Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 36

1 Các nguyên lý của phép biện chứng duy vật 1. 1.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

1.1. Khái niệm

“Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau”.

“Mối liên hệ phổ biến là khái niệm chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau một cách phổ biến giữa các
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan". Hiểu một cách khái quát
về khái niệm trên, các đối tượng sự vật tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, đối tượng này “biến” thành đối tượng kia, sự
vật này “biến” thành sự vật kia. Mối liên hệ này là loại liên hệ chung nhất, phổ biến nhất. Ví dụ cụ thể biểu hiện cho
nguyên lý mối quan hệ phổ biển là trong quá trình học tập các môn xã hội và môn tự nhiên luôn “tác động. chuyển
hóa lẫn nhau", khi học môn tự nhiên chúng ta cũng cần sử dụng kiến thức môn xã hội để hỗ trợ chúng ta làm bài,
phân tích; ngược lại khi học môn xã hội chúng ta cần sử dụng tỉnh logic, hợp lý của tự nhiên để tư duy về vấn đề xã
hội
1.2. Quan điểm về nguyên lý mối liên hệ phổ biến

Quan điểm siêu hình là quan điểm phủ định nội dung nguyên lý mối liên hệ phố biến. Nguồn gốc của sự phủ nhận này
là vào thế kỷ XVII-XVIILa Tây Âu việc nghiên cứu còn rời rạc, riêng lẻ, các ngành nghiên cứu khoa học chưa được
liên kết, xâu chuỗi với nhau. Điều này dẫn đến quan điểm rằng mọi vật trên thế giới này đều đứng độc lập, không có
bất cứ tác động hay ràng buộc gì với những điều xung quanh chúng. Và một khi quan niệm rằng chúng không có mối
liên hệ nào với nhau thì sẽ không thể nhận ra được những bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng trong thể giới.

Nhưng với quan điểm biện chứng duy vật thì cho rằng mối liên hệ phổ biến giữa các đối tượng là tồn tại, “các sự vật,
hiện tượng của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, không tách biệt nhau” Sự vật, hiện tượng trong thế
giới là vô vàn nhưng sau cùng chúng cũng đều tồn tại liên hệ với nhau để tạo nên hệ thống có tính thống nhất vật
chất" của thế giới. Chính vì thẻ, chung biểu luôn bắt cả đầu, diễn ra bất cứ lúc nào và tạo ra một hệ thống có nổi liên
hệ chẳng chặt, đa dạng

1.1. Tính chất


Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng mối liên hệ phổ biến có tính khách quan Mọi sự vật, hiện tượng có mối liên
hệ khách quan, xảy ra bên ngoài con người không phụ thuộc vào nhận thức của con người và chúng “tác động, thâm
nhập, chuyển hóa lẫn nhau”. Con người chỉ có thể dựa vào các liên hệ ấy để nhận thức các hoạt động thực tiễn. Hơn
nữa, thế giới vật chất có tỉnh khách quan, mà nó là cơ sở của sự tồn tại các mối liên hệ nên đồng thời mỗi liên hệ
cũng mang tính khách quan. Ví dụ, mỗi liên hệ giữa con sâu và con bươm bướm, quá trình từ con sâu biến thành con
bướm bướm mang tính khách quan, không thể là ý thức chủ quan của con người.

Tình phổ biến của mối liên hệ không chỉ biểu hiện ngoài tự nhiên, xã hội, mà còn diễn ra trong tư duy, giữa các mặt,
quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. Tức là, các sự vật hiện tượng đều liên hệ với nhau, tạo ra một hệ thống mở",
tồn tại một cách phổ biến và luôn giữ những vai trò khác nhau trong việc vận động, chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ, mỗi
liên hệ giữa con gà - quả trứng, mối liên hệ giữa nước biển muỗi, mỗi liên hệ giữa cơ thể sống - môi trường, môi liên
hệ giữa ý thức - hành động Cho thấy là mối liên hệ là tồn tại phổ biến, bắt cử đầu, dù là vô hình hay hữu hình

-Mối liên hệ phổ biến mang tính phong phú, đa dạng. Có mỗi liên hệ về không gian và cũng có mối liên hệ về thời
gian. Có mối liên hệ chung tác động lên tác động toàn bộ toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới, có
mỗi liên hệ Tiếng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa
nhiều sự vật hiện hưng, có mối liên hệ gian tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ
bản chất, có mối liên hệ không bàn chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu

"Các mối liên hệ đó khó có thể phân loại hết và tính phức tạp cũng như đã đang

Thu phát, khi nghirit co xem xét đối ten xu tin của ct xa trong chi ti thống nhất của tốt và tiệc mặc các bộ phim các nhu
nói các thuc thuộc các mối l dự khi chuyển như đó. Có như khi thì mi có thể nhiều thức được dùng về các sự VT luta
ntour, từ đó có thể giải quyết vấn đề một cách đúng địa. Nur Leng nói A huốn more sự hiểu được sự vật, các pha như
bao quát xa nghiên cứu tất cả
Thứ hai, sau khi đặt các mối liên hệ vào xem xét thì cần “rút ra được các mặt các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó
và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại". Bởi khi làm như vậy thì nhận thức mới có thể biểu đạt được
tính khách quan của mối quan hệ khi tác động lẫn nhau.

“Thứ ba, xem xét đối tượng này trong mối quan hệ với đối tượng khác và môi trường xung quanh ". Khi xem xét thì
xét luôn cả về trong trực tiếp - gián tiếp, kể cả không gian hay thời gian, nghĩa là cần xem xét một cách bao quát.

"Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều. Chi thấy mặt này mà không thấy mặt kia;
hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng”,

2. 2. Nguyên lý về sự phát triển.

2.1. Khái niệm

“Phát triển là quả trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao
hơn”. Ở đây vận động được hiểu theo cách rộng hơn. vận động có thể đi lên hoặc đi xuống, vận động bao hàm luôn
cả phát triển, phát triển là vận động nhưng vận động chua chắc đã là phát triển. Khái niệm về sự phát triển còn được
hiểu là sự xuất hiện của một điều mới mẻ để thay thế cho những cái đã cũ để phù hợp với thời đại, có tiền đồ rộng
hơn.

Gắn với khái niệm phát triển, còn có hai khái niệm cần làm rõ: tiến hóa và tiến bộ. Tiến hóa là một dạng của phát
triển, vận động từ từ và hình thành từ đơn giản nhất cho đến phức tạp hơn. Ví dụ, lịch sử loài người phát triển từ loài
vượn cổ, từ từ tiến hóa và thành cơ thể hoàn thiện. Còn tiến bộ là quá trình biến đổi các sự vật hiện tượng trong xã
hội từ chưa hoàn thiện thành hoàn thiện một cách tích cực hơn. Vi. dụ, công nghiệp sản xuất thiết bị điện tử ngày một
tỉnh vĩ và thông minh.

2.2. Quan điểm về nguyên lý sự phát triển

Quan điểm siêu hình là quan điểm phủ định sự phát triển. Quan điểm siêu hình quan niệm rằng sự vật hiện tượng chỉ
có tính ổn định, việc tăng giảm hoạt động theo tuần hoàn khép kín, không làm thay đổi đi chất bên trong sự vật hiện
tượng và không thể xuất hiện cái mới.

Quan điểm biện chứng duy vật lại ngược lại với quan điểm siêu hình, cho rằng sự phát triển luôn là sự vận động đi
lên từ thấp đến cao. Các sự vật, hiện tượng tác động qua qua lại dẫn đến việc thuyền hoa không ngừng đạo thái cải
cũ thay thế bằng cái mới đó chính là phát triển theo quan niệm biện chứng duy vật

Phân biệt sự khác nhau về hai quan điểm trên, Lênin viết “Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan.
Quan niệm thứ hai là sinh động, cho ta chia khoa Hinh còn đông anh rất thật mới là chết cứng, nghèo nàn, khô khan.
Quan niệm thứ hai là sinh động, cho ta chìa khóa “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới
cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối
lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh cái mới”.

2.3. Tính chất

Tính khách quan của nguyên lý phát triển cũng tương tự tính chất của mối liên hệ phổ biến. Các sự vật, hiện tượng
không phụ thuộc vào ý chí, nhận thức của con người mà xảy ra chính trong bản thân sự vật, hiện tượng đó. Ví dụ,
quá trình phát triển của một hạt giống đến khi nảy mầm thành cây hoàn chỉnh thể hiện sự phát triển khách quan, xảy
ra bên trong chính cái cây đó chứ không liên quan đến ý thức của con người.
“Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư
duy; trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra
đời phù hợp với quy luật khách quan”

Theo khái niệm của phát triển thì phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, dựa trên cái cũ gạt bỏ những tiêu
cực để hướng đến những cái mới tốt đẹp hơn. Nếu không có cái cũ thì sẽ không có cơ sở, tiền đề cho cái mới phát
triển, nghĩa là việc phát triển không đồng nghĩa với việc gạt bỏ tất thảy những cái cũ đi mà chỉ là “cải thiện” để tiếp tục
phát triển. Chính vì vậy mà sự phát triển mang tính kế thừa.

Tỉnh phong phú, đa dạng thể hiện ở chỗ là mỗi sự vật, hiện tượng sẽ có mỗi quá trình phát triển khác nhau; khác
nhau về môi trường, không gian, thời gian, yếu tố tác động khác ... Ví dụ, cũng là một loài cây nhưng được trồng ở
khu vực khác nhau. thời điểm trồng khác nhau, cách trong khác nhau thị trong quá trình phát triển và sau khi lớn lên
thành quả sẽ khác nhau; cây sẽ lớn hơn, cây thì bé hơn, kém phát triển hơn.
2.4. Nguyên tác
Dựa theo nguyên tắc phát triển:
“Thứ nhất, đặt đối tượng vào sự vận động”. Khi đặt đối tượng vào sự vận động, chúng ta sẽ xem xét được chiều
hướng vận động của đối tượng. Từ đó có thể biết được “trạng thái” của đối tượng và phán đoán được sự vận động
xảy ra trong tương lai của đối tượng đó.

