Quá Trình Thức Tỉnh Của Chí Phèo

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

NGUYỄN LINH NGỌC – 11A13

QUÁ TRÌNH THỨC TỈNH CỦA CHÍ PHÈO


Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai đoạn trước và
sau Cách mạng tháng Tám. Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ,
có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và
những người nông dân nghèo khổ. Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một
trong những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân nghèo trước CMT8 của
Nam Cao, chúng ta không thể không cảm động trước quá trình hồi sinh của Chí
Phèo – một người tưởng đã là quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo là biểu hiện sống
động của bi kịch sinh ra là người mà không được làm người. Câu chuyện có nhiều
bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt
của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa
nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Chí Phèo sinh ra đã bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, được người ta chuyền tay nhau nuôi lớn.
Hắn lớn lên trở thành một anh canh điền lương thiện, hiền lành. Khi làm tại nhà Lý
Kiến, Lý Kiến vì ghen tuông nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Bảy, tám năm sau, sau
khi ở tù về, Chí Phèo trở thành kẻ lưu manh, tìm về Bá Kiến để trả thù. Tuy nhiên,
Chí Phèo không những không trả được thù mà còn trở thành tay sai cho Bá Kiến,
chuyên rạch mặt ăn vạ đòi nợ thuê cho lão. Từ ấy, Chí Phèo luôn chìm trong những
cơn say, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí bị xã hội ruồng bỏ, bị tước đi
quyền làm người, mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có
lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống triền miên trong những cơn say, rồi sẽ kết thúc
bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng bằng trái tim nhân đạo của một nhà
văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo có cơ hội làm lại cuộc đời, để trở lại là một anh
Chí lương thiện một lần nữa. Ông đã đem tình thương chạm đến tận đáy trái tim cô
độc khát khao yêu thương của con người mà người ta vẫn gọi là “con quỷ dữ làng
Vũ Đại” đó.
Có nhiều yếu tố tác động dẫn tới khao khát trở lại làm người lương thiện, cuộc gặp
gỡ với Thị Nở đã đánh thức bản năng trong Chí, sự chăm sóc của thị đã đánh thức
phần người, tính người trong Chí, trận ốm sau bao nhiêu năm trầy trật ở đời đã
đem tới những thay đổi trong sinh lý và tâm lý. Trong một đêm say, hắn tình cờ
gặp Thị Nở – người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, dở hơi, nghèo khổ. Sự quan tâm
chăm sóc mà Thị Nở dành cho hắn sau cái hôm ấy dường như đã đánh thức lương
tri, đánh thức tính người lương thiện còn sót lại đã ngủ quên từ lâu trong con người
Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà trong Chí đã khao khát được hoàn lương để có
thể được sống như một con người.
Quá trình hồi sinh của con người trong Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở cho ta thấy
khả năng phân tích tâm lý nhân vật xuất sắc của Nam Cao. Sau một đêm ăn nằm
NGUYỄN LINH NGỌC – 11A13

