Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 29

KHOA TUYÊN TRUYỀN

TIỂU LUẬN HẾT MÔN


CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

ĐỀ TÀI

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
VIỆT NAM

Giảng viên : TS Bùi Thị Như Ngọc


Sinh viên : Nguyễn Phương Loan
Lớp : Quảng cáo K40
MSSV : 2051100021

Hà Nội, tháng 3 năm 2022


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ KHOA TUYÊN TRUYỀN
TUYÊN TRUYỀN

ĐỀ TÀI
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
VIỆT NAM

Sinh viên : Nguyễn Phương Loan


Lớp : Quảng cáo K40
MSSV : 2051100021

Tiểu luận môn


Cơ sở văn hóa Việt Nam

Hà Nội – 2022
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG .......................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM ....................... 2
1.1. Nguồn gốc du nhập Phật giáo vào Việt Nam ...................................... 2
1.2. Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam ..................................................... 3
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA VIỆT NAM ............................................................................................. 4
2.1. Ảnh hưởng phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý ............................... 4
2.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam .. 6
2.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua góc độ nhân văn và xã hội .................... 10
2.4. Ảnh hưởng phật giáo ảnh hưởng đến các loại hình nghệ thuật ..... 18
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU
CỰC CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM. ...... 21
3.1. Một số những hoạt động tiêu cực trong sinh hoạt Phật giáo Việt
Nam hiện nay .............................................................................................. 21
3.2. Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong
đời sống văn hóa ở Việt Nam .................................................................... 23
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 26
1

MỞ ĐẦU
Phật giáo là một tôn giáo đã gắn bó lâu đời với người Việt, đã trở thành
một bộ phận không thể tách rời trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của cư dân
Việt. Sau hàng nghìn năm du nhập vào Việt Nam, Phật giáo vừa đồng hành, vừa
góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam. Hòa nhập vào với đời sống
văn hóa xã hội. Nhiều tín điều Phật giáo đi vào đời sống xã hội Việt Nam truyền
thống, gắn kết với văn hóa dân tộc, phát triển đến ngày nay.
Tiểu luận này sẽ tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử phát triển của Phật giáo
Việt Nam, đặc biệt là nó có ảnh hưởng, tác động sâu sắc như thế nào đối với đời
sống văn hóa người Việt như thế nào. Qua đó có những nhìn nhận, đánh giá, đưa
ra một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong đời sống văn
hóa ở Việt Nam hiện nay. Việc nghiên cứu, tìm hiểu các ảnh hưởng của Phật giáo
đến đời sống văn hóa người Việt sẽ giúp ta hiểu rõ tâm lý, lý giải các hoạt động
sinh hoạt đời sống của người dân hơn. Qua đó tìm ra được phương cách để tuyên
truyền giáo dục người dân tham gia hoạt động tôn giáo một cách đúng đắn, tránh
có các suy nghĩ, hành động mê tín dị đoan gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
lành mạnh của xã hội. Vì vậy em đã chọn đề tài “ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM” để có thể hiểu biết thêm kiến
thức về lĩnh vực này. Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết
luận. Trong đó phần nội dung gồm 3 chương.
2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

1.1. Nguồn gốc du nhập Phật giáo vào Việt Nam


Phật giáo Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa là một điều mà rất nhiều người
lầm tưởng. Thật ra, sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản
đầu tiên xuất phát từ Ấn Độ. Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một
số nhà nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này.
Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này, những thương nhân
Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Họ giong
buồm, theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao
Chỉ mà lại theo tiếp đường biển hay đường bộ vào trong nội địa Trung Hoa. Trong
khi đợi gió mùa đông bắc để quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan
truyền dần những nét văn hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh…
Những tăng sĩ mà các thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công
việc cầu khấn sự phù trợ của đức Phật, là những người đã trực tiếp truyền bá Đạo
Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.
Ngoài ra, tư liệu trong Lĩnh Nam Chích Quái cho biết một dữ kiện chứng
tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng).
Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng
Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp với
người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến
Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều.
Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật. Như vậy, khởi thủy du
nhập của Phật giáo vào Việt Nam là từ Ấn Độ.
3

1.2. Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam

Trải qua gần 2000 năm tồn tại, Phật giáo đã bao phen thăng trầm, lúc thịnh
lúc suy. Vào thời đại nhà Lý và nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi
là quốc đạo, ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của người dân. Rất
nhiều chùa tháp có quy mô to lớn, kiến trúc độc đáo được xây dựng trong thời
gian này như chùa Phật Tích, chùa Dạm (chùa Đại Lãm), chùa Diên Hựu (Một
Cột), chùa Quỳnh Lâm, hệ thống chùa Yên Tử, v.v. Khâm phục những thành tựu
văn hóa Phật giáo Việt Nam thời Lý-Trần, sách vở Trung Hoa đời Minh truyền
tụng nhiều về bốn công trình nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam tứ đại khí. Đó
là: Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Tháp Bảo Thiên, Chuông Quy Điền, Vạc Phổ
Minh.
Thời nhà Lê, nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo, Phật giáo dần
dần suy thoái. Đầu thế kỉ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm chấn hưng đạo
Phật, xuống chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, cho cất các chùa lớn đẹp, chọn các
tăng nhân có học thức và đạo đức cho coi chùa, song vì vua mất sớm nên việc
này ít thu được kết quả. Đến thời nhà Hậu Lê rồi Nguyễn Triều, Phật giáo đi vào
thời kỳ suy thoái, nhường vị trí quốc giáo cho Nho giáo. Đến khi người Pháp đặt
nền đô hộ trên đất nước này, thì đạo Phật lại càng suy yếu, mất đi những gì thuần
túy, cao siêu, mà chỉ còn như là một tôn giáo thờ thần với nhiệm vụ chính là lo
việc cúng bái.
Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng
Phật giáo trên thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng chuyển mình phục hưng, khởi
đầu từ các đô thị miền Nam rồi miền Trung với các đóng góp quan trọng của các
nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu. Cho đến năm 1964, các hội đoàn Phật giáo
miền Nam Việt Nam đã thống nhất dưới một mái nhà chung là Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất và sau 17 năm hoạt động giáo hội này đã ngưng mọi
sinh hoạt vào năm 1981. Sau khi hai miền Nam Bắc thống nhất vào năm 1975,
năm 1981 chín tổ chức Phật giáo trong cả nước đã tổ chức đại hội, thống nhất làm
một và lấy danh hiệu là “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”.
4