Thứ hai, phải biết được rằng phát triển sẽ có những giai đoạn khác nhau và cử mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm,
hình thức vận động khác nhau. Từ những nhận thức đó ta phải có những thay đổi kịp thời để phù hợp với sự vận
động đó. Có như vậy thì sự phát triển mới đi đúng hướng của nó.

Thứ ba, phát triển là sự vận động đi lên, theo hướng tích cực. Vì vậy, phải sớm phát hiện, thúc đẩy và tạo điều kiện
cho những cái mới phù hợp với đặc điểm, hình thức của đối tượng. Ngoài ra còn phải sáng suốt phủ định lại những
quan điểm bảo thủ, lỗi thời.

Thứ tư, tính chất của nguyên lý sự phát triển mang tính kế thừa. Cái cũ chính là nền tảng để dựa vào và thay đổi. Đối
tượng mới là kết quả của việc thay thế những đối tượng cũ mang tính tiêu cực, trì trệ. Không thể phá bỏ cái cũ để tạo
ra cái mới, cái cũ không thể đứng ngoài cái mới mà hai cái cần được liên hệ với nhau. IL Các cặp phạm trù của phép
biện chứng duy vật

Phạm trù triết học là những cái chung nhất, là những hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những mô
hình tư tưởng phản ánh những mặt, những thuộc tỉnh, những mối liên hệ vốn có trong toàn bộ thế giới hiện thực từ
đó giúp con người suy ngắm những điều đã thu nhận được trong quá trình nhận thức và thực tiễn, chỉ ra những đặc
trưng cơ bản nhất của khách thể.

Vấn đề phạm trù lần đầu tiên được trình bày bao quát trong triết học Hegel. Hegel cũng lấy các nguyên tắc biện
chứng làm “hạt nhân vật lý", là tiền để cho hệ thống phạm trù trong sự tự vận động, phát triển, chuyển hóa lẫn nhau
và xét chúng như là những nấc thang phát triển của ý niệm tuyệt đối". Khác với Hegel, các nhà kinh điền Triết học
Mác-Lênin xét các phạm trù như là các hình thức phan ảnh phố biến về hiện thực và như những nấc thang phát triển
của nhận thức xã hội và thực tiến. VI Lênin viết: "Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con
người bạn năng, người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, những
phạm trù là những sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta
nhận thức và nắm vững được các màng lưới”.”

Các mối liên hệ phổ biến mang tính quy luật, phản ảnh những mặt khác nhau cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng
được phép biện chứng duy vật khái quát thành các cặp phạm trù cơ bản.Các cặp phạm trù hình thành và phát triển
trong hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội của con người. Trong phép biện chứng duy vật,
các cặp phạm trù có vai trò phương pháp luận khác nhau. Các cặp phạm trù cái riêng và cái chung, tất nhiên và ngẫu
nhiên, bản chất và hiện tượng là cơ sở luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái
quát hóa và trừu tượng hóa để nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các cặp phạm trù nguyên
nhân và kết quả, khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của các sự
vật, hiện tượng như những quá trình tự nhiên. Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở của phương pháp luận
nắm bắt các hình thức tồn tại hoặc biểu hiện của đối tượng trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ảnh tính đa dạng
của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiến
1. Cải riêng và cái chung
a) Khái niệm
Cái riêng là phạm trù triết học để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở sự sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào
đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
Cái chung là phạm trù triết học để chỉ những mặt, những thuộc tỉnh không những có ở một sự vật, hiện tượng nào đó
mà còn lập lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác.
b) Mối liên hệ
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục khiếm khuyết của hai xu hướng duy thực và duy danh trong việc lý giải
mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cả cái chung và cái đơn nhất đều không tồn tại độc lập, vì chúng là thuộc
tính nên phải gắn với đối tượng xác định; chỉ cái riêng mới có thể tồn tại độc lập. Cái chung và cái đơn nhất là các
mặt của cái riêng, chỉ tồn tại trong cái riêng.
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin: “Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi việc riêng lẻ. Bất
cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung

Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, vừa là cái đơn nhất, vừa là cái chung. Cái riêng là cái đơn
nhất thể hiện ở những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại của mình; cái riêng thể hiện là cái chung ở những
thuộc tính lập lại ở các đối tượng khác. Tùy là những mặt của cái riêng nhưng cái đơn nhất và cái chung không đơn
giãn tồn tại như vậy mà gắn bó hữu cơ với nhau và chuyển hóa vào nhau trong những điều kiện xác định.

Mối liên hệ giữa cải đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất gồm
các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong
các sự vật, hiện tượng khác. Mối liên hệ giữa cải chung và cái riêng biểu hiện ở mỗi liên hệ lẫn nhau giữa các thuộc
tỉnh cùng có ở nhiều đối tượng. Như vậy, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung là cái bộ phận, bởi bên cạnh cái chung thì
bất cứ đối tượng nào cũng còn có cái đơn nhất, hay nói cách khác bên cạnh những mặt được lập lại còn có những
mặt cá biệt không lặp lại.

c) Ý nghĩa của phương pháp luận


Thứ nhất, mọi phương pháp thực tiến đều không thể như nhau đối với mọi sự
vật, hiện tượng có liên hệ với cái chung đỏ nếu bất cứ cái chung nào cùng chỉ tồn tại

VẬN DỤNG
Các cặp phạm trù có vai trò và phương pháp luận khác nhau trong phép biện chứng duy vật. Đồng thời, nó cũng là
thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
thực tiễn. Đặc biệt đối với thực tiễn, chúng ta có thể vận dụng các cặp phạm trù trong nhiều vấn đề, sự vật và hiện
tượng. Trong bài tiểu luận này, ta sẽ tìm hiểu cách vận dụng các cặp phạm trù trong giao tiếp, kinh doanh và phát
triển bản thân'

1. Vận dụng các cặp phạm trù vào trong giao tiếp

Nhà diễn thuyết, chính trị gia người Mỹ Les Brow đã đánh giá rằng "Kỹ năng giao tiếp là một công cụ quan trọng trong
cuộc hành trình theo đuổi mục tiêu, dù là gia đình đồng nghiệp hay khách hàng của bạn”. Vì vậy, vấn đề giao tiếp
thành công là rất quan trọng đối với mỗi người.

Thứ nhất, điểm chung trong giao tiếp chính là hoạt động giao lưu, tiếp xúc giữa người với người. Nhưng mỗi người lại
có những phong cách khác nhau để truyền tại nội dung của mình. Họ diễn đạt với ngữ điệu khác nhau để đối phương
tiếp nhận được lời nói của họ. Con người luôn mong muốn đạt được mục đích giao tiếp ở mức độ nhất định để mang
lại sự hài lòng cho các bên và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh. Vũ để đạt được điều đó thì ban thân mỗi người phải
có kỹ năng giao tiếp, cách thức của riêng mình

Thứ hai, để đáp ứng được nhu cầu của bạn thân và cũng do nhiều nguyên nhân
Thứ ba, trong một cuộc giao tiếp, có người nói thì tất nhiên sẽ phải có người nghe. Chúng ta thể hiện sự tôn trọng đối
với người khác bằng cách lắng nghe. Ngoài ra, khi có những cuộc giao tiếp bất ngờ tại một địa điểm, thời điểm ngẫu
nhiên nào đó thì hai bên nên lắng nghe nhau và trao đổi thẳng thần, rõ ràng. Việc tôn trọng đối phương và trở nên ăn
ý với nhau trong lời nói sẽ làm cho cuộc trò chuyện trở nên thú vị và dễ dàng truyền đạt những ý muốn của bản thân.
Bên cạnh đó, để tạo nên thiện cảm và sự tin tưởng tốt thì không thể thiếu tính trung thực với nhau.

Thứ tư, việc truyền tải nội dung của một vấn đề mà bản thân muốn đối phương. tiếp nhận cũng rất quan trọng. Để
thành công trong giao tiếp, muốn thu hút sự chú ý, lắng nghe thì chúng ta phải có vốn từ ngữ phong phú, và cách diễn
đạt truyền cảm hứng. Ví dụ như các cán bộ cập nhật tình hình dịch bệnh nhanh chóng, năm bắt được tâm lý chung
của người dân, và truyền tải một cách thuyết phục đã giúp họ hiểu được nguy cơ của việc lây lan dịch bệnh ra cộng
đồng. Vì vậy, trong giao tiếp cần phải diễn đạt dễ hiểu, rõ ràng để người khác năm bắt được nội dung mà mình muốn
truyền
Thứ năm. để thành công trong giao tiếp cần phải phụ thuộc vào bản thân của mỗi người. Mỗi người có thể áp dụng
vào giao tiếp những bài học mà họ đã trai nghiệm qua. Đối với chính ủy, chính trị viên trong phong cách giao tiếp luôn
thể hiện sự chín chủ về trang phục, từ thể, tác phong cùng với cư chí và hành động. Chính ủy và chính trị viên nên
biết rõ vai trò của mình và ứng xử phù hợp trong từng

Đầu tiên, mỗi người đều hưởng đến thành công nên họ sẽ có hướng đi riêng và mục tiêu khác nhau Nếu bạn có mục
tiêu rõ ràng và lập kế hoạch một cách khoa học thì bản thân bạn sẽ không bị chán nản, cũng như có động lực để
hoàn thành Ngược lại đối với những người không đặt ra mục tiêu cụ thể thì sẽ thực hiện không có ki luật và lãng phí
thời gian. Vì vậy nên việc đề ra mục tiêu sẽ giúp chúng ta học hỏi và thực hiện được nhiều điều một cách hợp lý.

