là một cái nôi nuôi dưỡng và là mảnh đất cho
họ lớn lên. Do đó, tín ngưỡng thờ tổ tiên là biểu hiện tấm lòng biết ơn của đạo làm con và đạo làm
người. Người Việt tin rằng, linh hồn tổ tiên luôn ở bên con cháu để phù hộ chở che. Đây là hình
thái tín ngưỡng lâu đời nhất của dân tộc Việt Nam. Dù là ai, theo tôn giáo nào, làm công việc gì,

36
X. NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, nxb Trẻ, 2012, tr. 80 - 91
19
người Việt cũng phải hiếu kính, phụng thờ ông bà, tổ tiên, cha mẹ khi còn sống cũng như đã qua
đời.
Thờ tổ tiên là tín ngưỡng bắt nguồn sâu xa từ lòng biết ơn của con cháu đối với các đấng
sinh thành. Đồng thời đây cũng là tâm tình hướng về nguồn cội, “Việc thờ cúng tổ tiên là phát xuất
từ đạo lý uống nước nhớ nguồn, đây là giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chứ không riêng của
dân tộc nào.”37 Cũng trong nghiên cứu của mình tác giả Hoàng Quốc Hải ghi nhận: “Tục thờ kính
tổ tiên ra đời khi nhân loại ý thức được về lương tâm, tức là tự thấy phải tri ân người đã sinh thành
ra mình, người đã tạo ra các tiền đề cho cuộc sống, để mình hưởng thụ và tiếp nối. Vì vậy, con
người không chỉ biết ơn các bậc tiền bối, mà còn có trách nhiệm với tương lai...”. 38 Đối với người
Việt Nam, thờ cúng tổ tiên không chỉ đơn thuần là một tín ngưỡng nhưng đã trở thành một đạo lý
xã hội mà mọi người phải tôn trọng và thực hành, tức là nó có yếu tố tâm linh.
Đạo hiếu vừa hướng đến các bậc sinh thành đang còn sống, để nhắc nhở con cháu về
trách nhiệm và bổn phận phụng dưỡng, vâng lời và làm cho ông bà cha mẹ vui lòng, vừa hướng
đến vong linh các người đã qua đời, mà con cháu phải có bổn phận thờ cúng. Đạo hiếu được được
biểu lộ cụ thể qua những lễ nghi hiếu hỉ: tang lễ, lễ giỗ, cúng cơm, thắp nhang vái lạy trước bàn thờ
ông bà... Một trong những yếu tố làm cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có sức sống mạnh mẽ trong
tâm thức và đời sống người Việt là vì người Việt đề cao tình gia đình đồng thời ảnh hưởng từ nền
văn minh lúa nước, Nho giáo và đời sống tình cảm làng xã gắn bó với nhau. Về điểm này, linh
mục L.Cadiere đã nhận xét: “Gia đình hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là những người sống mà cả
kẻ chết... Gia đình trở thành như một ngôi đền … các mối liên hệ khi còn sống không bị tháo gỡ vì
cái chết, ngược lại, các mối liên hệ kia, qua tôn giáo, được thần thánh hóa trở thành kiên vững và
trường cửu nhờ việc thờ cúng tổ tiên”.39
3.2 Thờ Thành hoàng làng
Thờ cúng Thành hoàng làng là tín ngưỡng rất phổ biến ở các làng xã của người dân Việt.
Có thể nói, nếu thờ tổ tiên là tín ngưỡng chính của gia đình, dòng tộc thì thờ Thành hoàng làng là
tín ngưỡng chính của cộng đồng làng. Người Việt Nam tôn thờ và tin tưởng tất cả sức mạnh hữu
hình và vô hình … sự hiện diện của thần linh có ở khắp mọi nơi. Việc thờ Thành hoàng làng vốn
chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa.40 Ban đầu chỉ là thờ các vị Thổ Thần nhưng khi kết hợp
với văn hóa Việt thì việc thờ cúng được mở rộng ra, để tưởng nhớ - tỏ lòng biết ơn đối với những
người có công với làng xã, đất nước mà tín ngưỡng thờ Thần Hoàng được hình thành bằng việc lập
miếu thờ cúng và tôn những vị này làm thần bảo trợ của làng. Bởi vì xã hội nông nghiệp có đặc
trưng là tính cộng đồng làng xã … Đó là một lối sống nặng tình nghĩa, đoàn kết và gắn bó với họ

37
HOÀNG QUỐC HẢI, Văn hóa phong tục, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2001, tr. 12
38
HOÀNG QUỐC HẢI, Văn hóa phong tục, tr. 13
39
L.CADIÈRE, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Tập 1, tr. 57
40
X. NGÔ ĐỨC THỊNH, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, nxb Trẻ, 2012, tr. 58 - 60
20
hàng, làng nước … Trong các bậc thang giá trị tinh thần, người Việt đề cao chữ “nhân”, kết hợp
chặt chẽ chữ “nhân” với chữ “nghĩa”, nhân với đức, trọng chữ hiếu nhưng không bó hẹp trong
phạm vi gia đình mà mở rộng ra với làng xã. Tín ngưỡng thần hoàng chính là sự mở rộng của tinh
thần ấy. Như vậy, tín ngưỡng thờ Thần Hoàng vừa nói lên lòng biết ơn đối với những người có
công với quê hương, đất nước, vừa nói lên tính cộng đồng đoàn kết thâm sâu của người Việt. Đó
chính là nền tảng làm nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Sơ lược qua những biểu hiện của lòng biết ơn trong các tín ngưỡng dân gian, để thấy rằng
lòng biết ơn đã trở thành một phần trong nhân cách con người Việt Nam. Những thể hiện khác
nhau của lòng biết ơn nơi các tín ngưỡng dân gian cũng hướng đến những giá trị cao sâu hơn, và
đó là những giá trị cao đẹp, phù hợp với lối sống hiện đại. Trong đó, lòng biết ơn trong tín ngưỡng
phồn thực là một lời mời gọi hướng về sự sống, quý trọng và tôn trọng sự sống. Lòng biết ơn trong
tín ngưỡng sùng bái tự nhiên mời gọi chúng ta quan tâm đến mối liên hệ giữa con người và thiên
nhiên để thấy được tầm quan trọng của thiên nhiên đối với sự sống của con người. Từ đó, chúng ta
được nhắc nhở phải lưu tâm đến trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên. Lòng biết ơn trong tín ngưỡng
sùng bái con người là lời mời gọi con người sống chữ “nhân” trong tương quan giữa người với
người, thực hiện đạo lý làm người trong gia đình và xã hội.

CHƯƠNG IV: SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ LÒNG BIẾT ƠN TRONG XÃ HỘI HÔM NAY

I. NHỮNG GIÁ TRỊ ĐƯỢC ĐỀ CAO TRONG XÃ HỘI HÔM NAY


Trong xã hội hôm nay, nhờ sự mở rộng giao lưu văn hóa, người Việt Nam đặc biệt là người
trẻ đang được tiếp xúc dễ dàng với các giá trị văn hóa khác. Sự tiếp xúc này góp phần hình thành
nên những giá trị mới. Những giá trị này có thể được kể vào ba lãnh vực: tinh thần, vật chất và
giáo dục.
1. Những giá trị tinh thần
Con người là một nhân linh, nghĩa là con người không chỉ là một sinh vật với những
nhu cầu sinh lý, mà vượt trội trên các sinh vật khác nhờ lý trí và đời sống tinh thần, với những
nhu cầu cao thượng của tâm lý và tâm linh, tức là muốn yêu và được yêu, muốn hướng đến
những giá trị siêu nhiên vượt trên thế giới vật chất này. Một giá trị tinh thần nổi bật mà chúng ta
dễ nhận thấy trong xã hội hôm nay chính là tinh thần tự do. Khao khát tự do là một điều hợp lý
và dễ hiểu, vì đây là một quyền căn bản của con người. Quả vậy, tự do giúp con người có khả
năng xây dựng và làm chủ cuộc đời mình cách độc lập. Tự do khuyến khích tính độc lập và khả
năng sáng tạo của con người. Đây là những điểm tích cực mà tự do mang lại.
Tuy nhiên, mặt trái của tự do cùng với những ảnh hưởng của lối sống và cơ chế kinh tế theo
phương Tây đã góp phần hình thành sự ích kỷ của chủ nghĩa cá nhân, đề cao cá nhân trên tập thể.
21
Đặc biệt, trong xã hội hôm nay, tinh thần tự do và chủ nghĩa cá nhân đã làm cho sự ích kỷ len lỏi
vào tâm thức người Việt. Sự tự do thái quá này đang ngày càng làm xói mòn tinh thần tập thể,
tình gia đình và giá trị hôn nhân.
Trong truyền thống gia đình người Việt xưa nay, tương quan giữa cha mẹ và con cái rất
đậm đà thắm thiết. Từ khi sinh ra cho đến khi dựng vợ gả chồng, hoặc có những trường hợp đến
suốt cả cuộc đời, con cái sống gần gũi và lệ thuộc vào cha mẹ. Chính vì được sống chung trong
thời gian dài, được đón nhận sự quan tâm, dưỡng nuôi và tình yêu bao bọc của cha mẹ, mà con
cái cũng yêu thương và ghi nhớ công ơn của cha mẹ. Đúng như nhận xét của học giả L. Cadière:
“Ảnh hưởng gia đình rất hiển nhiên, rõ ràng đến nỗi một ngày nào đó khi anh ta thoát khỏi ra
ngoài thì luân lý liền bị ảnh hưởng.”41
“Cái ưu điểm của người Việt là còn có gia đình để bám víu.”42 Thế nhưng, khi xã hội
Việt Nam chuyển mình từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp kỹ thuật, cùng với sự hội
nhập của các nền văn hóa đã làm cho nếp sống gia đình bị xáo trộn. Nhận định về sự kiện này,
tác giả Lê Ngọc Anh đã có những ý kiến rất sâu sắc:
Dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức truyền thống và nếp sống văn
hóa gia đình có sự biến đổi phức tạp. Bên cạnh những giá trị mới, nếp sống văn hóa gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế thị trường, đã có những giá trị đạo đức truyền thống, nếp sống gia
đình bị xâm hại và có nguy cơ bị mai một đi. Trên thực tế ở nhiều nơi, nhất là ở các đô thị lớn,
gia đình đã có những dấu hiệu của sự khủng hoảng. Các mối quan hệ gia đình truyền thống,
những nếp sống văn hóa gia đình tốt đẹp đang bị lấn át bởi những quan hệ hàng hóa, thị trường,
lợi nhuận, bởi những lối sống lai căng, kệch cỡm, xa lạ, thiếu văn hóa … Sự gắn bó giữa các
thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo hơn. Một số thành viên trong các gia đình nông thôn,
nhiều nhất là thanh niên, đã rời bỏ nông thôn, từ bỏ nghề nông để đổ xô về thành phố, thị xã, thị
trấn tìm kiếm việc làm. Theo quy luật phát triển xã hội, đây là một hiện tượng tất nhiên. Song
điều đáng quan tâm là sự rời bỏ nông nghiệp, nông thôn của lực lượng lao động này đã tạo ra
không ít biến động trong nếp sống cổ truyền của đông đảo gia đình. Lối sống thành thị mới được
hấp thụ này đã khiến cho sự gắn bó, mối liên hệ vốn rất chặt chẽ và bền vững giữa họ với các
thành viên trong gia đình cũng có phần bị lơi lỏng và ngày càng lỏng lẻo hơn.43
Hiện nay, có rất nhiều các bạn trẻ đã rời bỏ vùng quê, nông thôn để đi đến với các thành
phố, đô thị lớn để học tập, làm việc và sinh sống. (Có 61,8% người di cư thuộc nhóm trẻ tuổi (20