với Thị Nở, buổi sáng đầu tiên hắn thức dậy trong tình trạng tỉnh rượu và tỉnh táo
để nhận ra ánh nắng rực rỡ, tiếng chim hót ríu rít. Lần đầu hắn cảm nhận được
không gian sống của mình, bởi đây là lần đầu tiên hắn tỉnh táo; hắn nhận ra cả
những người đi chợ đến tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng những
người bán vải trò chuyện vói nhau… Nằm trong chiếc lều tăm tối, Chí Phèo đã có
thể hình dung ra không gian đầy ánh sáng và âm thanh của thiên nhiên và cuộc
sống bên ngoài, nhất là hình dung ra bức tranh ấm áp, bình dị của cuộc sống con
người. Những âm thanh và hình ảnh rất đỗi bình dị ấy khiến Chí Phèo chợt nhận ra
bao lâu nay hắn hoàn toàn sống trong cõi u mê, hoàn toàn bị tách khỏi cuộc sống
đời thường bình dị, cuộc đời mà hắn từng là một thành viên. Trong Chí cũng dần
dần thức dậy những cảm xúc và cảm giác của một người bình thường: miệng đắng,
chân tay bủn rủn, nghĩ đến rượu thì “hơi rung mình”. Từ một con quỷ dữ, hắn dần
trở lại làm con người, ban đầu mơ hồ, rồi mỗi lúc một rõ nét hơn. Sự tinh tế trong
ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao được thể hiện đậm nét khi miêu tả
nỗi buồn bỗng dấy lên trong lòng Chí: từ mơ hồ buồn đến nao nao buồn, rồi đến
“Buồn thay cho đời!”, để từ ấy người đọc nhận ra nỗi buồn ngày một dâng cao,
choáng ngợp, lấp đầy lòng người mà thật chua xót, cay đắng.
Từ sự nhận thức về không gian, Chí Phèo đến dần với những cảm nhận về thời
gian. Chí phảng phất nhớ ra một điều thật chua xót khi những hình ảnh của cuộc
sống hiện tại bên ngoài kia hình như đã một thời cũng thuộc về hắn. Những kí ức
về một quãng đời lương thiện thật xa xôi trong qúa khứ bỗng trở về với Chí, hình
như có một thời hắn ước ao có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê,
vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm. Sống lại với giấc mơ bình dị xa xôi và lương thiện thơi trẻ, Chí cũng
đồng thời ý thức được bi kịch đáng buồn của hiện tại khi hắn thấy mình già rồi mà
vẫn còn cô độc. Hắn tự ý thức mình đang ở “cái dốc bên kia của cuộc đời”, hắn đã
sắp già và sắp không còn khoẻ nữa. Và như một sự tự nhiên, Chí nghĩ đến tương
lai, Chí như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc. Lần
đầu tiên sau bao nhiêu năm chìm đắm trong những cơn say triền miên và u tối, khi
nhận ra mình hoàn toàn sống ngoài lề cuộc sống con người. Chí nghĩ đến sự cô
độc, thậm chí hắn còn nhận ra sự cô độc đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Đói rét và
ốm đau chỉ là những yếu tố thể chất, là bản năng của con người để tồn tại, còn khi
cảm nhận được nỗi cô độc thì phần người, phần tâm hồn, phần con người xã hội
trong Chí Phèo đã lớn hơn phần con. Sự cô độc chỉ hiện diện khi người ta đã từng
sống giữa xã hội loài người, giờ đây, phần người, phần con người xã hội đã quay
trở lại với Chí, khiến hắn muốn quay lại với xã hội bình thường.
Ý thức cũng trở về cùng những cung bậc cảm xúc thông thường của con người.
Trước tiên là nỗi buồn - nhà văn sử dụng thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp khiến sự tự ý
thức của Chí Phèo càng thêm sâu sắc. Trong dòng hồi tưởng suy ngẫm, Chí liên
NGUYỄN LINH NGỌC – 11A13