Thứ hai, chúng ta không nên để ra mục tiêu nhưng lại không thực hiện, bởi đó là những dự định, mong ước của bản
thân trong hiện tại cũng như trong tương lai. Nhiều bạn đã viết ra mục tiêu của mình nhưng vì không đủ quyết tâm,
chán nàn

Chương 1

a. Định nghĩa vật chất


Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khá nhau về nó .Nhưng theo Lênin định
nghĩa :"vật chất là một phạm trù triể học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm
giác được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì khái niệm vật chất là khái
niệm rộng nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức hiểu vật chất là thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác ý thức, còn cảm giác
ý thức phụ thuộc vào vật chất phản ánh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học.Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là khái niệm rộng nhất muốn
phân biệt tư cách là phạm tù triết học là kết quả của sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ
thể với những" hạt nhân cảm tính" Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ
thể có thể cảm thụ được Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ
nghĩa vạc suu tru vậy nam phục suợc mung quan niệm 36 tu cua cuu ngu duy vật đồng nhất vật chất với
hình thức biểu hiện cụ thể của nó,
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có,không thể tiêu diệt được nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào
cảm giác ý thức con người, vật chất là một thực tại khách quan. Khác với quan niệm ý niệm tuyệt đối của
CNDTKQ , thượng đế" của tôn giáo ...Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó
trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật hiện tượng cụ thể,và do đó các các đối tượng vật
chất có thật hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác,và nhờ đó mà ta có thể
biết được hiểu được và nắm bắt sự vật này Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt
của vấn đề cơ bản của triết học .
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất không vận động tác vật chất
tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng các hình
thức và các dạng khác nhau của vật chất,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy
được thuộc tỉnh của nó. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng
lồ, Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác sinh-xã hội.Các hình thức vận
động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với
những hình thức vận động khác,trong đó vận động cao bao gồm vận thấp nhưng không thể coi hình thực
vận cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất không vận động tác vật chất
tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng các hình
thức và các dạng khác nhau của vật chất,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy
được thuộc tỉnh của nó. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng
lồ, Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những bộ phận nhân tố
khác nhau cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động mới có thể thấy được thuộc tỉnh của nó. Trong thế giới vật
chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng lồ, Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất không vận động tác vật chất
tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng các hình
thức và các dạng khác nhau của vật chất,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy
được thuộc tỉnh của nó. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng
lồ, Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những bộ phận nhân tố
khác nhau cùng tồn tại ảnh hưởng và tác-sinh-xã hội.Các hình thức vận động này có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau,một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với những hình thức vận động khác,trong
đó vận động cao bao gồm vận thấp nhưng không thể coi hình thực vận cao là tổng số đơn giản các hình
thức vận động thấp. Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất không vận
động tác vật chất tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định
rằng các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới
có thể thấy được thuộc tỉnh của nó. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống
hành tinh khổng lồ, Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những
bộ phận nhân tố khác nhau cùng tồn tại ảnh hưởng và tác
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ VẬT CHẤT, PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH
THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT

1.1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về vật chất
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản của triết học duy vật. Việc nhận thức đúng đắn nội
dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để khẳng định tính chất khoa học, đúng đắn của quan điểm
duy vật biện chứng về thế giới.

Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh chúng ta, mà trước hết là thế
giới của những vật thể hữu hình, từ xưa đến nay luôn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận
thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay bằng cách khác giải quyết vấn đề
này. Và bởi vậy trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện.

1.1.1. Cơ sở lý luận của phạm trù vật chất


Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
tâm. Cuộc đấu tranh đó xuất phát từ việc đi tìm căn nguyên của thế giới. Đứng trước vô số các sự vật, hiện
tượng và quá trình của thế giới xung quanh, các nhà triết học đều đưa ra câu trả lời cái gì tạo ra chúng. Trong các
loại ý kiến khác nhau đó có hai loại ý kiến trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái sinh ra các sự vật,
hiện tượng phong phú, đa dạng xung quanh chúng ta là tinh thần, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm là chủ
nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật cho rằng: thế giới này là vật chất, vật chất là sự tồn tại của mọi sự vật và hiện
tượng, mọi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là cái biểu hiện khác nhau của vật chất đang vận động,
đây là quan điểm duy vật đối với chủ nghĩa duy vật nói chung, phạm trù xuất phát, cơ bản, trung tâm, xuyên suốt
trong toàn bộ hệ thống triết học của mình đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, xuất phát từ phạm trù
vật chất đã khẳng định sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và khả năng nhận thức thế giới của
con người, nguồn gốc sản sinh ra ý thức, bản chất và nội dung khách quan của
Như vậy có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về vật chất. Để hiểu đúng và định nghĩa được vật chất phải
có một quá trình phát triển nhất định của hoạt động thực tiễn của khoa học và của hoạt động nhận thức. khách
quan. Điều này đối lập với quan điểm duy tâm tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh thần, ý thức. Học
thuyết nguyên tử là một bước tiến mới trên con đường hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết
học mới cho nhận thức khoa học sau này.

*Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại

- Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật
chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động không gian và thời
gian. Họ chưa thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng
nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng lượng.

“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

*Phương pháp định nghĩa vật chất của Lênin:

Theo V.I Lênin, không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường.
Phương pháp định nghĩa thông thường là quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm khác rộng hơn, đồng
thời chỉ ra đặc điểm riêng của nó.

Ví dụ như:

Định nghĩa hình vuông:

+ Trước hết nó là hình tứ giác.

+ Song, nó có đặc điểm riêng là: có 4 cạnh bằng nhau, 4 góc vuông, có hai đường chéo bằng nhau, giao
điểm giữa hai đường chéo vuông góc và chia đường chéo thành hai nửa bằng nhau.

Do vậy, với phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học - một phạm trù khái quát nhất và rộng cùng
cực, không thể có một phạm trù nào rộng hơn, thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể là định nghĩa
vật chất bằng cách đối lập nó với ý thức, xác định nó “là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây
ra cảm giác”. V.I.Lênin khẳng định vật chất không có nghĩa gì khác hơn là “thực tại khách quan tồn tại độc lập
đối với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”.

*Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:


Định nghĩa vật chất của V.I Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

- Một là: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan.

+ Khi nói vật chất là một phạm trù triết học - nó là sự trừu tượng.

+ Sự trừu tượng này chỉ rõ cái đặc trưng nhất , bản chất nhất mà bất kỳ mọi sự vật hiện tượng nào cũng có
đó là: tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của con người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để
phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.

- Do đó khi nghiên cứu nội dung này cần phải chú ý cả hai khía cạnh phân biệt nhau nhưng lại gắn bó với
nhau: đó là tính trừu tượng và tính cụ thể của vật chất. Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi phồng tính trừu tượng
mà quên mất biểu hiện cụ thể của vật chất thì không thấy vật chất đâu cả, thuộc vào chủ nghĩa duy tâm. Ngược
lại nếu chỉ thấy tính cụ thể của vật chất sẽ đồng nhất vật chất với vật thể.

→ Ý nghĩa:

+ Khắc phục triệt để sai lầm cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước Mác quy vật chất vào một dạng cụ thể. Nội
dung này trong định nghĩa Lênin đã đưa học thuyết duy vật tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi
mới do những phát minh mới của khoa học tự nhiên tạo ra.

+ Cho chúng ta cơ sở khoa học để nhận thức vật chất dưới dạng xã hội, đó là những quan hệ sản xuất cơ sở
hạ tầng, tạo thành quan hệ vật chất, và từ đây làm nảy sinh quan hệ tư tưởng, đó là kiến trúc thượng tầng. Đây là
điều mà các nhà duy vật trước của C.Mác cũng chưa đạt tới. Định nghĩa của V.I.Lênin giúp cho các nhà khoa
học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân
thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó người ta có thể tìm ra phương án tối ưu để hoạt
động thúc đẩy xã hội phát triển.
- Hai là: Thực tại khách quan được đem lại cho con người ta trong cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác. Với nội dung này, V.I.Lênin muốn chỉ rõ:

+ Thực tại khách quan (tức vật chất) là cái có trước ý thức, không phụ thuộc vào ý thức còn cảm giác (tức ý
thức) của con người có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất.

+ Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức, không có
cái bị phản ánh là vật chất thì sẽ không có cái phản ánh là ý thức.

→ Ý nghĩa: Chống lại mội luận điệu sai lầm của chủ nghĩa duy tâm (cả khách quan, chủ quan và nhị nguyên
luận) là những trường phái triết học cố luận giải tinh thần, là cái quyết định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
xung quanh.

- Ba là: Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. Với nội dung này,
Lênin muốn chứng minh rằng:

+ Vật chất tồn tại khách quan dưới dạng các sự vật hiện tượng cụ thể mà con người bằng các giác quan trực
tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được.

+ Ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất còn có một dấu hiệu quan trọng khác là tính có thể nhận
thức được. Vì vậy, về nguyên tắc, không có đối tượng nào không thể nhận biết được, chỉ có đối tượng chưa nhận
thức được mà thôi.

→ Ý nghĩa:

+ Hoàn toàn bác bỏ thuyết không thể biết.

+ Cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu vào thế giới vật chất, phát hiện ra những kết cấu mới, những
thuộc tính mới cũng như những quy luật vận động và phát triển của thế giới, từ đó làm giàu thêm kho tàng trí
thức của nhân loại.

Tóm lại, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất là những thực thể khách quan tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.

+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó ( trực tiếp hoặc gián tiếp) tác động lên
giác quan của con người.

+ Vật chất - là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.

1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Trong triết học, khi bàn tới phạm trù vật chất, đương nhiên chúng ta phải bàn tới các phạm trù liên quan
tới việc làm sáng tỏ phương thức tồn tại của nó. Đó là các phạm trù vận động, không gian và thời gian. Chúng ta
trả lời trực tiếp vấn đề vật chất tồn tại bằng cách nào?

1.2.1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất
a) Vận động là gì?

- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ph. Ăngghen
viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thayđổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.

b) Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất?
- Theo Ph. Ăngghen, vận động “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”.
Hai điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các
dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Không thể hình dung nổi vật chất không có vận động và cũng không
thể tưởng tượng nổi có thứ vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, không phụ thuộc vào vật chất.
Sự vận động của ý thức, tư duy, trên thực tế cũng là sản phẩm của sự vận động vật chất.
- Trong quá trình khám phá thế giới khách quan, việc nhận thức sự vận động vật chất trong các dạng khác
nhau của nó, về thực chất là đồng nghĩa với nhận thức bản thân vật chất. Các hình thức và các dạng khác nhau
của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về
một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả.

