Professional Documents
Culture Documents
Bài tiểu luận SE1502
Bài tiểu luận SE1502
Bài tiểu luận SE1502
Hai là, xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết
quốc tế.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập đến đoàn kết quốc tế của giai cấp vô
sản như là một điều kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân. Sau khi Nguyễn Ái Quốc bắt gặp luận cương của Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người khẳng định “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”, gắn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác -Lênin.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng 12/1920)
Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành Đảng ra nhập Quốc tế III, trở
thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng việc
làm đó, Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế. Từ đoàn
kết các dân tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết với giai cấp vô sản chính
quốc và giai cấp vô sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết những bài tham
luận, phát biểu trong các kỳ sinh hoạt đảng và các cuộc họp của các tổ
chức xã hội khác, tham gia lãnh đạo Ban Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo
Người cùng khổ....
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tranh
thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận
đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức với sự
tiếp thu sâu sắc và sáng tạo những khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa
Mác - Lênin: “Lao động tất cả các nước đoàn kết lại” và người khẳng định,
chính Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc và giai cấp vô sản
thế giới sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng cách
mạng trong phạm vi từng nước và thế giới vào cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
Tiếp cận với bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh càng thấy được sự cần thiết phải
liên hiệp giữa các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới chống chủ nghĩa
thực dân, đế quốc. Với trách nhiệm của người cộng sản chân chính, Người
đã nêu rõ nguyên nhân đầu tiên gây ra sự suy yếu của các dân tộc
phương Đông là “Sự biệt lập” - hậu quả của chính sách “chia để trị” của
bọn thực dân đế quốc. Người nhận thấy họ “không có những quan hệ và
tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn không biết đến những
việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự
tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”. Người chỉ
ra: “Sẽ rất có ích cho người An Nam biết bao, nếu họ được biết những
người anh em Ấn Độ của họ tự tổ chức như thế nào để đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc Anh, hoặc biết công nhân Nhật Bản đoàn kết nhau lại
như thế nào để chống lại ách bóc lột của chủ nghĩa tư bản, hoặc biết
người Ai Cập đã phải hy sinh cao cả như thế nào để đòi lại quyền tự do
của mình? Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và
đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền”.
Từ đó, Người kiến nghị với Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản
những biện pháp nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc ở
phương Đông. Vì theo Người: “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước
đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ
sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Năm 1921, Người chủ trì và sáng lập tổ chức Hội liên hiệp thuộc địa và
xuất bản tờ báo Người cùng khổ(Le Paria). Trong lời kêu gọi thành lập Hội,
Người viết: Đồng bào thân mến, nếu câu phương ngôn “Đoàn kết làm ra
sức mạnh” không phải là một câu nói suông, nếu đồng bào muốn giúp đỡ
lẫn nhau, nếu đồng bào muốn bênh vực cho quyền lợi của bản thân mình,
cũng như quyền lợi của tất cả đồng bào ở các xứ thuộc địa, hãy gia nhập
Hội liên hiệp thuộc địa”.
Hội này và báo Le Paria- tờ báo đầu tiên trên thế giới lấy đối tượng phục
vụ là các dân tộc thuộc địa - đã góp phần tích cực thức tỉnh các dân tộc
thuộc địa Pháp đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực
hiện đoàn kết quốc tế.
Trong thời kỳ hoạt động tại Trung Quốc, Người đã cùng các đồng chí
Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Inđônêxia, Miến Điện... thành lập Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức (1925) nhằm đoàn kết các dân tộc nhỏ yếu bị
áp bức trong một tổ chức cách mạng vì mục tiêu giải phóng đất nước khỏi
ách thực dân.
Tuyên ngôn của Hội khẳng định: “Hỡi các bạn thân yêu, chúng ta nên sớm
kết đoàn lại! Hãy hợp lực để đòi quyền lợi và tự do của chúng ta! Hãy hợp
lực để cứu lấy nòi giống chúng ta!... nếu các bạn muốn thoát khỏi nanh
vuốt của những kẻ đang hành hạ các bạn thì các bạn hãy kết đoàn với
chúng tôi! Chúng tôi cần sự giúp đỡ của các bạn. Chúng ta cùng có chung
lợi ích, nên khi đấu tranh cho chúng tôi là các bạn cũng chiến đấu cho các
bạn. Khi giúp đỡ chúng tôi các bạn cũng tự cứu mình”.
Trong những năm 1938 - 1940, Hồ Chí Minh hoạt động và chiến đấu bên
cạnh nhân dân Trung Quốc do Đảng Trung Quốc lãnh đạo. Hoạt động này
của Người đã gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc, tạo cơ
sở vững chắc cho quan hệ đoàn kết Việt -Trung.
Từ 1954 trở đi, Người dành nhiều sự quan tâm và đóng góp tích cực trong
việc xây dựng khối đoàn kết giữa các thuộc địa ở châu Á là Việt Nam, Ấn
Độ, Inđônêxia, Miến Điện... đặc biệt là khối đoàn kết giữa ba nước Đông
Dương là Việt - Miến - Lào.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi
trường quốc tế hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các
nước trong khu vực, các nước lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển
đất nước
Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh
các dân tộc cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết
nhau hơn, tin cậy nhau, cùng nhau giải quyết các xung đột. Người luôn
tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau, những dân tộc tự do và bình đẳng
vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” và “Thế giới hòa bình
có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn,
đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương
lượng”.
Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các
tổ chức quốc tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào
những năm 20 của thế kỷ XX. Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải
quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế là lấy hữu nghị thay cho hận
thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh, luôn mong
muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia,
dân tộc, giữa các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và
thách thức đan xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là
cơ sở lý luận vững chắc, lâu dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam
và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết quốc tế cao
cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng tự
hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao
nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng
anh em” và cũng thực hiện sự mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra
sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại đoàn kết giữa các
đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô
sản, có lý, có tình”.