tục tự nhủ: chao ôi là buồn! Buồn thay cho đời, rồi lại nao nao buồn. Nuối tiếc giấc
mơ hiền lành, lương thiện trong quá khứ, buồn bã với hiện tại, sợ hãi trước tương
lai… Có thể thấy, ý thức đã thực sự trở về với Chí trong những cảm nhận sâu sắc
về thời gian, không gian.
Hắn không chỉ buồn bã hay sợ hãi cho chính mình, hắn còn có khả năng nhận ra
tình yêu thương và biết yêu thương. Khi Thị Nở đem cháo tới cho hắn, một bát
cháo hành thơm thảo, một lòng tốt rất đỗi bình thường của Thị Nở nhưng lại khiến
Chí ngạc nhiên và cảm động. Hắn như được giải cảm, giải độc. Khi con người bị
tha hoá, bị tước đi quyền làm người, giải pháp Nam Cao đưa ra là giải pháp tình
thương, ấy cũng là điểm khác biệt giữa con người và con vật, có cảm xúc, biết yêu
thương, chua xót thay ấy cũng là điều mà dù đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời,
Chí Phèo chưa từng nhận được. Con quỷ dữ từng làm đổ máu và nước mắt của bao
nhiêu người lương thiện nay lại thấy mắt hình như ươn ướt; nước mắt hắn đã quay
trở về, cũng như phần con người đã quay trở về, tuy còn mơ hồ nhưng tính người
đã dần dần quay trở lại. Hắn bâng khuâng, sao lại bâng khuâng? Có phải vì con
quỷ ấy chưa quen với phần người đang quay trở lại, hay bâng khuâng vì những xúc
cảm lẫn lộn trong lòng hắn?
Hắn vừa vui vừa buồn, chân thành đến tội nghiệp, bởi đây là lần đầu tiên sau khi ra
tù, hắn không cần phải cướp bóc hay dọa nạt ai mà lại có ăn; đây cũng là lần đầu
tiên Chí được chăm sóc bởi tình thương yêu giản dị, mộc mạc của một người đàn
bà. Hắn thấy cháo thật ngon có thể không phải vì vị ngon mà có lẽ phần lớn hơn
làm nên vị ngon là bởi lòng tốt và tình thương của Thị Nở. Cảm giác hạnh phúc vì
được yêu thương đã hiện ra qua ý nghĩ vừa sung sướng vừa thương hại trước sự
thiệt thòi của những con người suốt đời không ăn cháo hành không biết cháo hành
rất ngon. Cũng vì ấy mà hắn thấy buồn, buồn vì ngần ấy tuổi, sống trên đời ngần
ấy năm, đây là lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành, được săn sóc bởi một người
đàn bà. Hắn buồn cho cuộc đời bất hạnh và cô độc của hắn, vì tới giờ hắn mới có
được những hạnh phúc bình dị của cuộc sống. Chí ăn năn vì hắn nhận ra rằng, hắn
không cần phải giật cướp, dọa nạt mà vẫn có thể được cho, được sống như người
bình thường; hắn ăn năn vì những tội ác mà hắn đã gây ra, vì hắn đã phá tan bao
cảnh yên vui. Trận ốm này cũng làm hắn ngộ ra rằng hắn không còn mạnh nữa,
không còn có thể liều nữa, hắn ý thức được thực tại và tương lai đầy cô độc và
đáng thương của mình. Tình yêu thương được thể hiện qua bát cháo hành của Thị
Nở làm hắn suy tư bao điều về cuộc sống. Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn
nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí Phèo. Bát
cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của
Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ tới bản chất
lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Trước sự quan tâm của Thị Nở,
Chí Phèo thấy mình thành trẻ con. Rồi Chí muốn làm nũng với thị như với mẹ, một
NGUYỄN LINH NGỌC – 11A13