- Với tính cách là thuộc tính bên trong, vốn có của vật chất, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin vận
động là sự tự vận động của vật chất. Có nghĩa là:

+ Nguồn gốc của sự vận động nằm ngay trong bản thân của sự vật, do sự tác động lẫn nhau của các thành
tố nội tại trong cấu trúc của vật chất.

+ Vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không bao giờ mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ hình thức vận
động này sang hình thức vận động khác.

+ Quan điểm về sự tự vận động của vật chất trong triết học Mác - Lênin về cơ bản đã dược chứng minh bởi
những thành tựu của khoa học tự nhiên và những phát kiến mới nhất của khoa học hiện đại càng khẳng định
quan điểm đó.

- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất

Khi nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất, theo những tiêu chí phân loại khác nhau, người ta có
thể chia vận động của vật chất thành các hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên, cho tới nay, cách phân loại
phổ biến nhất trong khoa học vẫn là chia vận động thành 5 hình thức cơ bản như sau:

+ Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)

+ Vận động vật lý (vận động của các phần tử, các hạt cơ bản,vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện..)

+ Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất)

+ Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể và moi trường)
+ Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội)

- Những hình thức này quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định

+ Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác
nhau về trình độ của sự vận động. Những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất.

+ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó là tất cả
hình thức vận động thấp hơn. Trong khi các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức
vận động ở trình độ cao. Bởi vậy, mọi sự quy giãn các hình thức vận động cao về các hình thức vận động thấp
hơn đều là sai lầm.

+ Trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể gắn liền với các hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên,
bản thân của sự tồn tại của sự bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Thí dụ vận động cơ
học, vật lý, hóa học, sinh học đều là những hình thức vận động khác nhau trong cơ thể sinh vật, nhưng hình thức
vận động sinh học mới là đặc trưng cơ bản của sinh học. Đối với con người thì vận động xã hội là hình thức đặc
trưng cho hoạt động của nó.

1.2.2. Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất a)Khái niệm không
gian và thời gian

- Trong triết học duy vật biện chứng cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian cũng là những
phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. V.I.Lênin đã nhận xét rằng: “Trong thế giới, không có
gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời
gian”.

- Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở một khung cảnh nhất định trong
tương quan về kích thước so với các khách thể khác… Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là
không gian.
- Sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện
tượng, của sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật được đặc trưng
bằng phạm trù thời gian.

Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình.

- Tuy vậy, trong lịch sử triết học, xung quanh phạm trù không gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề
nan giải gây tranh cãi.

+ Những người theo chủ nghĩa duy tâm thường phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian.

+ Các nhà duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII - XVIII tách rời không gian và thời gian với vật chất. I.Niutơn cho
rằng không gian, thời gian và vận động là những thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với
nhau. Khi phê phán quan điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Ph. Ăngghen cho không gian và thời gian gắn
bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của vật chất. Chúng là hình thức tồn tại của vật
chất không thể có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian,
thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất.

- Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của A. Anhxtanh ra đời, đã chứng minh một cách hùng hồn luận điểm
thiên tài trên đây của Ph. Ăngghen. Thuyết tương đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất giữa không gian
và thời gian. Như vậy thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của không gian, thời gian, chứng minh tính biến
đổi của không gian, thời gian cùng với sự vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian và thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất.

- Tính chất và mối quan hệ của không gian, thời gian.


+ Tính khách quan: không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với
vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.

+ Tính vĩnh cửu và vô tận: theo Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh cửu và vô tận trong không gian và thời gian. Vô
tận có nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía
dưới, cả về bên phải lẫn bên trái. Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng như những thành tựu của vũ trụ học
ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính vô tận của không gian và thời gian.

+ Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian: tính ba chiều của không gian là chiều dài,
chiều rộng và chiều cao, tính một chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian mà chúng ta
đang nói tới ở đây là không gian hiện thực, không gian ba chiều. Nên chú ý rằng, trong toán học ngoài phạm trù
không gian ba chiều còn có phạm trù không gian n chiều, v.v… Đó là sự trừu tượng hoá toán học, một công cụ
toán học dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù.

1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận a)Định


nghĩa vật chất của Lênin

– Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức, ý thức con
người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới.

– Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất.

– Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
trước Mác.

– Định nghĩa vật chất của Lênin bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường về vật chất (coi ý thức
cũng là 1 dạng vật chất).

– Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.


– Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một thể
thống nhất.

– Mở đường cổ vũ cho khoa học đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế giới vật chất.

b)Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

- Phải nhận thức sự vật trong trạng thái vận động của nó.

- Tránh chủ quan duy ý chí, quy vận động này vào vận động khác.

- Nhìn nhận thế giới trong trạng thái vốn có của nó.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TẾ

Bất cứ các quốc gia nào muốn tồn tại thì cũng phải đặt vấn đề giáo dục nên hàng đầu. Một đất nước phát
triển không chỉ nhìn vào các vấn đề kinh tế, xã hội, quân sự mà còn về cả nền giáo dục. Giáo dục mang lại tri
thức cho nhân loại, khi con người được giáo dục thì ý thức mới phát triển toàn diện. Có rất nhiều các nền giáo
dục hiện đại, phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Canada,v.v. Họ đã lựa chọn những chính sách đúng đắn
để tạo ra một thế giới quan cân bằng giữa chủ quan và khách quan. Nền giáo dục của chúng ta hiện nay cũng đã
và đang được đầu tư rất nhiều để có thể theo kịp được những nước đó và từ đó mới có thể giúp đất nước chúng
ta phát triển toàn diện.

Giáo dục là hình thức học tập phổ biến nhất của con người mà thông qua đó chúng ta được tiếp thu
những nguồn tri thức mới từ nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm cả kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành, những
kinh nghiệm của người đi trước, những thói quen được hình thành,... dưới sự giảng dạy, hướng dẫn, đào tạo hoặc
nghiên cứu. Giáo dục gồm nhiều giai đoạn và được diễn ra như một chân lý của cuộc sống, bản thân giáo dục đã
tạo ra đạo đức và trí tuệ của con người. Mỗi quốc gia thì sẽ có một nền giáo dục riêng biểu tượng cho triết lí giáo
dục của quốc gia đó. Ngoài mang lại những tri thức khoa học tự nhiên mà nhân loại đang có thì nền giáo dục
ấy còn có những kiến thức cơ bản
về địa lí, lịch sử của đất nước cũng như nền văn hóa, bản sắc dân tộc của con
người đất nước họ. Thế giới này chỉ tồn tại thông qua sự vận động không ngừng nghỉ của giáo dục về cả không
gian lẫn thời gian.

Nền giáo dục Việt Nam hiện nay so với các nước phương Tây và một số quốc gia phương Đông thì có thể
nói là thua kém rất nhiều. Điều đó cũng phải làm ta đáng suy để suy nghĩ. Một quốc gia muốn phát triển thì
không thể nào mà nên giáo dục đi sau những nước khác vài thập kỉ được. Nền giáo dục của chúng ta là một nền
giáo dục chưa hoàn chỉnh, hằng năm thì vẫn thực hiện cải cách từ chương trình đào tao, sách giáo khoa cho tới
hình thức kiểm tra và đánh giá. Hằng năm thì ta vẫn thấy có rất nhiều vẫn đề gay nhức nhối trong dư luận từ gian
lận thi cử, bạo lực học đường cho tới cả vấn đề về thay đổi sách giáo khoa. Rõ ràng với sự vận động xã hội của
con người hiện nay rất nhanh thì không thể nào nền giáo dục đi chậm hơn với sự vận động đó. Ngoài ra thì
những sự vận động cơ học, vật lí, hóa học, sinh học cũng ngày càng thay đổi từ đó bắt buộc nền giáo dục của
chúng ta phải thay đổi hợp lí thì mới có thể phát triển trong thời buổi hội nhập. Ngoài những mặt tiêu cực thì
cũng có rất nhiều những mặt tiến bộ tích cực như là thành tích trên trường quốc tế hay là các trường đại học
được tăng bậc trong các bảng xếp hạng thế giới. Chúng ta đã có triết lí giáo dục hết sức rõ ràng như Phó Thủ
Tướng Vũ Đức Đam đã phát biểu:” Xây dựng đất nước, dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng con người Việt Nam toàn diện về đức trí thể mĩ, có tinh thần dân tộc, yêu nước và trách nhiệm quốc
tế”. Từ đó ta có thể thấy rằng đối với một quốc gia đã xác định được triết lí giáo dục rõ ràng thì quá trình vận
động của nó sẽ luôn được thông suốt trong những không gian và thời gian được định sẵn.

Và để nói thêm về sự thua kém của nên giáo dục của Việt Nam hiên nay so với các nước phương Tây
hay một số nước phương Đông thì cơ bản cũng có những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Về chủ quan thì
có thể nói là do những người lãnh đạo, quản lí ngành giáo dục vẫn còn lúng túng, chưa dứt khoát trong việc định
hình nền giáo dục của nước ta. Khiến cho hằng năm vẫn phải có nhiểu đợt chỉnh sửa, thay đổi về hệ thống giáo
dục,v.v. Mà những thay đổi đó có
thể nói rằng là chưa thành công ở thời điểm hiện tại, vẫn còn rất nhiều các vấn đề bất cập khiến dư luận nổi
sóng. Còn về nguyên nhân khách quan thì do Việt Nam đi lên từ một nước nghèo, sau bao nhiêu năm bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế tụt hậu do đó sự phát triển của giáo dục cũng bị hạn chế rất nhiều. Với một
bối cảnh không gian và thời gian như vậy thì thực sự cũng rất thiệt thòi cho nền giáo dục của chúng ta. Để nền
giáo dục của Việt Nam vận động phát triển và theo kịp các nước hiện đại thì cần phải có sự chung tay của toàn
hệ thống chính trị, các cơ quan quản lí giáo dục và cả cần cả sự chung tay của cả dân tộc Việt Nam.