41
L. CADIÈRE, Gia đình và đạo giáo ở Việt Nam trong ĐỖ TRINH HUỆ, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam
dưới nhãn quan học giả L. Cadière, nxb Thuận Hóa, 2006, tr. 90
42
ĐỖ TRINH HUỆ, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L. Cadière, nxb Thuận Hóa,
2006, tr. 89
43
LÊ NGỌC ANH, Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay, trong https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/van_de_giao_duc_dao_duc-0.html, truy cập
ngày 22/10/2022
22
-39 tuổi)).44 Trong số này, đã có nhiều người trẻ đã có khả năng sống tự lập, tự do và không cần
đến sự trợ giúp, không còn lệ thuộc vào cha mẹ nữa. Cũng vậy, trình độ học vấn của giới trẻ này
càng được nâng cao, thậm chí cao hơn cả trình độ của cha mẹ. Do đó, tình trạng này tạo nên một
tâm thức thờ ơ, thiếu lòng biết ơn nơi nhiều người, bởi nghĩ rằng họ không cần đến bất cứ sự trợ
giúp nào của cha mẹ. Thêm nữa, họ muốn thoát ly gia đình để được tự do sống theo sở thích của
mình. Đây chính là mầm mống của lối sống tự do ích kỷ và của chủ nghĩa cá nhân. Nhận xét về
tinh thần tự do của giới trẻ hôm nay, tác giả Vương Trí Nhàn viết: “So với thế hệ trước, giới trẻ
hiện nay có cảm giác về tự do tốt hơn, nhưng nhiều lúc điều đó đồng nghĩa với bơ vơ, mất
phương hướng, không xác định được mình. Trong nhiều trường hợp họ hiểu rất sai về tự do. Tự
do không phải là bộc phát, muốn làm gì thì làm. Mà tự do là sự hiểu biết chung về bản thân, về
hoàn cảnh và cách sống thích hợp với hoàn cảnh, đồng thời khẳng định bản thân mình”.45
Một trong những sự hiểu sai về tự do của giới trẻ là sự tự do ích kỷ. Sự tự do này cũng
làm mất đi giá trị thánh thiêng và bền vững của hôn nhân truyền thống. Nếu như quan niệm
truyền thống xem hôn nhân như một chuyện trăm năm, một sự kiện trọng đại của đời người. Và
do đó, lòng chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng được coi như một giá trị nền tảng “nhất phu,
nhất phụ”. Thế mà, bởi sự ích kỷ và thực dụng của lối sống tự do, nhiều người trẻ hôm nay đã
quên, thậm chí là không chấp nhận giá trị hôn nhân truyền thống tốt đẹp đó nữa. Đối với họ, tình
yêu bị đồng hóa với nhu cầu thể xác. Tình yêu không còn là một sợi dây thiêng liêng liên kết
người nam và người nữ lại với nhau trong hôn nhân, mà chỉ là một nhu cầu hay thậm chí một
món hàng được qui đổi bằng vật chất. Quan niệm tự do trong tình yêu được thể hiện qua lối sống
thử trước hôn nhân hay lối sống buông thả trong quan hệ tình dục.46
Tác giả Lê Thi trong bài viết “Mối quan hệ cá nhân – gia đình trong bối cảnh Việt Nam
đi vào toàn cầu hóa” đã nhận định về tình trạng xuống cấp của giá trị hôn nhân như sau: “Hiện
nay, trong xã hội, nguyên tắc tự do được đề cao, quyền lợi cá nhân được nêu lên hàng đầu. Đồng
thời, cũng có sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ đặt cái tôi lên trên hết. Trong hôn nhân,
đã nảy sinh khuynh hướng chủ nghĩa thực dụng. Không ít người lấy nhau, bỏ nhau vì động cơ
tiền tài, địa vị, danh vọng. Tỷ lệ ly hôn, ly thân của các gia đình ở nước ta có xu hướng tăng lên
hàng năm. Đồng thời, đã hình thành quan niệm dễ dãi trong quan hệ tình dục nam nữ, gắn với sự
chung sống tạm bợ, không tính chuyện hôn nhân nghiêm túc và lâu dài. Đó là những biểu hiện
của lối sống bắt chước Phương Tây: Nam nữ ăn ở với nhau, chán thì chia tay, nếu có thai thì trục
phá. Đây là một lối tự do kệch cỡm và lệch lạc”.47

44
TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở NĂM 2019
45
VƯƠNG TRÍ NHÀN, Lớp trẻ cần tự hình thành giá trị mới, trích trong https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-
cuu/lop_tre_can_tu_hinh_thanh_he_thong_gia_tri_moi.html truy cập ngày 22/10/2022
46
VŨ VĂN TRÌNH, Vấn đề “Sống thử” của giới trẻ ngày nay, trích trong https://tgpsaigon.net/bai-viet/van-de-song-
thu-cua-gioi-tre-ngay-nay-40586, truy cập ngày 22/10/2022
23
2. Lối sống thực dụng
Đây là một lối sống buông thả, thờ ơ và có những hành xử thô bạo, làm trái pháp luật
Nhà nước. Bên cạnh đó, người có lối sống thực dụng thì đối với họ những giá trị đạo đức, nhân
cách hay tâm hồn chỉ là một màng tơ mỏng manh. Cái được họ coi trọng và chú tâm đó là lợi ích,
những thứ mà họ có thể cân đo, đong đếm, tính toán được bằng tiền bạc, vật chất nhằm thỏa mãn
bản thân. Hiện nay do nhu cầu hội nhập dẫn đến công nghệ phát triển nên càng ngày càng có
nhiều bạn trẻ dễ dàng rơi vào những cạm bẫy, rơi vào những thói hư tật xấu, những phong trào
có thể coi là phi lý. Họ sẵn sàng cho một công việc theo thị hiếu xã hội, một công việc có thể
kiếm ra tiền chứ không phải theo sở thích hay khả năng của bản thân. Họ không coi trọng pháp
luật, không coi trọng đạo đức nên dễ dàng có những hành vi bạo lực, cướp bóc hay dễ dàng sống
thử, quan hệ tình dục trước hôn nhân, bỏ việc học hành để cắm đầu vào những trò chơi vô bổ
như game, đua xe, đi vũ trường,... Ngày nay, đối với một số người, nhất là các bạn trẻ việc sở
hữu một chiếc điện thoại đắt tiền hay đi ăn uống mua sắm tại những địa điểm nổi tiếng giúp họ
cảm thấy tự tin lớn trong cuộc sống. Điều này chứng minh hiện nay một bộ phận giới trẻ đang
chạy theo đời sống vật chất. Hơn nữa việc phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội cũng là một tác
động lớn cho lối sống này. Nó nghiêm trọng tới mức khiến các bạn trẻ không được đáp ứng đầy
đủ sẽ cảm thấy thiếu tự tin. Các bạn trẻ chưa đi làm, chưa trải sự đời nên chưa ý thức được giá trị
của đồng tiền mà mình làm ra. Mỗi đồng tiền các bạn tiêu là mồ hôi nước mắt, bao hi sinh của bố
mẹ làm ra. Nhiều người chỉ quan tâm tới những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên đi mất lợi ích
tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, một số sinh
viên còn bất chấp tất cả như luật pháp, gia đình, bạn bè, một số khác tỏ ra bất cần với mọi người,
chỉ cần biết đến bản thân là đủ, còn người khác thì mặc kệ....
3. Giá trị vật chất
Nền kinh tế thị trường đề cao lợi nhuận và tiêu dùng đã khiến vật chất trở thành một tiêu
chuẩn đánh giá, một “giá trị thời đại” hấp dẫn nhiều người. Một trong những giá trị vật chất được
coi trọng hàng đầu chính là tiền bạc. Qua mọi thời đại, tiền bạc vẫn là một phương tiện cần thiết
và hữu ích cho cuộc sống con người. Nhờ nó, con người có đủ những nhu cầu cần thiết, nghĩa là
góp phần nâng cao đời sống và phẩm giá con người. Tuy nhiên, tiền bạc đã bị thay đổi vai trò
của nó vì lòng tham của con người. Trước tiên, người ta muốn kiếm tiền chỉ vì nhu cầu của cuộc
sống và đó là điều rất hợp lý. Thế rồi, thường người ta không bằng lòng với những gì đã có, họ
muốn kiếm tiền thật nhiều, muốn được giàu có với lý do để bảo đảm cuộc sống, đảm bảo tương

47
LÊ THI, Mối quan hệ cá nhân – gia đình trong bối cảnh Việt Nam đi vào toàn cầu hóa, trích trong
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/quan_he_cn-gd_trong_boi_canh_toan_cau_hoa-0.html, truy cập ngày
22/10/2022
24
lai, lo cho con cái ... Những lý do đó khiến con người thành những “cỗ máy kiếm tiền”, chỉ biết
đến vật chất mà quên đi những giá trị tinh thần.48
Với thời đại toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề này ngày càng phổ biến, và tiền dường như
đã trở thành một “chuẩn mực” để lượng giá con người. Xã hội Việt Nam hôm nay đã phát triển,
kinh tế và điều kiện sống của người dân được ổn định và ngày một nâng cao. Xã hội văn minh,
người dân có một cuộc sống ấm no, tiện nghi là điều đáng mong và đáng mừng. Tuy nhiên, mặt
trái của vấn đề chính là những giá trị vật chất đã được đề cao quá mức, lấn át cả những giá trị
tinh thần và thiêng liêng. Quả vậy, tiền bạc từ vai trò là phương tiện phục vụ con người đã trở
thành một chủ ông. Mà như người ta nói “tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu”.
Sự lạnh giá của đồng tiền dường như cũng làm cho tâm hồn con người giá lạnh trước những giá
trị khác, trong đó có cả tình yêu và tình người. Người mang chủ nghĩa vật chất (Materialistic) là
người chỉ tập trung vào đồ vật, quyền sở hữu và của cải. Họ tin rằng sở hữu và mua mọi thứ là
điều kiện cần thiết để thành công, hạnh phúc trong cuộc sống. Ham hưởng thụ sự thái quá trong
đắm chìm vào vật chất, yếu tố bên ngoài thỏa mãn nhất thời của bản thân quên đi các giá trị thực.
Tiền bạc, vật chất đã khiến cho quan hệ giữa con người với con người ngày càng lỏng
lẻo, những giá trị tinh thần bị lấn át hoặc bị vật chất hóa. Tác giả Lê Hà viết “Cái thời mà điện
thoại chưa có, hoặc quá hiếm hoi, Internet là cụm từ chưa bao giờ từng nghe hoặc nhắc đến tại
xứ ta, thì chiếc phong bì hay còn gọi là phong thư có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã
hội. Nó là vỏ bọc thư của những người từ chiến trường gửi về hậu phương, của con cái đi xa gửi
cho bố mẹ, của những người đang yêu nhau, gửi gắm tình cảm cho nhau ... là nỗi nhớ, là thông
tin của cuộc sống. Nhưng ngày nay cùng với sự bùng nổ của khoa học, đặc biệt là công nghệ
thông tin, chiếc phong bì dường như đã chấm dứt “sứ mạng” lịch sử của nó. Không diệt vong
nhưng lại chuyển hóa sang một hình thức khác, một chức năng tinh vi hơn, đáng bàn hơn và
cũng đáng suy nghĩ hơn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chẳng biết chính xác từ khi nào
chiếc phong bì bỗng chốc thay thế “miếng trầu” để trở thành “đầu câu chuyện” trong các mối
“bang giao” của xã hội hiện nay. Và thay vì một chức năng duy nhất trước đây là vỏ đựng thư,
nay chiếc phong bì về nội hàm chỉ để bỏ tiền.” 49 Nhận xét của tác giả về chiếc phong bì thật là
thâm thúy nhưng cũng khiến người ta phải suy nghĩ. Vì tiền bạc mà có không ít người đã đạp lên
tình nghĩa gia đình, tình bạn, tình yêu và cả mạng sống của người khác nữa để chiếm hữu được
nó. Chính vì sự biến chất này mà chúng ta không quá ngạc nhiên khi báo chí đăng tải những
thông tin như con cái đuổi cha mẹ ra khỏi nhà để chiếm nhà, chiếm đất, hoặc anh chị em kiện