Dù Phật giáo Việt Nam trải qua thăng trầm nhưng nó đã hoà vào đời sống
văn hóa dân tộc, tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Tuy quyện
mình, hòa nhập, kết hợp hài hòa với đời sống văn hóa con người Việt Nam nhưng
giáo lý kinh điển của Phật giáo vẫn giữ được vẻ tinh khiết vốn có của nó và dòng
thiền Trúc Lâm đã được khôi phục vào cuối thế kỷ thứ 20, tiếp nối mạch của lịch
sử Phật giáo Việt Nam. Phật giáo đã đi sâu vào đời sống văn hóa của người Việt
từ tư tưởng, đạo lý, phong tục tập quán, các loại hình nghệ thuật, kiến trúc, âm
thực… tất cả được thể hiện rõ trong phần phân tích tiếp sau đây.
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA VIỆT NAM
2.1. Ảnh hưởng phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỷ nguyên Tây lịch, rồi tồn
tại, phát triển và chan hòa với dân tộc ta cho đến tận hôm nay. Xét trên khía cạnh
hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình thành
những quan niệm sống và sinh hoạt cho con người Việt Nam. Trong phần này sẽ
tìm hiểu về tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo đã tác động đến con người Việt Nam
như thế nào và người Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo
ra sao.
2.1.1. Về tư tưởng:

Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu
Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật
giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại.
Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những
các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những
hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều tuân theo luật duyên
khởi mà sinh thành, tồn tại và suy tàn.
5

Luật nhân quả của Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Nó đương
nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam
có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, hoàn toàn thích
hợp với sự phát triển lành mạnh của đất nước. Có thể nói mọi người dân Việt điều
ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, luật nhân quả đã in dấu đậm nét trong
văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay, dẫn
dắt từng thế hệ con người hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho
xã hội. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng
phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối phương. Mặt khác họ
hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó
họ tự biết sửa chữa, cải tổ, hướng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến
cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng là do nghiệp từ kiếp trước của nên mới gặp khổ
nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa
dần ác nghiệp kia.
2.1.2. Về đạo lý:

Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của
phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Đều
này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trãi, ông đã khéo vận dụng
đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại “tiếng thơm”
nổi tiếng trong lịch sử nước Việt. Khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh
nhà Minh, chúng ta không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương
thực để họ về nước. Bạn đến với tinh thần xâm lăng chúng tôi sẽ quyết không
nhượng bộ, nhưng nếu bạn đến với tinh thần bạn bè hữu nghị chúng tôi sẵn sàng
đón tiếp.
Tinh thần thương người như thể thương thân ảnh hưởng từ giáo lí từ bi đã
làm xuất hiện trong ca dao tục ngữ, phổ biến trong quần chúng Việt Nam như "Lá
lành đùm lá rách” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương người trong một nước phải
thương nhau cùng”. Đây là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam
6

nào cũng điều thấm nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân
tộc Việt Nam.
Người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của đạo phật là
đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Đạo
lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý
về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân cho đến
xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan
hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương
cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ
ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo
lý của người Việt. Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích
hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Đạo lý Tứ Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến
cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực
và miên trường. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo
Việt Nam hình thành được một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam,
góp phần làm phong phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Trong quá trình hội nhập văn hóa sự ảnh hưởng của Phật Giáo đã tác động
và đã tạo cho Phật Giáo Việt Nam có những nét đặc thù sau đây:
2.2.1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống:
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín
ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng
chùa Tứ Pháp thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên
Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền
Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành
hoàng thổ địa và vị anh hùng dân tộc. Có chùa thờ cả Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu
7

như không một chùa nào là không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong
hồn đã mất.
Nhưng cũng vì tinh thần khai phóng này mà về sau phát sinh những hậu
quả mê tín dị đoan bên trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, cầu đồng... các nhà
nghiên cứu nước ngoài rất ngạc nhiên khi thấy Phật Giáo Việt Nam dung nạp dễ
dàng các tín ngưỡng đa thần của bản địa trong khi các quốc gia trong vùng thì
không có. Có nên gạt bỏ loại hình tín ngưỡng truyền thống này ra khỏi Phật Giáo
không? Vẫn là một vấn đề rất tế nhị, tuy nhiên, ta phải thừa nhận rằng tinh thần
dung hòa và khai phóng của Phật Giáo Việt Nam là một trong những nét đặc
trưng đáng chú ý.
2.2.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác:

Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo
Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính
dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền
thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, Tiểu
Thừa hay Đại Thừa, mà nó là tất cả những khuynh hướng tâm linh của người dân
Việt. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão
Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt.
2.2.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo:

Phật giáo Việt Nam có sự tổng hợp của các tông phái với nhau nên không
có tông phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Đây là một nét đặc trưng
rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia Phật Giáo láng giềng
như Thái Lan, Lào…. Chùa miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với
hàng chục pho tượng Phật, Bồ Tát, La Hán của các tông phái khác nhau. Miền
Nam, nhiều chùa mang hình thức Tiểu Thừa (thờ Phật Thích ca, sư mặc áo vàng)
nhưng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên cạnh tượng Phật Thích ca lớn vẫn có nhiều
tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng vẫn sử dụng đồ nâu và đồ lam. Điều đặc
sắc ở đây là trong khi khai triển Phật Giáo Việt Nam, các thiền sư Việt Nam đã
8

không theo thiền kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Độ và Trung Hoa mà mở lấy một
con đường riêng, phù hợp với dân tộc.
2.2.4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã hội

Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập thế,
nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Trong các thời này các vị cao tăng có
học thức, có giới hạnh điều được mời tham gia triều chính, cố vấn trong những
việc quan trọng của quốc gia. Thời vua Đinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền sư
Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống, thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp
Thuận, ngài Khuông Việt cũng tham gia triều chính. Trong đó đặc biệt thiền sư
Vạn Hạnh đã có công xây dựng triều đại nhà Lý khi đưa Lý Công Uẩn lên làm
vua, chấm dứt chế độ tàn bạo của Lê Long Đỉnh, ông vua Ngọa Triều còn có biệt
danh kẻ róc mía trên đầu sư. Thời nhà Trần có các thiền sư Đa Bảo, thiền sư Viên
Thông... điều được các vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn
triều đình.
Đến thế kỷ 20, phật tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã
hội như cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Thời Diệm, Thiệu (1959-
1975) cũng thế, các tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho phong trào
đấu tranh đòi hòa bình và độc lập cho dân tộc, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống
đường đấu tranh chống lại nền độc tài chuyên chế của gia đình họ Ngô năm 1963.
Đặc biệt là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chế độ độc
tài đó. Đến cuối thế kỷ 20, ta thấy tinh thần nhập thế này cũng không ngừng phát
huy, đó là sự có mặt của các thiền sư Việt Nam trong quốc hội của nước nhà.
2.2.5. Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người bình dân và giới trí thức
Việt Nam

Thời sơ khởi người Việt Nam cũng có tín ngưỡng, tôn thờ tất cả những sức
mạnh hữu hình hay vô hình mà họ cho là có thể giúp đỡ hoặc làm hại đến họ như
mây, mưa, sấm, sét,… Trong bối cảnh tín ngưỡng đa thần này, Phật Giáo đã xuất
hiện và nhanh chóng hóa thân qua hình ảnh của bộ tượng Tứ Pháp ở chùa Dâu,
9

ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam ở Luy Lâu (Hà Bắc ngày nay), đó là
bộ tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điển, một hình ảnh sống động
và gần gũi với người dân nông thôn trong việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu
siêu, cầu xin tất cả những gì mà cuộc sống con người đòi hỏi. Phật tử trong thời
kỳ sơ khai này quan niệm: Phật là đấng cứu thế, có thể ban cho con người mọi
điều tốt lành. Phật Giáo ở Việt Nam lúc bất giờ mang dáng dấp của Phật Giáo
Tiểu Thừa và Mật Giáo, vì vậy dễ dàng gắn với phù chú, cầu xin phước lộc hơn
là tôi luyện trí tuệ và thiền định. Vả lại, tính đời trội hơn tính đạo, trong quần
chúng đa số là phụ nữ đến với Phật Giáo, đó là hạng người đau khổ nhất trong xã
hội cũ.
Được vua triều Lý, Trần ủng hộ, hoạt động của Phật Giáo có mặt ở khắp
hang cùng ngõ hẻm, làng nào cũng có chùa có tháp, người ta học chữ, học kinh,
hội hè, biểu diễn rối nước, họp chợ ngay ở trước chùa. Chùa làng đã từng một
thời đóng vai trò trung tâm văn hóa tinh thần của cộng đồng làng xã Việt Nam,
chùa không những là nơi giảng đạo cầu kinh, thờ cúng Phật mà còn là nơi hội
họp, ... di dưỡng tinh thần, tham quan vãn cảnh. Bởi vì, kiến trúc của chùa Việt
Nam thường hòa hợp với cảnh trí thiên nhiên, tạo thành một kiến trúc hài hòa với
ngoại cảnh. Khung cảnh ấy phù hợp với những giờ phút nghỉ ngơi sau giờ lao
động nhọc nhằn và dinh dưỡng tinh thần của tuổi già.
Đến thế kỷ mười lăm, Nho Giáo thay chân Phật Giáo trong lĩnh vực thượng
tầng xã hội, Phật Giáo từ giã cung đình nhưng vẫn vững vàng trong làng xã. Ngôi
đình xuất hiện tiếp thu một số kiến trúc và nghệ thuật Phật Giáo, đồng thời trở
thành trung tâm hành chính của làng xã. Cửa chùa chỉ còn mở cửa cho đàn bà,
con gái kêu van, nguyện cầu khi chồng bị bắt phu, con bị bắt nợ, ốm đau bệnh tật,
mất mùa đói rét... xin Phật gia hộ. Bồ Tát Quan Âm hay Phật Bà được ưa chuộng
hơn xưa (tính trội nữ). Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta chiêm ngưỡng được pho
tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt trong chùa Bút Tháp (tỉnh Hà Bắc) tạc vào
năm 1656. Tượng rất đẹp nhưng được tạo vào thời điểm Phật Giáo không còn tôn
10

sùng như quốc giáo nữa, chứng tỏ Phật Giáo đã ăn sâu vào tâm tư và văn hóa
nghệ thuật dân gian.
Qua trên ta thấy được Đạo Phật đã có mặt khắp nơi, ảnh hưởng đến mọi
giai tầng trong ở xã hội Việt Nam cả trong giới bình dân và giới trí thức. Ngoài
ra Phật Giáo còn ảnh hưởng qua góc độ nhân văn và xã hội.
2.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua góc độ nhân văn và xã hội

2.3.1. Ảnh hưởng Phật Giáo đến ngôn ngữ

Nhiều từ ngữ được người Việt ta sử dụng trong cuộc sống hằng ngày một
cách thường, có nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều
người dùng đến kể cả những người ít học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết
những từ ngữ này được phát xuất từ Phật Giáo, ví dụ như khi ta thấy ai bị hoạn
nạn, đau khổ tỏ lòng thương xót, ta bảo "tội nghiệp quá". Hai chữ “tội nghiệp” là
từ ngữ chuyên môn của Phật Giáo. Theo Đạo Phật tội nghiệp là tội của nghiệp,
do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật
thì không có một hiện tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình
cờ, mà chỉ là kết quả tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Hoặc khi
các bà mẹ Việt Nam la mắng các con hay quậy phá, các bà nói: "chúng bay là đồ
lục tặc", tuy nhiên họ không biết từ “lục tăc” này phát xuất từ đâu? Đó là từ nhà
phật, chỉ cho sáu thằng giặc: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp của ngoại cảnh
luôn luôn quấy nhiễu ta. Một từ ngữ có sâu xa như vậy, nhưng khi Phật Giáo
truyền bá vào Việt Nam đã bị Việt Nam hóa trở thành lời mắng của các bà mẹ
Việt Nam. Còn nhiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ xả, giác ngộ, sám hối đã được
người dân Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ
lùng. Sự ảnh hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng,
ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam nữa.
2.3.2. Ảnh hưởng phật giáo đến văn học Việt Nam
Dấu ấn Phật giáo trong ca dao, tục ngữ, thơ ca Việt Nam phản ánh sự gắn
bó mật thiết giữa đạo Phật và văn hóa bản địa. Những giáo lí kinh điển nhà Phật
11