Như đã nói ở trên, nền Giáo dục Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn lao chưa từng thấy. Việt
Nam vẫn chưa có được một triết lý Giáo dục đồng nhất giữa các đặc tính truyền thống và hội nhập với
thế giới hiện đại. Chúng ta nói nhiều về cải cách, nhưng đến nay nhiều trừng vần với phương pháp giáo dục
thầy đọc, trò chép rồi học thuộc lòng trả bài cho thầy cô. Bao lần viết lại sách giáo khoa nhưng nội dung vẫn
nặng nề về lý thuyết, các môn học xã hội vẫn chưa có cải tiến phương pháp giáo dục. Phải chăng nền Giáo dục
nước nhà đã phần nào nhiễm phải căn bệnh “Chủ quan duy ý chí”. Đây là lối suy nghĩ và hành động đơn giản,
nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan; thể hiện rõ trong khi định ra những chủ trương, chính sách và lựa
chọn phương pháp tổ chức họat động thực tiễn theo hướng áp đặt, rơi vào ảo tưởng, chủ quan. Rõ ràng với sự
vận động xã hội của con người hiện nay rất nhanh thì không thế nào nền giáo dục đi chậm hơn, đây chính là giai
đoạn quan trọng trong công cuộc bứt phá của toàn dân tộc, đưa đất nước ta từ một quốc gia “gầy yếu” trở nên
hùng mạnh hơn. Mà muốn đạt được những thành tựu như vậy, ta cần phải có những hướng đi đúng đắn với tầm
nhìn hướng tới tương lai mai sau. Tuy chỉ là một sinh viên đại học với trình độ hiểu biết có hạn nhưng với mong
muốn đất nước Việt Nam phát triển và một nền Giáo dục tiên tiến, tôi xin phép được đưa ra quan điểm cá nhân
về một số hướng đi mà theo tôi nghĩ sẽ phù hợp với nước ta.
Mọi chuyện bắt đầu đều phải đi từ gốc, chính vì thế ta sẽ bắt đầu từ công tác quản lý. Quản lý là một khâu
cực kỳ quan trọng nếu như không nói là yếu tố then chốt đảm bảo sự thành công cho cả tiến trình đổi mới, nâng
cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, phải nâng cao chất lượng công tác quản lý một cách toàn diện.
Cần đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý theo
hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên để có thể quản lý môt cách toàn
diện nhưng vẫn tránh áp lực quá tải vì ôm đồm những nhiệm vụ quá cụ thể, cần
xây dựng môt hệ thống kiểm định chất lượng Giáo dục và Đào tạo có hiệu lực,
hiệu quả. Quản lý chất lượng tại các cơ sở Giáo dục và Đào tạo phải do chính các cơ sở này chịu trách nhiệm.
Nhà quản lý ở tầm vĩ mô chỉ nên đóng vai trò
của môt nhạc trưởng, thông qua đó kiểm soát, vận hành và kịp thời khắc phục
những tồn tại, bất cập của hệ thống.

Tiếp đến, từ một bộ máy quản lý đảm bảo được chất lượng, ta cần đề ra những định hướng, triết lý phù
hợp cho nền Giáo dục nước nhà. Tiêu biểu ở đây tôi xin đề cập đến hai nền Giáo dục tuy không phải hoàn hảo
nhất nhưng có lẽ là hai nền Giáo dục tiêu chuẩn của phương Đông và phương Tây: Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Triết lý Giáo dục Nhật Bản coi Giáo dục đạo đức là cốt lõi “Con người phải có đạo đức”, đề cao tính kỷ
luật và tinh thần tự lập. Mục đích Giáo dục bậc phổ thông đặc biệt là từ bậc tiểu học nhằm hoàn thiện nhân cách
con người, đào tạo con người khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, có đủ phẩm chất cần thiết với tư cách là
người làm chủ xã hội. Nền Giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh vai trò “Học sinh là trung tâm” trong nội dung và
phương pháp giảng dạy, nhấn mạnh trải nghiệm từ các bài học hơn là nhồi nhét kiên thức như ở Việt Nam. Việc
trải nghiêm sẽ tạo ra khả năng phản biện, kích thích tìm tòi và phát huy sáng tạo cho học sinh. Tiếp đó, nhà
trường ở Nhật Bản thường xuyên giáo dục học viên thông qua các hoạt động làm việc nhóm. Thông qua việc
hoạt động nhóm, học sinh Nhật Bản được phép tự quản, tự quyết định với những vấn đề mà cả nhóm thống nhất,
từ đó học sinh sẽ tạo được tinh thần trách nhiệm với những việc làm của
mình cũng như hăng say hơn do những công việc đó người học sinh gần như được hoàn toàn làm chủ. Chính
nhờ triết lý Giáo dục toàn diện từ bậc tiểu học nên học sinh khi bước lên các bậc học cao hơn , hoặc lúc ra đời
vẫn nhớ những lời khuyên bảo của thấy cô năm xưa , thậm chí nó theo suốt cuộc đời trong người trẻ .

Cũng như nhật Bản, Hoa Kỳ coi trọng vấn đề Giáo dục toàn diện với học sinh bậc tiểu học. Nếu như chỉ
nhìn sơ qua nền Giáo dục Hoa Kỳ ta thấy được sự tự do không bị gò bó trong việc học thì có lẽ chúng ta đã sai.
“Tự do” ở đây gắn liền với “Tôn trọng và trách nhiệm”. Tự do không có nghĩa là cái gì mình thích thì làm còn
không thích thì bỏ ở đó mà ngược lại phải có trách nhiệm với cả hai. Với quan niệm đó, nền Giáo dục Hoa Kỳ
thiết kế được sự cân bằng giữa cái quyền và nghĩa vụ, từ đó dẫn đến quyền tự chủ cho các trường đại học được
coi trọng, và cũng từ đó nền Giáo dục Hoa Kỳ rất đa dạng. Giáo dục Hoa Kỳ dạy học sinh cách tự đưa ra sự lựa
chọn, giáo viên có nhiệm vụ giúp học sinh mở rộng tầm nhìn thế giới đa chiều. Nền Giáo dục Hoa Kỳ rất đa
dạng và phong phú, mềm dẻo với tính thích nghi cao, gắn chặt với thực tế sản xuất và xã hội cho nên các trường
tại Hoa Kỳ luôn thu hút mạnh mẽ sinh viên các nước trên thế giới. Người thầy ở đây luôn được bồi dưỡng
chuyên môn và sư phạm, có những bộ phận chuyên đánh giá chất lượng người thầy do đó người thầy luôn coi
trong nâng cao nghiệp vụ, cho nên nước này là nơi thu hút các Giáo sư nổi tiếng, các nhà bác học trên thế giới
đến làm việc.

Sau khi đã bàn qua hai nền Giáo dục hàng đầu trên thế giới thì chắc ta cũng có thể nhìn ra được nền Giáo
dục Việt Nam vẫn còn nhiều điều cần khắc phục và cải thiện. Tuy nhiên tôi thấy chúng ta cũng có thể tiến hành
từng bước cải cách thật đúng hướng, giải quyết từ những cái cơ bản đi lên, khi kinh tế đất nước phát triển lên thì
nền Giáo dục sẽ thoát ra được sư bế tắc như hiện nay.

N. Mandela đã từng nói: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế
giới”, điều ấy đã được chứng minh rất rõ ràng qua những trang sử của dân tộc ta và của cả nhân loại. Chúng ta
có được cuộc sống
KẾT LUẬN

- Tổng kết lại ta thấy được rằng từ lúc mới xuất hiện, phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc
đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩ duy tâm. Phạm trù vật chất
có quá trình phát triển gắn liền với con người.

- Quan niệm về vật chất ở thời kỳ cận đại và cổ đại Tây âu và trong triết học Mác – Lênin là
rất khác nhau. Ở thời kỳ cận đại Tây Âu đặc biệt là ở thế kỷ 17- 18 khoa học châu Âu phát triển
khá mạnh. Do đó chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có những bước
phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Theo quan niệm của Lênin thì vật chất là
một phạm trù rộng lớn, do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức.
Đó chính là phạm trù vận động không gian và thời gian. Như vậy ta có thể thấy được rằng vật
chất là một phạm trù tồn tại từ rất lâu và luôn luôn phát triển với yếu tố con người. Đặc biệt là
sự ra đời khái niệm về vật chất đặt nền tảng về nhận thức và phương pháp cho một thế giới
quan khoa học, hiện đại; giúp lý giải mọi vận động và biến đổi của dạng vật chất trong xã hội
và những hoạt động thực tiễn của con người của con người.

- Chính vì tính cấp thiết và sự quan trọng của nó mà em đã chọn đề tài: “Quan điểm của
triết học Mác – Lênin về vật chất, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất” làm đề tài bài
viết tiểu luận triết học của mình.

I. Triết học Mác- Lênin với bản chất con người

1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ
thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể “song trùng” tự nhiên và xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau,
trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.

1.1. Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:

Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận
này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học
thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, do đó những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của loài người; ngược lại sự biến đổi và
hoạt động của con người luôn tác động lại môi trường tự nhiên làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan
hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người và các tồn tại khác của tự nhiên.

1.2. Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau:
1.2.1. Loài người không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa của tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội.

Mác nhiều lần so sánh con người với các loài động vật có bản năng gần giống con người và ông chỉ ra sự khác
biệt ở nhiều chỗ như chỉ con người mới có thể làm ra tư liệu sản xuất, con người biết biến đổi tự nhiên, con người là
thước đo của vạn vật,…Trong đó nhân tố đầu tiên và cơ bản nhất là nhân tố lao động, chính nhờ lao động mà con
người có khả năng vượt qua các loài động vật khác để tiến hóa thành người. Đó là phát hiện mới của chủ nghĩa
Mác- Lênin, nhờ đó mà hoàn chỉnh được học thuyết về nguồn gốc con người.