48
HẠNH TỬ, Lòng biết ơn trong tín ngưỡng dân gian, trích trong https://www.vanthoconggiao.net/2022/04/long-
biet-on-trong-tin-nguong-dan-gian.html, truy cập ngày 22/10/2022
49
LÊ HÀ, Chuyện cái phong bì xưa và nay, trích trong https://thesaigontimes.vn/chuyen-cai-phong-bi-xua-va-nay/,
truy cập ngày 22/10/2022
25
nhau ra tòa để tranh giành sở hữu đất đai, mẹ già kiện con ra tòa để đòi lại đất. 50 Sức mạnh của
vật chất đã phá tan những mái nhà êm ấm, đã giết chết những tình cảm thiêng liêng của những
người đã từng sống trong một gia đình. Không chỉ làm thay đổi tâm thức của những người dân
bình thường, tiền bạc còn làm biến chất cả những người có trách nhiệm trong xã hội, những
người cầm quyền lãnh đạo. Sự biến chất này được thể hiện qua tệ nạn tham nhũng lan tràn đã trở
thành một quốc nạn tại Việt Nam.
Chủ nghĩa duy vật chất, duy lợi nhuận còn góp phần tàn phá thiên nhiên, môi trường.
Chỉ vì lợi nhuận, người ta sẵn sàng khai thác thiên nhiên một cách tàn nhẫn và bừa bãi, “sự sống
trên biển, nơi các sông ngòi, các ao hồ và đại dương, là nguồn đang nuôi sống phần lớn dân số
thế giới lại đang chịu ảnh hưởng bởi việc đánh bắt không kiểm soát, hủy diệt ghê gớm một số
loài nhất định”51 Thiên nhiên là môi trường sống của con người, nhưng giờ đây, người ta chỉ
quan tâm đến nó như một nguồn lợi vật chất, chứ không còn xem nó như một điều kiện quan
trọng của sự sống con người nữa. Họ đã đánh đổi sự sống của chính mình với những lợi ích kinh
tế. Con người không còn coi trọng thiên nhiên, không biết ơn những gì mà thiên nhiên, môi sinh
đem lại cho con người, làm mọi thứ trái với luật tự nhiên... Rồi chúng ta đã phải trả giá cho sự
đánh đổi này với những thiên tai lũ lụt, hạn hán, sạt lở đất ... làm thiệt hại về kinh tế, nhà cửa, tài
sản và tính mạng của biết bao người.52

4. Giá trị giáo dục


Từ xưa đến nay, giáo dục luôn mang trong mình một sứ mệnh cao cả là giáo dục con
người thành nhân, đúng như nhận xét của Eramus thời Phục Hưng “Con người sinh ra không
phải đã là người. Họ trở thành người”, điều đó cho ta thấy tầm quan trọng của giáo dục trong lịch
sử xã hội loài người. Đúng vậy, từ thời của các triết gia Cổ Đại như Socrates, Plato, Aristotele
cùng các triết gia Đông Phương như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, cho đến thời hiện đại đều đề
cao vai trò của giáo dục như một điều kiện tiên quyết để cải tạo và xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Một sự thật là hầu hết các vĩ nhân trong lịch sử văn hóa và khoa học đều là những người được
hấp thụ một nền giáo dục tốt đẹp. Việt Nam vốn được xem là một dân tộc hiếu học, và vấn đề
giáo dục cũng luôn được xem là quốc sách hàng đầu. Giá trị giáo dục luôn được đề cao trong
mọi nơi và mọi thời. Đặc biệt, khi xã hội văn minh hiện đại, nhu cầu giáo dục ngày càng trở nên
cấp thiết để xây dựng những con người hiện đại, chuẩn bị hành trang tri thức cho những người
trẻ bước vào đời, có đủ phẩm chất, khả năng để hòa nhập với thời đại đa phương hóa, toàn cầu
hóa và trở thành “công dân toàn cầu”.

50
NGUYÊN BÌNH, Mẹ già 107 tuổi đệ đơn ra tòa kiện đòi đất, trích trong https://congly.vn/me-gia-107-tuoi-de-
don-ra-toa-kien-doi-dat-201245.html, truy cập ngày 24/10/2022
51
ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ, Thông điệp Laudato’Si, số 40
52
Trích trong Discovery, Infonet, Vnexpress, trên trang http://hawacom.vn/?p=6379, truy cập ngày 24/10/2022
26
Không ai có thể phủ nhận vai trò của giáo dục, nhất là trong môi trường học đường. Vì
chính nơi đó góp một phần không nhỏ hoàn thiện nên nhân cách con người, đào tạo con người có
khả năng góp phần phát triển xã hội. Cùng với văn hóa nghệ thuật và tôn giáo, cả ba yếu tố này
như là chiếc kiềng ba chân vững chãi nhằm giúp đào luyện, hướng dẫn con người hướng tới
những giá trị nhân văn cao đẹp, những giá trị chân - thiện - mỹ. Thầy cô giáo trong mọi cấp bậc
giáo dục có vai trò không nhỏ trong việc hướng dẫn học sinh rèn luyện những đức tính làm
người. Từ thời xưa, trong tâm thức và truyền thống người Việt thì người thầy chiếm địa vị cao,
có vai trò quan trọng trong xã hội và được mọi người tôn trọng. Đúng như nhận xét của thầy
Nguyễn Khắc Viện: nghề danh giá nhất là thầy giáo. Các học trò phải luôn tôn kính thầy mình
như người cha thứ hai bởi vì thầy giáo truyền đạt kiến thức và dạy dỗ góp phần hình thành nhân
cách học sinh qua tinh thần sư phụ rèn luyện học trò. Và trong truyền thống đạo hiếu của dân tộc
thì “Mùng một thì ở nhà cha. Mùng hai nhà vợ, mùng ba nhà thầy”... Tất cả những điều đó đều
phản ảnh về một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, sống và thể hiện
tấm lòng biết ơn của những người trò đối với những người thầy của mình trong cuộc sống.
Tuy nhiên, khi nhìn vào thực trạng giáo dục tại Việt Nam, không ít người phải xót xa kêu lên
về thực trạng thảm hại của nền giáo dục nước nhà trong hiện tại. Thay vì thúc đẩy một sự phấn
đấu nâng cao chất lượng giáo dục, ngành giáo dục chỉ quan tâm đến đủ thứ chỉ tiêu: Tỉ lệ đậu tốt
nghiệp cao, tỉ lệ học sinh giỏi cao, tỉ lệ giáo viên dạy tốt, trường chuẩn quốc gia... để mong dành
được bằng khen của cấp trên. Đó chính là căn bệnh được gọi bằng mỹ từ “bệnh thành tích”. Tác
giả Huỳnh Bửu Sơn ghi nhận: “Điều lo ngại chung hiện nay là căn bệnh thành tích đang lan tràn
trong ngành giáo dục nước ta, không phải chỉ lây nhiễm cho một bộ phận những người cộng tác
trong ngành mà còn cho nhiều gia đình trong xã hội. Bệnh thành tích là hậu quả của chủ nghĩa
hình thức và chính nó là mẹ đẻ của bệnh sao chép, học thuộc lòng và hiện tượng đào tạo hình
ống của hệ thống Đại Học ở nước ta. Với bệnh thành tích, các phương pháp đánh giá, kiểm tra
kết quả học tập trở nên dày đặc, phức tạp nhưng lại mang tính chất rập khuôn, không có chỗ
dành cho sự sáng tạo của học sinh sinh viên.”53 Theo nhận xét của nhiều nhà chuyên môn thì
trong khi “mục tiêu của giáo dục thực sự rất rõ ràng là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức
và nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng
cuộc sống hạnh phúc, văn minh”, thì giáo dục của nước ta lại “...Chính vì chỉ quan tâm đến việc
nhồi nhét kiến thức nên trường học chỉ có thể đào tạo ra những con người đầy tri thức, thông
thạo các kỹ năng mang tính công cụ nhưng không phải là những người trí thức thật sự. Chính vì
không phải là người trí thức nên những “sản phẩm giáo dục” ấy rất “hồn nhiên” gây tổn hại đến
người khác và vi phạm pháp luật. Lối sống tha hóa đạo đức của một bộ phận không nhỏ của giới

53
HUỲNH BỬU SƠN, Giáo dục và bệnh thành tích, trích trong
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/giao_duc_va_benh_thanh_tich-3.html, truy cập ngày 26/10/2022
27
trẻ trong xã hội ta có một nguyên nhân cần nhấn mạnh là do ảnh hưởng của những gì đang diễn
ra trong cuộc sống hiện nay.”54 cách riêng là giáo dục nhân bản về lòng biết ơn, về cách ứng xử
trong cuộc sống. Hiện nay, mối quan hệ thầy – trò đang có sự thay đổi, người thầy không còn
được coi trọng như xưa, một bộ phận học sinh ngày nay đã ngó lơ và xem nhẹ truyền thống, nét
đẹp văn hóa của người Việt Nam là "tôn sư trọng đạo". Theo đó, vị trí, vai trò của người thầy
trong xã hội không còn được một bộ phận học sinh ngày nay coi trọng và đề cao, thậm chí là bị
hạ thấp. Trớ trêu thay, bản thân nghề giáo vốn dĩ được thừa nhận là nghề cao quý nhất trong
những nghề cao quý. Khi mà nước ta bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì đạo
nghĩa hay nói cụ thể hơn là mối quan hệ thầy trò cũng có nhiều biến đổi, mang một màu sắc mới
trên nền tảng của những giá trị nhân văn từ truyền thống, theo xu hướng gần gũi hơn, bình đẳng,
thân thiện hơn. Đạo nghĩa thầy và trò không còn bị chi phối bởi những giáo lý nghiêm ngặt như
nền giáo dục trong xã hội phong kiến trước đây mà có phần được giảm nhẹ, giản hóa những quy
định về lễ nghĩa... Tuy nhiên, cũng đã, đang xuất hiện không ít những biểu hiện, những hành
động về sự xuống cấp nghiêm trọng của mối quan hệ thầy trò, như: Thầy đánh trò, xâm hại tình
dục trò, dùng “điểm đổi tình”; trò cãi thầy giữa lớp học, giảng đường, trò đánh thầy; gia đình học
trò đánh, chửi rủa thầy cô giáo.55