như luân hồi, nhân quả, quan niệm về chữ tâm, về hạnh phúc... được tinh lọc qua
bộ lọc văn hóa dân gian đã được truyền bá sâu rộng trong nhân dân một cách
phong phú, gần gũi, dễ thẩm thấu đối với đa phần người dân Việt để nhắc nhở,
khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc hạnh phúc cho nhân dân.
Ca dao
Những tư tưởng giáo điều tốt đẹp của Phật giáo đã được người dân chọn
lọc tiếp nhận, phù hợp với nhân sinh quan của cả nhân dân. Có thể nói ca dao
trong văn học Việt Nam vô cùng phong phú, tinh thần Phật giáo trong ca dao
cũng hòa quyện với văn hóa dân tộc góp phần tăng giá trị tư tưởng văn hóa dân
tộc, bồi đắp cho nền văn hóa dân tộc được trường tồn. Các giáo lý ảnh hưởng đến
ca dao Việt Nam có thể nhắc đến như là là giáo lý từ bi, giáo lý nhân quả, tinh
thần hiếu hòa, hiếu sinh. Nó đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong ca dao
Việt Nam.
Giáo lý nhân quả của nhà Phật được lọc qua lăng kính của nhân dân, biến
thành những nguyên tắc sống đẹp:
"Quả báo ăn cháo gãy răng,
Ăn cơm gãy đũa, xỉa răng gãy chày".
Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau chớ có vì tiền bạc danh lợi, làm
điều xấu hại người, ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt lành, may
mắn và hạnh phúc: “Ai ơi hãy ở cho lành/Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau”.
Hiếu hạnh xuất phát bởi lòng từ bi, là Bồ tát hạnh vậy. Trên cơ sở đó, lòng
hiếu thảo trở thành một nền luân lý đạo đức thiết yếu mà bổn phận làm con phải
chu toàn: " Làm trai hết đủ trăm đường/Trước tiên đều hiếu, đạo thường xưa nay".
Hiếu hạnh trong Phật giáo trong ca dao còn thể hiện ở tâm nguyện đối với tiền
nhân, tổ tiên trong quá khứ:
"Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Ðạo làm con chớ có hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm".
12

Tục ngữ
Tục ngữ Việt Nam có nhiều giá trị nhân bản rút từ tư tưởng Phật giáo.
Những kinh nghiệm về nhân sinh của dân tộc Việt Nam biểu hiện ở tục ngữ tiềm
tàng màu sắc Phật giáo, chứa đựng triết lý nhân quả luân hồi nghiệp báo và cả về
đức từ bi - hỷ xã. Triết lý nhân quả của đạo Phật cũng được dân gian Việt Nam
hiểu một cách giản dị như "Ở hiền gặp lành", "Gieo gió gặt bão", "Không có lửa
sao có khói". Tinh thần bác ái, bố thí của đạo Phật được cụ thể vào thực tin bằng
tinh thần đoàn kết tương thân tương ái: "Môi hở răng lạnh" hay "Máu chảy ruột
mềm". Giáo lý luân hồi nghiệp báo được văn học dân gian thể hiện hóa bằng
chính bản thân như "Con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng", "Đời
cha ăn mặn, đời con khát nước".
Truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích
Những chuyện ngụ ngôn như "Xẩm sờ voi", "Mèo lại hoàn mèo", hoặc
chuyện cổ tích như "Cây nêu ngày tết" (kết hợp nhiều chuyện khác trong đó có
truyện Bụt và quỷ trồng chung và chia hoa lợi - Một Phật thoại có nguồn gốc dân
gian Ấn Ðộ nhưng lại được gắn với phong tục ngày tết của nhân dân ta). Truyện
"Man Nương" liên quan với sự tích Chùa Dâu ở Thuận Thành (Bắc Ninh) là một
chuyện nảy sinh trong thời kỳ hưng khởi của Phật giáo ở nước ta khoảng từ thế
kỷ II-IX. Những yếu tố thần thoại về thần Inđora (Mây, mưa, sấm, chớp hay
thường gọi là Phong, Lôi, Vũ, Ðiện) mà Phật giáo từng sử dụng nay lại được
chuyện Man Nương khai thác và kết hợp với tính ngưỡng dân gian Việt Nam về
thần Mưa, Gió, Chớp, Sét thể hiện dưới hình thức mới: đưa những yếu tố ngoại
lai vào khuôn bản lĩnh Việt, sử dụng những yếu tố ấy để bổ sung vào kho tàng
văn học Việt. Truyện cổ tích thế sự cũng ảnh hưởng từ Phật giáo, mang yếu tố
của đạo Phật như truyện "Tấm Cám". Ông Bụt trong "Tấm Cám" đã hình tượng
hóa tấm lòng cưu mang của người Việt bằng màu sắc Phật giáo. Ngay đoạn kết
của truyện Tấm Cám cũng mang tư tưởng Phật giáo của nhân dân "Thiện thắng
ác", "Chính nghĩa thắng gian tà".
13