1.2.2. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên,
quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã
hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi
hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác
đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội". Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ
giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn
bộ bản chất xã hội của mình.

2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử


Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm
của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ
thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm
của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh
và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen
cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của
chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của
chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng
tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người
tham gia hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông
qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo
mục đích của mình.

Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với
điều kiện tồn tại của con người. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng
(mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang
tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo
khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông
qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư
duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

II. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1. Một số khái niệm

• Công nghiệp hóa: là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của
một vùng kinh tế hay một nền kinh tế.

• Hiện đại hóa: là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện
đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội.

• Nguồn lực nhân lực: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao
động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một
dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện
tại và tương lai của đất nước.

2. Vai trò của nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới đất nước

Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá,
hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn lực con người ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng
trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột
cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó
động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố con người, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao.

Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các
nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công
nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất
xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn
lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với NNL một cách
có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là
trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã
hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với
công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối
với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đất nước ta đang bước
vào giai đoạn đổi mới, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững.
Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền
vững
Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng
trước nhiều thách thức lớn.

III. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế nguồn nhân lực

Những hạn chế có thể nhìn nhận ở ba góc độ: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ.

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quốc gia và đặt trên vai các trường đại học. Trong những
năm qua, hệ thống giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo trình độ cao được phát triển và mở rộng, nhưng chất lượng đào
tạo còn nhiều hạn chế và yếu kém. Nguyên nhân là do thiếu đội ngũ giảng viên trình độ cao; nội dung chương trình
đào tạo chưa thường xuyên cập nhật đáp ứng sự thay đổi của khoa học - công nghệ; quản lý kinh tế trong môi
trường quốc tế hóa; cơ sở vật chất, trang thiết bị nghèo nàn. Phương pháp giảng dạy và học tập lạc hậu, cũng như ý
chí và quyết tâm vươn lên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của một bộ phận không nhỏ lớp trẻ hiện nay còn
hạn chế.
Công tác quản lý nhà nước, nhất là quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển nguồn nhân lực của các ngành
vẫn còn yếu kém, khá manh mún và thiếu đồng bộ.
Công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội cũng rất hạn chế, cơ cấu đào tạo
theo ngành nghề, trình độ đào tạo không được quy hoạch lâu dài. Các cơ sở đào tạo không đủ thông tin về cung,
cầu lao động, nên việc xây dựng ngành nghề, chỉ tiêu và trình độ đào tạo hằng năm không sát thực tiễn.

Việc sử dụng lao động vẫn còn bất hợp lý. Chế độ đãi ngộ “người tài” cũng chưa phù hợp và chưa tương xứng;
tình trạng thu nhập cào bằng đang là rào cản lớn cho sức sáng tạo của nhân lực chất lượng cao. Các chế độ đãi ngộ
nhân tài phần nhiều vẫn nằm trong các dự định, dự thảo của các cấp và các cơ quan có thẩm quyền.

MỤC 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh và hướng tới nền kinh tế tri thức, các quốc gia đều chú trọng
đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Với Việt Nam, để không tụt hậu xa so với trình độ chung
của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, chúng ta phải thật sự có các chính sách đổi mới công tác đào
tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

I. Đối với Nhà nước

- Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế - xã hội, Ccông

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Hình thành khung pháp lý và cơ chế cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

- Đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, qua đó huy động tiềm năng xã hội cho công tác nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo. Đi cùng với đó là bổ sung, hoàn thiện quy hoạch hệ thống các trường đại học,
cao đẳng đến năm 2020 và tầm nhìn 2030

- Chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ sở giáo dục - đào tạo và các cơ
quan, doanh nghiệp nơi sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Cải thiện thông tin về thị trường lao động, trong đó cần có hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia và
cơ sở dữ liệu về đầu tư nguồn lực; thông tin về cung cầu nhân lực; cung cấp kịp thời các thông tin cho xã
hội về đào tạo, nhân lực, việc làm và quy hoạch chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

- Ngoài ra, yếu tố văn hóa, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc trong quá trình xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao phải được nhìn nhận đúng với tầm quan trọng của nó, để từ đó các chương trình giáo dục - đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được bổ sung các nội dung liên quan.

II. Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực
- Chú trọng xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trình độ cao; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trên cơ sở
thực hiện xã hội hóa giáo dục; đào tạo gắn với việc làm và theo nhu cầu xã hội.

- Nhà trường cần phối hợp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội xây dựng mục tiêu, nội dung, chương trình
đào tạo, lắng nghe, tiếp nhận sự đánh giá, góp ý từ các nhà sử dụng lao động về sản phẩm đào tạo của
mình.

- Xây dựng nhà trường với hệ thống tổ chức quản lý hiệu quả cao trên cơ sở chủ động khai thác, sử dụng
hợp lý, hiệu quả các nguồn lực của nhà trường và xã hội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Các cơ sở giáo dục đại học cần chú trọng
kiểm soát đầu ra chặt chẽ hơn, nhất là đào tạo đại học và sau đại học.

- Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp từ bậc phổ thông đến bậc đại học, bảo đảm cho học sinh, sinh viên có
định hướng đúng về nghề nghiệp.

III. Đối với đơn vị sử dụng lao động (bộ máy quản lý nhà nước và doanh nghiệp)

- Cần tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh
dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc.

- Thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong tuyển dụng,
sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao, xóa bỏ các rào cản về tôn giáo, dân tộc trong việc chọn lựa
người tài.

- Chú trọng đào tạo, tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực chất lượng cao tại doanh
nghiệp.

KẾT LUẬN

Như vậy, quan điểm triết học của Mác – Lênin về con người và phát huy nguồn lực con người là phong phú,
sâu sắc và đúng đắn. Nắm bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung và triết học
Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại đã dần dần đi đến
khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Những năm gần đây Nhà nước càng
chú trọng hơn nữa phát triển nguồn nhân lực do nhận thức vai trò hết sưc đặc biệt của nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã đạt được nhiều kết quả khả quan được ghi nhận đánh giá cao.
Mặc dù vậy, so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn hạn chế về chất lượng. Đây là thách thức lớn
trong công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam ngày nay. Những thực trạng và nguyên nhân đưa ra sẽ giúp Chính
phủ Việt Nam thực hiện những Chính sách phù hợp, có hiệu quả nhất cho sự phát triển đất nước.
Nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi vừa cấp bách, vừa cơ bản do đó cần được tiến hành
thường xuyên và trên nhiều phương diện nhằm phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển
kinh tế, xã hội. Đây chắc chắn sẽ là vấn đề nhận sược nhiều sự quan tâm, đánh giá và phân tích từ nhiều chuyên gia,
dư luận và thế giới

Câu 1; Vì sao nói sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người
* Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người Đó là quá trình hoạt
động có mục dịch và không ngừng sáng tạo của con người Sự sản xuất xã hội bao bao gồm : Sản xuất
vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
*Kháiniệmsảnxuấtvậtchất
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp)
vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người. Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành
với mục đích nhất định và được tiến hành theo cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó chính là
phương thức sản xuất. * Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tôn, phát
triển của xã hội là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con
người nó chính là cơ sở của sự hình thành. hiền đối và phát triển của xã hội loài người.
Trong quá trình phát triển con người không thỏa mãn với những cái có sẵn trong tự nhiên, mà luôn
luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong
phú đa dạng của con người Hoạt động sản xuất chất tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của con người nói chung cũng như từng cả thể con người nổi tiếng. Bằng việc “sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của minh con người đã giản tiếp sản xuất ra chính: đời sống vật chất của minh"
Con người tạo ra toàn bộ các mất cậu đến song xã hội. Như các quan hệ về nhà nước, pháp quyền,
đạo đức, nu, thuật tồn quốc..đều hinh thành biến dõi trên cơ sở sản xuất vật chất.
Trải qua lịch sử lâu du chinh phục giới tự nhiên, con người nhân chịu hiểu rõ hơn sức mạnh của mình.
Cùngvới việc cả hiểu thế giới xung
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. QHSX gồm 3 mặt: QH về sở hữu với
tư liệu sản xuất, QH trong tổ chức và OH sx, QH trong phân phối sản xuất ra.
LLSX là sự biểu hiện mối QH giữa người với tự nhiên trong SX.
* Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX: LLSX và QHSX là 2 mặt thống
nhất của I PTSX trong đó LLSX là nội dung vật chất, còn QHSX là hình thức xã hội của SX. Trong hình
thức xã hội ấy có hình thức sở hữu TLSX, hình thức quản lí SX, hình thức phân phối sản phẩm.
Sự vận động phát triển của LI SX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó.
LLSX luôn luôn vận động phát triển bắt đầu từ CCLĐ, từ KH công nghệ QHSX có tỉnh ổn định tưởng
đối. Sự phát triển của LISX đến 1 trình độ nhất định mâu thuẫn với QHSX hiện có, đòi hỏi phải thay đổi
bằng 1 QHSX món phù hợp với tranh độ của LLSX QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
đối với LLSX QHSX phủ hợp với trình độ phát triển của LLSX có tác động thức dậy LLSX phát triển
Ngược lại OHSX ko phù hợp với LLSX (lạc hậu hoc vun trước), kim hun sự phát triển của LISX. Khi
OHSX kim hãm sự phát triển của LLSX thị theo quy luật chung QHSX cả sẽ được thay thế bằng Olls,
min phụ hợp vn tinh đỏ phát trên của LISA
Quy luật QHSX phủ hợp với trình độ phát triển của II SX là quy hút phát hiện tiêu động trong toàn bộ
tiến trình lịch sử của nhân loại.
• Liên hệ Việt Nam:
Nước ta chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp
lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sx xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn,
phức tạp. Thức tế do LLSX bị kìm hãm trong trường hợp QHSX lạc hậu hay phát triển không đồng bộ
và có những yếu tố đi quá xa với trình độ phát triển của LLSX. Để xây dựng phương thức xã hội chủ
nghĩa, cần chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trưởng dưới sự
quản lí của nhà nước nhằm phát huy tiềm năng của mỗi thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ LLSX
để xây dựng kt xã hội chủ nghĩa.
Câu 3: Phân tích quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, Liên hệ vào Việt
Nam.
Khái niệm về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành
cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan niệm chính trị, pháp quyền triết học, tôn giáo, đạo đức,
nghệ thuật,.. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể xã hội... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thống nhất trong một hình thái kihn tế xã hội. trong đó cơ sở hạ tầng luôn giữ vai trò quyết định
đối với kiến trúc thượng tầng Vì vậy muốn tìm nguyên nhân sâu xa biến đổi kiến trúc thượng tầng phải
tìm
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: Đồng thời kiến trúc thượng tầng có
tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với quy luật kinh tế
sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Néu ngược lại không phù hợp thì nó kim hãm sự phát triển kinh tế và cả
xã hội nói chung. Tuy nhiên cuối cùng thi tất yếu kinh tế vẫn tự vạch đường đi cho nó, bắt buộc kiến
trúc thượng tầng phải thay đổi theo yêu cầu của phát triển kinh tế.
Cơ sở hạ tầng trong thời kì quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở
hữu tương ứng với các thành phần kinh tế xã hội khác nhau, thậm chỉ đối lập nhau, cùng tồn tại trong
một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hưởng xã hội chủ nghĩa.
Về xây dựng KITT XHCN ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã khẳng định lấy tư tưởng HCM và chủ nghĩa
Mac-lenin làm nền tảng cho mọi hoạt động tỉnh thần của xã hội.