so sánh xót xa vì hắn đã bao giờ có mẹ! Có lẽ trong tâm trí hắn, mẹ là người có thể
đem lại tình yêu thương, sự hiền hậu bao dung, che chở - những điều hắn đang cảm
nhận từ Thị Nở; thậm chí lần đầu tiên trong cuộc đời khốn khổ, hắn thấy lòng rất
vui. Chí còn thấy đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm nguời ta say. Và
hắn say thị lắm. Ý thức càng rõ rệt trong những suy nghĩ hướng thiện khi Chí Phèo
cảm nhận được niềm hạnh phúc bình dị khi được sống trong sự ấm áp của tình yêu
thương. Ý thức được nguyên nhân của sự cô độc đáng sợ khiến Chí Phèo bỗng
thấy thèm khát tình thương yêu, thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi
người, muốn được trở lại với cộng đồng người lương thiện đã từng nuôi nấng, cưu
mang hắn. Hắn nhận ra đây là việc rất khẩn thiết và cấp bách, bởi hắn không còn
nhiều thời gian nữa, bởi “Bấy giờ mới nguy!”. Nam Cao đã rất xuất sắc khi tố cáo,
vạch trần xã hội đương thời, nơi không cho con người ta sống lương thiện thì
người ta mới phải “thèm”, nơi bắt người ta sống “thiếu” lương thiện thì người ta
mới phải “thèm”.
Sự tỉnh táo giúp hắn hiểu rằng Thị Nở là người duy nhất có thể đưa hắn trở về với
cuộc sống bình dị ấy bởi một lí lẽ giản dị tới ngây thơ: thị có thể sống yên ổn với
hắn thì sao người khác lại không thể được. Chí hi vọng mãnh liệt vào Thị Nở,
người sẽ mở đường cho hắn, người sẽ giúp dân làng nhận ra hắn đã thức tỉnh, là
hắn cũng có thể không thể làm hại được ai để họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội
bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn chỉ dám nhìn thị thăm
dò, xem thị có sợ hắn không, thị có chấp nhận, có thể sống yên ổn với hắn không,
có chịu làm cầu nối cho hắn không. Thị nhìn hắn cười tin cẩn. Bỗng hắn thấy “tự
nhiên nhẹ người”, vì hắn đã tìm được hi vọng le lói để quay trở lại xã hội của
những con người lương thiện. Khi Chí Phèo ý thức về hiện tại và tương lai, hắn
mới chỉ bước đầu tỉnh ngộ, chưa tỉnh ngộ hoàn toàn. Chỉ tới khi Thị Nở đem cho
hắn bát cháo hành, chăm sóc, trao cho hắn tình thương và lòng tốt giản dị mà chân
thành, bấy giờ hắn mới tỉnh ngộ hoàn toàn. Nam Cao đã đem tới một luồng gió
mới, một giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, ông phát hiện ra được cái bản tính tốt
đẹp, bản tính lương thiện vẫn không bị mất đi trong những con người đã bị tha hóa
về cả nhân hình lẫn nhân tính.
Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về, khiến hắn đủ hi
vọng và mong ước có một gia đình. Nếu trước đây, tiếng nói mất dần đi, thay bằng
những tiếng chửi vu vơ, phẫn uất, cô độc rơi vào sự im lặng thờ ơ của xã hội loài
người thì bây giờ, trong năm ngày sống với Thị Nở, tiếng nói hiền lành và bình dị
của con người Chí cũng biết tỏ tình một cách trân trọng, tình tứ như bất cứ người
đàn ông nào khi yêu: “Hay là mình về ở với tớ một nhà cho vui?”, Chí chân thành
bày tỏ với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” – lời bày tỏ tội nghiệp cho
thấy cả những dự cảm về sự mong manh của hạnh phúc, con người khốn khổ ấy
ngay trong thời gian làm người ít ỏi vẫn phấp phỏng dự cảm về bất hạnh! Tình
NGUYỄN LINH NGỌC – 11A13

người của Thị Nở thức tỉnh tính người của Chí Phèo. Tình yêu thương đã có một
sức mạnh kì diệu trả lại nhân tính cho Chí Phèo, phần nhân tính tưởng như đã bị
cái ác đã hủy hoại hoàn toàn!
Nhưng, phũ phàng thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng
sầm lại trước mắt Chí Phèo. Những định kiến của bà cô Thị Nở cũng như thành
kiến mà xã hội này dành cho hắn như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí
Phèo dập tắt ngọn lửa hoàn lương vừa nhen nhóm lên trong Chí. Rồi cả Thị Nở,
người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng “rướn cái môi vĩ
đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi những bi
kịch của cuộc đời anh Chí. Thông qua lời nói của bà cô Thị Nở tuy gay gắt nhưng
chính là đại diện cho định kiến xã hội, cho những quan niệm cổ hữu, hà khắc đã ăn
sâu vào suy nghĩ của những con người lạc hậu, ích kỷ, hẹp hòi. Bà cô không muốn
cho Thị Nở đến với Chí Phèo vì hắn không có gia đình, không có công việc ổn
định. Bà ngăn cản tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở còn vì sự ganh tị. Tình thương
đã mong manh dễ tan vỡ, không dễ gì có được đã bị định kiến kia làm vỡ vụn. Thị
Nở như chiếc phao cứu sinh cuối cùng mà hắn là người chết đuối vừa níu được nên
hắn tìm mọi cách để níu giữ cơ hội mong manh. Hắn lại đi uống rượu. Hắn tìm đến
men rượu để quên đi cảm giác lúc này. Nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, càng
cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng. Hắn thoáng thấy hương cháo hành và thế là hắn ôm
mặt khóc. Lần này hắn khóc không phải vì bát cháo hành mà là vì hắn tiếc nuối
cho tình cảm, tình yêu thương mà hắn nhận được, đó cũng là giọt nước mắt bất lực,
chính xã hội ấy đã đẩy hắn vào con đường bi kịch này. Đến khi hắn muốn quay trở
lại thì cũng chính xã hội ấy lại không chấp nhận hắn. 