2.3.3. Ảnh hưởng phật giáo đến các tác phẩm văn học

Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà
văn chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít
của Phật giáo. Ở đây chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của
Phật giáo (tác phẩm do các thiền sư sáng tác trong quá trình tu tập của mình) mà
chỉ nói đến các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo mà thôi
và cũng chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của Phật giáo trong thơ văn từ khi người
Việt Nam đã viết chữ Nôm, chữ Việt thành thạo nghĩa là bắt đầu từ thế kỷ thứ 18
trở về sau.
Thế kỷ 19, với thi hào Nguyễn Du ta có được một áng văn bất hủ là “Truyện
Kiều”, truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa theo tác phẩm “Kim Vân Truyện
Kiều” của Trung Quốc. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật
Giáo, có chứa đựng triết lý nhân quả của Phật Giáo. Qua ý tưởng phước đức,
duyên nghiệp của Đoạn Trường Tân Thanh ta thấy Nguyễn Du rõ ràng đã chịu
ảnh hưởng sâu xa của Phật Giáo. Nàng Kiều bao nhiêu năm chìm nổi điêu đứng
vì một chữ nghiệp, cứ mỗi lần thất bại là một lần ý nghĩa của chữ ấy càng rõ rệt
thấm thía đối với thân phận của nàng.
Cuối thế kỷ 19, ta có Mạnh Chu Trinh, một người tài hoa về thơ, giỏi và
thích kiến trúc, ông đã từng vẽ kiểu và trùng tu chùa Thiên Trù ở Hương Tích.
Cũng trong thời gian xây dựng chùa mà ông đã sáng tác nhiều bài thơ độc đáo về
phong cảnh Hương Tích. Thơ ông chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của Phật
Giáo, chẳng hạn như bài: "Hương Sơn Phong Cảnh" đã phản chiếu được lòng tin
của ông đối với giáo lý nhà Phật và qua cái nhìn ông một cảnh vật ở đó thật giải
thoát, an lạc, thanh vắng. Hay nhà thơ Vũ Hoàng Chương mượn ngay những giáo
lý của Phật như Nhân Quả, Luân Thường, khổ đau...để diễn tả nỗi niềm khao khát
vượt ra khỏi bờ mê, để đến bến giác.
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như
trên ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên
14

diễn đàn tư tưởng của Việt Nam. Không chỉ ảnh hưởng trên mặt văn chương xuất
bản mà Phật Giáo còn có mặt trong nhiều phong tục tập quán ở Việt Nam.
2.3.4. Ảnh hưởng Phật Giáo đến phong tục, tập quán

Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân
tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá
trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt Nam,
những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều. Song ở đây người
viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời sống hằng ngày của người
Việt.
Tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh, bố thí.
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống
văn hóa này. Quan niệm rằng, ăn chay mang đến cho con người thân tâm thanh
tịnh và lòng từ bi với chúng sinh. Thông thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn
người không phải phật tử cũng theo tục lệ đặc biệt này. Ngày nay, số người ăn
chay ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu của Phật tử, nhiều chùa thường tổ
chức nấu cơm chay phục vụ tín đồ đi lễ vào các ngày rằm, mùng một. Bên cạnh
đó, có khá nhiều quán ăn, nhà hàng chuyên phục vụ đồ chay cho nhu cầu ăn chay
ngày càng đông của người dân. Tuy không phải 100% số người ăn chay ở Việt
Nam hiện nay đều là tín đồ Phật giáo, nhưng đa phần trong đó đều có ảnh hưởng
từ niềm tin Phật giáo. Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn
uống và điều kiện tự nhiên của Việt Nam (khí hậu nhiệt đới ẩm, có hệ thực vật
phát triển tốt hơn hệ động vật), chú trọng ăn rau củ quả nhiều hơn thực phẩm
động vật. Các nhà khoa học cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và không kém phần
bổ dưỡng nếu biết ăn hợp lí nên người Việt dù không phải là Phật Tử cũng thích
ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt
Nam từ xưa đến nay.
Việc thờ phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị, nhiều người không
phải là Phật tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm
15

ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm với ý nghĩa cầu mong
bình an, xua đuổi ma quỷ.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sanh
đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một,
người Việt thường hay mua chim, cá đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sanh.
Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó,
hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên, trong xã hội
hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên này càng bị thu hẹp. Thay
vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp
thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý
của dân tộc lá lành đùm lá rách.
Tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên
có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng
với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các
vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bồ tát và ngày sám hối, người
tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân
tâm. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn,
nhang, hương hoa để dâng cúng tổ tiên ông bà, thể hiện lòng tôn kính, thương
nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tính của họ.
Ngoài ra, người Việt còn đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn
như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ Vu Lan).
Đây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt.
Vào các ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (Tết Nguyên Đán) hoặc những
ngày kỷ niệm lớn của lịch sử dân tộc, (giỗ tổ Hùng Vương), đông đảo các tầng
lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều quy tụ về đây. Những hình ảnh đó đã góp
phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt. Không phải ai đi lễ
16

chùa cũng vì lý do tín ngưỡng thuần túy mà chỉ đơn giản muốn đi xem lễ hội hoặc
thích chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa chiền.
Nghi thức ma chay, cưới hỏi
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma
chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền
phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn
giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời,
thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi
là làm ma chay). Ở những gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố
hoặc gia chủ mến chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu
siêu cho hương linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật.
Nhìn chung, tập tục ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi
thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với
Thiên Chúa giáo, Khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều
đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật
phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới
hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi
rước dâu.
Tập tục đốt vàng mã
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật
giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm
nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa cho
tới ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh thì đời sau sẽ tái
sinh trở lại làm người hạnh phúc, giàu sang. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm
nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ.
Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị oan
ức, đói lạnh, không thể siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những người
ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để họ dưới cõi âm ti bớt đi phần
17

tội lỗi mà thoát kiếp. Sau khi cúng giỗ, người chết sẽ nhận được những vật dụng,
tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường
có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh,
chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của Chư Phật đối với
người đã khuất.
Tập tục coi ngày giờ
Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu
Á nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám
cưới, đám ma, ... người ta thường về chùa để nhờ các thầy coi giúp giùm ngày
nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây cũng
là một loại hình mê tín. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào
cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm tháng
đối với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả lành.
Tập tục cúng sao hạn
Tập tục này rất phổ biến và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có
sự tham gia của Phật giáo. Bắt nguồn từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam rồi
vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên: Phật, Lão và Khổng
giáo đều cùng chủ trương, thiện chí đóng góp cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa
đời sống của con người đến ấm no hạnh phúc. Trong bối cảnh Tam giáo đó, các
thầy Phật giáo phải linh động, phải tìm hiểu, học hỏi những cái lưu truyền của
đạo bạn để có một cái nhìn hòa đồng, cảm thông và nhất là để kéo Phật tử trở về
với bói quẻ, xem tướng, thì các thầy cũng cúng sao để cho người Phật tử quay về
chùa, thay vì để họ lạy thần linh thì lạy Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng giải
đạo lý cho người Phật tử xóa bỏ tà kiến trước đây của họ. Trong phương tiện này
đã có một số người lạm dụng và dần dà nó trở thành một loại hình sinh hoạt của
Phật giáo.
Tập tục xin xăm, bói quẻ
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một
loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc
18