Câu 4: Phân tích quan hệ biện chứng giữa tồn tại cả hội và ý thức xã hội
* Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội Tồn tại xã hội tức là mặt vật chất của đời sống xã hội, tức là
những sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, có hai loại quan hệ cơ bản
là quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với người Ý thức xã hội là một tinh
thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, từ Lương cùng những tinh can tâm trạng, truyền
thống của cộng đồng xã hội65vn2 phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
Biện cứng giám lớn tại xã hội và ý thức xã hội.
Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội: Đời sống tinh than của xã hội hình thành và
phát triển trên cơ sở đời sống vật thải Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

1.1. Khái niệm của tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội là phạm trù triết học dùng để chỉ đời sống vật chất và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Ví dụ: Trong điều
kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... thì phương thức canh tác lúa
nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn
năm qua. Để tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành
tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,

Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội bao gồm phương thức sản xuất vật chất môi
trường tự nhiên (đất đai, rừng núi, sông ngòi, tài nguyên, khoáng sản, năng lượng...)
và dân số. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là cách thức con người tiến hành
quá trình sản xuất vật chất ả những giai đoạn lịch sử nhất địnhtài nguyên, khoang san,
năng lượng...) và dân số. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là cách thức con
người tiến hành quá trình sản xuất vật chất á những giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội loài người, bao gồm lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản
xuất tương ứng. Đây là yếu tố cơ bản, quyết định nhất vì, phương thức sản xuất vật
chất là yếu tố quyết định, chi phối các yếu tố còn lại cũng như quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội.

Ví dụ: Từ một đảo quốc hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên liệu
đều phải nhập từ bên ngoài, Singapore đã có bước phát triển ngoạn mục trong hơn 50
năm qua, trở thành một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất
thế giới. Sự phát triển của Singapore là kết quả của chính sách áp dụng những
phương thức sản xuất vật chất tân tiến, hợp lý, kết hợp với nền tri thức hiện đại của
con người để đem lại bước tiến mới cho nhiều ngành kinh tế (từ nông nghiệp đến dịch
vụ thương mại, ...)
1.2. Khái niệm của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội bao gồm những từ tráng, quan
điểm, tình cảm, tâm trạng, thói quen, truyền thống ... nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.Từ đây, ta nhận thấy được
sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế
giới tỉnh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức của các cá nhân đều
phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau do đó nó hiển nhiên là mang tinh
xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng,
tỉnh cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất
định. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau,tham nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.Ví dụ:
Ý thức xã hội: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
Ý thức cá nhân: Sự gần gũi gắn bó, lòng yêu quê hương, đất nước của mỗi cả nhân,
công dân Việt.
Kết cấu của ý thức xã hội có thể chia theo những cách sau: Theo trình độ phản ánh
của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và
ý thức lý luận.
+ Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm... được hình
thành trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày.
+ Ví dụ: Thời xa xưa khi chưa có những kỹ thuật, công cụ quan sát thiên văn, khí
tượng, dân gian đúc kết một số câu ca dao về thời tiết dựa trên sự quan sát thực tiễn
như:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.”
“Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng”
Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.”
+ Ý thức lý luÁn là những tư tráng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy
luật.Theo phương thức phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể phân
biệt tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
+ Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí,... phản ánh
trực tiếp và tự phát đối với hoàn cảnh sống của họ. Ví dụ: Tâm trạng hân hoan của học
sinh khi được trở lại trường sau dịch, phong tục ăn trầu của người Việt Nam, thói quen
tập thể dục buổi sáng,v.v..
+ Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như: Chính
trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo...; là sự phản ánh gián tiếp tự giác đối với
tồn tại xã hội. Ví dụ: Hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng giai
cấp,...
Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, phản ánh điều kiện sinh
hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp. Vì vậy ý thức xã hội
của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau. Tính
giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ả tâm lý xã hội, cũng như ả hệ tư tưởng xã hội.
Những tư tưởng thống trị của một thời đại
bao giờ cũng là tư tưáng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ả thời đại đó.
Ví dụ: Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột. Hiện nay các thế
lực thù địch đang không ngừng tấn công vào chủ nghĩa Mác – Lênin, muốn phủ nhận,
xóa bỏ nó.
II. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

2.1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Tồn tại xã hội sinh ra ý thức xã hội và quy định nội dung, bản chất, xu hưởng vận động
của ý thức xã hội mà ý thức xã hội là sự phản ánh cái logic khách quan của tổn tại xã
hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế
ấy. Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tráng và
lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức... sớm
muộn cũng bị biến đổi theo. Chính vì thế, chúng ta không thể tìm nguồn gốc của tư
tưáng, lý luận trong đầu óc con người, mà phải tìm á điều kiện vật chất xã hội.
Ví dụ: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp
kém, mọi người còn làm chung, hướng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện.
Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra
đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn
bản, nảy sinh và phát triển, tư tưởng tư hữu, ăn bảm, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng chủ nô ra đời.
Một trong những công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là đã phát triển chủ nghĩa
duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, giải quyết một cách khoa
học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Quan điểm trên đây đối lập
với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về xã hội cho nên, ả những thời kỳ lịch sử khác
nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưáng xã hội khác nhau thì đó
là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
2.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a) Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Theo nguyên lý, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, khi tồn tại xã hội biến đổi tất
yếu dẫn tới sự biến đổi của ý thức xã hội. Thế nhưng, lịch sử xã hội loài người cho
thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu rồi, song ý thức xã hội do xã hội đó sản sinh
ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều này biểu hiện rõ nhất ả các Thứ nhất, do sự tác động mạnh
mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con người khiến cho tồn tại xã hội diễn
ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả tính bảo thủ của
hình thái ý thức xã hội. Và những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để làm cho
những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn biến mất đi. Ví dụ: Sự xuất
hiện của Covid 19 đã khiến cho cả thế giới ý thức hơn về lợi ích của việc tiêm phòng
vaccine, nhưng trên thế giới, nhất là ở các quốc gia phương Tây, số lượng người từ
chối tiêm ngừa vaccine chiếm tỷ lệ khả cao bởi họ còn nghi hoặc về chất lượng sự an
toàn của vaccine, sự rủi ro về sức khỏe, tinh mang và Str thiếu thông tin về vaccine.
Ví dụ: Khoa học phát triển nhanh chóng nhưng ý thức con người chưa phát triển, còn
nhiều phong tục tập quản lạc hậu như hủ tục ma chay, trọng nam khinh nữ. Ý thức lạc
hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã
hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tráng, đấu tranh chống lại âm mưu
và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưáng, kiên trì xoá bỏ
những tàn dư ý thức cũ.

b) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội Khi khẳng định tinh lạc hậu hơn của ý
thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng: Trong những
điều kiện nhất định, tư tráng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiến
tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội. có tác dụng định hướng và dự
báo được xu thể phát triển tượng lại của tồn tại xã hội. Thế nhưng, khi phân tích nhận
định Ví dụ: Trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam muốn có ngay mô hình chủ nghĩa xã hội
nên đã thực hiện cách mạng trong lĩnh vực quan hệ sản xuất trong khi trình độ của lực
lượng sản xuất còn kém dẫn tới lực lượng sản xuất chậm phát triển, kinh tế rơi vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng dẫn tới sai lầm, thất bại.
Khi nói tư tưáng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình phát
triển khách quan của xã hội, nó có tác dụng tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn con người
trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, những tư tưởng khoa học đó không thoát ly khỏi
tồn tại xã hội mà thực chất phải xuất phát từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội
chính xác hơn, sâu sắc.
c) Ý thức xã hội có tinh kế thừa trong sự phát triển
Trong đời sống tính thần của một cộng đồng người có thể có những nhân tố tỉnh thần,
xã hội vốn không phải là cái được nảy sinh từ điều kiện sinh hoạt vật chất khách quan
của cộng đồng đỏ, mà là sự giao lưu, tiếp biến tư tưởng văn hóa giữa các cộng đồng
người hoặc kế thừa truyền thống tư tưởng tử những cộng
Ví dụ: Tư tưởng lấy “Dân làm gốc” hay “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong” (Hồ Chí Minh)
d) Sự tác động qua lại giữa các hình thải ý thức xã hội trong quá trình phát triển Ý thức
xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức,
triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một đối
tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội, nhưng giữa chúng có mối
liên hệ với nhau. Sự liên hệ tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức có những tính
chất và những mặt không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay
bằng các điều kiện vật chất:
Ví dụ: Trong triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn trong giao
giành được địa vị thống trị và chi phối đời sống tinh thần của chế độ phong kiến.

e) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội


Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai
trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác
động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý
thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc
hậu sẽ cản trá sự phát triển của tồn tại xã hội.Mức độ ảnh hướng của tư tráng đối với
sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối
quan hệ kinh tế mà trên đó tư tráng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang
ngọn cờ tư tráng và vào mức độ má rộng của tư tưáng trong quần chúng.
Ví dụ: Hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ
XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản
đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỒN TẠI
XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VÀO LỐI SỐNG SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt.
Xã hội ngày càng phát triển đã nâng cao tư tưáng và lối sống của nhiều người nhưng
bên cạnh đó những luồng tư tưáng và hành vi lạc hậu vẫn tồn tại và đang tác động xấu
đến một bộ phận người dân đặc biệt là thế hệ sinh viên trẻ hiện nay. Nói đến sinh viên
tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ
xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Con người Việt Nam mới mà
chúng ta đang xây dựng, đặc biệt là những sinh viên đang sống trong thời đại của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 phải là con người phát triển toàn diện. Quá trình xây dựng
con người mới đồng thời là quá trình đấu tranh loại bỏ những gì lạc hậu, phản tiến bộ
trong đó hành vi lạc hậu được xem là một rào cản lớn, một “sợi dây” trói buộc sự vận
động. phát triển của xã hội.

3.1. Khái quát về lối sống sinh viên


Việc hình thành lối sống tích cực, nhân văn đóng vai trò hết sức quan trọng thể hiện
mối quan hệ lành mạnh giữa con người với con người, thể hiện tư
ráng đạo đức tiến bộ, góp phần xây dựng hình ảnh con người Việt Nam với đấ đủ
phẩm chất tốt đẹp. Trong đó sinh viên là những người trẻ tuổi, năng động Sáng tạo, có
chỉ tiên thủ, có múc mơ và hoài bão lớn trong học tập và cuố K hinh sinh viên là những
người tiên phong trong qC CÔNG CHÚA CÁC CĐ của mời về kinh tế. giáo dục Trong
đầu họ luôn đầy áp các ý trung đổi đầu từ thán
dụng r do để biến sau ý trong ấy thành hiện thực. đủ phẩm chất tốt đẹp. Trong đó sinh
viên là những người trẻ tuổi, năng động, sáng tạo, có chí tiến thủ, có ước mơ và hoài
bão lớn trong học tập và cuộc sống. Chính sinh viên là những người tiên phong trong
mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục... Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý
tưáng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưáng ấy thành hiện
thực. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, sáng chế; và không ít trong số
những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích trong
thực tiễn. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho
lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự
mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều
có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học
tập trong một phạm vi hẹp á trưởng, lớp giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần học
tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt Nam còn
tiếp thu những cái hay,

a) Biểu hiện

Trên thực tế những biểu hiện của hành vi lạc hậu được thể hiện, bộc lộ dưới rất nhiều
dạng, nhiều khía cạnh. Có những biểu hiện chỉ thoáng qua người ta đã biết, nhưng có
những biểu hiện không phải ai cũng dễ nhận ra, do đó việc nhận diện đúng hành vi lạc
hậu để đấu tranh khắc phục là việc làm cần thiết.

Biểu hiện của hành vi lạc hậu của sinh viên tồn tại cả ả cấp độ tư tưởng và á cấp độ
hành động. à cấp độ tư tưởng, sự lạc hậu của tư tưởng tư sản đang gây tác động đến
một bộ phận sinh viên. Đã xuất hiện tư tưáng sinh ngoại, ca ngợi một chiều, những lối
suy nghĩ cũ còn chi phối nhiều đến cuộc sống sinh viên như lối nghĩ duy cảm, tư tưởng
thực dụng, tâm lý “đám đông”, dẫn tới trụy lạc trong lối sống, bạc nhược về tư tưởng,
vun vén lợi ích cá nhân và những biểu hiện, đạo đức lối sống khác trong thanh niên,...
Tư tưởng là vấn đề đầu tiên và cũng là vấn đề lớn nhất cần bản đến. Tư tráng của một
bộ phận sinh viên còn sai trái, lệch lạc. Dưới sự tác động ồ ạt của nền kinh tế thị
trưởng, dường như giới
b) Hành vi
Nét lạc hậu trong hành vi của sinh viên biểu hiện rõ trong việc nhìn nhận một cách sai
lầm về giá trị cuộc sống. Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá trị trong cuộc
sống. Trong xã hội ấy, kẻ có tiền là kẻ mạnh. Điều này vô hình chung tạo nên một suy
nghĩ “chạy theo thành tích”, bằng mọi giá phải nâng cao thành tích, hiệu số. Chính vì
thế, không ít sinh viên con nhà giàu đã sử dụng đồng tiền gây ra nhiều chuyện sai trái:
mua điểm, chèn ép bạn bè... Lối sống hướng thụ dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực khác
trong sinh viên. Tệ nạn xã hội, thái độ không đúng đắn đối với lao động xảy ra nhiều
trong sinh viên.Trong khi phần lớn thanh niên đều cố gắng sống và học tập vì tương
lai, ít nhất vì lợi ích của bản thân thì lại có những người chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt
không đâu mà không tha thiết gì cuộc sống. Đôi khi chỉ vì bị thất tình hay không đạt
được một điều mong muốn mà họ có mình lại thờ ở với cuộc sống xung quanh thậm
chí nhiều người ngốc nghếch còn tìm đến cái chết.

Sự lac hậu còn thể hiện rõ trong cách img sr trong hành vi xã hội ng xung quanh thậm
chí nhiều người ngốc nghếch còn tìm đến cái chết.

Sự lạc hậu còn thể hiện rõ trong cách ứng xử, trong hành vi xã hội. Những hành vi lạc
hậu, những tập quán cũ còn chi phối nhiều đến cuộc sống sinh viên như sự lãng phí
trong sinh hoạt, ham phô trương, chưa xác định được giá trị sống, chưa chú trọng việc
học, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,... đã gây tác động lớn đối với
sự phát triển xã hội.

Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Nhiều người chỉ quan
tâm tới những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên mất lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp
lên lợi ích của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, một số thanh niên còn bất
chấp tất cả: luật pháp, gia đình, bạn bè... Một số sống không động chạm đến ai, nhưng
cũng không quan tâm đến ai. Chỉ cần biết đến mình, còn người khác thì mặc kệ kiểu
“đèn nhà ai nấy rạng”. Điều đó khó mà chấp nhận được trong một xã hội hiện đại ngày
nay. Trong học tập thì nhiều sinh viên không tập trung vào quá trình học tập: làm việc
riêng, nói chuyện, chơi , ăn uống, có sinh viên ngủ gật trong giờ học; có sinh viên lao
game, vào kiếm tiền bỏ quên việc học; học một cách hời hợt.

Hiện nay tình trạng sinh viên lười học khiến giảng viên nhiều trường ngán ngẩm và
hậu quả là số sinh viên bị cảnh cáo, buộc thôi học của các trường năm nào cũng có.
Khi mới trúng tuyển vào đại học, cao đẳng, các tân sinh viên hứng khái chăm chỉ học
bài, nhưng chỉ sau một thời gian thì đã trả nên lười biếng, bỏ bê học hành dẫn đến
việc thi lại nhiều hơn thi chính. Thực trạng một bộ phận sinh viên Việt Nam hiện nay
không mấy mặn mà gì với việc “tự học” mà thay vào đó là “tự chơi" nhiều hơn, lười đọc
sách, lười học tập đã không còn xa lạ,

3.2. Nguyên nhân dẫn đến lối sống lạc hậu

Đại văn hào Pháp Victor Hugo (1802- 1885) từng viết “ Lao động làm con là cội nguồn
lạc hậu, của mọi tăm tối, thấp hèn.
Thực tế cho thấy tình trạng mang nặng tư tưáng bảo thủ, lạc hậu, không mạnh dạn
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm á một bộ phận sinh viên đang là lực cản lớn
đối với quá trình phát triển của đất nước ta.Trên thực tế vẫn có rất nhiều sinh viên
đang cố thủ trong các vỏ bao bọc của lề thói cũ, tư duy và chủ nghĩa kinh nghiệm nên
họ đã chậm đổi mới trong cả tư duy và hành động; giáo dục và đào tạo không bắt kịp
với xu thế phát triển của thời đại.
Nếu sống trong xã hội văn minh, tiến bộ, mọi người vui vẻ hòa đồng thì chắc hẳn cá
nhân trong xã hội cũng “lĩnh hội” được những điều tốt đẹp từ xã hội ấy và tạo cho bản
thân lối sống tốt đẹp. Nhưng hiện nay con người sống với nhau theo xu hướng coi
trọng vật chất, sống vụ lợi, thiếu tình cảm, quan hệ giữa con người với nhau trả nên
lỏng lẽo và lạnh nhạt dần. Quỹ thời gian cho giáo dục á các gia đình quả ít, sự bênh
vực che chá không đúng cách... làm các thể hệ trẻ ngạo mạn, coi trời bằng vung. Đời
sống kinh tế gia đình quá khó khăn Hành vi lạc hậu có nguyên nhân từ bản thân tồn tại
xã hội hiện thời. Do ảnh hướng của xu hướng toàn cầu hóa và kinh tế thị trường: có
sự hội nhập, giao lưu văn hóa giữa các nước khác nhau, trong đó sinh viên là nhóm
người năng động, ham học hỏi, ham hiểu biết, nhưng tiếp thu lại không chọn lọc nên
dẫn đến lối sống sai lầm, lệch lạc. Sự phát triển của công nghệ thông tin với các trò
chơi giải trí mang tính bạo lực cao, những trang mạng xã hội tạo nên những mối hệ
xấu, những phim ảnh ngôn tình, ủy mị

You might also like