II. CÁC YẾU TỐ DẪN ĐẾN NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG TÂM LÝ VỀ LÒNG
BIẾT ƠN
1. Giao lưu văn hóa
Mọi quốc gia trên thế giới này đều có những tinh hoa văn hóa, với những giá trị độc đáo
và đặc sắc riêng, tùy mỗi dân tộc. Sự độc đáo của mỗi quốc gia làm cho nền văn hóa thế giới
được phong phú và đa dạng, đặc biệt khi có sự giao lưu văn hóa trong bối cảnh Việt Nam bước
vào nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường mở ra là cơ hội để Việt Nam giới thiệu cho thế
giới những nét đẹp của văn hóa dân tộc, và đồng thời cũng là cơ hội để đón nhận những giá trị
văn hóa tốt đẹp của các dân tộc khác, làm phong phú thêm cho văn hóa nước nhà. Sự phát triển
kinh tế, đặc biệt là kinh tế du lịch và khoa học truyền thông đã làm cho sự tiếp xúc, giao lưu giữa
các nền văn hóa được trở nên dễ dàng. Và trong thế giới hôm nay, cùng với tiến trình toàn cầu
hóa, sự giao lưu văn hóa ấy đang diễn ra mạnh mẽ. Chúng ta không thể phủ nhận những giá trị
tích cực mà việc giao lưu giữa nền văn hóa các quốc gia đem lại. Nhờ quá trình giao lưu và hội
nhập mà các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau, hiểu biết nhau hơn, đồng thời thúc đẩy sự giao
lưu kinh tế, giáo dục nhằm cùng nhau xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, “do cường độ và
54
VŨ VĂN TRÌNH, Vấn đề đạo đức của giới trẻ ngày nay, trích trong https://tgpsaigon.net/bai-viet/van-de-dao-duc-
cua-gioi-tre-ngay-nay-42078, truy cập ngày 26/10/2022
55
MỸ DUNG, Học sinh trả treo xúc phạm thầy cô: chuyện đau xót thường ngày ở trường, trích trong
https://tuoitre.vn/hoc-sinh-tra-treo-xuc-pham-thay-co-chuyen-dau-xot-thuong-ngay-o-truong-
20221018222215415.htm, truy cập ngày 26/10/2022
28
phạm vi của giao lưu, ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng lớn, đã tạo ra sự choáng ngợp, nhiễu loạn
giữa cái mới và cái cũ, giữa hiện đại với cổ truyền...”56
Quả thực “điều tốt khó học còn điều xấu thì lại dễ bắt chước”, điều này thật đúng với xã
hội Việt Nam hôm nay, nhất là khi chúng ta chưa có một sự chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh táo để biện
phân chọn lựa. Tác giả Thanh Tùng quả là có lý khi nhận định: “Khi nền tảng văn hóa chưa kịp
chuẩn bị cho mỗi cá nhân một tâm thế “người giàu” thì sự khập khiễng trong văn hóa sống với
mức sống, đời sống và cách sống là một thực tế khó tránh khỏi, tạo nên những vết đứt gãy trong
hệ giá trị. Con người một mặt không phủ nhận những giá trị cũ nhưng mặt khác vẫn sống với
thực tại của mình. Quá trình này làm nảy sinh một thực tế là đôi khi những giá trị tốt đẹp cũ chỉ
còn là một ảo ảnh khoác lên sự thật không được như mong muốn.” Những hậu quả cụ thể mà sự
giao lưu văn hóa mang lại hiện tại đang đầy dẫy trong xã hội hôm nay và chúng ta có thể kiểm
chứng qua những thông tin và qua thực nghiệm. Chạy theo hình thức, nô lệ của tiền bạc, địa vị,
danh lợi một cách mù quáng, con người không chỉ đánh mất những người thân yêu, mà thậm chí
còn bị tha hóa về nhân cách, dẫm đạp lên những chuẩn mực đạo đức xã hội, sống hưởng thụ, ích
kỉ. Không quan tâm đến mọi thứ diễn ra xung quanh mình, cũng không quan tâm đến cảm giác
của mọi người xung quanh. Đã có rất nhiều việc xảy ra gần đây, khi những nữ sinh bị đánh, bị lột
đồ, lăng mạ, những người xung quanh không những không an ngăn mà còn cổ vũ, hô hào, quay
clip tung lên mạng với mục đích câu like, không hề quan tâm đến danh dự, cảm xúc của những
nạn nhân đó.57 Nhiều bạn trẻ gặp những người già, người khuyết tật ăn xin còn xua đuổi, xa lánh,
sợ tiếp xúc gần sẽ làm mất hình tượng. Nhiều người chỉ vị sự ích kỷ của bản thân, chỉ muốn
hưởng thụ đua đòi theo bạn bè mà làm cho bố mẹ lâm vào cảnh nợ nần…
2. Tiếp thu thiếu chọn lọc
Việt Nam đang hòa mình vào dòng chảy ồ ạt của thế giới hiện đại, của nền kinh tế thị
trường. Dòng thác tốc độ này cuốn theo trong nó cả những hạt phù sa là những tinh hoa của văn
hóa, kỹ thuật nhân loại, nhưng đồng thời cũng cuốn theo cả những rác rưởi là những tệ nạn,
những lệch lạc. Trong một hoàn cảnh như thế, nếu không tỉnh táo, người ta sẽ vội vã vớt lấy
những gì có trong dòng sông mà không phân biệt đâu là tinh hoa và đâu là rác rưởi. Hoặc người
ta bị cuốn theo dòng thác, bị vong thân mà không hay biết, lại còn tự hào là đang hội nhập văn
hóa, đang thích nghi với những giá trị thời đại. Hậu quả của việc tiếp thu thiếu chọn lọc những
nét đẹp của các nền văn hóa dẫn đến “sự hụt hẫng trong đời sống văn hóa và hệ quả là đời sống
của nhân dân bị suy kiệt... Trên bình diện xã hội, nhiều chuẩn mực đạo đức và ứng xử xã hội cổ
truyền nay đã lỗi thời và đang mất dần; tuy nhiên các chuẩn mực ứng xử của xã hội mới lại chưa

56
NGÔ ĐỨC THỊNH, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và
hội nhập, nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 260
57
X. VŨ VĂN TRÌNH, Giới trẻ trước căn bệnh “vô cảm”, trong https://tgpsaigon.net/bai-viet/gioi-tre-truoc-can-
benh-vo-cam-36760, truy cập ngày 26/10/2022
29
hình thành và định hình, khiến quan hệ xã hội, những giá trị đạo đức dễ bị lệch chuẩn, đảo lộn và
nhiễu loạn.”58
3. Lãng quên những giá trị truyền thống
Truyền thống được định nghĩa là “thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp
nghĩ, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Nói một cách khác, truyền thống là những
tinh hoa của văn hóa, những bài học đạo đức, luân lý của cha ông đã được gìn giữ và lưu truyền
qua các thế hệ. Những giá trị này luôn có tính thời sự, luôn thích hợp với mọi thời đại, nên dầu
thời gian có qua đi, xã hội có đổi thay, nó vẫn tồn tại và trở thành cái gọi là bản sắc của dân tộc.
Tính truyền thống này mặc dù không phải là chỉ riêng nước ta mới có, nhưng nó có giá trị vì đã
trở thành một lối sống, một nếp nghĩ được đón nhận và gìn giữ qua nhiều thế hệ. Đáng lo ngại
thay, nhiều truyền thống đang dần bị lãng quên trong xã hội hôm nay đặc biệt là lòng biết ơn.
Trong xã hội hôm nay, cùng với sự bành trướng của chủ nghĩa cá nhân, lòng biết ơn ấy đang
vắng bóng dần trong cuộc sống. Hậu quả là tình liên đới giữa người với người đang trở nên lỏng
lẻo và dễ dàng đổ vỡ trước sức tấn công của văn hóa hưởng thụ, thực dụng: nếp sống gia đình
truyền thống bị đe dọa, tình làng nghĩa xóm ngày càng phai nhạt, đặc biệt nơi các thành thị; con
người ngày càng tự cô lập mình để bảo vệ lợi ích cá nhân.59
Không chỉ liên hệ giữa người với người bị ảnh hưởng mà liên đới giữa con người và vũ
trụ cũng không còn được lưu tâm: thiên nhiên không còn là bạn mà chỉ là nơi để đáp ứng những
nhu cầu của con người … Khi người ta không thấy và không trân trọng những gì họ đã lãnh nhận
thì mọi sự xảy ra chỉ là một điều tất yếu của thị trường có mua có trả, không ai mắc nợ ai vì “ở
đời không ai cho không ai cái gì bao giờ”. Khi người ta không còn thấy “mắc nợ” ai về bất cứ
điều gì thì lòng biết ơn không còn được lưu ý tới. Khi đó, sự công bằng giao hoán được coi trọng
nhưng công bình bác ái và thái độ biết ơn đã bị lãng quên.
4. Thiếu vắng những giá trị tâm linh
Khi nghiên cứu về đời sống tôn giáo của người Việt, học giả L.Cadière đã viết: “Phải
thừa nhận rằng, người Việt nói cho đúng sống trong thế giới siêu nhiên … Nơi người Việt ở các
giai tầng xã hội, tâm thức tôn giáo thể hiện một cách mãnh liệt và chế ngự toàn bộ cuộc sống con
người”. Nhận định trên đây của học giả L.Cadière cho thấy, đời sống của người Việt từ xa xưa
luôn có yếu tố tâm linh. Những yếu tố này được thể hiện qua các tín ngưỡng dân gian và gắn bó
với con người trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Do đó, như Giáo sư Hoàng Quốc Hải, chúng
ta có thể khẳng định rằng, “Tâm linh và văn hóa tâm linh đeo đẳng và tồn tại cùng với sự tồn tại
của loài người từ thời huyền sử cho tới ngày nay như một định mệnh … tâm linh là một nhu cầu