các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi đôi với
việc xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ Quan Thánh,
khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ để lấy một thẻ rớt
ra, sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trụ trì giải đáp giùm vận mạng của mình.
Mỗi thẻ ứng với một lá xăm có ghi sẵn trong những điều tiên đoán về công việc
làm ăn, gia đình... của mỗi người. Đây là một tập tục không lành mạnh do tin
tưởng vào sự may rủi của số phận đã được sắp đặt, an bài từ trước. Tốt xấu tại
mình, không phải tại xăm quẻ.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã
chịu nhiều tác động của các nền văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong
đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các
tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên,
không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà trong đó
có tập tục cần phải chắt lọc, bài trừ mê tín. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà
truyền giáo trong thời hiện đại. Bên cạnh sự ảnh hưởng trong các phong tục tập
quán của dân tộc. Phật giáo còn ảnh hưởng đến các loại hình nghệ thuật.
2.4. Ảnh hưởng phật giáo ảnh hưởng đến các loại hình nghệ thuật
2.4.1. Phật giáo ảnh hưởng đến nghệ thuật sân khấu
Nghệ thuật sân khấu cũng là một loại hình văn hóa, nhất là các chủng loại
này thuộc về di sản mang tính bản sắc của văn hóa dân tộc song song với những
phần đã nêu ra ở trên. Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai trò
quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương đông và
nếp sống truyền thống của dân tộc.
Hát chèo xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thu hút
nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn các vở truyện Nôm truyền
thống. Đáng kể nhất là vở "Quan Âm Thị Kính" đã đi vào dạng tuồng tiêu biểu
chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật này.
Hát bội ban đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo cổ, nghệ thuật
này trở nên một loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và giới thượng lưu
19

hay dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ thuật thì mới có thể xem và
cảm nhận được thể loại độc đáo này. Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời
đại hoàng kim của nghệ thuật hát bội. Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Đồ Vương";
"Nghêu Sò Ốc Hến"... là những vở mang tính chất dân tộc chính thống và chứa
đựng toàn vẹn triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo.
Cải lương là môn nghệ thuật dân tộc phát triển nhanh chóng, có sức cuốn
mạnh mẽ và dung nạp nhiều mảng dân ca. Chính vì yếu tố phóng khoáng đó, cải
lương dễ dàng tiến sâu vào chân lý của Phật giáo. Đây là một loại hình nghệ thuật
được đông đảo bà con lao động Việt Nam nhất là các vùng ngoại ô ưa chuộng.
Giáo lý "nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác"... được các soạn giả thể hiện
các vở cải lương, được khán giả say mê thưởng thức và đã đứng vững trên diễn
đàn sân khấu trong suốt mấy chục năm qua. Tiêu biểu như các vở "Thích Ca Đắc
Đạo", "Quan Âm Thị Kính". Ngoài ra còn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư
tưởng Phật giáo như các vở "Phạm Công Cúc Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân
Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo nên luôn luôn các
tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu.
Kịch nói là loại hình nghệ thuật được du nhập từ phương Tây sau thế chiến
thứ hai (1938 - 1945), ban đầu chủ yếu biểu diễn các vở phóng tác từ các vở tuồng
của nước ngoài để phục vụ cho thực dân, quan lại, tay sai. Sau thập niên 60, kịch
nói mới có vị trí thật sự trong sân khấu Việt Nam và được người dân hưởng ứng
bằng các vở diễn do chính người Việt Nam dàn dựng. Nội dung của các vở kịch
hàm chứa nhiều căn ban đạo đức dân tộc trong đó có ảnh hưởng Phật giáo.
Không chỉ trong nghệ thuật sân khấu, diễn xuất người ta mới thấy sự yêu
mến của đông đảo quần chúng đối với Đạo Phật mà chúng ta còn thấy được điều
này qua nghệ thuật tạo hình.
2.4.2. Ảnh hưởng Phật giáo đến nghệ thuật tạo hình

Về kiến trúc
Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem theo các kiểu kiến
trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến
20

Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo
phối hợp cung với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mô hình
kiến trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt nam thường được
xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng,
dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Phật
giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh cho nước
Việt, nhiều ngôi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Hương, ở
miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam
có các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng...
Về điêu khắc
Hiện nay viện bảo tàng lớn ở Việt Nam có trưng bày cốt tượng, phù điêu
của Phật giáo được trưng bày, đó không những là một niềm tự hào của nền văn
hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có
mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm như tượng Quan Âm
nghìn mắt nghìn tay, tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây) và nhiều các tác
phẩm điêu khắc tinh xảo khác. Ngoài ra còn có những công trình điêu khắc quy
mô và mang tính lịch sử như tượng "Phật Nhập Niết Bàn" dài 49m ở núi Trà Cú,
kiến tạo năm 1962, tượng Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11m tại Vũng Tàu.
Và về hội họa
Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng chùa ngày
đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo luôn là đề
tài gây nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều trang lụa,
tranh màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được các họa sĩ, nghệ
nhân lên tuổi ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua các tác phẩm
như "chùa Thầy" của Nguyễn Gia Trí, "Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu,"Đi Lễ Chùa"
của Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên 80 trở lại đây, có "Thiền Quán",
"Quan Âm Thị Hiện"; "Bích Nhãn", "Rừng Thiền" của họa sĩ Phượng Hồng.
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh của
Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn
21

học và nghệ thuật của người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái
tinh hoa độc đáo của mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung
trong tương lai.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU
CỰC CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM.
3.1. Một số những hoạt động tiêu cực trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam
hiện nay

