Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

CHƯƠNG 1:

GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ

Mục tiêu của chương:

- Cung cấp các kiến thức ban đầu về môn học

- Nắm được các nguyên lý cơ bản của kinh tế học, vận dụng trong phân tích các vấn đề kinh tế.

- Hiểu được các khái niệm cơ bản và công cụ phân tích quan trọng của kinh tế vĩ mô.

- Nắm được các mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản

1.1. Khái quát về kinh tế học

1.1.1 Kinh tế học và kinh tế học vĩ mô

Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học là sự khan hiếm. Sự khan hiếm nguồn lực đòi
hỏi các cá nhân và xã hội phải đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế học nghiên cứu sự lựa chọn trong
điều kiện nguồn lực khan hiếm. Sự khan hiếm xảy ra khi nguồn lực của nền kinh tế không đủ để thỏa
mãn cầu của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế đó. Con người từ lúc sinh ra và trưởng thành đếu có
nhu cầu về tình yêu, sự thừa nhận xã hội, nhu cầu vật chất và tiện nghi cuộc sống. Nhu cầu của chúng ta
rất đa dạng và phong phú nhưng không bao giờ có giới hạn. Trong thực tế không phải bất cứ cái gì chúng
ta muốn đều có thể đạt được mà ngược lại, khả năng đáp ứng nhu cầu của chúng ta luôn bị giới hạn, ít
nhất là bị giới hạn bởi thu nhập, điều này thể hiện sự khan hiếm về tiền bạc, đòi hỏi chúng ta phải có sự
phân bổ hợp lý thu nhập sao cho nhu cầu của chúng ta được thỏa mãn ở mức cao nhất. Nếu xét ở góc
độ một doanh nghiệp hay một nền kinh tế cũng vậy, nó cũng luôn phải đối mặt với sự khan hiếm về
nguồn lực để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Doanh nghiệp và nền kinh
tế cũng phải tìm cách phân bổ các nguồn lực sao cho có hiệu quả cao nhất.

Như vậy, vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các doanh nghiệp phải giải quyết đối
với sự lựa chọn. Các nhà kinh tế cho rằng: “Kinh tế học là khoa học của sự lựa chọn”. Kinh tế học tập
trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất
của con người. Kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ
trong điều kiện nguồn lực hạn chế.

Như vậy, Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu cách thức phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên
khan hiếm để đáp ứng nhu cầu vô hạn của con người.

 Dựa vào hành vi kinh tế, các nhà kinh tế phân kinh tế học theo hai nhánh là Kinh tế học vi mô và
Kinh tế học vĩ mô.

- Kinh tế học vi mô nghiên cứu cách thức ra quyết định của các hộ gia đình và hãng kinh doanh cũng như
sự tương tác của họ trên các thị trường cụ thể.

- Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một nền kinh tế ở
góc độ tổng thể hay trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế vĩ mô nhấn mạnh tới sự tương tác trong nền kinh tế nói chung. Nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi
quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp,
cán cân thanh toán, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội.

Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô tuy khác nhau nhưng đều là những nội dung quan trọng của kinh
tế học, không thể chia cắt nhau, mà bổ sung cho nhau, tạo thành hệ thống kiến thức của kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Thực tế đã chứng minh, kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào
các hành vi của kinh tế vi mô, kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của doanh nghiệp, của tế
bào kinh tế trong sự tác động ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô, của nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô tạo hành lang,
tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi mô phát triển. Trong thực tiễn kinh tế và quản lý kinh tế,
nếu chỉ giải quyết những vấn đề kinh tế vi mô hay quản lý sản xuất kinh doanh mà không có sự điều
chỉnh cần thiết của kinh tế vĩ mô, quản lý vĩ mô hay quản lý nhà nước về kinh tế thì chẳng khác nào chỉ
thấy từng cây mà không thấy cả rừng cây, chỉ thấy từng tế bào kinh tế mà không thấy cả nền kinh tế.

 Dựa vào cách tiếp cận kinh tế học được phân tích từ hai góc độ thực chứng và chuẩn tắc.

- Kinh tế học thực chứng mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Nói cách
khác, nó giải thích sự hoạt động của nền kinh tế một cách khách quan và khoa học.

Kinh tế học thực chứng trả lời câu hỏi : “là bao nhiêu? Là gì? Như thế nào?”

Mục đích của kinh tế học thực chứng là muốn biết lý do vì sao nền kinh tế lại hoạt động như vậy. Trên cơ
sở đó dự đoán phản ứng của nó khi có sự thay đổi của hoàn cảnh, đồng thời chúng ta có thể sử dụng các
công cụ điều chỉnh để hạn chế tác động tiêu cực và khuyến khich mặt tích cực nhằm đạt được những kết
quả mong muốn.

- Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn, có nghĩa là nó đưa ra
quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế. Phân tích chuẩn tắc cho biết
chúng ta nên làm gì, nó phụ thuộc vào giá trị cảm nhận của mỗi cá nhân và rất khó có thể kiểm định
được là đúng hay sai.

Việc nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học
chuẩn tắc

Mặc dù kinh tế học nói chung và kinh tế học vĩ mô nói riêng được nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác
nhau, đồng thời trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những trường phái, học thuyết khác nhau nhưng
môn học này thống nhất với nhau ở một số ý tưởng cơ bản, gọi là nguyên lý của kinh tế học. Những
nguyên lý này do giáo sư Harvard, N. Gregory Mankiw đưa ra nhằm định hướng chúng ta cách đưa ra
câu hỏi và tìm lời giải đáp cho các vấn đề kinh tế.

1.1.2. Mười nguyên lý của kinh tế học:

Nền kinh tế xét về mặt tổng thể là một nhóm người tác động qua lại với nhau trong xã hội. Hoạt động
của nền kinh tế thực tế chỉ là tác động tổng hợp của các cá nhân cấu thành nền kinh tế tạo ra. Bốn
nguyên lý đầu chi phối quá trình ra quyết định của cá nhân, lien quan đến kinh tế học vi mô. Sáu nguyên
lý sau liên quan đến vấn đề kinh tế vĩ mô, xem xét việc con người tương tác với nhau như thế nào và sự
vận hành của nền kinh tế với tư cách một tổng thể.

1.1.2.1. Con người ra quyết định như thế nào?


Nguyên lý 1: Con người phải đối mặt với sự đánh đổi

Bài học đầu tiên chúng ta thu được từ việc quan sát quá trình ra quyết định của con người có thể tóm
tắt bằng câu ngạn ngữ : “ Mọi cái đều có giá của nó”. Để có được một thứ ưa thích, bạn thường phải từ
bỏ một thứ khác mà mình thích. Nói cách khác, quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu
nào đó để đạt được mục tiêu khác. Chúng ta buộc phải đối mặt với sự đánh đổi là do sự khan hiếm về
nguồn lực nên buộc phải lựa chọn và phải chấp nhận từ bỏ một thứ để nhận được một thứ khác. Chẳng
hạn, một sinh viên phải đứng trước quyết định phân bổ nguồn lực quý báu nhất của mình là thời gian.
Anh ta có thể dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu kinh tế học, hoặc dùng toàn bộ thời gian để nghiên
cứu tâm lý học, hoặc phân chia thời gian giữa hai môn học đó. Để có một giờ học môn này anh ta phải từ
bỏ một giờ học môn kia. Để có một giờ học một trong hai môn, anh ta phải từ bỏ một giờ đi chơi, xem
tivi hoặc đi làm để kiếm thêm thu nhập.

Cần phải ý thức được rằng việc con người phải đối mặt với sự đánh đổi không cho chúng ta biết họ sẽ
hoặc cần ra những quyết định nào. Sinh viên không cần phải từ bỏ môn tâm lý học để tăng thời gian cho
việc nghiên cứu môn kinh tế học. Hay xã hội không nên ngừng bảo vệ môi trường chỉ vì các quyết định vì
các quyết định về môi trường làm giảm mức sống vật chất của chúng ta…Việc nhận thức được sự đánh
đổi trong cuộc sống cũng có ý nghĩa quan trọng vì con người chỉ có thể ra quyết định đúng đắn khi họ
hiểu rõ các phương án có thể lựa chọn.

Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó.

Vì sự đánh đổi liên quan đến lợi ích và chi phí (tổn thất), nên trong quá trình ra quyết định, mọi người
thường so sánh giữa chi phí và lợi ích của các đường lối hành động khác nhau. Cái khó ở đây là trong
nhiều trường hợp, chi phí của một số hành động không phải lúc nào cũng rõ ràng như khi mới nhìn qua.

Chẳng hạn chúng ta lấy ví dụ về quyết định đi học đại học. Lợi ích của phương án hành động này là làm
giàu thêm kiến thức và có cơ hội việc làm tốt hơn trong cả cuộc đời. Thế còn chi phí của nó là gì? Để trả
lời câu hỏi này bạn có thể cộng số tiền phải trả cho học phí, sách vở và sinh hoạt lại với nhau. Nhưng
tổng số tiền đó thực sự chưa phải toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học ở trường đại học.

Câu trả lời trên đây còn khiếm khuyết ở hai điểm. Thứ nhất nó bao gồm cả những thứ không thực sự là
chi phí cho việc học đại học. Ngay cả khi không học đại học, bạn vẫn phải chi ra những khoản chi phí liên
quan đến việc ăn ở, đi lại…và khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học của bạn là thời gian. Nếu bạn
dành thời gian cho việc học thì bạn sẽ không thể sử dụng nó để làm công việc khác. Nhiều người cho
rằng tiền lương phải từ bỏ (do không đi làm) là khoản chi phí hay cái giá phải trả lớn nhất cho việc học
đại học của họ.

Khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ra quyết định phải nhận thức được chi phí cơ hội gắn với các
hành động có thể thực hiện.

Nguyên lý 3: Con người hành động hợp lý suy nghĩ tại điểm cận biên

Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh nhỏ và tăng dần so với kế
hoạch hành động hiện tại. Người ta ra quyết định bằng cách so sánh lợi ích và chi phí tại điểm cận biên.
Chẳng hạn, người tiêu dùng muốn mua các hàng hóa và dịch vụ cho phép họ tối đa hóa sự thỏa mãn đối
với thu nhập của họ và mức giá họ phải trả. Các doanh nghiệp muốn sản xuất sản lượng nhằm tối đa hóa
lợi nhuận của họ.
Các cá nhân và doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định tốt hơn nhờ cách suy nghĩ ở điểm cận biên. Con
người hành động hợp lý chỉ quyết định tăng thêm hành động khi thấy lợi ích cận biên cao hơn chi phí
cận biên.

Nguyên lý 4: Con người đáp lại các kích thích

Vì con người ra quyết định dựa trên so sánh chi phí và lợi ích nên hành vi của họ có thể thay đổi khi lợi
ích, chi phí hoặc cả hai thay đổi. Nghĩa là, con người đáp lại các kích thích. Chẳng hạn khi giá táo tăng,
mọi người quyết định ăn ít táo hơn và ăn nhiều lê hơn, vì chi phí cho việc mua táo đã tăng lên. Đồng thời
người trồng táo quyết định thuê thêm công nhân và thu hoạch nhiều táo hơn vì lợi nhuận thu được từ
việc bán táo tăng lên. Như chúng ta sẽ thấy, tác động của giá cả lên hành vi của người mua và người bán
trên thị trường – trong trường hợp này là thị trường táo- có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu
phương thức vận hành của nền kinh tế.

Các nhà hoạch định chính sách của nhà nước không được phép quên các kích thích, vì nhiều chính sách
làm thay đổi lợi ích, chi phí mà mọi người phải đối mặt hoặc cả hai, bởi vậy chúng làm thay đổi hành vi
của họ. Ví dụ, việc tăng thuế xăng khuyến khích mọi người sử dụng xe máy nhỏ hơn, tiết kiệm nhiên liệu
hơn. Nó cũng khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện giao thông công cộng thay cho việc sử dụng
phương tiện cá nhân hoặc tìm cách sống gần nơi làm việc hơn. Nếu thuế xăng cao đến mức độ nhất
định, có thể mọi người sẽ chuyển sang sử dụng xe đạp điện.

Khi phân tích bất kỳ một chính sách nào, không những chúng ta cần xem xét hậu quả trực tiếp, mà còn
phải chú ý tới tác động gián tiếp do các kích thích tạo ra. Nếu chính sách làm thay đổi các kích thích, nó
sẽ làm cho con người thay đổi hành vi.

1.1.2.2. Con người tương tác với nhau như thế nào?

Bốn nguyên lý đầu tiên nêu trên bàn về các phương diện khác nhau trong quá trình ra quyết định cá
nhân. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, nhiều quyết định của chúng ta không chỉ ảnh hưởng đến bản
thân chúng ta, mà còn tác động đến những người xung quanh. Ba nguyên lý tiếp theo liên quan đến cách
thức con người tương tác với nhau.

Nguyên lý 5: Thương mại làm cho mọi người đều có lợi

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì nền kinh tế của hầu
hết các nước trên thế giới hiện nay đều là nền kinh tế mở. Khi đó các quốc gia sẽ tiến hành trao đổi
thương mại với nhau và điều này làm cho mọi người đều có lợi. Khi trao đổi thương mại, mọi người
thường nghĩ đến sự cạnh tranh giữa các nước, giống như một cuộc thi đấu trong đó luôn có kẻ thắng,
người thua. Sự thật thì thương mại giữa các nước sẽ có lợi. Thương mại cho phép mỗi nước chuyên môn
hóa vào lĩnh vực sản xuất có lợi thế tốt nhất, nhờ đó mà người dân của quốc gia đó có thể được hưởng
thụ hàng hóa, dịch vụ phong phú hơn. Thương mại còn làm giảm được chi phí do khai thác được hiệu
quả kinh tế theo qui mô đồng thời thúc đẩy được hoạt động chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực
sản xuất của nền kinh tế.