58
NGÔ ĐỨC THỊNH, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và
hội nhập, tr. 260
59
HẠNH TỬ, Lòng biết ơn trong tín ngưỡng dân gian, trích trong https://www.vanthoconggiao.net/2022/05/long-
biet-on-trong-tin-nguong-dan-gian.html, truy cập ngày 26/10/2022
30
bức thiết đối với nhân loại, không trừ một dân tộc nào. Bởi nó chính là yếu tố tạo ra sự cân bằng
sinh thái về mặt tinh thần của nhân loại”.
Bước vào nền kinh tế toàn cầu hóa, cùng với sự chi phối của chủ thuyết vô thần cộng
sản, Việt Nam chọn chủ trương phát triển kinh tế làm trọng tâm trong những nỗ lực đầu tư chiến
lược. Các tôn giáo ở Việt Nam đang mất dần ảnh hưởng hoặc bị xem là lạc hậu, là niềm tin của
những người dân ít học và chỉ là sản phẩm của sự mê tín và sự yếu đuối. Nhiều người xem tôn
giáo chỉ là thứ mê tín, là lạc hậu và cản trở sự phát triển của khoa học, nên muốn loại trừ tôn giáo
ra khỏi cuộc sống, nghĩa là đề cao đời sống vật chất trên đời sống tâm linh. Dường như khái
niệm tâm linh đối với họ chỉ là một cái gì đó mơ hồ, thậm chí là vô nghĩa đối với cuộc sống thực
tế. Có thể nói rằng, tôn giáo là thành lũy bảo vệ những giá trị luân lý và đạo đức tự nhiên cũng
như truyền thống. Chính nhờ những giá trị tôn giáo, mà trong suốt dòng lịch sử, những giá trị
đạo đức truyền thống như lòng quý trọng sự sống, sự chung thủy trong hôn nhân, tình thương
người … được gìn giữ và phát huy, bởi bao lâu còn ý thức tâm linh, người ta còn quan tâm đến
việc làm lành lánh dữ nhờ niềm tin vào sự thưởng phạt hay đơn thuần là tuân theo luật tự nhiên
được ghi khắc trong thâm tâm họ.
Thế nên, trong xã hội hôm nay, khi người ta đã bất chấp tôn giáo hoặc thờ ơ với tôn
giáo, thì thành lũy cuối cùng này đã bị phá đổ. Điều này lý giải tại sao những văn hóa ngoại lai
và những thứ chủ nghĩa độc hại dễ dàng xâm nhập vào đời sống xã hội. Những giá trị đạo đức,
luân lý truyền thống bị xem nhẹ hoặc bị cho là cản trở sự thăng tiến cá nhân.
CHƯƠNG V: VỀ NGUỒN ĐỂ SỐNG LÒNG BIẾT ƠN

I. NHỮNG HƯỚNG ĐI CẦN ĐƯỢC PHÁT HUY


Quả thật, có thể khẳng định lòng biết ơn luôn có một giá trị bất biến, giá trị thời sự, nghĩa là
lòng biết ơn vẫn còn có giá trị với xã hội hôm nay, vì lòng biết ơn là một giá trị nhân bản, tinh
thần và nhất là, lòng biết ơn là một giá trị giáo dục. Vậy đâu là những giải pháp để có thể xây
dựng được một nền giáo dục về lòng biết ơn cho người dân Việt, cách riêng là thế hệ trẻ trong
thế giới hiện đại hôm nay?
1. Tìm lại giá trị của lòng biết ơn
1.1 Giá trị nhân bản
Văn hoá Việt Nam mang đậm nét chữ Nhân, mà lòng biết ơn là một biểu hiện. Ngày nay
dù nền kinh tế thị trường có làm cho con người đề cao vật chất nhưng lòng biết ơn không bao giờ
mất đi vị trí của nó trong đời sống con người cũng như trong văn hoá dân tộc. Lòng biết ơn là
một thái độ nhân bản cần phải có trong cách cư xử giữa người với người. Trong xã hội văn minh
hôm nay, người ta luôn coi trọng và đề cao những nguyên tắc nhân bản như điều kiện để đối
thoại. Mà lòng biết ơn chính là một trong những thái độ hành xử rất tốt đẹp, nó khiến người ban
31
ơn cảm thấy công khó của họ được đón nhận và trân trọng, nhờ đó mà họ mở lòng ra, và ngược
lại nó khiến người đón nhận cảm thấy vui vì biết rằng họ được quan tâm, được giúp đỡ. Lòng
biết ơn khi đó trở thành một món quà mà người đón nhận trao lại cho người đã giúp đỡ họ.
Chính ở điểm này mà lòng biết ơn xoá nhoà khoảng cách giữa hai người, xoá đi sự phân biệt
đẳng cấp.
Chính vì thế mà các nhà tâm lý luôn đề nghị chúng ta sử dụng lòng biết ơn trong cuộc
sống hằng ngày như một nghệ thuật sống vui, sống đẹp. Ngày nay nghiên cứu sâu rộng về cảm
thức biết ơn đang trở thành một lãnh vực thu hút sự chú ý của nhiều nhà tâm lý học, vì những tác
động rõ rệt của cảm thức biết ơn đến thái độ sống của một con người, “Lòng biết ơn được hình
thành trong cuộc sống và tạo nên bản chất tích cực và hướng thiện của con người nói chung.
Người biết ơn dễ nhận thấy sự hào phóng nơi người khác và thường hành động nhân ái hơn.” 60
Cũng theo, tác giả Trương Thị Khánh Hà thì sự hài lòng với cuộc sống có tương quan thuận với
lòng biết ơn.61
Chính vì lòng biết ơn có giá trị nhân bản cao đẹp như thế, nên tác giả Hoàng Thanh
Minh đã mời gọi mọi người thực hiện nếp sống nhân bản qua lời cám ơn: “Hai tiếng cám ơn có
giá trị tâm lý và tình cảm khá sâu sắc. Nó thể hiện nhân cách của một người học thức biết hoà
đồng với mọi tầng lớp, lứa tuổi và còn là lực hút mọi người tới cộng tác hay gần gũi trong mọi
trường hợp với mình... Hai tiếng cám ơn không đơn thuần là lễ phép trong xã giao, dịch vụ mà
còn là động lực lôi cuốn người khác đến với mình, ngày càng nhiều thêm. Những tiếng cám ơn
trong xã giao và dịch vụ luôn luôn có ý nghĩa nồng thắm và khôn ngoan. Đó còn là những tiếng
dịu dàng, thân ái của người lịch duyệt mà một người có ý thức cần phải để ý tới.”62
1.2 Giá trị tinh thần
Người Việt Nam thường tự hào là dân tộc đề cao tinh thần hơn vật chất, điều đó được
thể hiện qua những thành ngữ, tục ngữ mang đậm tính triết lý sống kiểu “giấy rách phải giữ lấy
lề”, “đói cho sạch, rách cho thơm” … Thế nhưng, trong xã hội thực dụng và tiêu dùng hôm nay,
liệu bài học truyền thống này còn có giá trị? Thiết nghĩ, trong mọi thời đại, những giá trị tinh
thần vẫn luôn được đề cao dù ở hình thức khác nhau, trong đó, giá trị tinh thần vẫn được xem là
một yếu tố nổi bật của đời sống xã hội, nên lòng biết ơn, một giá trị tinh thần, vẫn luôn có một
chỗ đứng quan trọng.
Không chỉ dừng lại nơi những tương quan nhân bản, tức là xây dựng tình thân ái giữa
người với người, lòng biết ơn còn là một giá trị tinh thần. Bởi theo linh mục Nguyễn Ngọc Thế
S.J, “lòng biết ơn gắn liền với chính tình yêu thương, mà thực sự điều đáng kể nhất trong cuộc

60
TRƯƠNG THỊ KHÁNH HÀ, Lòng biết ơn và sự hài lòng với cuộc sống, trích trong Tạp chí Tâm Lý Học, số 5 –
2019, tr. 17 -18
61
TRƯƠNG THỊ KHÁNH HÀ, Lòng biết ơn và sự hài lòng với cuộc sống, tr. 22
62
HOÀNG THANH MINH, Văn hóa cuộc sống, nxb Lao Động, 2005, tr. 52 - 53
32
sống này chính là tình yêu”.63 Như vậy, ở đây tác giả đã đồng hoá lòng biết ơn với tình yêu, mà
tình yêu là một giá trị tinh thần. Do đó, chúng ta cũng dám khẳng định rằng, lòng biết ơn là một
giá trị tinh thần, một giá trị luôn được xã hội đề cao. Chúng ta có lý do để khẳng định như vậy, vì
lòng biết ơn thực sự chỉ xuất phát từ một tâm hồn tràn ngập yêu thương. Biết ơn không chỉ là lịch
sự mà nó gắn liền với lòng yêu thương. Cám ơn nhiều bao nhiêu thì tình yêu thương càng nhiều
bấy nhiêu. Tình yêu này hướng về đối tượng đã giúp đỡ tôi và tôi tri ân họ bằng tất cả con tim,
và như vậy cũng có thể nói rằng tôi đang yêu mến họ. Khi nói tình yêu gắn liền với lòng biết ơn,
có nghĩa là tình yêu nảy sinh và tăng triển hay không cũng một phần do lòng biết ơn, và ngược
lại, vô ơn sẽ là một thái độ quay mặt đi và lãnh đạm trước “nhận và cho của tình yêu”. Lòng biết
ơn vì thế trở thành một hàng rào của tình yêu và của ban tặng.
Như vậy, lòng biết ơn vừa là chiếc cầu nhân bản giúp người gần người, vừa là sợi dây
tình yêu liên kết con người chặt chẽ với nhau. Thế nên ai luôn sống biết ơn thì người đó cũng
đang sống trong tương quan mật thiết với con người. Biết ơn làm nảy sinh bầu khí yêu thương,
một tinh thần chung với nhiều cảm thông và sẵn sàng chia sẻ. Vì thế, một xã hội mà trong đó
mọi người đều ý thức sống tinh thần biết ơn nhau, thì xã hội đó sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Cũng
vậy, thế giới này sẽ hiệp nhất, sẽ tràn ngập tình yêu và sự bình an nếu ai ai cũng nuôi dưỡng và
thực thi lòng biết ơn chân chính.
1.3. Giá trị giáo dục
Giáo dục là một giá trị được mọi thời đại coi trọng như một yếu tố để xây dựng và phát
triển xã hội, nhất là đòi hỏi của thời đại hôm nay khi giáo dục con người theo hướng toàn diện
“Thể dục - Đức dục - Trí dục - Mỹ dục”. Muốn thành công trong giáo dục, người ta thường vận
dụng phương cách giáo dục bằng truyền thống kết hợp với những kiến thức hiện đại. Những giá
trị truyền thống giúp con người hiểu về truyền thống văn hoá dân tộc để rút ra những tinh tuý
cho cuộc sống, những kiến thức hiện đại trang bị cho con người hành trang để sống trong một thế
giới hiện đại. Trong xã hội Việt Nam, vấn đề giáo dục truyền thống vẫn thường được quan tâm
như một phương thế để bảo vệ và phát huy truyền thống dân tộc, cách riêng lòng biết ơn chính là
một giá trị giáo dục cần được đề cao.
Lòng yêu người, lòng quý trọng sự sống được diễn tả nơi Tín ngưỡng Phồn Thực cũng là
một ý nghĩa giáo dục về việc tôn trọng sự sống của con người. Lòng biết ơn dạy cho người ta
hiểu rằng, con người không tự nhiên xuất hiện trên đời này và họ không thể tự tay đáp ứng mọi
nhu cầu của cuộc sống. Nói tóm, con người được sinh ra và được sống trong sự bao bọc, bởi
công ơn của biết bao người. Chính vì thế, những ai ý thức được điều này sẽ phải sống xứng đáng,
sống đẹp với những gì họ đang có và biết ơn những ai đã góp phần vào cuộc sống của họ.