Hiện nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã đem lại đời sống vật
chất tốt hơn cho mọi người, tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường là lối sống
thực dụng, chạy theo đồng tiền… dẫn tới sự xuống cấp về đạo đức, lối sống gây
bức xúc trong xã hội, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Nó đã làm trong sinh hoạt
Phật giáo Việt Nam xuất hiện nhiều hoạt động gây các ảnh hưởng tiêu cực đối
với đời sống văn hóa Việt Nam.
Phong tục đi lễ chùa đầu năm, tục phóng sinh có ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những phong tục này đang bị thực
hành một cách sai lệch, biến tướng.
Rất nhiều người không còn quan tâm đến ý nghĩa thực sự của việc đi lễ
chùa đầu năm, của việc phóng sinh, ... mà thực hành các phong tục đó theo phong
trào và mang tính hình thức. Mùa lễ hội đầu năm, người người, nhà nhà đi lễ chùa
để cầu đủ thứ theo nhu cầu trần tục, chen chúc, xô bồ. Người dân lên chùa thường
quá chú trọng đến lễ vật, đến các hạm muốn tầm thường. Do không được giáo
dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị
hiếu của mọi người. Họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè
kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng.
Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid diễn ra phức tạp thì nhiều nơi
vẫn diễn ra các hoạt động tụ tập gây ảnh hưởng đến công tác chống dịch.
22

Những hoạt động diễn ra tại các nhà chùa ở nhiều địa phương gây tốn
kém, lãng phí tiền bạc. Lợi dụng hoạt động sinh hoạt Phật giáo để tiến hành
các hành vi lừa đảo, trục lợi.
Nhiều người quá lạm dụng yếu tố mê tín gây tốn tiền của cúng bái, lễ lạt.
Thậm chí nhiều người còn quá cả tin dẫn đến bị lợi dụng mất tiền mất của. Nhiều
nơi hình thành thị trường tôn giáo với các loại hình dịch vụ tâm linh. Sự huyên
náo của các loại dịch vụ như vàng mã, cầu an, cầu siêu, trừ ma, trừ tà, bốc bát
hương, xem hướng nhà, hướng bếp, ... nở rộ ở nhiều địa phương, gây tốn kém
tiền của của xã hội. Sinh hoạt Phật giáo ở một số nơi đang bị biến tướng với
những hoạt động tiêu cực, có tác động rất xấu tới đời sống xã hội. Hiện tượng
dâng sao, giải hạn ở một số chùa khu vực miền Bắc hay hiện tượng cúng oan gia
trái chủ ở chùa Ba Vàng gần đây gây ra nhiều hệ lụy xấu cho Phật giáo và cho xã
hội. Các nghi lễ tang ma ở một bộ phận người dân cũng được phục hồi khá rườm
rà, tốn kém với nhiều thủ tục như xem ngày, kén giờ, giải trùng tang, lập đàn cầu
siêu, cúng lễ linh đình có sự trợ giúp của các nhà tu hành Phật giáo với mức chi
phí không hề nhỏ.
Đặc biệt không thể nhắc đến vụ việc của “Tịnh thất bồng lai”, nơi này đã
có những hành vi trục lợi từ thiện chuyên nghiệp. Chính vì hình ảnh đáng thương,
hồn nhiên của những đứa trẻ giới thiệu mồ côi và giáo lý Từ bi của Đạo Phật được
khai thác trên mạng xã hội một cách tối đa, thậm chí xuất hiện trên một số chương
trình truyền hình... nên nguồn từ thiện đổ về Tịnh thất Bồng Lai trong những năm
qua là cực lớn. Giả danh thuộc hội Phật giáo Việt Nam để tăng uy tín, lợi dụng
tấm lòng của người dân để chuộc lợi.
Ngoài ra vào các ngày lễ hội lớn, các chùa chiền có tổ chức các hoạt động
sinh hoạt Phật giáo thì ta có thể bắt gặp hình ảnh những người khiếm khuyết tay
chân, hay những em bé nhếch nhách đi xin ăn, thậm chí cả những bé sơ sinh còn
bú sữa mẹ. Những người này đôi khi là của một tổ chức nào đó, họ có các hành
vi lừa đảo, giả dạng què quặt để xin ăn. Thậm chí có những bé được sinh ra, không
được cho đi học mà bị đánh đập, bắt đi xin ăn làm công cụ kiếm tiền.
23

Gây ảnh hưởng xấu trực tiếp đến môi trường


Nghi lễ phóng sinh hiện nay cũng được thực hiện theo phong trào, cho có
lệ mà quên mất ý nghĩa thực sự của nó. Vào lễ Vu lan, nhiều người đến chùa
phóng sinh chim, cá vì vậy mà càng có nhiều chim, cá bị săn bắt với số lượng lớn
nhằm kinh doanh, buôn bán. Sau khi phóng sinh xong, chim, cá lại bị bắt trở lại
và đem bán tiếp. Hậu quả là sau một số nghi lễ phóng sinh của nhà chùa, chim,
cá không những không được cứu mạng mà còn chết hàng loạt.
Đốt vàng mã ở nhà chùa vào các ngày lễ lớn với số lượng lớn không những
gây tốn kém mà còn ảnh hưởng rất nguy hại đến sức khỏe và môi trường. Đã có
nghiên cứu phát hiện ra giấy vàng mã có chứa chất độc hại “benzen. Đốt vàng mã
trực tiếp thải chất độc "benzen" ra ngoài môi trường. Lượng lớn khí CO2 mà việc
đốt vàng mã thải ra môi trường cũng là một yếu tố làm thủng tầng Ozone, nóng
lên toàn cầu. Việc bốc bát hương sau đó đổ xuống sông hồ cũng làm ô nhiễm
nghiêm trọng nguồn nước, gây chết hàng loạt các loài động vật sống trong môi
trường đó.
Những ảnh hưởng tiêu cực này cần phải có ngay các giải pháp của nhà
nước và sự thay đổi tư duy nhận thức của mỗi cá nhân.
3.2. Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong đời
sống văn hóa ở Việt Nam