Nguyên lý 6: Thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế

Nền kinh tế thị trường được đặc trưng bởi quan hệ sở hữu tư nhân về nguồn lực sản xuất và sử dụng hệ
thống thị trường và giá cả để phối hợp và định hướng các hoạt động kinh tế. Trong cuốn sách Bàn về
bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc, xuất bản năm 1776 của nhà kinh tế học người Anh Adam
Smith đã nhận định: Khi tương tác với nhau trên thị trường, các hộ gia đình và doanh nghiệp theo đuổi
lợi ích cá nhân hành động như thể được dẫn dắt bởi một "bàn tay vô hình", đưa đến những kết quả
đáng mong muốn cho xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là công cụ mà nhờ đó “bàn tay vô hình” điều hành hoạt động nền
kinh tế. Giá cả phản ánh giá trị hàng hóa đối với xã hội và chi phí mà xã hội phải chịu để sản xuất ra nó.
Vì hộ gia đình và doanh nghiệp nhìn vào giá cả khi đưa ra quyết định mua và bán cái gì, nên vô tình họ
tính đến lợi ích và chi phí xã hội mà hành vi của họ tạo ra. Kết quả là giá cả giúp các cá nhân đưa ra quyết
định mà trong nhiều trường hợp cho phép tối đa hóa phúc lợi xã hội.

Nguyên lý 7: Khi thị trường thất bại, chính phủ có thể can thiệp làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả
hơn.

Mặc dù thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế tốt nhưng không phải lúc nào cũng
đưa ra tình trạng tốt nhất. Trong một vài trường hợp, nếu để thị trường tự do quyết định thì có thể hoặc
là người tiêu dùng, hoặc là doanh nghiệp hoặc cả nền kinh tế đều bị thiệt hại. Khi đó các nhà kinh tế nói
rằng, thị trường đã thất bại trong việc phân bổ nguồn lực theo cách có hiệu quả. Khi đó, chính phủ cần
can thiệp vào nền kinh tế để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và đạt được những mục tiêu
đặt ra trong mỗi thời kỳ.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chính phủ không can thiệp thường xuyên mà chỉ can thiệp vào
hoạt động của nền kinh tế khi thị trường phân bổ nguồn lực không hiệu quả

1.1.2.3 Nền kinh tế với tư cách một tổng thể vận hành như thế nào?

Nguyên lý 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nước đó.

Phần lớn sự khác biệt về mức sống là do sự khác biệt về năng suất giữa các nước – tức số lượng hàng
hóa được làm ra trong mỗi giờ lao động của một công nhân. Ở những quốc gia có năng suất lao động
cao hơn, mức thu nhập của người dân trong quốc gia đó cũng cao nên họ được hưởng mức sống tốt
hơn. Còn ở những nước có năng suất lao động thấp hơn thì hầu hết người dân của quốc gia đó có cuộc
sống khó khăn hơn. Tốc độ tăng năng suất của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân
của nó.

Mối quan hệ giữa năng suất và mức sống còn có hàm ý sâu xa đối với chính sách của nhà nước. Khi suy
nghĩ về phương thức tác động của các chính sách đến mức sống, chúng ta phải tập trung vào vấn đề
then chốt là chúng ta tác động tới năng lực sản xuất của chúng ta như thế nào. Để nâng cao mức sống,
các nhà hoạch định chính sách cần làm tăng năng suất lao động bằng cách đảm bảo rằng công nhân
được đào tạo tốt, có đủ công cụ cần thiết để sản xuất hàng hóa và dịch vụ cũng như được tiếp cận công
nghệ tốt nhất, hiện đại nhất.

Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền

Lạm phát là sự tăng lên lien tục của mức giá chung của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định.

Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát là sự gia tăng của lượng tiền cung ứng. Khi chính phủ
phát hành quá nhiều tiền thì giá trị của tiền sẽ giảm.

Nguyên lý 10: Xã hội phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn được minh họa thông qua đường Phillips –
tên của nhà kinh tế học đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ này. Trong ngắn hạn giữa lạm phát và thất
nghiệp có quan hệ đánh đổi lẫn nhau. Điều đó có nghĩa là, trong ngắn hạn nếu nền kinh tế muốn có tỷ lệ
lạm phát thấp thì phải chịu mức thất nghiệp cao và ngược lại.

Sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp tuy có tính chất tạm thời nhưng nó có thể kéo dài trong một
vài năm. Vì vậy, đường Phillips có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu xu thế phát triển của nền
kinh tế. Đặc biệt, các nhà hoạch định chính sách có thể khai thác sự đánh đổi này bằng cách vận dụng
những công cụ chính sách khác nhau. Thông qua việc thay đổi mức chi tiêu của chính phủ, thuế và lượng
tiền in ra, trong ngắn hạn các nhà hoạch định chính sách có thể tác động vào mối quan hệ giữa lạm phát
và thất nghiệp mà nền kinh tế đang phải đối mặt.Vì các công cụ này của chính sách tài chính và tiền tệ có
sức mạnh tiềm tàng như vậy, nên việc nhà hoạch định chính sách sử dụng chúng như thế nào để quản lý
nền kinh tế vẫn còn là đề tài tranh cãi.

1.2 Kinh tế học vĩ mô

1.2.1 Đối tượng nghiên cứu môn học:

Kinh tế vĩ mô là môn khoa học nghiên cứu nền kinh tế dưới giác độ tổng thể. Nó nghiên cứu các mối
quan hệ tương tác lẫn nhau trong xã hội, nghiên cứu các vấn đề to lớn cơ bản của nền kinh tế như tăng
trưởng, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương mại, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa
các thành viên trong xã hội.

Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc về nguồn lực kinh tế và
hệ thống chính trị – xã hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt
động mang tính khách quan về hệ thống kinh tế.

Như vậy đối tượng chính của kinh tế vĩ mô là nền kinh tế hỗn hợp hay nền kinh tế tổng thể. Nền kinh tế
ở đây được hiểu là một hệ thống, trong hệ thống đó các tế bào kinh tế sẽ có sự tương tác lẫn nhau.
Đồng thời thông qua việc phân tích sự vận động của nền kinh tế để phân tích các tổng lượng kinh tế vĩ
mô. Tổng lượng kinh tế vĩ mô là tổng giá trị của một đại lượng được xét trên phạm vi nền kinh tế, nó bao
gồm 2 loại:

+ Các tổng lượng liên quan đến thành tựu kinh tế vĩ mô gồm các chỉ tiêu: sản lượng và tăng trưởng kinh
tế; việc làm và thất nghiệp; lạm phát; sự cân bằng của cán cân thương mại.

+ Các tổng lượng liên quan đến các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách Tài khoá (Tổng thu và
mức chi tiêu của Chính phủ); chính sách Tiền tệ ( mức cung tiền và lãi suất trên thị trường); chính sách
Thu nhập( tiền lương và mức giá cả); chính sách Kinh tế đối ngoại ( tỷ giá hối đoái, hạn ngạch, hàng rào
phi thuế quan…)

Trong kinh tế vĩ mô, chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề:

Một là, chúng ta tìm cách hiểu về hoạt động của nền kinh tế tổng thể. Hai là, chúng ta tìm cách đưa ra lời
giải đáp cho câu hỏi là liệu chính phủ có thể làm điều gì để cải thiện thành tựu của nền kinh tế. Tức là
chúng ta quan tâm đến cả giải thích và khuyến nghị về chính sách.

1.2.2. Phương pháp nghiên cứu môn học


- Phương pháp trừu tượng hoá: Theo phương pháp này, người ta sẽ bóc tách các nhân tố không định
nghiên cứu ( cố định các nhân tố này ) để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản.
Mục đích là để giảm bớt những chi tiết phức tạp của nền kinh tế, tạo điều kiện tập trung phân tích
những hiện tượng kinh tế quan trọng nhất, qua đó dễ dàng dự báo và giải thích biểu hiện của những
biến số quan trọng.

- Phương pháp cân bằng tổng hợp: Theo phương pháp này chúng ta sẽ xem xét sự cân bằng đồng thời
của tất cả các thị trường của các hàng hoá và các nhân tố, xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản
lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng- những yếu tố
quyết định tính hiệu quả của hệ thống kinh tế. Chẳng hạn, trong phân tích kinh tế vĩ mô chúng ta quan
tâm đến tổng sản lượng của nền kinh tế (GDP) chứ không phải là sản lượng của từng loại hàng hóa cá
biệt, hay chúng ta phân tích về mức giá chung chứ không phải giá của từng mặt hàng.

- Phương pháp mô hình hoá: Mô hình là sự trừu tượng hóa thực tế để làm cơ sở cho phân tích kinh tế.
Các nhà kinh tế mô phỏng nền kinh tế bao gồm các biến quan trọng và loại bỏ các biến không quan
trọng. Các mô hình phân tích thường được biểu diễn dưới dạng toán học, các mô hình thống kê và kinh
tế lượng

+ Phân tích bằng toán: biểu diễn và biến đổi thông qua các phương trình toán học để đi đến kết luận;
biểu diễn bằng đồ thị,…

VD: Qd = a – bP; a và b > 0

(1 – Y/Y*) = á(u – u*): trong đó Y là sản lượng thực tế, Y* là sản lượng tự nhiên; u là thất nghiệp thực tế
và u* là thất nghiệp tự nhiên.

+ Phân tích bằng thống kê và kinh tế lượng: thống kê giá trị của các chỉ tiêu kinh tế, hồi quy để định
lượng quan hệ giữa các biến. VD: Qd = 1000 – 50P

(1 – Y/Y*) = 2(u – u*): quy luật Okun

Trong mô hình kinh tế, các biến được coi là cho trước từ bên ngoài mô hình được gọi là biến ngoại sinh
(biến giải thích), các biến được giải thích bên trong mô hình được gọi là biến nội sinh (biến được giải
thích). Mục đích của việc xây dựng mô hình là nhằm xem xét sự thay đổi của các biến ngoại sinh có ảnh
hưởng ra sao đến các biến nội sinh.

- Ngoài ra, kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nữa như phương pháp phân tích
thống kê số lớn, phương pháp logic…

1.2.3 Các vấn đề kinh tế vĩ mô cơ bản:

Sản lượng quốc gia:

Sản lượng quốc gia là tổng giá trị các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong một nền kinh tế ở một
thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này là thước đo cuối cùng để đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia. Chỉ
tiêu toàn diện nhất để đo lường sản lượng quốc gia là chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay tổng
sản phẩm quốc dân (GNP). Chỉ tiêu GDP (GNP) có thể được tính theo giá cả hiện hành, được gọi là GDP
danh nghĩa hoặc được tính theo giá cố định của một năm được lấy làm gốc gọi là GDP thực tế. Sự biến
động của GDP thực tế sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Chu kỳ kinh doanh:

Chu kỳ kinh doanh là sự dao động lên xuống của sản lượng thực tế (GDP thực tế) xung quanh xu hướng
tăng lên của sản lượng tiềm năng.

Chu kỳ kinh doanh có ba giai đoạn: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Những biến động từ phía tổng
cung hoặc tổng cầu gây ra sự biến động về sản lượng của nền kinh tế và tạo nên chu kỳ kinh doanh.
Chính phủ cũng có thể can thiệp bằng các chính sách tài khóa và tiền tệ để làm dịu hoặc triệt tiêu những
biến động ngắn hạn trong nền kinh tế và đưa nền kinh tế trở về trạng thái tối ưu.

Lạm phát:

Tỷ lệ lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định.

Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế được xác định thông qua các chỉ số giá được đo bằng phần trăm thay đổi
của chỉ số giá năm nay so với năm trước. Tỷ lệ lạm phát là một trong các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản để
phản ánh tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên thế giới trong
những thập kỷ gần đây. Vấn đề đặt ra là điều gì quy định tỷ lệ lạm phát dài hạn dài hạn và những biến
động ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Lạm phát có thể gây ra những tác động gì cho nền
kinh tế? Khi lạm phát cao thì làm cách nào để kiềm chế?.. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì
không thể áp đặt một cơ chế giá cứng nhắc, điều này sẽ làm cho thị trường phân bổ nguồn lực không
hiệu quả. Vì vậy, nền kinh tế có thể chấp nhận một tỷ lệ lạm phát thấp và chỉ nên kiềm chế nó khi ở mức
quá cao (lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát), ảnh hưởng xấu tới toàn bộ nền kinh tế.

Thất nghiệp:

Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, thuộc lực lượng lao động sẵn sàng làm việc với mức
lương xã hội quyết định, có nỗ lực tìm kiếm việc nhưng không kiếm được việc làm.

Tình trạng thất nghiệp của một nền kinh tế được phản ánh thông qua chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất
nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với
lực lượng lao động. Cũng như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng là một biến sô kinh tế vĩ mô quan
trọng phản ánh hoạt động của nền kinh tế. Sự biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp cũng liên quan
đến những dao động theo chu kỳ kinh doanh Nếu tỷ lệ thất nghiệp cao, có nghĩa là nền kinh tế còn dư
thừa nguồn lực và đang trong trạng thái suy thoái hay hoạt động của nền kinh tế chưa tối ưu. Ngược lại
nếu tỷ lệ thất nghiệp thấp và đạt gần bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có nghĩa là nền kinh tế đang tiến
triển tốt.