63
NGUYỄN NGỌC THẾ, Lòng biết ơn, trích trong http://www.donghanh.org/baodh/2001/2001-02/2001-
02_long_biet_on.htm, truy cập ngày 26/10/2022
33
Lòng biết ơn mà hai tín ngưỡng Thờ Trời và Thờ kính Tổ Tiên ẩn chứa giáo dục con người
về ý nghĩa cuộc sống và trách nhiệm làm người. Hai tín ngưỡng này nói lên hai nguồn gốc của
con người: nguồn gốc thiêng liêng là sự sống mà họ nhận được từ thượng đế và nguồn gốc tự
nhiên là sự sống họ nhận được từ ông bà, cha mẹ. Điều này làm cho họ cảm nhận được sự kỳ
diệu và linh thiêng nơi sự sống mà họ đang có. Từ đó, họ biết sống có ý nghĩa và khám phá
những nét đẹp, những ý nghĩa kín ẩn và nhỏ bé nhất trong mọi khía cạnh của cuộc sống, để họ
luôn có thể ngạc nhiên, trầm trồ và hân hoan khi đối diện với bao sự kiện diễn ra hằng ngày. Tất
cả mọi sự đều có ý nghĩa đối với những ai có lòng biết ơn. Họ là những người có một tinh thần
mạnh mẽ và quảng đại, bởi lòng biết ơn dạy cho họ nhận ra cả thế giới này là những món quà
được trao cho họ, thì họ cũng sẽ biết cho đi cách dễ dàng những gì họ đang có: một nụ cười, một
ánh mắt yêu thương hay một chút của cải vật chất…
2. Điều chỉnh sự lệch lạc của các giá trị vốn có
2.1 Góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương
Thế giới hôm nay được xem là một thế giới văn minh, nghĩa là một thế giới phát triển
về mọi mặt: kinh tế, chính trị và nhất là khoa học kỹ thuật. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
giải phóng con người khỏi những vất vả của đời lao động thủ công, cung cấp cho con người
những phương tiện hiện đại, tiện nghi, thoải mái. Tuy nhiên, thế giới văn minh ấy cũng đồng thời
đang cổ xuý cho các chủ nghĩa duy vật chất, duy hưởng thụ, cá nhân. Vì đề cao giá trị của vật
chất, vì muốn có một cuộc sống tiện nghi và văn minh, con người ngày nay vội vã, hối hả lao vào
kiếm tiền, và có tiền rồi thì lao vào hưởng thụ. Trong khi đó, đời sống tinh thần hoặc bị quên lãng
hoặc bị vật chất hoá khiến cho đời sống con người trở nên khô cằn và thiếu vắng tình người, tình
yêu. Ở đó, mọi giá trị đạo đức bị coi nhẹ: tình yêu và hôn nhân bị xem thường, sự sống không
được quý trọng … được thể hiện qua tình trạng ly dị và phá thai tràn lan, khiến Việt Nam bị xếp
vào hạng thứ 3 trong những nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới. 64 Có lẽ nguyên nhân chính yếu
dẫn đến hậu quả này là do xã hội đang thiếu vắng tình thương.
Để điều chỉnh tình trạng này, nhu cầu cấp bách là phải tái lập mối dây tình thương trong
xã hội, cần xây dựng một nền văn minh tình thương. Văn minh tình thương là một nền văn minh
được xây dựng bằng tình yêu. Trong đó, đối tượng được quan tâm hàng đầu chính là con người
với trọn vẹn phẩm giá của nó. Phẩm giá ấy cần được tôn trọng, bảo vệ xứng đáng, và cổ võ xây
dựng. Nhưng làm sao lòng biết ơn có thể góp phần xây dựng nền văn minh này? Lòng biết ơn
truyền thống luôn mang một ý nghĩa nhằm diễn tả tình yêu đối với thần linh, với con người và
với thiên nhiên. Có nghĩa là, lòng biết ơn vừa là một giá trị tâm linh, vừa là một giá trị nhân bản.
Lòng biết ơn nối kết con người lại với nhau bằng cách làm cho họ hiểu rằng con người cần đến

64
Xem trong https://nld.com.vn/suc-khoe/viet-nam-la-1-trong-3-nuoc-pha-thai-nhieu-nhat-the-gioi-
20160926103740408.htm
34
nhau trong cuộc sống. Nhu cầu sống còn và xã hội tính nơi con người không cho phép họ tự biến
mình thành ốc đảo, nhưng phải hoà mình, phải dấn thân vào thế giới. Và khi dấn thân như vậy,
con người biết rằng họ đang sống với và sống cho người khác. Lòng biết ơn là một thái độ đương
nhiên phải có nơi những tâm hồn biết yêu thương.
Trong tín ngưỡng phồn thực, lòng biết ơn sự sống chính là thể hiện tình yêu thương và
quý trọng sự sống nơi dân tộc Việt Nam: biết ơn trời vì được ban cho sự sống, được hiện hữu
trên đời. Bất kỳ ai khi ý thức được giá trị của sự sống họ đang có sẽ biết quý trọng sự sống của
chính mình và của tha nhân. Sự sống của một thai nhi là kết quả của tình yêu mà vợ chồng dành
cho nhau, hay của hai người yêu nhau. Do vậy, hành động phá thai có thể xem là sự chối bỏ tình
yêu, chối bỏ sự hiến dâng và trao ban của hai người. Người ta chỉ có thể có tình yêu đích thực,
một tình yêu trong sáng và vô vị lợi khi đón nhận sự sống như dấu chỉ của tình yêu. Để được như
vậy, người ta cần phải tái khám phá lòng biết ơn trong sự trao ban của tình yêu, trong sự sống
của thai nhi mà người ta vừa góp phần tạo nên.
Cũng vậy, nguyên nhân sâu xa của những tranh chấp, hận thù trong gia đình và ngoài xã
hội đều khởi đi từ sự thiếu vắng tình yêu. Người ta không nhìn thấy tha nhân là người hỗ trợ
nhưng là những kẻ cạnh tranh. Tha nhân không mang lại điều gì tốt đẹp cho tôi mà chỉ là một sự
đe doạ đến quyền lợi của tôi. Nền văn minh tình thương mà lòng biết ơn xây dựng khởi đi từ sự
tôn trọng phẩm giá con người. Thế giới này được dựng nên cho con người và chỉ có ý nghĩa khi
có con người. Thế nên con người là trọng tâm của thế giới chứ không phải cái gì khác. Lòng biết
ơn nhắc nhở chúng ta rằng, sự sống và phẩm giá con người là một điều kỳ diệu, một món quà
tuyệt vời chúng ta nhận được từ Tạo Hoá. Do đó, chúng ta phải biết tôn trọng sự sống và phẩm
giá của chính mình cũng như của tha nhân. Nếu như tương quan giữa người với người không bị
đặt trên cán cân của quyền lợi cá nhân, nhưng trên tình yêu và sự tôn trọng biết ơn lẫn nhau, thì
xã hội sẽ tốt đẹp, hiệp nhất, mọi người thành anh em một nhà như ước mong của Khổng Tử “Tứ
hải giai huynh đệ”.
Lòng biết ơn là môi sinh của tình yêu, nên khi tình yêu nảy sinh và phát triển thì tình
người trong xã hội cũng trở nên ấm áp và thân thiết hơn: “Lòng biết ơn giúp cho tương quan
được sâu xa hơn, giúp cho tình yêu được triển nở hơn, giúp cho thế giới đỡ thê lương hơn và
giúp cho mỗi người nhận ra được chính mình nhiều hơn, để yêu đời hơn, yêu người hơn”. 65 Một
khi xã hội đạt đến mức độ này thì nền văn minh tình thương sẽ hoàn hảo. Thực tế là trong xã hội
và thời đại nào, người ta cũng mong muốn đạt tới một tình trạng an bình như thế, và thiết nghĩ
nếu mọi người đều biết sống tinh thần biết ơn thì nền văn minh tình thương sẽ được thiết lập.

65
HẠNH TỬ, Lòng biết ơn trong tín ngưỡng dân gian, trích trong https://www.vanthoconggiao.net/2022/05/long-
biet-on-trong-tin-nguong-dan-gian.html, truy cập ngày 26/10/2022
35
2.2 Khơi gợi những giá trị tâm linh
Truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc Việt Nam đã cho thấy đời sống người
Việt đượm nhuần trong bầu khí tâm linh. Biểu tượng tâm linh của người Việt dễ dàng được nhìn
thấy qua những Am, Miếu, Chùa, Chiền, Đình Làng ở khắp nơi từ thôn quê đến thành thị. Bầu
khí tâm linh ấy đã góp phần hình thành nên tính cách con người cũng như văn hoá Việt Nam.
Thế nhưng, cùng với sự phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật, ngày nay xã hội Việt Nam đang
chứng kiến một sự “tan loãng” của bầu khí tâm linh truyền thống. Những giá trị vật chất đã khiến
một số người bị rơi vào hai thái cực hoặc thờ ơ với tôn giáo hoặc mê tín đến độ dị đoan. Hiện
nay, hai hình thức này đang lan rộng và cần được đặt vấn đề một cách cụ thể. Trong hai hình
thức này, sự thờ ơ với tôn giáo là đáng quan tâm hơn cả, sự thờ ơ này khiến người ta không còn
quan tâm đến vấn đề tâm linh nữa. Nguyên nhân của sự thờ ơ này một phần là do sự phát triển
của khoa học kỹ thuật. Những thành tựu của khoa học đã làm cho người ta nghĩ rằng thế giới này
không có gì bí ẩn và siêu nhiên hết. Niềm tin tâm linh chỉ là một sự ấu trĩ của những người vô
học và với họ, khoa học kỹ thuật, kinh tế vật chất mới là điều kiện để xây dựng con người và xã
hội, còn tôn giáo chỉ là “thuốc phiện mê dân”, hay chỉ là một thứ trang sức của những người
thích hoài cổ. Thực trạng này đáng lo ngại đến nỗi học giả Hoàng Quốc Hải đã phải thốt lên:
“Con người Việt Nam dường như không còn gì để yêu thương và kính sợ … mất tâm linh, con
người không còn nơi gửi gắm, tôn giáo không còn thì dân chúng bị bơ vơ. Rõ ràng là con người
đã dại dột phá bỏ đền đài của tâm linh, cũng là phá bỏ đi nơi trú ngụ của tâm hồn mình”.
Trong tình trạng đó, lòng biết ơn nơi các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam
là một lời mời gọi tái khám phá những giá trị tâm linh. Những lễ hội, nghi lễ và tâm tình của các
tín ngưỡng đưa con người đi vào sự trầm lắng của chiều sâu tâm linh. Trong đó, lòng biết ơn
trong tín ngưỡng thờ tổ tiên giúp người ta suy tư về cuộc đời để thấy rằng con người hiện hữu
trên đời không phải nhờ vật chất nhưng nhờ tình yêu sự sống của cha mẹ và tổ tiên; sự phát triển
nhân cách, đạo đức và tri thức của con người không do khoa học kỹ thuật và vật chất mang lại
nhưng là được hấp thụ bởi sự giáo dục đầy yêu thương của gia đình và tình người của những con
người cụ thể trong xã hội.”66 Thế nên, cuộc đời con người được kết dệt bởi một chuỗi dài những
yêu thương và công ơn của người khác. Con người chỉ thực sự hoàn thiện khi biết sống tâm tình
biết ơn với những gì họ đã nhận được. Tình yêu của cha mẹ và của mọi người chúng ta không
thấy mà chỉ cảm nhận qua những gì họ thể hiện, nhưng chúng ta vẫn tin nó có thật. Thì cũng vậy,
sống trong trời đất, mỗi ngày con người đón nhận được bao hồng ân: sự sống, vẻ đẹp thiên nhiên,
ánh sáng mặt trời, những cơn mưa dịu mát … đó là những dấu chỉ, những biểu hiện của tự nhiên
mà con người cũng cần phải nhận ra để biết ơn.