Khi bị Thị Nở ruồng bỏ, Chí Phèo quay lại bản chất của con người hiện tại. Phẫn
uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến
nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận
trong vô thức Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác
định đúng kẻ thù của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ
thức tỉnh, đòi quyền làm người, đòi lương thiện. Chí hỏi những câu hỏi mà không
lời giải đáp đầy cay đắng, chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người
thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân, đánh thẳng vào bộ mặt của
xã hội bất lương. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để
giải quyết sự bế tắc của số phận. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp
nhận một cuộc sống của một con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà nhưng xã
hội này không cho phép. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái
xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con
người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa làm lại cuộc đời. 
NGUYỄN LINH NGỌC – 11A13

Với hình tượng nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân
trước cách mạng, đó là bi kịch bị bần cùng hoá và lưu manh hoá cả người nông
dân. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương
thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy.
Tác phẩm mang nhiều ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ
thuật vô cùng độc đáo.

Nghệ thuật kể chuyện có sự kết hợp giọng văn của người kể chuyện và giọng nói
của nhân vật cùng nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy đủ từ phần thắt nút rồi cao
trào cho đến mở nút, kết cấu đầu cuối tương ứng, giọng điệu vừa lạnh lùng lại vừa
chua xót. Nghệ thuật độc đáo và tài năng trong ngòi bút của Nam Cao đã làm nổi
bật nội dung của tác phẩm. Chủ đề về người nông dân nghèo, về khát khao được
sống trong xã hội công bằng là ý nghĩa nhân văn mà Nam Cao muốn đề cập đến
trong tác phẩm. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo cũng khiến người đọc
cảm nhận được ý nghĩa sâu xa về thái độ trân trọng, cũng là đề cao phẩm chất, tin
tưởng vào bản chất người nông dân tuy nghèo nhưng không tham lam, mà thật thà
ngay thẳng dù trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời, tác giả đã lên án, tố cáo những thế
lực chà đạp lên quyền sống của con người, đẩy những người có thân phận nhỏ bé
vào bước đường cùng, rơi vào bi kịch đau đớn mà không sao thoát ra được.

Văn học là nhân học, văn học xuất phát từ hiện thực cuộc đời và đích đến chính là
trái tim. Chí Phèo của Nam Cao đã thực sự trở thành một kiệt tác trong phong trào
văn học hiện thực phê phán 1930-1945 nói riêng, cho văn học hiện đại Việt Nam
nói chung. “Chí Phèo” chính là một tác phẩm lớn và có tiếng vang trong thời kì
văn học hiện đại, được xem là tác phẩm điển hình khi nhắc đến chủ đề người nông
dân trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Thông qua qua quá trình thức tỉnh của nhân
vật Chí Phèo, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã
lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân
dân lao động. Nam Cao cũng đã thể hiện sự thương cảm và tấm lòng trân trọng sâu
sắc với bi kịch của những người nông dân trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, nhà văn
cũng khẳng định sức sống bất diệt của thiện lương, mong muốn một cuộc sống đời
thường hạnh phúc chính là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Đây là khát
khao mà không một thế lực nào có thể hủy diệt được. 

You might also like