Cán cân thanh toán:

Hiện nay các giao dịch của một quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia đó mà còn mở rộng
ra các nước khác. Các giao dịch đó có thể là mua bán hàng hóa, dịch vụ, là các hoạt động đầu tư, mua
bán tài sản tài chính…Tất cả cả các giao dịch này được thể hiện trong bảng cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán là một bản báo cáo của một quốc gia về tất cả các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ hay
tài sản của quốc gia đó với các nước còn lại của thế giới. Đồng thời nó cũng là một bản báo cáo về tình
hình cung cấp và sử dụng ngoại tệ của một quốc gia.
Nghiên cứu về cán cân thanh toán cho thấy sự mất cân bằng thanh toán liên quan chặt chẽ tới dòng chu
chuyển vốn quóc tế. Nhìn chung khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngoài so
với xuất khẩu, nó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền từ thế giới bên
ngoài hoặc giảm tài sản quốc tế. Ngược lại, khi một nước có xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu thì nước đó sẽ
có tích tụ tài sản từ thế giới bên ngoài. Như vậy, nghiên cứu về cán cân thanh toán liên qua chặt chẽ tới
việc nghiên cứu tại sao các công dân một nước lại đi vay hoặc cho các công dân nước khác vay tiền.

1.3 Mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô

1.3.1 Mục tiêu của kinh tế vĩ mô

Để đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia, người ta thường đánh giá trên 3 dấu hiệu cơ bản ( Các
mục tiêu tổng quát) sau:

- Ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn:

Một trong những khuyết tật của kinh tế thị trường là nó tự tạo ra các chu kỳ kinh doanh. Chu kỳ kinh
doanh là sự dao động lên xuống của mức sản lượng thực tế xoay quanh mức sản lượng tiềm năng – mức
sản lượng tối ưu mà nền kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công. Khi mức sản
lượng thực tế nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng, nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái . Trong thời kỳ
suy thoái mức sản lượng thực tế thấp và thất nghiệp gia tăng. Ngược lại, khi mức sản lượng thực tế cao
hơn mức sản lượng tiềm năng nền kinh tế ở vào trạng thái hưng thịnh kèm theo mức lạm phát cao.
Trong cả hai trạng thái suy thoái hoặc hưng thịnh nền kinh tế đều chưa tối ưu. Vì vậy, thực hiện mục tiêu
ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn là nhằm kiểm soát tổng cầu, làm dịu hay triệt tiêu được những
biến động ngắn hạn trong nền kinh tế để đạt được mức sản lượng tiềm năng.

- Tăng trưởng nhanh và bền vững trong dài hạn :

Mức sống của một quốc gia sẽ phụ thuộc vào khả năng sản xuất hàng hóa, dịch vụ của quốc gia đó. Nếu
sản lượng của nền kinh tế cao và tăng nhanh thì mức sống của người dân trong quốc gia đó sẽ cao và
được cải thiện tốt hơn. Tăng trưởng kinh tế cũng có nghĩa là gia tăng năng lực sản xuất của quốc gia một
cách bền vững theo thời gian, tức là tốc độ tăng trưởng cao phải đạt được trong dài hạn. Đối với các
nước chậm phát triển thì chỉ có tăng trưởng nhanh và bền vững mới tránh được nguy cơ tụt hậu.

Để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững thì không chỉ có sự gia tăng về nguồn lực sản xuất
mà còn cần có một hệ thống chính sách hợp lý nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng
năng suất lao động và tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.

- Thực hiện công bằng xã hội

- Sự công bằng trong xã hội thể hiện ở vấn đề về phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Thực tế cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường tự do không tự động dẫn đến công bằng xã hội mà trái
lại còn làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Sự bất bình đẳng
thường xảy ra khi nền kinh tế ở giai đoạn đầu của sự phát triển, tuy nhiên cang về sau, chính sự phát
triển kinh tế lại xóa dần đi sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó ở giai đoạn
đầu, khi nền kinh tế càng phát triển, đời sống xã hội càng được cải thiện thì sự phân hóa giàu nghèo
càng rõ rệt. Vì vậy, trong việc thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế thì mỗi quốc gia cũng
phải đảm bảo sự bình đẳng tương đối giữa các tầng lớp dân cư trong quốc gia đó.
Các nước khác nhau đặt thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu tổng quát một cách khác nhau. Các nước
đang phát triển thường đặt mục tiêu tăng trưởng ở vị trí ưu tiên trong các mục tiêu tổng quát. Mặt khác,
theo thời gian mục tiêu ổn định trường đặt ra trong ngắn hạn, còn mục tiêu tăng trưởng thường đặt ra
trong dài hạn.

Xuất phát từ các mục tiêu tổng quát, các nước đặt ra các mục tiêu cụ thể cho các chính sách kinh tế vĩ
mô. Thực chất của các mục tiêu cụ thể là các mục tiêu đối với đầu ra của hệ thống kinht ế vĩ mô, do vậy
các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:

* Mục tiêu về sản lượng :

- Đạt được sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Đạt tốc độ tăng trưởng cao
và vững chắc

* Mục tiêu về việc làm:

- Tạo được nhiều việc làm tốt

- Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ( duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên)

* Mục tiêu ổn định giá cả :

- Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do

* Mục tiêu kinh tế đối ngoại :

- Ổn định tỷ giá hối đoái .

- Cân bằng cán cân thanh toán.

* Phân phối công bằng : Giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư trong nền kinh tế

Các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể nêu trên phản ánh một trạng thái lý tưởng của nền kinh tế trong đó
sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp có
thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Mặt khác trong
thực tế các chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có khả năng làm giảm thiểu các sai lệch giữa trạng thái thực tế
của nền kinh tế so với trạng thái lý tưởng. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể thường bổ sung cho nhau
nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng(sản lượng) của nền kinh tế nhưng cũng có khi giữa chúng xuất hiện
những mâu thuẫn hay xung đột nội bộ. Các nhà làm chính sách cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi
khi cần phải chấp nhận hi sinh nào đó trong thời kỳ ngắn hạn.

Trong dài hạn thứ tự ưu tiên để giải quyết các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cũng khác nhau giữa các nước.
Với các nước đang phát triển thì mục tiêu tăng trưởng thường được ưu tiên số một.

1.3.2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu:

Chính sách kinh tế vĩ mô là những công cụ mà các nhà hoạch định chính sách có thể trực tiếp sử dụng để
có ảnh hưởng tới các biến số mục tiêu.

Có bốn tập hợp công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô. Mỗi một công cụ chính sách là một biến số
kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của Chính phủ, thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác
động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô.
* Chính sách tài khoá:

- Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để hướng nền kinh tế vào đạt
mức sản lượng và việc làm mong muốn.

- Hai công cụ chủ yếu của Chính sách tài khoá là chi tiêu của Chính phủ và thuế:

+ Chi tiêu của Chính phủ (G) tác động trực tiếp tới tổng cầu và sản lượng.

+ Thuế (T) làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân, do đó làm giảm
tổng cầu và sản lượng. Thuế có tác động đến đầu tư của các hãng về mặt dài hạn.

Trong ngắn hạn, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát phù hợp với các mục
tiêu ổn định nền kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế
giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.

* Chính sách tiền tệ:

Bao gồm việc kiểm soát mức cung tiền và lãi suất.

Ngân hàng trung ương điều chỉnh mức cung tiền sẽ làm thay đổi lãi suất trên thị trường, tác động đến
đầu tư tư nhân, do vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến tổng cầu và đầu tư tư nhân.

Chính sách tiền tệ có tác động lớn đến tổng sản phẩm quốc dân về mặt ngắn hạn, song do tác động đến
đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến GNP trong dài hạn.

* Chính sách thu nhập:

Chính sách thu nhập bao gồm một hệ thống các biện pháp công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm tác động
trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát và bảo đảm công bằng xã hội trong điều kiện nền
kinh tế thị trường. Chính sách thu nhập có hai loại công cụ cơ bản: các công cụ hành chính như các chỉ
thị về “đông giá”, “đông lương” và các công cụ kinh tế như các giải pháp điều tiết qua thuế thu nhập,
những chỉ dẫn chung và cụ thể về ấn định tiền lương và giá cả.

* Chính sách kinh tế đối ngoại:

Nhằm ổn định tỷ giá hối đoái để giữ vững giá trị đối ngoại và đối nội của đồng bản tệ và giữ cho thâm
hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được. Bảo đảm tăng trưởng ổn định, thúc đẩy thương
mại và đầu tư quốc tế.

Các công cụ của chính sách này là thiết lập các hàng rào bảo hộ phù hợp và thúc đẩy sản xuất hàng hoá
xuất khẩu; ổn định tỷ giá hối đoái và chính sách ngoại hối của quốc gia.

TÓM TẮT.

1. Quy luật khan hiếm xuất phát từ mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng thực hiện nhu cầu của con
người. Kinh tế học ra đời nghiên cứu cách thức phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên khan hiếm sao cho
nhu cầu của con người được thỏa mãn ở mức cao nhất trong sự giới hạn về nguồn lực. N.Gregory
Mankiw đã đưa ra mười nguyên lý học nói chung nhằm định hướng chúng ta cách đưa ra câu hỏi và tìm
lời giải đáp cho các vấn đề kinh tế. Bốn nguyên lý đầu chi phối quá trình ra quyết định cá nhân. Sáu
nguyên lý sau xem xét cách thưccs con người tương tác với nhau như thế nào và sự vận hành của nền
kinh tế với tư cách một tổng thể.

2. Kinh tế học được chia thành hai phân ngành chính là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế vi
mô nghiên cứu hành vi của các tế bào kinh tế trong việc ra quyết định. Kinh tế vĩ mô nghiên cứu nền
kinh tế dưới giác độ một tổng thể. Nó nghiên cứu các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong xã hội,
nghiên cứu các vấn đề to lớn cơ bản của nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, cán cân
thương mại.

3. Kinh tế vĩ mô là môn khoa học xã hội, ngoài những phương pháp nghiên cứu chung của các môn khoa
học xã hội, kinh tế vĩ mô sử dụng các phương pháp nghiên cứu riêng như: phương pháp trừu tượng hóa,
phương pháp cân bằng tổng thể và phương pháp mô hình hóa.

4. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô được chia thành hai nhóm là mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Các
mục tiêu tổng quát bao gồm: Sự ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn; Đảm bảo tăng trưởng nhanh và
bền vững trong dài hạn; Thực hiện công bằng xã hội. Các mục tiêu cụ thể: đạt mức sản lượng thực tế
cao; tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát; ổn định tỷ
giá hối đoái; thực hiện phân phối công bằng, giảm bớt khoảng cách về thu nhập. Tùy theo giai đoạn phát
triển của mỗi nền kinh tế mà các mục tiêu trên được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên khác nhau.

5. Có bốn chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà chính phủ có thể sử dụng để can thiệp vào nền kinh tế đó
là: Chính sách tài khóa; Chính sách tiền tệ chính sách thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.

Chương 2

TỔNG SẢN PHẨM VÀ THU NHẬP QUỐC DÂN

Mục tiêu của chương

- Cung cấp dữ liệu cho phân tích kinh tế vĩ mô.

- Cung cấp thông tin cho việc đánh giá các chính sách kinh tế.

- Biết cách xác định các chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc dân

NỘI DUNG LÝ THUYẾT

2.1 Tổng sản phẩm trong nước (GDP- Gross Domestic Product)

2.1.1. Khái niệm tổng sản phẩm trong nước (GDP)

Tổng sản phẩm trong nước là một chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để xem xét đánh giá hoạt động
của một nền kinh tế tốt hay không. GDP phản ánh tổng thu nhập mà mọi người trong nền kinh tế kiếm
được.

GDP là giá trị thị trường của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm)
Định nghĩa trên đây xem ra có vẻ khá đơn giản. Tuy nhiên trong thực tế có rất nhiều vấn đề phức tạp nảy
sinh khi tính toán GDP của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta hãy xem xét cẩn thận từng cụm từ trong định
nghĩa này.

“GDP là giá trị thị trường…”

Tất cả các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế đều biểu thị giá trị thị trường thông qua giá cả. Giá cả là
hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, có nghĩa là GDP sử dụng đơn vị tiền tệ để tính toán.
Nhờ đó mà GDP có thể cộng rất nhiều loại sản phẩm khác nhau trong nền kinh tế thành một chỉ tiêu duy
nhất về giá trị của hoạt động kinh tế

“của tất cả…”

GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ. Nó bao gồm tất cả các hàng hóa được sản xuất ra trong nền kinh
tế và được bán hợp pháp trên các thị trường.

GDP còn bao gồm cả giá trị thị trường của dịch vụ nhà ở do khối lượng nhà ở hiện có của nền kinh tế
cung cấp. Đối với những căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng tính được giá trị này, vì tiền thuê nhà đúng
bằng chi tiêu của người thuê nhà và thu nhập của chủ nhà. Tuy nhiên có nhiều người sinh sống trong căn
nhà của chính họ và do vậy không phải trả tiền thuê nhà. Chính phủ hạch toán những ngôi nhà do chủ sở
hữu sử dụng để ở vào GDP bằng cách ước tính giá trị cho thuê của chúng. Nghĩa là, GDP được tính dựa
trên giả định rằng người chủ sở hữu trả tiền thuê nhà cho chính họ, do vậy tiền thuê nhà nằm cả trong
chi tiêu và thu nhập của anh ta.