66
HẠNH TỬ, Lòng biết ơn trong tín ngưỡng dân gian, trích trong https://www.vanthoconggiao.net/2022/05/long-
biet-on-trong-tin-nguong-dan-gian.html, truy cập ngày 26/10/2022
36
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nhóm tác giả Nguyễn Văn Thắng, Ngô Thị
Thanh Hương, Đỗ Ngọc Hải, Nguyễn Thị Chi đã viết: “Ý nghĩa tích cực, lâu dài của tín ngưỡng
thờ cùng tổ tiên chính là chúng ta cần hướng về tương lai, hướng về phía trước mà trong hành
trang của mỗi người là tình yêu thương, lòng nhân ái, tinh thần kiên cường vun đắp các giá trị
văn hóa đã được tổ tiên truyền lại. Sống tốt hơn, cố gắng làm tốt trách nhiệm được lịch sử, gia
đình, cộng đồng giao phó, đây cũng là cách để chúng ta tiếp tục giáo dục con cái biết phát huy
giá trị văn hóa dân tộc và làm rạng rỡ công đức, hiển vinh phúc đường mà các bậc tiền nhân dày
công bảo tồn để dạy bảo. Đó chính là ý nghĩa tốt đẹp, tích cực, lâu dài của tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên trong văn hóa dân tộc mà chúng ta, mỗi công dân Việt Nam cần có trách nhiệm giữ gìn,
phát huy...”67 Như vậy, trong tâm thức và nhân cách sống của người Việt Nam lòng biết ơn đối
với tổ tiên là một cái nhìn về thế giới bên kia vừa gần gũi vừa xa lạ với thế giới hiện thực, vừa
như ở đâu đó xa xôi lại như ở ngay bên cạnh, thậm chí thâm nhập và chi phối vào thế giới hiện
hữu của người đang sống. Đây cũng chính là giá trị tâm linh mà lòng biết ơn đối với tổ tiên đã
khơi gợi lên trong tâm hồn người Việt
II. GIÁO DỤC KITÔ GIÁO VÀ LINH ĐẠO PHAN SINH VỚI LÒNG BIẾT ƠN VÀ
VẤN ĐỀ MÔI SINH
1. Giáo dục nhân bản Kitô giáo về lòng biết ơn
Đạo Công giáo không những là đạo chỉ dạy người ta sống với những khao khát, ước
mong ở cõi thiên đàng sau cái chết, là cuộc sống mai hậu với Thiên Chúa nhưng là một tôn giáo
gần gũi và thực tế với cuộc sống con người, với thực tại nơi trần gian này. Đặc biệt, trong Kinh
Thánh, nơi truyền thống và giáo lý của Giáo Hội luôn luôn nhấn mạnh đến tương quan trong
cuộc giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên, cách riêng là dạy các Kitô hữu về
lòng biết ơn.
Là Ki-tô hữu, trước hết chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên mình
“Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta,
để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò
dưới đất. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.”” (St 1, 26 -27) và cứu
chuộc chúng ta, cùng với muôn loài muôn vật để chúng ta hưởng dùng cách nhưng không như
trong Kinh Thánh đã cho biết “Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang
hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các
ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho

67
NGUYỄN VĂN THẮNG, NGÔ THỊ THANH HƯƠNG, ĐỖ NGỌC HẢI, NGUYỄN THỊ CHI, Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt: Khái niệm và giá trị tâm linh, trích trong http://thanhdiavietnamhoc.com/tin-nguong-
tho-cung-to-tien-cua-nguoi-viet-khai-niem-va-gia-tri-tam-linh/ , truy cập ngày 28/10/2022
37
chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực.”” (St 1, 29 -30). Chính trong Kinh Thánh Thiên
Chúa cũng hướng dẫn chúng ta về việc làm tròn bổn phận của người làm con: “Cha con, con hãy
hết lòng tôn kính và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục
sinh thành, công ơn ấy con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng” (Hc 7, 27-28). Hay như Thánh Tê-
rê-sa Hài Đồng Giê-su nói: “Chúa Giê-su không đòi chúng ta làm những chuyện lớn nhưng chỉ
xin chúng ta quên mình và có lòng biết ơn”. Điều răn thứ Tư Thiên Chúa đã phán dạy “Thảo
kính cha mẹ”, còn trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã quả quyết và hướng dẫn mỗi
người về việc làm tròn bổn phận của người làm con, “Lòng tôn kính cha mẹ dựa trên sự biết ơn
đối với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của mình, đã sinh ra
con cái mình, giúp chúng có khả năng lớn lên về tuổi tác, về sự khôn ngoan và ân sủng.” 68 Chẳng
những thế, Giáo lý còn đề cập đến biểu hiện của lòng hiếu thảo khi nhấn mạnh đến phận làm con
phải sống ngoan ngoãn, và vâng phục chân thành “Bao lâu còn chúng sống với cha mẹ, con cái
phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy lên quan đến lợi ích của bản thân hoặc của gia đình” 69 và phải
hết lòng phụng dưỡng cha mẹ về vật chất và tinh thần trong những năm tháng tuổi giả và bệnh
tật của các ngài “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống,
chớ làm người buồn tủi” (Hc 3, 12). Lòng biết ơn còn được mở rộng ra đối với những người đã
giúp đỡ mình lãnh nhận hồng ân đức tin, ân sủng của Bí tích Rửa tội và sự sống trong Hội
Thánh70.
Tóm lại, trong việc giáo dục nhân bản Kitô giáo cũng như lời mời gọi của Thiên Chúa
và của Hội Thánh, thì mỗi người Ki tô hữu cần: Biết đón nhận với lòng biết ơn tất cả những gì
Thiên Chúa nói qua Lời Ngài, và những gì Người gửi đến cho ta, biết tạ ơn trong mọi hoàn cảnh
vì các thánh của Thiên Chúa không phí sức vào việc càm ràm, chửi rủa mà luôn hân hoan bước
đi trên con đường thánh giá “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là
điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1Tx 5, 18). Ngoài ra, để làm tròn bổn phận đạo
hiếu thì mỗi người cần phải yêu mến, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ khi còn
sống. Còn khi cha mẹ qua đời phải lo an táng cầu nguyện và xin lễ, anh chị em cần sống yêu
thương, hòa thuận với nhau.71 Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng của Ngài đã khẳng định:
“...một lòng biết ơn lan tỏa, giúp mỗi người chúng ta biết ơn những người quan tâm đến nhu cầu
của chúng ta. Khi ai đó ban tặng cho chúng ta điều gì, chúng ta không được nghĩ rằng chúng ta
xứng đáng với điều này. Lòng biết ơn, trước hết đó là dấu hiệu của một nền giáo dục tốt, nhưng
đó cũng là đặc điểm của người Kitô hữu. Nó đơn giản nhưng là dấu hiệu chân thực của Nước
Thiên Chúa - vương quốc của lòng biết ơn và tình yêu nhưng không”.

68
ỦY BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, nxb Tôn Giáo, 2010, số 2215, tr. 628
69
ỦY BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2217, tr. 628
70
ỦY BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2220, tr. 629
71
NGUYỄN CAO DŨNG, Nhân bản Kitô giáo, nxb Tôn Giáo, 2022, tr. 102
38
2. Lòng biết ơn theo linh đạo Phan Sinh và vấn đề môi sinh
Trong tư tưởng của Thánh Phanxicô Assisi thì lòng biết ơn đối với Thiên Chúa - Đấng
là nguồn mọi sự tốt lành chiếm một vị trí quan trọng. Bởi chính Thánh nhân, khi đã trải qua
những cố trong cuộc đời hoán cải của mình, với cảm nghiệm về những ân ban mà Thiên Chúa đã
ban cho Ngài, với đôi mắt chiêm ngưỡng sâu xa nơi các thọ tạo Ngài nhận thấy lòng yêu thương
vô bờ bến của Đấng Nhân Lành dành cho con người, cho các thọ tạo. Xuyên suốt tư tưởng trong
tác phẩm của vị Thánh nghèo thành Assisi là niềm cảm mến tri ân, biết ơn và lời tạ ơn dâng lên
Thiên Chúa: “Chúng ta hãy dâng trả mọi sự tốt lành về cho Chúa là Thiên Chúa tối cao và chí
tôn, và hãy biết rằng mọi sự tốt lành là của Người và hãy tạ ơn Người về mọi sự, vì mọi sự tốt
lành đều phát xuất từ nơi Người.” 72 Trong thư gửi các nhà lãnh đạo nhân dân, thánh Phanxicô
cũng nhắn nhủ những người có trách nhiệm nhiệm phải “nhờ một nhân viên rao lệnh hoặc một
dấu hiệu nào khác thông báo cho toàn dân biết bổn phận ngợi khen và tạ ơn Chúa là Thiên Chúa
toàn năng.”73 Và đặc biệt hơn nữa, trong Luật không sắc chỉ, thánh nhân đã dành một chương
XXIII để nói về: Lời cầu nguyện và tạ ơn. Như thế, di sản mà Thánh Phanxicô để lại cho những
người yêu mến Ngài và toàn thể Kitô hữu là lời nhắn nhủ hãy sống biết ơn với Đấng Tạo Hóa, từ
đó lan tỏa ra tấm lòng biết ơn đối với toàn thể nhân loại và tạo thành.
Trong khi đề cập đến lòng biết ơn trong tín ngưỡng sùng bái tự nhiên cũng như việc đề
cao giá trị vật chất nơi người Việt hiện nay, thì một khía cạnh được nói đến chính là việc con
người ngày hôm nay đang khai thác cạn kiệt và tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ. Điều đó
dẫn đến những thảm họa mà con người phải gánh chịu ngày càng gia tăng. Con người không còn
biết ơn mẹ thiên nhiên đã ban cho họ hoa màu ruộng đất, sinh vật cỏ cây hoa lá để con người
hưởng dùng... Không nằm ngoài những vấn đề mà nhân loại đang phải đối mặt do xu hướng kinh
tế, toàn cầu hóa hiện nay, Hội Thánh Công Giáo cũng như nhiều tôn giáo khác đã có những quan
tâm, hướng dẫn về việc tôn trọng, bảo vệ và giữ gìn môi sinh. Được gợi hứng từ tư tưởng của
thánh Phanxicô Assisi - “con người của tình huynh đệ”, coi tất cả các thọ tạo trên trần gian đều
như người họ hàng, mà ngài gọi là: anh mặt trời, chị mặt trăng, chị sao, các anh gió, không khí,
mây trời, anh lửa, chị nước, mẹ đất, và chị chết, thì ngày 24/5/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã
ban hành Thông điệp Laudato’Si về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Theo đó, khi
đứng trước những khủng hoảng về môi trường hiện nay, Đức Thánh Cha mời gọi “chúng ta cần
phải thay đổi thói quen tiêu dùng, phê bình não trạng thực dụng, tìm cách khôi phục các cấp độ
khác nhau của cân bằng sinh thái: trong nội tâm với chính mình, trong liên đới với người khác,