Sau đây là một số giải pháp mà em đề xuất qua quá trình nghiên cứu đề
tài này.
Một là, tăng cường quản lý Nhà nước đối với Phật giáo, ban hành luật
pháp và các chính sách tôn giáo Phật giáo đúng đắn.
Để thay đổi mặt tiêu cực của Phật giáo đến đời sống văn hóa Việt Nam thì
đầu tiên phải có sự dẫn dắt, định hướng đúng đắn đến từ Chính phủ và Nhà nước
ta. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tôn giáo đang diễn biến rất phức tạp đòi
hỏi phải nhận thức nó một cách đầy đủ và quản lý hiệu quả công tác tôn giáo.
Điều quan trọng của chính sách tôn giáo hiện nay là cần được đặt trong tổng thể
24

chính sách xã hội. Trong việc quản lý hoạt động và tổ chức của tôn giáo và Phật
giáo đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần có những biện pháp ứng xử linh hoạt, tạo điều
kiện cho các tín đồ tôn giáo làm tốt nghĩa vụ của người công dân. Việc xây dựng,
ban hành luật pháp và các chính sách tôn giáo Phật giáo chính là nhằm từng bước
khắc phục dần những mặt tiêu cực trong đạo đức Phật giáo, phát huy mặt tiến bộ,
tích cực trong việc xây dựng một nền đạo đức xã hội lành mạnh, tiến bộ.
Hai là cần tăng cường tuyên truyền giáo dục để người dân hiểu rõ và
nhận thức đúng giáo lý của Phật giáo, tránh các tư tưởng lệch lạc, sai lầm về
Phật giáo. Chấn chỉnh lại các hoạt động sinh hoạt Phật giáo sai lệch, loại bỏ
mê tín dị đoan.
Tuyên truyền, nâng cao tinh thần cảnh giác chống lại các thế lực phản động
lợi dụng Phật giáo để truyền bá các hành vi mê tín dị đoan, làm ảnh hưởng đến
thuần phong mỹ tục của dân tộc; giúp người dân nhận thức đúng các giá trị chân
thiện trong đạo đức Phật giáo, tạo động lực cho họ có ý thức phát huy những mặt
tích cực của đạo đức Phật giáo. Nâng cao dân trí, nhận thức khoa học và chủ nghĩa
vô thần khoa học sẽ góp phần đẩy lùi những niềm tin ảo tưởng, giúp cho đồng
bào có đạo làm chủ được bản thân mình, không sa vào mê tín dị đoan, phát huy
được khả năng sáng tạo của mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực trong sinh hoạt Phật giáo hiện nay. Rà soát các cơ sở,
chùa chiền có sinh hoạt Phật giáo trái phép, sai trái, có các hoạt động mê tín dị
đoan, lừa đảo. Cần tuyên truyền bỏ đi các hủ tục như đốt vàng mã, góp phần bảo
vệ môi trường. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho những người xin ăn ngoài
cổng chùa chiền.
Ba là, mỗi cá nhân phải tự có ý thức chọn lọc thông tin, tiếp thu chắt
lọc tinh hoa tôn giáo đúng đắn. Lên án ngay với những hoạt động Phật giáo
trái phép, lệch lạc.
Là con người sống trong thời đại hội nhập văn hóa toàn cầu. Mõi người
chúng ta phải biết chọn lọc tinh hoa văn hóa để tiếp thu chứ không tiếp nhận thụ
động bừa bãi. Nếu có những phát hiện với những hoạt động tôn giáo gây rối loạn
25

trật tự xã hội, làm xấu đi những nét đẹp văn hóa truyền thống, trái lại với pháp
luật Việt Nam thì phải báo cáo ngay với chính quyền địa phương các hoạt động
gây nguy hại, tiêu cực đến đời sống văn hóa của nhân dân để kịp thời ngăn chặn,
giải quyết, dẹp bỏ.

KẾT LUẬN

Xuyên suốt quá trình tìm hiểu phân tích của tiểu luận này, chúng ta đã biết
được được nguồn gốc du nhập Phật giáo vào Việt Nam như thế nào và ảnh hưởng
của nó đến đời sống văn hóa Việt Nam ra sao. Phật Giáo hòa mình vào lòng dân
tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam và đã ảnh hưởng đến đời
sống văn hóa của người Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật
cho đến phong tục tập quán, nếp sống nếp nghỉ... tìm hiểu và nghiên cứu về "Ảnh
hưởng của Phật Giáo đến đời sống văn hóa Việt Nam", chúng ta càng thấy rõ
nhận định trên. Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho
đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng nhân dân ta ít nhiều đều chịu ảnh
hưởng của triết lý và tư tưởng Phật Giáo. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta thấy
vấn đề những hạn chế còn tồn tại trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam hiện nay,
qua đó để nhận biết, hiểu rõ đâu là giáo lý của Phật giáo đúng đắn, đâu là các tư
tưởng, hành động mê tín dị đoan để tránh. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục khái quát,
tìm ra những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa người Việt,
từ đó có quan điểm, biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tư
tưởng Phật giáo đến suy nghĩ, lối sống của người Việt Nam hiện nay.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại
và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam, tạo ra các ảnh hưởng sâu sắc
riêng biệt với đời sống văn hóa Việt Nam. Chúng ta ngày nay cần phải hiểu rõ
những tác động ảnh hưởng đó nhằm phát huy những giá trị tích cực của Phật giáo
trong hoàn cảnh mới hiện nay của đất nước ta, góp phần giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
26

TÀI LIỆU THAM KHẢO


(1) Đề tài khoa học “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, chủ nhiệm đề tài: TS
Nguyễn Thị Hồng, khoa Tuyên truyền, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền.
(2) Giáo trình: “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất
bản Giáo dục
(3) Bài viết: Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta và ảnh hưởng của nó
trong TK 10-14, Lê Tuân Huy
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta và ảnh hưởng của nó trong TK
10 -14 (nghiencuuquocte.org)
(4) Bài viết: “Ảnh hưởng phật giáo trong đời sống người Việt”, Thích
Nguyên Tạng
https://thuvienhoasen.org/a14322/anh-huong-phat-giao-trong-doi-
song-nguoi-viet
(5) Bài viết: Ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học dân gian Việt Nam,
TT. TS Thích Đồng Văn
http://www.hoalinhthoai.com/news/detail/news-3536/Anh-huong-cua-
Phat-giao-trong-van-hoc-dan-gian-Viet-Nam.html

You might also like