Tuy nhiên có một số sản phẩm mà GDP bỏ sót do việc tính toán chúng quá khó khăn. GDP không tính
những sản phẩm được sản xuất và bán ra trong nền kinh tế ngầm. Nó cũng không tính được những sản
phẩm được sản xuất và tiêu dùng trong gia đình và do vậy không bao giờ được đưa ra thị trường, ví dụ
nếu bạn trồng rau để ăn thì sẽ không được tính vào GDP nhưng nếu bán ở chợ thì được tính vào GDP,
hoặc các hoạt động nội trợ trong gia đình.

“hàng hóa và dịch vụ…”

Trước tiên chúng ta phải hiểu thế nào là hàng hóa, dịch vụ. Một sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp
ứng nhu cầu của người khác chứ không phải đáp ứng nhu cầu của chính người sản xuất ra nó và sản
phẩm đó phải được trao đổi trên thị trường thì được gọi là hàng hóa. GDP bao gồm cả những hàng hoa
hữu hình (thực phẩm, quần áo, xe hơi…) và những dịch vụ vô hình (cắt tóc, lau nhà, khám chữa bệnh…)

“ …cuối cùng…”

GDP chỉ tính giá trị của hàng hóa, dịch vụ cuối cùng mà không tính giá trị của các hàng hóa dịch vụ trung
gian.

- Hàng hóa, dịch vụ cuối cùng là những hàng hóa được đưa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Chúng
hoặc là hàng tiêu dùng mà các hộ gia đình mua, hoặc là các tư liệu lao động như máy móc, thiết bị mà
các hãng mua vào.

- Hàng hóa dịch vụ trung gian là những hàng hóa dịch vụ được dùng làm đầu vào để sản xuất ra các
hàng hóa khác và chỉ được sử dụng một lần trong quá trình đó, nghĩa là giá trị của nó được chuyển dịch
hết vào giá trị của hàng hóa cuối cùng.
Một loại hàng hóa được xem là hàng hóa cuối cùng hay hàng hóa trung gian tùy thuộc vào mục đích sử
dụng hàng hóa đó. Ví dụ như bột mì, nếu chúng ta mua về để sử dụng trong gia đình thì được xem là
hàng hóa cuối cùng, nhưng nếu nó được dùng để làm bánh bán thì lại được xem là hàng hóa trung gian.

Mục đích của việc không tính giá trị sản phẩm trung gian là để tránh việc tính trùng, tức là tính nhiều lần,
chứ không hàm ý hàng hóa trung gian không được tính vào GDP.

Ví dụ, nếu công ty Bãi Bằng sản xuất giấy, sau đó giấy được công ty In sử dụng làm thiếp chúc tết thì giấy
được gọi là hàng hóa trung gian, còn thiếp chúc tết gọi là hàng hóa cuối cùng. Việc cộng giá trị thị trường
của giấy với giá trị thị trường của thiếp sẽ dẫn tới sự tính trùng. Trong trường hợp này giá trị của giấy
được tính hai lần và dĩ nhiên đây là cách tính sai lầm.

Tuy nhiên cần lưu ý có trường hợp ngoại lệ đối với nguyên tắc trên nảy sinh đó là khi hàng hóa trung
gian được sản xuất ra và, thay vì được sử dụng, nó được đưa vào hàng tồn kho của doanh nghiệp để sử
dụng hoặc bán trong tương lai. Trong trường hợp đó, hàng hóa trung được tạm thời coi là hàng hóa cuối
cùng và giá trị của nó dưới dạng đầu tư vào hàng tồn kho được tính vào GDP. Sau đó khi mức tồn kho
hàng hóa trung gian này được sử dụng hoặc bán, thì đầu tư vào hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ là
âm, và GDP trong thời kỳ sau phải giảm một lượng tương ứng.

“…được sản xuất ra…”

GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kỳ hiện tại. Nó không bao gồm những
giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá khứ. Khi công ty Toyota sản xuất và bán
chiếc xe hơi mới, thì giá trị của chiếc xe hơi đó được tính vào GDP. Khi người nào đó bán chiếc xe hơi đã
qua sử dụng cho người khác thì giá trị của chiếc xe hơi đó không được tính vào GDP.

“…trong phạm vi lãnh thổ quốc gia…”

GDP tính toán giá trị sản xuất trong phạm vi địa lý của một nước. Ví dụ công ty Ford của Mỹ sản xuất ô
tô tại Việt Nam thì giá trị sản xuất của công ty này thuộc GDP của Việt Nam. Hay một họa sĩ Việt Nam ở
Pháp vẽ một bức tranh và rao bán thì giá trị của bức tranh này được tính vào GDP của Pháp chứ không
phải của Việt Nam.

Như vậy, GDP có thể bao gồm hàng hóa, dịch vụ do người dân quốc gia đó sản xuất ra hoặc do người
nước ngoài sản xuất tại nước đó. Nhưng GDP không bao gồm kết quả hoạt động của người dân trong
nước tiến hành ở nước ngoài.

“…trong một thời kỳ nhất định.”

GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể. Khoảng thời gian này thường
là một năm hoặc một quý. GDP phản ánh lượng thu nhập hay chi tiêu của thời kỳ đó

Tổng sản phẩm trong nước là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của các
hoạt động sản xuất. Nó phản ánh quan hệ tương hỗ trong quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng cuối
cùng của hàng hóa và dịch vụ trong toàn bộ nền kinh tế.

2.1.2. Các phương pháp tính GDP

2.1.2.1. Tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế
GDP cùng một lúc phản ánh hai sự việc: tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế và tổng chi tiêu
để mua sản lượng, hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế.

Mọi giao dịch trong nền kinh tế đều có một bên bán và một bên mua. Một lượng tiền mà người mua trả
chính là thu nhập mà người bán nhận được. Như vậy, tổng thu nhập chính bằng tổng chi tiêu của nền
kinh tế. Đây chính là lý do tại sao GDP phản ánh được cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế.

Một cách khác để nhận thấy sự bằng nhau giữa thu nhập và chi tiêu là sử dụng sơ đồ vòng luân chuyển
kinh tế vĩ mô trong hình 2.1.

Trong một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh thường tồn tại bốn tác nhân kinh tế cùng hoạt động. Đó là
các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ và người nước ngoài. Song để tìm ra nguyên lý cơ bản
có tính phương pháp luận cho việc xác định GDP, chúng ta sử dụng phương pháp trừu tượng hoá bằng
cách chưa xét đến vai trò của khu vực Chính phủ và người nước ngoài, đồng thời đưa ra giả định không
ảnh hưởng gì đến nguyên lý và quy tắc tính GDP như sau:

Thứ nhất, các hộ gia đình sở hữu các yếu tố đầu vào như: vốn, đất đai, sức lao động...Họ cung cấp các
yếu tố đó và những dịch vụ tương ứng cho các hãng kinh doanh và nhờ đó mà họ có thu nhập.

Thứ hai, các hãng mua các yếu tố đầu vào và các dịch vụ thích hợp để tổ chức quá trình sản xuất ra hàng
hoá dịch vụ và cung cấp trở lại cho các hộ gia đình tiêu dùng và cũng nhờ đó mà có thu nhập.

Thứ ba, toàn bộ thu nhập của các hộ gia đình phải được chi tiêu hết vào việc mua hàng hoá tiêu dùng và
các hãng cũng phải tiêu thụ hết hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra để có thể tiếp tục quá trình sản xuất tiếp
theo. Như vậy, lợi nhuận của hãng cũng được chuyển thành thu nhập của các hộ gia đình. Vì các hãng
ngoài tư cách là người đầu tư thu lợi nhuận còn là một thành viên của xã hội, tức là cũng đóng vai trò là
một cá nhân hay một hộ gia đình.

Sự giao dịch giữa các hộ gia đình và các hãng tạo nên một dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô và được mô tả
qua sơ đồ sau:

Hình 2.1: Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô

Nhìn vào sơ đồ ta có các nhận xét sau:

- Dòng luân chuyển bên trong của sơ đồ là sự vận động của hàng hoá, dịch vụ dưới hình thái hiện vật.

- Dòng luân chuyển bên ngoài là dòng vận động giá trị của các hàng hoá và dịch vụ đó thông qua giao
dịch của các tác nhân kinh tế.

Tuy nhiên, nền kinh tế trong thực tế phức tạp hơn rất nhiều so với nền kinh tế được minh họa trong mô
hình 2.1. Cụ thể, các hộ gia đình không chi tiêu hết thu nhập của mình. Họ nộp một phần thu nhập của
mình cho chính phủ dưới dạng thuế, cũng như tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập để sử dụng trong
tương lai. Ngoài ra, các hộ gia đình không mua tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền
kinh tế. Một số hàng hóa và dịch vụ được chính phủ mua, còn một số khác được các doanh nghiệp mua,
vì họ dự kiến trong tương lai sẽ sử dụng chúng vào việc sản xuất ra sản phẩm của riêng họ. Tuy nhiên
cho dù hộ gia đình, chính phủ hay doanh nghiệp mua hàng hóa hay dịch vụ nào đó thì giao dịch đó vẫn
có bên mua và bên bán. Do vậy, khi xem xét nền kinh tế với tư cách một tổng thể thì chi tiêu và thu nhập
của nền kinh tế là luôn bằng nhau.

Như vậy, với những giả định đã nêu trên, sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô đặt cơ sở cho việc tính
toán GDP theo hai phương pháp:

+ Theo nhánh trong, ta tính được tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế, gọi
là phương pháp tính theo luồng sản phẩm cuối cùng hay phương pháp chi tiêu.

+ Theo nhánh ngoài, ta tính được tổng thu nhập của các yếu tố sản xuất, gọi là phương pháp tính theo
luồng thu nhập hay chi phí nhân tố.

+ Ngoài ra, GDP còn được tính theo phương pháp sản xuất tức là tính những cái mà các hãng kinh doanh
trong nền kinh tế sản xuất ra.

2.1.2.2. Các phương pháp tính tổng sản phẩm trong nước

a. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng (phương pháp chi tiêu)

Phương pháp này sử dụng các thông tin từ luồng chi tiêu để mua hàng hoá dịch vụ cuối cùng. Vì tổng giá
trị sản lượng của hàng hoá phải bằng tổng số tiền được chi ra để mua chúng, nên tổng chi tiêu để mua
hàng hoá, dịch vụ cuối cùng phải bằng GDP.

Để tính được GDP theo phương pháp này, ta chỉ cần dùng giá thị trường để quy đổi tất cả hàng hóa và
dịch vụ ra giá trị bằng tiền, sau đó cộng tất cả các giá trị này lại. Trong đó, giá thị trường thực chất là giá
của người mua – đó là mức giá cuối cùng mà người bán và người mua giao dịch trên thị trường . Vì vậy,
GDP tính theo phương pháp này còn gọi là GDP tính theo giá thị trường ( Ký hiệu là GDPmp – GDP
market price)

GDPmp = C + I + G + NX (2.1)

Tổng chi tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế bao gồm chi tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình (C); Tổng
đầu tư tư nhân trong nước (I); Chi tiêu của chính phủ về hàng hóa dịch vụ và xuất khẩu ròng (NX) là phần
chênh lệch giữa giá trị hàng xuất khẩu (X) và giá trị hàng nhập khẩu (M). Do vậy, công thức 2.1 có thể
được viết lại như sau:

GDPmp = C + I + G + (EX –IM) (2.1’)

* Tiêu dùng của các hộ gia đình (C) : Consumtion of household

Bao gồm tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng của các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi
dùng cho đời sống hàng ngày của họ.

Tiêu dùng của các hộ gia đình bao gồm: Tiêu dùng hàng lâu bền (ôtô, xe máy…);Tiêu dùng hàng không
lâu bền (thực phẩm…);Tiêu dùng hàng bán lâu bền ( quần áo…); Tiêu dùng dịch vụ ( y tế, giáo dục, tài
chính…)

Chú ý: Tiêu dùng của các hộ gia đình không tính đến phần chi tiêu mua sắm nhà cửa, theo qui ước
khoản mua sắm nhà cửa của các hộ gia đình được coi là đầu tư chứ không phải tiêu dùng.

* Đầu tư (I): Investment


Đầu tư là hành vi giảm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai, là kết quả của quá trình tích
luỹ trong khu vực tư nhân và nhà nước có tác dụng mở rộng sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .

- Cơ cấu của đầu tư:

+ Nếu xét theo mục đích sử dụng thì đầu tư gồm 3 bộ phận sau:

(1) Đầu tư vào sản xuất kinh doanh: gồm chi phí mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng mới của doanh
nghiệp.

(2) Đầu tư vào nhà ở: gồm toàn bộ giá trị của những ngôi nhà mới xây dựng của các hộ gia đình.

(3) Đầu tư vào hàng tồn kho: Hàng tồn kho (hàng dự trữ) là những hàng hóa được giữ lại để sản xuất hay
tiêu thụ sau này. Thực chất, hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những vật liệu hay đầu vào
của sản xuất sẽ được sử dụng trong chu kỳ sản xuất tới hoặc các thành phẩm chờ để bán ra trong thời
gian tới. Theo quy định, chúng ta được xếp vào hàng hóa đầu tư khi tính GDP.

Vì vậy, đầu tư vào hàng tồn kho: gồm giá trị của các sản phẩm hoặc bán thành phẩm hoặc nguyên liệu
còn lại giữa hai chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt khái niệm đầu tư ở trên khác với khái niệm đầu tư của các doanh
nghiệp ở chỗ: giá trị của cổ phần, cổ phiếu hoặc mở tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng không được tính
vào đầu tư của quốc gia vì nó là quyền chuyển nhượng vốn từ người này sang người khác hay nói cách
khác, đó chỉ là hành động thay đổi thành phần tích sản của cá nhân hay doanh nghiệp, không làm cho
tổng tài sản cố định của đất nước tăng lên.