72
THÁNH PHANXICÔ ASSISI, Tác phẩm của Thánh Phanxicô Assisi, Văn phòng tỉnh Dòng, dịch giả Nguyễn
Văn Khanh, 2015, tr. 197
73
THÁNH PHANXICÔ ASSISI, Tác phẩm của Thánh Phanxicô Assisi, tr. 117
39
với thiên nhiên...và với Thiên Chúa.”74 Cũng trong thông điệp này, Đức Thánh Cha đã đề cao về
việc giáo dục sinh thái:
Những lãnh vực phổ biến giáo dục này rất khác nhau: trường học, gia đình, các phương tiện thông tin,
các lớp giáo lý và nhiều lãnh vực khác. Một sự giáo dục tốt ở trường học khi các em còn bé sẽ gieo được
nhiều hạt giống sản sinh những hiệu quả trong suốt cuộc đời.... Chống lại thứ văn hoá của sự chết, gia
đình là cái nôi cho văn hoá sự sống. Trong gia đình, người ta giúp phát triển những thói quen đầu tiên
của tình yêu và chăm sóc cho cuộc sống, tỉ như việc sử dụng đúng đắn các vật dụng, trật tự và vệ sinh
cho cuộc sống, chú ý đến hệ thống môi sinh địa phương và bảo vệ tất cả sinh vật đã được sáng tạo. Gia
đình là nơi giáo dục trọn vẹn, nơi những giai đoạn khác nhau của một sự trưởng thành cá nhân được
diễn ra, liên kết chặt chẽ với mọi người. Trong gia đình, người ta học hỏi để biết xin phép, để không xúc
phạm đến kẻ khác, tiếng nói “cám ơn” như sự biểu lộ một sự đánh giá đúng đắn điều mà chúng ta lãnh
nhận, làm chủ sự tấn công và bạo lực, và học biết xin lỗi, khi chúng ta gây một điều gì tai hại. Những
hành động nhỏ bé này sẽ giúp chúng ta lễ phép, một thứ văn hoá của đời sống chung và sự tôn trọng với
tất cả những gì xung quanh chúng ta.75
  Trong bản tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo đã chỉ ra 10 điều nhằm
giáo dục mỗi thành phần dân Chúa tầm quan trọng của việc bảo vệ môi sinh. Theo đó, chúng ta
cần: sử dụng và chăm sóc các thọ tạo một cách có trách nhiệm; thiên nhiên không được khai thác
quá mức, cũng không tuyệt đối hóa hoặc đặt trên phẩm giá con người; khai thác, cải tạo thiên
nhiên cần nhắm đến cho các thế hệ tương lai; trong việc xử lý các vấn đề môi trường, đạo đức và
phẩm giá con người phải được đặt trước công nghệ; con người cần biết tôn trọng vị trí của các
sinh vật trong hệ sinh thái; chính sách phát triển phải được phối hợp hài hòa với các chính sách
sinh thái; vấn đề xóa đói giảm nghèo cần tôn trọng môi trường; các quyền về một môi trường an
toàn cần được bảo vệ thông qua các hợp tác quốc tế; loại bỏ chủ nghĩa tiêu thụ; cần có sự đáp trả
tâm linh vì thế giới này là một món quá của Thiên Chúa.76
Như vậy, trong việc giáo dục nhân bản Kitô giáo về vấn đề môi sinh, mỗi vị hữu trách,
mỗi Kitô hữu cần ý thức và giáo dục lẫn nhau cách riêng là cho các thế hệ trẻ rằng: Trái đất là
ngôi nhà chung của mọi người, thiên nhiên có tầm quan trọng sống còn trong cuộc sống của con
người và các loài sinh vật, chúng ta cần sống với lòng biết ơn về những gì Thiên Chúa đã trao
ban. Tiết kiệm gas, điện, nước trong đời sống hàng ngày, không sử dụng thuốc trừ sâu trong
nông nghiệp, không xả rác bừa bãi...

74
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, Thông điệp Laudato’Si, số 210
75
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, Thông điệp Laudato’Si, số 213
76
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tóm lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công
Giáo
40
CHƯƠNG VI: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Lòng biết ơn đã trở thành một nét đẹp trong nhân cách con người Việt Nam trong suốt
chiều dài của lịch sử dân tộc. Đồng thời, lòng biết ơn chính là sợi dây nối kết giữa người với
người, giữa con người với thiên nhiên, và giữa con người với Đấng Hóa Công. Xã hội Việt Nam
hôm nay tưởng chừng như đang bị thống trị bởi một thứ văn hoá ngoại lai đề cao vật chất, đề cao
tự do cá nhân mà chối bỏ những giá trị tinh thần truyền thống. Như một quy luật của lịch sử, mọi
thứ phải thay đổi để phù hợp với lối sống của mỗi thời đại, những giá trị truyền thống cũng cần có
một sức sống mới trong dòng chảy cuộc sống hôm nay. Cũng thế, trong tâm lý của người Việt hiện
đại tuy có những biến chuyển nhưng lòng biết ơn vẫn luôn có một chỗ đứng vững chắc và là một
niềm tự hào về truyền thống dân tộc. Chúng trở nên như mạch nước ngầm tưới mát xã hội hiện đại
phong phú về vật chất kỹ thuật nhưng lại khô cằn về tinh thần và tâm linh. Dù cho con người ngày
nay có đề cao những giá trị vật chất, sự hưởng thụ nhưng những giá trị cốt lõi nhân văn về đạo làm
41
người vẫn còn sống mãi, chính giá trị và sức sống của lòng biết ơn sẽ giúp cho nhân cách Việt
được vươn xa, vươn cao trong xã hội đa phương hóa, toàn cầu hóa như hiện nay. Như vậy, những
giả thuyết mà người nghiên cứu đưa ra phù hợp với những gì mà bài viết trinh bày.
Trên đây là một cố gắng của người viết để thử tìm hiểu và trình bày về lòng biết ơn
trong truyền thống của người dân Việt Nam được diễn tả qua các Tín Ngưỡng Dân Gian, trong
tương quan với những giá trị thời đại của xã hội, với những thách đố và khó khăn của thời đại
toàn cầu hoá hôm nay.
II. KIẾN NGHỊ - BÀI HỌC CÁ NHÂN
1. Kiến nghị
Môi trường gia đình là nơi ảnh hưởng nhiều nhất và là nơi đầu tiên để mỗi người hình
thành nên nhân cách. Nhân cách của mỗi người được phát triển như thế nào và theo chiều hướng
nào đều bắt đầu từ nơi đây. Do đó, những người làm cha mẹ phải được chuẩn bị kỹ lưỡng để
đảm nhận trách nhiệm cao trọng ấy, trên hết là phải có được sự hiểu biết cách làm cha mẹ trên
bình diện tâm lý. Giáo dục cho trẻ em lòng biết ơn ngay từ trong gia đình, hướng dẫn các em biết
nói lời cảm ơn với những người xung quanh qua những gì mà các em nhận được. Đồng thời mỗi
bậc làm cha mẹ phải ý thức, noi gương về những chọn lựa trong cuộc sống: sống hiếu thảo với
các bậc tiền nhân, thay vì chỉ chú tâm đến việc phát triển kinh tế thì cần quan tâm, động viên,
chú ý đến con cái trong việc giáo dục nhân bản.
Nhà trường là ưu tiên thứ hai và có tầm ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nhân cách của
một con người. Cũng như cha mẹ, thầy cô giáo cũng là những người cha người mẹ nên cũng cần
phải được chuẩn bị cẩn thận kỹ lưỡng những kiến thức chuyên môn và những hiểu biết về tâm lý
giáo dục để giúp cho mỗi người được phát triển cách lành mạnh.
Sau cùng là những thách đố của xã hội, để mỗi cá nhân được phát triển tích cực ở môi
trường này thì mỗi người cần được chuẩn bị ở hai môi trường trước. Hơn nữa những người có
trách nhiệm trong xã hội cần tạo điều kiện để mỗi cá nhân thực hiện đúng vai trò của mình trong
xã hội, cần đề cao những giá trị truyền thống trong xã hội hiện đại, lan tỏa những hành động yêu
thương, những nghĩa cử cao đẹp của lòng biết ơn.
2. Bài học cá nhân
Đối với bản thân người viết, thì quả thực lòng biết ơn rất quan trọng trong cuộc sống
của mình cách riêng là trong đời sống của người Anh Em Hèn Mọn hôm nay. Chính vì thế, để
xây dựng cho cá nhân cũng như người khác một lối sống biết ơn, người viết xin kiến nghị một
vài việc làm cụ thể áp dụng trong đời sống của mình như sau:
 Sống lòng biết ơn đối với Mẹ thiên nhiên - Bảo vệ và tôn trọng môi sinh

42
Việc tắm giặt: Đối với tôi, với thời gian sinh hoạt như thường lệ nơi Học viện này (trừ
trường hợp bất khả kháng), với thời tiết nóng bức như ở Sài Gòn hiện nay thì chỉ cần tắm 1 lần
vào các buổi chiều như quy định. Như thế sẽ tránh được việc phí phạm nước, hay việc sử dụng
dầu gội đầu sẽ gây ảnh hưởng tới môi trường vì trong dầu gội có những chất cần phải mất nhiều
thời gian mới phân hủy được.
Giặt đồ: theo kinh nghiệm cá nhân, thì tôi chỉ dùng chút ít để hòa vào nước, tránh cho
trực tiếp lên quần áo, nó vừa tránh lượng dư bột giặt còn lại trên đồ, cũng như trong nguồn nước
thải ra ngoài. Sử dụng lượng nước vừa đủ, tránh trường hợp xả nước tràn ra chậu, hay nhiều quá
khi giặt đồ một lượng nước sẽ bị văng ra bên ngoài, gây lãng phí.
Trong việc học: Sử dụng giấy in, giấy viết cách tối ưu, tiết kiệm bằng cách luôn viết 2
mặt, tránh việc lãng phí vứt bỏ cách vô tội vạ, vì tôi thấy có những trường hợp giấy A4 còn trắng
tinh mà đã để ở nơi lò đốt, bếp củi. Để sản xuất được một tấn bột giấy cần đến 5 m 3 gỗ và 100 m3
nước, chất tẩy trắng, như thế khi sử dụng tiết kiệm giấy là ta cũng đã góp phần vào việc tiết kiệm
nước, bảo vệ môi trường.
Sống lòng biết ơn: Biết tạ ơn Chúa khi bắt đầu một ngày mới và kết thúc một ngày, cảm
ơn khi nhận được sự giúp đỡ ( trả, mượn sách thư viện, khi được sửa bài...), sửa lỗi, nhận
quà...viết email cảm ơn, chúc mừng cho các thân, ân nhân trong dịp Giáng sinh, Tết.
 Sống lòng biết ơn đối với người khác
Cầu nguyện, hỏi thăm cho cha mẹ, anh chị em, thầy cô giáo, quý Anh đi trước, quý anh
trong Tỉnh Dòng Thánh Phanxicô, những người đã giúp đỡ bản thân trong hành trình ơn gọi.
Cố gắng sống triển nở ơn gọi để không phụ lòng những gì mình đã nhận được từ Thiên
Chúa và từ người khác.
Trân trọng gìn giữ những công trình mà các thế hệ cha anh đã để lại: Nhà Truyền Thống
Phan Sinh, Hội trường, Học Viện…Chăm sóc, cải tạo cảnh quan xung quanh.
Năng thăm hỏi, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ quý anh cao niên trong cộng đoàn, cách
riêng là trong bối cảnh nhà An Hưu Dưỡng đã được khánh thành để quý anh có thể an dưỡng
trong lúc tuổi già, bệnh tật.

43

You might also like