+ Nếu xét theo tính chất thì đầu tư gồm 2 bộ phận sau:

(1) Đầu tư thay thế: tương ứng với sự hao mòn của tài sản cố định

(2) Đầu tư ròng: phản ánh sự thay đổi của quỹ vốn tư bản hiện có hay nó có tác dụng làm tăng thêm giá
trị tài sản cố định của các hãng kinh doanh.

Phân biệt giữa tổng đầu tư và đầu tư ròng:

Tổng đầu tư là toàn bộ giá trị các tư bản cố định chưa khấu hao những phần đã hao mòn trong quá trình
sản xuất. Còn đầu tư ròng là giá trị các tài sản cố định còn lại sau khi trừ đi khấu hao, tức là trừ đi phần
tiêu dùng cơ bản. Tổng đầu tư được tính vào GDP

* Chi tiêu của chính phủ (G): Government

Chính phủ là một tác nhân lớn trong nền kinh tế, hàng năm Chính phủ phải chi ra một số khoản chi tiêu
nhất định để duy trì sự tồn tại của Chính phủ và thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình đối với xã
hội, tuy nhiên không phải mọi khoản chi của Chính phủ đều được tính vào GDP.

- Những khoản chi tiêu của chính phủ được tính vào GDP gồm các khoản chi mua hàng hoá, dịch vụ như:
chi xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống, trường học, bệnh viện,…Chi lương cho bộ máy hành
chính sự nghiệp: văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh. Những khoản chi này tương ứng với một lượng
hàng hoá dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế
- Những khoản chi tiêu của Chính phủ không được tính vào GDP gồm các khoản chuyển nhượng như chi
trợ cấp, lương hưu, các khoản thanh toán như lợi tức chính phủ trả cho những khoản tiền vay từ khu
vực tư nhân, bù lỗ cho các doanh nghiệp quốc doanh… Những khoản chi tiêu trên của chính phủ không
tương ứng với một hàng hóa dịch vụ nào mới được sản xuất ra trong nền kinh tế, do đó nó không làm
tăng GDP.

* Xuất khẩu và nhập khẩu (Export – Import): Chi tiêu của người nước ngoài

- Hàng xuất khẩu (EX) là những hàng hóa được sản xuất ra ở trong nước nhưng được bán ra cho người
tiêu dùng ở nước ngoài.

- Hàng nhập khẩu (IM) là những hàng hóa được sản xuất ở nước ngoài nhưng được mua để tiêu dùng
nội địa.

Như vậy, hàng hóa xuất khẩu làm tăng GDP, còn hàng hoá nhập khẩu không nằm trong sản lượng do các
doanh nghiệp trong nước tạo ra nên khi tính GDP thì phải trừ đi phần giá trị hàng hoá dịch vụ do các hộ
gia đình, hãng kinh doanh, Chính phủ nhập khẩu hàng hoá dịch vụ để tiêu dùng.

Giá trị xuất khẩu ròng còn được gọi là cán cân thương mại. Nếu NX>0 có nghĩa là cán cân thương mại
thặng dư, nghĩa là giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu hay còn gọi là suất siêu. Ngược lại, nếu
NX<0, cán cân thương mại thâm hụt, nghĩa là giá trị xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu, hay còn gọi là nhập
siêu.

b. Phương pháp tính GDP theo luồng thu nhập (chi phí).

Theo phương pháp này, GDP được tính dựa trên cơ sở tổng hợp các khoản thu nhập được phân phối
cho những nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất như lao động, tư bản, đất đai và năng lực kinh doanh
.

Tổng chi phí mà các doanh nghiệp thanh toán trở thành thu nhập của các hộ gia đình (dân cư), các hãng
cũng đóng vai trò là một thành viên của các hộ gia đình khi tiêu dùng. Vì vậy, tổng chi phí phải bằng tổng
thu nhập khi xét trên toàn bộ nền kinh tế.

Nếu xét theo chi phí cho các yếu tố sản xuất, ta có các yếu tố cấu thành cơ bản sau:

- Tiền lương, tiền công (w - Wage): là thu nhập mà người lao động nhận được từ việc cung cấp
sức lao động.

- Lãi suất (chi phí sử dụng vồn) (i – Interest): là thu nhập từ vốn mà người cho vay nhận được khi
cho vay.

- Tiền thuê ( r – Rent): là khoản thu nhập có được từ tài sản cho thuê (đất đai, nhà cửa, các loại tài
sản khác)

- Lợi nhuận (Pr - Profit): là khoản thu nhập còn lại của doanh thu tiêu thụ sản phẩm sau khi đã trừ
đi các khoản chi phí sản xuất. Nó được coi là thu nhập của chủ doanh nghiệp

- Khấu hao (De – Depreciation): là khoản tiền dùng để bù đắp giá trị hao mòn của tài sản cố định.

- Thuế gián thu (Ti – Indirect Tax): là loại thuế đánh gián tiếp vào thu nhập và được coi là một
khoản chi phí sản xuất ra sản phẩm.
GDP = W + i + r + Pr + De + Ti ròng (2.2)

Như chúng ta đã biết thuế là nguồn thu của chính phủ dùng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng,
được chia thành hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu (Td – Direct Taxes) là loại thuế
mà đối tượng chịu thuế và nộp thuế là một, nó điều tiết trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người
nộp thuế. Thuế gián thu (Ti – Indirect Taxes) là loại thuế mà người nộp thuế và người chịu thuế là khác
nhau, nó điều tiết gián tiếp thu nhập của người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ.

Trong phương pháp tính GDP theo luồng sản phẩm, để xác định GDP chúng ta chỉ quan tâm đến số tiền
mà các thành viên trong nền kinh tế đã chi mua hàng hóa dịch vụ cuối cùng mà không quan tâm đến số
tiền lấy từ đâu, kể cả phần chi tiêu của chính phủ đã bỏ ra để mua hàng hóa dịch vụ. Vì vậy, chúng ta bỏ
qua thuế trong cách tính GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng. Mặt khác, trong phương pháp tính theo
luồng sản phẩm, GDP được tính theo giá thị trường của các hàng hóa dịch vụ cuối cùng, tức là trong đó
đã bao gồm cả thuế (thuế gián thu).

Còn trong phương pháp tính GDP theo luồng thu nhập hay chi phí thì chúng ta phải tính đến thuế. Các
khoản thuế trực thu được tính vào các yếu tố thu nhập như tiền lương, lãi suất, tiền thuê và lợi nhuận
nên không tính vào GDP, vì nếu tính sẽ bị tính trùng . Còn thuế gián thu theo phương pháp này được coi
là bộ phận cấu thành chi phí sản xuất hàng hóa, dịch vụ nên phải tính vào GDP.

Trong các khoản chi của chính phủ có khoản chi chuyển nhượng (Tr – Transfer Payments) là những
khoản mà chính phủ thanh toán cho các cá nhân mà không nhận về bất kỳ hàng hóa, dịch vụ hay tài sản
nào như là những khoản bồi hoàn. Ví dụ như chi trợ cấp cho người nghèo, bù lỗ hoặc trợ giá cho doanh
nghiệp…Những khoản chi này được gọi là chuyển giao thu nhập vì nó không được thực hiện để đổi lấy
bất kỳ hàng hóa hay dịch vụ nào. Theo quan điểm kinh tế vĩ mô, khoản chuyển giao thu nhập giống như
khoản miễn giảm thuế. Cũng như thuế, khoản chuyển giao thu nhập làm thay đổi thu nhập của các hộ
gia đình, song nó không ảnh hưởng đến giá trị sản lượng của nền kinh tế. Do GDP được sử dụng để tính
toán thu nhập (chi tiêu) cho việc sản xuất hàng hóa dịch vụ, nên các khoản chuyển giao không được coi
là thành tố trong chi tiêu của chính phủ.

Phần chênh lệch giữa thuế gián thu chính phủ đánh vào hàng hoá, dịch vụ và phần trợ giá của chính phủ
cho sản xuất gọi là thuế gián thu ròng.

Ti ròng = Ti – Tr (2.3)

c. Phương pháp tính GDP theo giá trị gia tăng ( phương pháp sản xuất ):

Theo định nghĩa thì GDP là tổng giá trị của các hàng hoá dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra,nhưng để có
các hàng hoá dịch vụ cuối cùng đến tay người tiêu dùng thì quá trình sản xuất phải trải qua nhiều khâu:
từ nguyên vật liệu ban đầu được một doanh nghiệp chế biến thành hàng hoá trung gian, sau đó bán cho
một doanh nghiệp khác để chế biến thành hàng hoá cuối cùng .

Mỗi công đoạn, mỗi hãng kinh doanh chuyên môn hoá chỉ đóng góp một phần giá trị của mình để tạo ra
giá trị hàng hoá hoàn chỉnh, chúng ta phải xử lý những sản phẩm này như thế nào khi tính toán GDP .

Giả sử người bán bột mỳ bán cho người sản xuất bánh mỳ với giá 1000 đồng và người bán bánh mỳ bán
cho khách hàng với giá 2000 đồng. Vậy GDP có nên bao gồm cả bột và bánh mỳ là 3000 đồng hay chỉ có
bánh mỳ là 2000 đồng hay thôi?
GDP chỉ bao gồm giá trị hàng hoá cuối cùng, ở đây hàng hoá cuối cùng là bánh mỳ cho nên giá trị của
bánh mỳ được đưa vào GDP nhưng bột mỳ thì không, tức là ở đây giá trị GDP tăng thêm là 2000 đồng
chứ không phải 3000 đồng. Nguyên nhân ở đây là giá trị hàng hoá trung gian là bột mỳ đã được đưa vào
giá trị hàng hoá cuối cùng là bánh mỳ. Việc cộng giá trị hàng hoá trung gian vào hàng hoá cuối cùng sẽ
gây ra sự tính trùng, nghĩa là giá trị của bột mỳ được tính làm hai lần. Vì vậy khi tính GDP chỉ tính tổng
giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng đã được sản xuất ra.

Vậy để tính tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ cuối cùng, ta cộng giá trị gia tăng tại mỗi công đoạn của quá
trình sản xuất với nhau.

- Giá trị gia tăng (VA) : là lượng gia tăng trong giá trị của hàng hoá do kết quả của quá trình sản xuất.

- GDP tính theo phương pháp giá trị gia tăng :

Trong đó:

VAj : giá trị gia tăng của công đoạn sản xuất j

n : Số công đoạn sản xuất trong nền kinh tế.

Trong đó :

- GO ( Gross Output) : là tổng giá trị sản xuất. Nó là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ
được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định do lao động trong các ngành sản xuất được pháp luật nhà
nước cho phép hoạt động thực hiện.

- IE ( Intermediate Expenses) : Tổng chi phí trung gian, là toàn bộ giá trị các sản phẩm vật chất và
dịch vụ được các ngành sản xuất sử dụng trong quá trình tạo ra sản phẩm mới trong một thời kỳ nhất
định.Toàn bộ giá trị sản phẩm, dịch vụ trung gian sẽ được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới.

Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, chỉ tiêu GDP được tính đồng thời theo cả ba phương pháp. Về mặt lý
thuyết thì cả ba phương pháp đều cho kết quả như nhau. Nhưng thực tế thì mỗi phương pháp khi tính
lại dựa trên những nguồn thông tin khác nhau, cho nên giữa chúng thường có sự sai lệch gọi là sai số
thống kê.

Ở Việt Nam hiện nay, căn cứ vào các kênh thông tin thống kê thu thập thì GDP được tính theo phương
pháp sản xuất cho quý và năm. Phương pháp chi tiêu cuối cùng cũng đang được áp dụng tính tính toán
GDP cho năm, việc tính cho quý theo phương pháp này đang trong thời gian thử nghiệm

2.1.3 GDP danh nghĩa và GDP thực tế

Người ta thường dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị hàng hóa, vì mọi hàng hóa được thể hiện giá
trị của mình trên thị trường thông qua giá cả. Vì vậy, ta có thể cộng giá trị của tất cả các loại hàng hóa có
hình thức và nội dung vật chất khác nhau như gạo, cam, xe hơi, y tế, giáo dục,… Nhờ vậy mà có thể đo
lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế bằng một tổng lượng duy nhất.
Nhưng bên cạnh đó, giá cả là một thước đo co dãn, lạm phát là hiện tượng thường xuyên của nền kinh
tế và có thể đưa mức giá chung lên cao. Do vậy, GDP tính bằng tiền có thể tăng nhanh trong khi giá trị
thực của GDP tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng rất ít. Để khắc phục hiện tượng này, người
ta sử dụng khái niệm GDP danh nghĩa và GDP thực tế.

- GDP danh nghĩa (GDPn – nominal GDP) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời
kỳ theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó.

Nếu số liệu thống kê cho thấy GDP danh nghĩa năm sau cao hơn năm trước, điều này cho thấy có thể
nền kinh tế đã sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn hơn năm trước hoặc giá bán năm sau cao hơn năm
trước hoặc cả số lượng sản phẩm lớn hơn và giá bán của năm sau cao hơn năm trước. GDP danh nghĩa
không cho chúng ta biết chi tiết sự gia tăng của nó chủ yếu là do đóng góp của sự tăng về giá cả hay số
lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế. Nghiên cứu biến động kinh tế theo
thời gian các nhà kinh tế muốn tách riêng hai hiệu ứng biến động về giá cả và biến động về sản lượng. Cụ
thể là muốn có một chỉ tiêu về tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được nền kinh tế tạo ra mà không bị tác
động bởi sự thay đổi của giá cả của các hàng hoá và dịch vụ này. Để làm được điều đó các nhà kinh tế sử
dụng chỉ tiêu GDP thực tế.

- GDP thực tế ( GDPr – real GDP) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong 1 thời kỳ, theo giá
cả cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc.

Giả sử, gọi Pit là giá hiện hành của sản phẩm i ở thời kỳ nghiên cứu thứ t

Pi0 là giá gốc của sản phẩm i, là giá được lấy làm mốc để so sánh

Qit là lượng sản phẩm i được sản xuất ở thời kỳ thứ t.

- GDP danh nghĩa (GDPn – nominal GDP) là GDP được tính theo giá hiện hành

- GDP thực tế (GDPr – real GDP) là GDP được tính theo giá gốc.

- n: là tổng số mặt hàng được sản xuất ra trên lãnh thổ quốc gia

(2.7)

2.1.4 Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI):

* Chỉ số điều chỉnh GDP( GDP deflator – DGDP): là tỷ lệ giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Nó đo
lường mức giá trung bình của các hàng hoá, dịch vụ được sản xuất trong nước:

(2.8)

Trong đó:

: là giá hiện hành của sản phẩm i ở thời kỳ nghiên cứu t

: là giá gốc của sản phẩm i - giá được lấy làm mốc để so sánh

: là lượng sản phẩm i được sản xuất ở thời kỳ t.

Do GDP danh nghĩa và GDP thực tế phải bằng nhau trong năm gốc, nên chỉ số điều chỉnh GDP trong năm
gốc luôn bằng 100. Chỉ số điều chỉnh GDP trong những năm sau chỉ phản ánh sự gia tăng của GDP danh
nghĩa tính từ năm gốc, không phản ánh sự gia tăng của GDP thực tế. Chỉ số điều chỉnh GDP phản ánh sự
thay đổi của mức giá trong năm hiện hành so với mức giá trong năm gốc. Sự thay đổi của GDP danh
nghĩa có thể do giá cả thay đổi, hoặc do sản lượng thay đổi hoặc do cả hai thay đổi. Còn GDP thực tế
thay đổi là chỉ do sản lượng gây ra.

Một chỉ số giá khác cũng được các nhà kinh tế sử dụng để theo dõi sự biến động của mức giá trung bình
của nền kinh tế là chỉ số giá tiêu dùng

* Chỉ số giá tiêu dùng CPI ( Consumer Price Index): phản ánh sự biến động giá cả của một “giỏ” hàng hoá
và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội (lương thực, thực phẩm, quần áo, xăng dầu…) của
thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ gốc.

CPI = (2.9)

Trong đó:

n: Số hàng hoá dịch vụ tiêu dùng tiêu biểu trong thời kỳ đang xét

: Giá cả của hàng hoá, dịch vụ i ở thời kỳ nghiên cứu t

: Giá cả của hàng hoá, dịch vụ i ở thời kỳ gốc

: Số lượng hàng hoá dịch vụ tiêu dùng i ở thời kỳ gốc

Chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng đều được sử dụng nhằm xác định tốc độ gia tăng của giá
cả. Hai chỉ số thống kê này cho chúng ta biết về cùng một vấn đề. Tuy nhiên, giữa hai chỉ tiêu này vẫn có
những điểm khác biệt quan trọng làm cho chúng không đồng nhất với nhau.

* Một số điểm khác nhau giữa DGDP và CPI:

- Chỉ số điều chỉnh GDP phản ánh giá của mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước, còn chỉ số
giá tiêu dùng phản ánh giá của mọi hàng hóa và dịch vụ được người tiêu dùng mua bao gồm cả hàng hóa
nhập khẩu.

Ví dụ, chúng ta hãy giả sử rằng giá một chiếc xe tăng bán cho quân đội tăng. Mặc dù chiếc xe tăng này là
bộ phận của GDP, nhưng nó lại không nằm trong giỏ hàng hóa và dịch vu mà người tiêu dùng điển hình
mua. Do vậy, sự gia tăng của giá trị xe tăng được phản ánh trong chỉ số điều chỉnh GDP, nhưng không
được phản ánh trong chỉ số giá tiêu dùng.

Một ví dụ khác, giả sử hãng xe Volvo tăng giá bán xe hơi. Do Volvo được sản xuất ở Thụy Điển nên không
thuộc GDP của Việt Nam nhưng người tiêu dùng Việt Nam lại mua xe Volvo và do vậy nó nằm trong giỏ
hàng hóa tiêu dùng. Như vậy, sự tăng giá của hàng tiêu dùng nhập khẩu, ví dụ như Volvo, được phản
ánh lại trong chỉ số giá tiêu dùng, nhưng không ảnh hưởng tới chỉ số điều chỉnh GDP.

- CPI gán quyền số cố định cho giá cả hàng hóa khác nhau (chỉ số Laspeyres); DGDP gán cho
chúng quyền số thay đổi theo thời gian (chỉ số Passche)

2.2 Tổng sản phẩm quốc dân (GNP – Gross National Products)

Trong nền kinh tế mở của các nước hiện nay, những người tham gia các hoạt động kinh tế trong một
quốc gia không chỉ là công dân của nước đó mà còn có sự tham gia của những công dân quốc tế thông
qua sự di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia. Khi tính GDP chúng ta chỉ tính giá trị hàng hóa dịch vụ
được sản xuất trong nước, nhưng khi có sự di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia sẽ làm nảy sinh hai
vấn đề:

Thứ nhất, một phần lợi nhuận thu được do công dân trong nước đầu tư ở nước ngoài chuyển về nước
để các hộ gia đình chi tiêu hay tích lũy.

Thứ hai, khi các công dân nước ngoài đầu tư trong nước cũng gửi một phần thu nhập của mình về gia
đình.

Như vậy, khi có luồng chu chuyển thu nhập giữa trong nước và thế giới bên ngoài thì chỉ tiêu GDP sẽ
không còn ngang bằng với thu nhập mà công dân trong nước kiếm được. Vì vậy, chúng ta phải sử dụng
chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân (GNP) để điều chỉnh GDP theo khoản thu nhập ròng tài sản từ nước
ngoài.

2.2.1 Khái niệm tổng sản phẩm quốc dân

- GNP là giá thị trường của toàn bộ hàng hóa, dịch vụ cuối cùng do công dân một nước sản xuất ra trong
một thời kỳ nhất định (thường là một năm).

- Nếu gọi A là phần giá trị hàng hóa và dịch vụ thành phẩm do công dân trong nước sản xuất ở trong
nước.

- B là phần giá trị hàng hóa và dịch vụ thành phẩm do công dân trong nước sản xuất tại nước ngoài.
(Phần thu được từ nước ngoài)

- C là phần giá trị hàng hóa và dịch vụ thành phẩm do công dân nước ngoài sản xuất ở trong nước.
( Phần chi trả cho nước ngoài)

Ta có:

GNP = A + B

GDP = A + C

GNP – GDP = B - C

GNP – GDP : Thu nhập ròng từ nước ngoài (NIA)

GNP = GDP + NIA (2.10)

NIA (Net Income from Abroad): Thu nhập ròng từ nước ngoài: đó là phần chênh lệch giữa thu nhập của
công dân trong nước kiếm được ở nước ngoài và thu nhập của người nước ngoài kiếm được ở nền kinh
tế trong nước. NIA có thể dương, âm tuỳ từng quốc gia.

+ Trong nền kinh tế đóng và nền kinh tế giản đơn: GNP = GDP

+ Trong nên kinh tế mở: GNP =GDP khi NIA = 0

2.2.2 GNP danh nghĩa và GNP thực tế:


Cũng giống như GDP, GNP cũng được thể hiện giá trị bằng tiền, để hạn chế ảnh hưởng của lạm phát
trong việc tính giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế, người ta cũng sử dụng hai khái niệm GNP danh
nghĩa và GNP thực tế.

Giả sử, gọi Pit là giá hiện hành của sản phẩm i ở thời kỳ nghiên cứu thứ t

Pi0 là giá gốc của sản phẩm i, là giá được lấy làm mốc để so sánh

Qit là lượng sản phẩm i được sản xuất ở thời kỳ thứ t.

- GNP danh nghĩa (GNPn – nominal GNP) là GNP được tính theo giá hiện hành

- GNP thực tế (GNPr – real GNP) là GNP được tính theo giá gốc.

- n : là tổng số mặt hàng do người dân của quốc gia đó sản xuất ra

(2.11)

(2.12)

 Ý nghĩa các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích Kinh tế vĩ mô

Các quốc gia luôn tìm cách đo lường kết quả hoạt động của mình trong mỗi thời kỳ nhất định. Thành tựu
kinh tế của một quốc gia, phản ánh quốc gia đó sản xuất ra được bao nhiêu sản phẩm, nó đã sử dụng các
yếu tố sản xuất của mình đến mức độ nào để tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân của quốc
gia mình.

Chỉ tiêu GNP và GDP là những thước đo tốt về thành tựu kinh tế của một quốc gia. Ngân hàng thế giới
hay quỹ tiền tệ quốc tế cũng như các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản
xuất của các nước khác nhau trên thế giới. Sau khi tính chuyển số liệu GNP và GDP tính bằng các đồng
tiền khác nhau của các nước và đồng đô la Mỹ. Sự tính chuyển đó thông qua tỷ giá hối đoái chính thức
giữa các nước và đồng Đô la Mỹ.

GNP và GDP thường được sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một đất nước trong
các thời gian khác nhau. Trong trường hợp này người ta thường tính GNP hoặc GDP thực tế nhằm loại
trừ sự biến động về giá cả.

Các chỉ tiêu GNP, GDP còn được sử dụng để phân tích sự thay đổi mức sống dân cư. Để làm việc đó
người ta thường tính GNP, GDP bình quân đầu người.

GDP bình quân đầu người = GDP/ tổng dân số

GNP bình quân đầu người = GNP/ tổng dân số

Như vậy, mức sống dân cư của một nước phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được sản xuất ra và quy mô
dân số của quốc gia đó. Sự thay đổi về GDP, GNP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ
tăng dân số và năng suất lao động. Mức sống của dân cư của một nước phụ thuộc vào đất nước đó giải
quyết vấn đền dân số trong mối quan hệ với năng suất lao động như thế nào.
Vì GNP bao gồm GDP và phần thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài nên GNP bình quân đầu người là
thước đo tốt hơn nếu xét theo khía cạnh số lượng hàng hoá và dịch vụ mà mồi người dân quốc gia đó có
thể mua được. Còn GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hoá và dịch vụ được
sản xuất ra tính bình quân cho một người dân.

Các Chính phủ của các nước trên thế giới đều phải dựa vào số liệu về GDP và GNP để xây dựng các kế
hoạch, chiến lược phát triển cho nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn.

Trước đây một số nước phát triển thường sử dụng chỉ tiêu GNP để phản ánh thu nhập của nền kinh tế.
Vì hầu hết dân cư kiếm phần lớn thu nhập của họ ở nước mình, nên GDP và GNP không khác nhau nhiều
lắm. Nhưng đối với một số nước đang phát triển thì sự chênh lệch giữa GNP và GDP là khá lớn, ví dụ như
Việt nam thì NIA< 0 nên để phản ánh thu nhập cũng như đo lường tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
chúng ta sử dụng chỉ tiêu GDP. Thời gian gần đây một số nước phát triển ví dụ như Mỹ đã chuyển sang
sử dụng chỉ tiêu GDP để phản ánh thu nhập của nền kinh tế. Xét trên toàn thế giới hiện nay chỉ tiêu GDP
được sử dụng nhiều hơn.

 Hạn chế của chỉ tiêu GDP và GNP:

Mặc dù chỉ tiêu GDP (GNP) được sử dụng phổ biến ở hầu hết các quốc gia trong việc đánh giá về thành
tựu kinh tế nhưng chỉ tiêu này vẫn chưa phải là chỉ tiêu hoàn hảo nhất để phản ánh đúng và đủ trình độ
phát triển kinh tế của một quốc gia. Một số hạn chế của GDP(GNP) đó là: Bỏ sót các hoạt động sản xuất
tự cung tự cấp; không tính tới ván đề công bằng và các yếu tố khác như tuổi thọ và mức độ dân chủ;
không tính tới chất lượng môi trường, cấu trúc kinh tế và thời gian nghỉ ngơi; đồng thời tính GDP(GNP)
có sai số khi đo lường do ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế ngầm. Tuy nhiên, những hạn chế trên của
GDP(GNP) rất khó có thể khắc phục nên người ta vẫn dùng chỉ tiêu GDP(GNP) như là chỉ tiêu tốt nhất để
phản ánh thành tựu kinh tế vĩ mô của quốc gia.

Hiện nay, nhiều nước và các tổ chức quốc tế đã và đang xây dựng và sử dụng những chỉ số đo lường
khác để thay thế GDP, chẳng hạn như chỉ số GPI (Genuine Progress Indicator - chỉ số phát triển thực),
ISEW (Index of Sustainable Economic Welfare - chỉ số phúc lợi kinh tế bền vững), SNBI (Sustainable Net
Benefit Index - chỉ số lợi tức ròng và bền vững)... Tuy chưa tìm được “tiếng nói chung” và chưa được sử
dụng rộng rãi, nhưng các chỉ số mới này đều chung mục đích là cố gắng phản ánh tính chất “thực” và
“bền vững” của sự phát triển kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, cách tính của các chỉ số GPI, ISEW và
SNBI đều dựa trên hai nguyên tắc chính là: căn cứ trên mức chi tiêu dùng cá nhân và tính chất của các
hoạt động kinh tế. Các chỉ số như GPI, ISEW, ISBN do căn cứ trên mức chi tiêu dùng cá nhân, có tính đến
tính cân đối của phân phối thu nhập và có cân nhắc cộng thêm những yếu tố tích cực và trừ ra những
yếu tố tiêu cực của sự phát triển kinh tế nên phản ánh được thực trạng nền kinh tế một cách trung thực
hơn so với chỉ số GDP truyền thống. Dùng các chỉ số mới này vào công tác hoạch định và tổng kết sự
phát triển kinh tế của đất nước sẽ mang lại những kết quả chính xác hơn.

2.3 Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân, thu nhập quốc dân và thu nhập khả dụng:

2.3.1 Lại bàn về thu nhập quốc dân

Sau khi xác định được GDP, ta có thể xác định GNP theo công thức sau:

GNP = GDP + NIA (2.13)


Chỉ tiêu thu nhập ròng tài sản từ nước ngoài (NIA) có thể được lấy từ báo cáo của ngân hàng ngoại
thương về cán cân thanh toán quốc tế trong mục tài khoản vãng lai. Như vậy, giữa GNP và GDP chỉ khác
nhau ở phần thu nhập ròng tài sản từ nước ngoài.

Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đều sử dụng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân (GNP) để đo lường
hoạt động của nền kinh tế quốc dân, nhưng GNP cũng như chỉ tiêu GDP vẫn chưa phải là chỉ tiêu ( thước
đo ) hoàn hảo nhất để đo phúc lợi cũng như thành tựu kinh tế của một nước vì những lý do sau:

-GNP bỏ sót nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà nhân dân tự làm hoặc giúp nhau làm nhưng không
được tiêu thụ trên thị trường, hoặc không báo cáo công khai. Chẳng hạn như: tự nấu ăn, quét dọn nhà
cửa, tự may vá quần áo, sửa chữa đồ dùng trong nhà…Ở Việt nam, những hoạt động này là khá nhiều
nhưng cũng không được tính vào GNP, trong khi ở các nước phát triển thì hầu hết những dịch vụ đó
được cung cấp bởi các cơ sở sản xuất kinh doanh nên được tính vào GNP.

- GNP không tính được giá trị của các hoạt động kinh tế ngầm, là những hoạt động kinh tế mà mọi người
muốn giấu chính phủ vì muốn trốn thuế hoặc hoạt động không hợp pháp như buôn lậu, đánh bạc…

- GNP chỉ phản ánh giá trị của hàng hoá vật chất nhưng không phản ánh được gia trị của thời gian nghỉ
ngơi để bổ khuyết cho sự thoải mái về tâm lý. Do đó mà GNP không đo được phúc lợi kinh tế mà con
người được hưởng.

Để phản ánh đầy đủ phúc lợi kinh tế của một nước, người ta sử dụng chỉ tiêu phúc lợi kinh tế ròng –
NEW ( Net Economic Welfare ). Đây là một chỉ tiêu danh nghĩa để thay cho GNP hoặc bổ sung cho nó :

NEW = GNP + Một số khoản mang lại phúc lợi mà GNP không tính được -
Một số khoản thiệt hại mà GNP không tính được

+ Một số khoản mang lại phúc lợi mà GNP không tính được như giá trị niềm vui khi giải trí, giá trị công
việc nội trợ, giá trị của các sản phẩm tự sản tự tiêu, giá trị của các hoạt động kinh tế ngầm .

+ Một số khoản thiệt hại mà GNP không tính được như: Giá trị thiệt hại do tiếng ồn, giá trị thiệt hại do ô
nhiễm môi trường, giá trị thiệt hại do tắc nghẽn giao thông…

2.3.2 Sản phẩm quốc dân ròng

Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) được xác định là tổng số sản phẩm cuối cùng gồm hàng hoá cho tiêu
dùng cộng với tổng đầu tư và khoản mua hàng của chính phủ. Thế nhưng trong nền kinh tế một phần
của tổng sản phẩm quốc dân phải được sử dụng chỉ để thay thế vốn (tư liệu lao động) hiện có, phần này
không còn để tiêu dùng mà dùng để đầu tư bổ sung cho quỹ vốn đã hao mòn trong quá trình sản xuất,
đó chính là khấu hao (De – Depreciation). Trong hệ thống tài khoản quốc gia, khấu hao được gọi là “tiêu
hao tư bản cố định”.

Khấu hao là một khái niệm cho chúng ta biết quỹ vốn ( tư liệu lao động) thực tế đang được dùng hao đi
bao nhiêu trong từng thời kỳ. Khấu hao là một khoản chi phí kinh tế, nó đo lường các nguồn lực được
dùng bị giảm đi trong quá trình sản xuất. Vì vậy để phản ánh giá trị sản phẩm thực tế được tạo ra trong
năm của nền kinh tế, người ta sử dụng chỉ tiêu sản phẩm quốc dân ròng ( NNP – Net National Product)

Sản phẩm quốc dân ròng (NNP): là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. Sản phẩm quốc dân ròng có
thể tính theo giá thị trường hoặc tính theo giá nhân tố.
NNP = GNP - De (2.14)

2.3.3 Thu nhập quốc dân (NI- Y)- (National Income)

Thu nhập quốc dân phản ánh tổng số thu nhập từ các yếu tố của sản xuất gồm: lao động, vốn, đất đai,
tài nguyên, năng lực quản lý, tiến bộ kỹ thuật… của toàn bộ nền kinh tế. Nó đồng thời phản ánh mức
sống của dân cư mỗi một quốc gia .

Hay nói cách khác thu nhập quốc dân chính là phần thu nhập ròng mà người dân một nước nhận được
dưới dạng thu nhập của các yếu tố sản xuất. Chúng ta có thể tính chỉ tiêu này theo công thức :

(NI) Y = NNP - Ti ròng (2.15)

Hoặc Y = w + i + r + Pr + NIA ( 2.16)

2.3.4 Thu nhập cá nhân (PI – Personal Income)

Thu nhập cá nhân là thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp cá thể nhận được. Không giống như
thu nhập quốc dân, nó không bao gồm lợi nhuận để lại của công ty, tức khoản thu nhập mà các công ty
cổ phần kiếm được, nhưng không phân phối (dưới dạng cổ tức) cho chủ sở hữu. Nó cũng không bao
gồm các khoản thuế thu nhập công ty và đóng góp bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, thu nhập cá nhân còn bao
gồm thu nhập từ tiền lãi mà các hộ gia đình nhận được từ những khoản tiền cho chính phủ vay, cũng
như thu nhập mà các hộ gia đình nhận được từ các chương trình trợ cấp của chính phủ như: chương
trình phúc lợi và bảo hiểm xã hội.

PI = Y – Pr(nộp, không chia) + Tr (2.17)

2.3.5. Thu nhập khả dụng (YD):

Để dự đoán khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư, chính phủ các quốc gia thường dựa vào chỉ tiêu
thu nhập khả dụng ( Thu nhập có thể sử dụng) – YD.

- Thu nhập khả dụng: là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia đình nộp thuế trực thu (Td) và
nhận được các khoản trợ cấp của chính phủ hoặc các doanh nghiệp (TR). Chỉ tiêu này được tính theo
công thức :

YD = Y- Td + TR (2.18)

Hoặc YD = PI – Td – các khoản chi phí khác (2.19)

- Toàn bộ thu nhập khả dụng (YD) chỉ bao gồm thu nhập mà các hộ gia đình có thể tiêu dùng (C) và để
dành hay tiết kiệm (S), nên ta có :

YD = C + S (2.20)

Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu GNP, GDP, Y và YD được tổng hợp theo sơ đồ dưới đây:
GNP Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài (NIA) Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài (NIA)
Khấu hao TSCĐ

GDP

NNP Thuế gián thu (Te)

Y Thuế trực thu – Trợ cấp (TD– TR)

NX YD

Hình 2.2 Sơ đồ mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tổng sản phẩm và thu nhập

2.4 Tăng trưởng kinh tế:

2.4.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng kinh tế chính là sự tăng lên của GDP thực tế (hoặc GNP thực tế)theo thời gian, tỷ lệ tăng
tổng sản phẩm quốc dân thực tế gọi là tỷ lệ tăng trưởng

 Nếu tính theo các năm liên tục thì có tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ tăng trưởng liên hoàn (growth
rate):

(2.21)

Trong đó:GDPrt : Tổng sản phẩm trong nước thực tế của năm t (năm nghiên cứu)

GDPrt-1: Tổng sản phẩm trong nước thực tế của năm t-1 (liền trước năm nghiên cứu)

Tăng trưởng là khái niệm chỉ có trong dài hạn, do đó nó cũng có nghĩa là sự tăng lên của sản lượng tiềm
năng.

2.4.2 Phân biệt giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế

+ Phát triển kinh tế là sự biến đổi kinh tế về mọi mặt bao gồm sự biến đổi về qui mô sản lượng của nền
kinh tế, biến đổi về cơ cấu kinh tế và các nhu cầu xã hội của con người (sự biến đổi toàn diện của nền
kinh tế )
Phát triển kinh tế bao hàm nội dung rộng hơn và toàn diện hơn so với tăng trưởng. Nếu tăng trưởng chỉ
thể hiện sự tăng lên về quy mô sản lượng- tức là tăng lên về số lượng thì phát triển kinh tế bao gồm cả
sự thay đổi về mặt số lượng lẫn chất lượng. Mục tiêu của tăng trưởng là tăng thu nhập đồng thời cũng là
mục tiêu của phát triển kinh tế nhưng không phải là mục tiêu duy nhất của phát triển kinh tế. Vì vậy có
những quốc gia có mức thu nhập cao hay tốc độ tăng trưởng cao nhưng vẫn không được coi là nước
phát triển , chẳng hạn như một số nước thuộc khối OPEC có thu nhập quốc dân cao chỉ được gọi là nước
tăng trưởng trên thế giới hay như Việt nam có tốc độ tăng trưởng cao nhưng cũng chỉ được coi là nước
đang phát triển .

2.5 Một số khái niệm và mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản

2.5.1 Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lượng:

Nền kinh tế của tất cả các nước thường phải đối mặt với chu kỳ kinh doanh, liên quan đến chu kỳ kinh
doanh đó là sự đình trệ sản xuất, lạm phát và thất nghiệp.

- Chu kỳ kinh doanh là sự dao động lên xuống của sản lượng thực tế (GNPr ) xung quanh xu hướng tăng
lên của sản lượng tiềm năng.

Hình 2.3. Chu kỳ kinh doanh

- Chu kỳ kinh doanh trải qua các giai đoạn : suy thoái, phục hồi, hưng thịnh

- Khoảng cách từ sản lượng thực tế( Yt ) đến sản lượng tiềm năng (Y*) được gọi là khoảng thiếu hụt ( nếu
Yt < Y*) hoặc khoảng dư thừa ( nếu Yt > Y*)

- Khi nền kinh tế có khoảng thiếu hụt hoặc dư thừa có nghĩa là nền kinh tế ở trạng thái suy thoái hoặc
hưng thịnh, nền kinh tế lúc này chưa tối ưu. Chính phủ phải sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô tác
động vào tổng cầu đưa về vị trí tối ưu làm giảm nhẹ biên độ dao động của chu kỳ kinh doanh, làm bình
ổn kinh tế trong ngắn hạn và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.

2.5.2 Tăng trưởng và thất nghiệp

- Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động thuộc lực lượng lao động sẵn sàng làm việc với mức
lương xã hội quyết định, có nỗ lực tìm kiếm việc nhưng không kiếm được việc làm.

- Giữa tăng trưởng và thất nghiệp có mối quan hệ cố hữu với nhau: Tăng trưởng nhanh sẽ dẫn đến thất
nghiệp giảm và ngược lại.

Đó là do sản lượng của nền kinh tế sản xuất ra càng nhiều thì càng nhiều lao động được thu hút vào làm
việc càng nhiều, giảm được số người không có việc làm trong xã hội.

Quy luật OKUN lượng hoá mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp: Nếu sản lượng thực tế tăng so
với sản lượng tiềm năng là 2% thì tỷ lệ thất nghiệp giảm so với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 1%.

* Trong dài hạn, tăng trưởng và thất nghiệp không có quan hệ với nhau, bởi vì trong dài hạn tỷ lệ thất
nghiệp luôn bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

2.5.3 Tăng trưởng và lạm phát


- Lạm phát là sự tăng lên liên tục và kéo dài của mức giá trung bình của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian .

- Trong ngắn hạn lạm phát và tăng trưởng có quan hệ cùng chiều ( ngoại trừ lạm phát do chi phí đẩy ).

Kinh nghiệm lịch sử phát triển kinh tế của nhiều nước đã cho thấy trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao
thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên giữa tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ
như thế nào, đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả? Thì vấn đề này kinh tế vĩ mô chưa có câu trả lời rõ
ràng.

Nhưng điều rõ ràng là muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn hạn, thì các chính sách kinh tế đều hướng
vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua một thời kỳ đình trệ, suy
thoái và thất nghiệp.

Nghiên cứu thực tế:

Về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều lập luận khác
nhau để giải đáp cho câu hỏi: Phải chăng có tồn tại một mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh
tế và phải chăng lạm phát luôn có ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế.

- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc trường phái cơ cấu: lạm phát được coi là một hiện
tượng tất yếu của các nền kinh tế đang tăng trưởng trong khi phải đối phó với những mất cân đối mang
tính cơ cấu. Các nhà cơ cấu tin rằng giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ đánh đổi lẫn
nhau. Những nỗ lực nhằm kiềm chế lạm phát có xu hướng làm tăng thất nghiệp và gây ra tình trạng đình
trệ sản xuất và do vậy gây ra bất lợi cho tăng trưởng kinh tế. Một xã hội dành ưu tiên cho tăng trưởng
thì cần chấp nhận lạm phát đi kèm với nó.

Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng:

- Năm 1959 Tun Wai khi nghiên cứu số liệu của 31 nước đang phát triển trong giai đoạn 1938 – 1954 đã
phát hiện mối quan hệ dương giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đến một tỷ lệ lạm phát nhất định,
sau đó tăng trưởng giảm rõ rệt. Tỷ lệ lạm phát cho phép tối đa hoá tốc độ tăng trưởng trong mô hình
của ông ta là 12,8%.

- Năm 1974, Thirlwall bằng mẫu số liệu của 15 nước Mỹ Latinh cho giai đoạn 1958–1968 cũng đã khẳng
định rằng tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ dương ở những mức lạm phát thấp. Khi
lạm phát vượt quá 10% tăng trưởng kinh tế giảm. Ông kết luận rằng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế có thể được biểu diễn bằng hình chữ U ngược và đưa ra một tỷ lệ lạm phát tối ưu là dưới
10%.

- Năm 1996, Sarel kiểm định về sự tồn tại của một ngưỡng mang tính cơ cấu về mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng. Ông đã phát hiện những bằng chứng thực nghiệm về mức ngưỡng của tỷ lệ lạm
phát là 8%/năm. Dưới tỷ lệ đó, lạm phát ảnh hưởng không đáng kể đến tăng trưởng hoặc có ảnh hưởng
dương nhệ đến tỷ lệ tăng trưởng. Với tỷ lệ lạm phát cao hơn 8%, ảnh hưởng này là ngược chiều và
nghiêm trọng. Theo ông, nếu ta bỏ qua thực tế quan trọng này, chắc chắn sẽ đưa ra những kết luận lệch
lạc về ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế.

- Nghiên cứu gần đây nhất là của M. Khan và A.Senhadji (năm 2000). Các tác giả đã sử dụng các kỹ thuật
phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Công trình của cá ông
bao quát số liệu của 140 nước bao gồm cả cá nước đang phát triển và các nước công nghiệp hoá trong
giai đoạn 1960-1998. Một lần nữa kết quả cho thấy có tồn tại một mức ngưỡng mà dưới đó lạm phát và
tăng trưởng có mối tương quan dương và trên đó lạm phát gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng.
Một phát hiện rất có ý nghĩa của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước. Ở các
nước công nghiệp, mức ngưỡng này rất thấp chỉ vào khoảng 1-3%/năm, trong khi đó ở các nước đang
phát triển, mức ngưỡng này vào khoảng 7-11%/năm.

Bằng chứng thực nghiệm của Việt nam dường như cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu ở trên, ta có
thể thấy qua bảng số liệu dưới đây về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của Việt nam trong 30
năm đổi mới.

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam 1987-2010

(Nguồn : Niên giám thống kê)

Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng phù hợp với lý thuyết và kết
quả kiểm nghiệm trên thế giới. Ở mức lạm phát thấp (thường là 1 con số) thì lạm phát không có tác
động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng
cao hơn (giai đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì lạm phát
bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng (giai đoạn trước 1992).

Như vậy, Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng tưởng là mối quan hệ phi tuyến tính.

 Ở mức lạm phát thấp (thường là 1 con số) thì lạm phát không có tác động tiêu cực lên tăng
trưởng. Thậm chí ở mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn.

 Khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng
trưởng.

 Ngưỡng đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi là dao động từ 11% đến
14%/năm.

2.5..4. Lạm phát và thất nghiệp

Lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ như thế nào, đây là một trong các chủ đề bàn luận của các nhà
kinh kế học trong nhiều thập kỷ qua.

Ngày nay nhiều nhà kinh tế cho rằng trong thời kỳ ngắn hạn lạm phát cao, thì thất nghiệp giảm. Đây là
mối quan hệ thực nghiệm chứ không phải là quy luật.

Còn trong dài hạn đến nay chưa thấy có mối quan hệ nào giữa lạm phát và thất nghiệp.

Để mô tả mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta mô tả trong một đồ thị gọi là đường cong
Phillip.

Đường Phillip là một hàm tỷ lệ nghịch thể hiện mối quan hệ trao đổi giữa lạm phát và thất nghiệp . Đây
mới chỉ là mối quan hệ thực nghiệm chưa phải là một quy luật kinh tế.
Hình 2.4 . Đường cong Phillip

Phương trình đường Phillip có dạng:

gp = - ( U – U*) (2.4)

Trong đó :

- gp : là tỷ lệ lạm phát

- U : là tỷ lệ thất nghiệp thực tế

- U* : là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên

- : là hệ số đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp

DÒNG LUÂN CHUYỂN KINH TẾ VĨ MÔ TOÀN PHẦN VÀ MỘT SỐ ĐỒNG NHẤT THỨC KINH TẾ VĨ MÔ CƠ
BẢN

Việc tính GDP theo nhiều phương pháp như trên cho phép chúng ta thiết lập được các đồng nhất thức
kinh tế vĩ mô quan trọng để phản ánh mối quan hệ cân đối giữa các khu vực trong nền kinh tế.

Đồng nhất thức khá với đẳng thức ở chỗ là chúng chỉ bằng nhau theo định nghĩa. Nếu đẳng thức dùng
dấu bằng (=) để chỉ hai đại lượng hoàn toàn bằng nhau, thì đồng nhất thức dùng dấu ( ) để chỉ sự bằng
nhau theo giả định, sự bằng nhau một cách tương đối nhằm mục đích chỉ xu hướng vận động của đại
lượng phân tích

 Đồng nhất thức giữa tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế đóng giản đơn

Trong nền kinh tế đóng giản đơn, không có sự tham gia của Chính phủ nên Td = 0 và TR = 0, do vậy YD =
Y.

Mặt khác, trong nền kinh tế gỉan đơn chỉ có hai tác nhân là các hộ gia đình và các hãng kinh doanh: Hộ
gia đình mua hàng hoá dịch vụ tiêu dùng cho cuộc sống (C), các hãng mua hàng hoá đầu tư (I). Khi đó Y =
C+ I

- Khoản chi tiêu của các hãng kinh doanh để mua hàng hoá đầu tư (I) được gọi là khoản “bổ sung” thứ
nhất vào dòng sản phẩm của nền kinh tế (cung trên của dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô).

- Trong tổng thu nhập có thể sử dụng (YD) của các hộ gia đình có thể được chia thành hai phần: một
phần để chi tiêu mua hàng hoá dịch vụ (C) và một phần để dành tiết kiệm ( S), do vậy YD = C + S hay Y = C
+ S ( vì YD = Y).

Khoản để dành tiết kiệm (S) của các hộ gia đình tách ra khỏi dòng thu nhập của nền kinh tế ( cung dưới
của dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô), khoản này được gọi là khoản “rò rỉ” thứ nhất của nền kinh tế.

Như vậy ta có: C + S C +I

S I

Trong đó : S – là tiết kiệm của các hộ gia đình

I – là đầu tư ròng
Đồng nhất thức này được gọi là đồng nhất thức giữa tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế đóng giản
đơn

Đồng nhất thức có ý nghĩa là: trong nền kinh tế đóng giản đơn , các ngân hàng thu hút toàn bộ số tiền
tiết kiệm của các hộ gia đình cho các hãng kinh doanh vay để phát triển sản xuất.

 Đồng nhất thức trong nền kinh tế mở

Trong sơ đồ trên ta thấy, ở cung dưới rò rỉ khỏi dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô theo ba nguồn:

- Thứ nhất, là tiết kiệm (S) của dân cư. Phần tiết kiệm này chủ yếu chảy vào ngân hàng và ngân hàng
bằng nghiệp vụ của mình cung cấp tín dụng cho đầu tư (I) là chủ yếu. Đầu tư lại mua sắm các yếu tố cho
sản xuất và cuối cùng lại trở về vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô.

- Thứ hai, thu nhập của dân cư còn phải đóng thuế (T) cho nhà nước và đồng thời có thể nhận được các
khoản trợ cấp (TR), còn lại là thuế ròng (Tn)

Tn = T - TR

T chảy vào ngân quỹ của nhà nước và từ đó tài trợ cho các khoản chi tiêu của nhà nước (G), sự chi tiêu
này cuối cùng trở lại dòng hàng hoá và dịch vụ.

- Thứ ba, thu nhập của dân cư còn chi vào các hàng hoá nhập khẩu (IM). Dòng chi tiêu này vào túi người
nước ngoài và nó được trở lại dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô dưới hình thức các khoản thu từ xuất khẩu
(EX).

Theo nguyên tắc đi tới xu thế cân bằng thì tổng dòng rò rỉ (S + T + IM) phải bằng tổng bổ sung vào dòng
luân chuyển của nền kinh tế (I + G + EX)

Ta có đồng nhất thức toàn phần sau:

S + T + IM I + G + EX

=> (T – G ) (I – S) + ( EX – IM)

Đồng nhất thức này chỉ rõ mối liên hệ vận động về lượng giữa các khu vực trong nền kinh tế: Mối liên hệ
này phản ánh sự phản ứng (biến đổi) của các khu vực kinh tế khác, khi một khu vực kinh tế do một
nguyên nhân nào đó dẫn đến mất cân đối :

- Nếu khu vực nước ngoài cân đối ( EX = IM), trong trường hợp thâm hụt ngân sách nhà nước ( G > T) thì
ở khu vực tư nhân sẽ xuất hiện hiện tượng tiết kiệm lớn hơn đầu tư (S > I)

- Nếu khu vực tư nhân cân đối (S =I) trong khi mất cân đối khu vực nước ngoài (IM > EX) thì ngân sách
Chính phủ bị thâm hụt ( G > T). Đây là trạng thái thâm hụt kép.

Như vậy, sự phản ứng của các khu vực trong nền kinh tế luôn có xu hướng đi đến cân bằng, từ đó các
nhà hoạch định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô qua sự biến động về lượng của các khu vực trong
nền kinh tế có thể dự đoán xu thế vận động của nền kinh tế trong tương lai.

TÓM TẮT:
1. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) phản ánh thu nhập của mọi người trong nền kinh tế và tổng chi tiêu
để mua sản lượng, hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của nền kinh tế. Nó có thể được tính theo 3 cách
tương tương: tính theo phương pháp tổng thu nhập do các yếu tố sản xuất mang lại kể cả khoản lợi
nhuận mà các nhà kinh doanh thu được; tính theo phương pháp tổng số khoản chi tiêu cuối cùng hay
tính tổng giá trị gia tăng trong sản xuất.

* GDP tính theo luồng sản phẩm ( Tổng chi tiêu cuối cùng)

GDP = C + I + G + ( EX – IM)

* GDP tính theo luồng thu nhập hoặc chi phí

GDP = w + i + r + Pr + DP +Tiròng

* GDP tính theo tổng giá trị gia tăng trong sản xuất

GDP =

2. GDP danh nghĩa đánh giá giá trị hàng hoá dịch vụ theo giá hiện hành. GDP thực tế đánh giá giá trị
hàng hoá dịch vụ theo giá cố định. GDP thực tế chỉ tăng khi lượng hàng hoá dịch vụ tăng, còn GDP danh
nghĩa tăng khi sản lượng tăng hoặc giá cả tăng. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP
danh nghĩa và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá của nền kinh tế.

3. GDP là tổng của 4 nhóm chỉ tiêu: tiêu dùng, đầu tư, mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng.

4. Khi có luồng chu chuyển ròng thu nhập tài sản giữa các nước thì giá trị sản lượng tính trong GDP sẽ
không ngang bằng với tổng thu nhập yếu tố mà người dân trong nước kiếm được, vì vậy tổng sản phẩm
quốc dân ( GNP) sẽ được dùng để tính GDP đã được điều chỉnh theo khoản thu nhập ròng tài sản từ
nước ngoài.

5. Thu nhập quốc dân (Y) là sản phẩm quốc dân ròng (NNP) theo chi phí cho yếu tố sản xuất . NNP là GNP
trừ đi khấu hao quỹ vốn (tư liệu lao động ) trong thời gian nhất định.

6. Thu nhập khả dụng (YD) được dùng để dự đoán khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư. YD là thu
nhập quốc dân (Y) trừ đi thuế trực thu và cộng với các khoản trợ cấp của chính phủ hoặc doanh nghiệp.

7. GNP là chỉ tiêu tốt về phúc lợi kinh tế, bởi vì mọi người thường muốn có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên
nó không phải là chỉ tiêu hoàn hảo về phúc lợi. Chỉ tiêu phúc lợi kinh tế ròng (NEW) cố gắng điều chỉnh
GNP để đưa ra một chỉ số đúng đắn hơn về phúc lợi kinh tế quốc dân. Vì việc tính toán thường xuyên và
chính xác tất cả những hoạt động kinh tế này thường tốn kém và đôi khi không thực hiện được nên trên
thực tế GNP là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để đo lường hoạt động của nền kinh tế quốc dân.

You might also like