1. Tình hình nước ta trong thập niên 90 của thế kỷ XX Từ tháng 12-1986 đến tháng 6-1991, sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới của, chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đó là: - Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế - Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. - Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. -Về đối ngoại chúng ta cũng đạt thành tựu như bình thường hóa quan hệ với Trung quốc; nối lại viện trợ ODA từ chính phủ Nhật. Gia nhập ASEAN, APEC; tham gia các diễn đàn lớn của khu vực và thế giới. Bên cạnh thành tựu bước đầu đã đạt được, đất nước còn nhiều yếu kém và khó khăn chưa vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế. 2. Tình hình thế giới Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu dẫn đến trật tự thế giới được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giáoi hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới. Thời kỳ của hội nhập hóa và toàn cầu hóa. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua. Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định chủ trương, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. 3. Tác động của bối cảnh lịch sử đến sự phát triển văn hóa ở nước ta Từ những tiến bộ, thành tựu phát triển của đất nước trong thâp niên 90, cùng với xu hướng phát triển của thế giới, có thể thấy việc đất nước ta tham gia vào làn song hội nhập hóa và toàn cầu hóa là điều tất yếu. Không chỉ nhằm mục đích phát triển kinh tế, tang cường đối ngoại, củng cố sức mạnh quốc phòng mà còn nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa vốn đã đậm đà bản sắc. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định văn hóa là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Bởi vì văn hóa, được hiểu theo nghĩa rộng nhất, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; chủ thể của sự phát triển chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa, văn hóa thâm nhập vào sự hiện diện trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, trong mọi mặt của hoạt động tinh thần và vật chất của con người Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tài sản vô giá; là linh hồn của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao biến cố thăng trầm của lịch sử; được viết lên bằng máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy nó là biểu tượng của sự trường tồn, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc và xây dựng chính sách văn hoá trong quá trình phát triển kinh tế xã hội là một vấn đề rất quan trọng. Yêu cầu đặt ra là phải giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đó đòi hỏi con người Việt Nam phải kế thừa và phát triển về nhân cách, trí tuệ, tư tưởng đạo đức với năng lực tổng hợp và kỹ thuật lao động tiên tiến, đưa dân tộc ta đến một tầm cao văn minh mới, đủ sức làm chủ và bảo đảm sự nghiệp cách mạng thắng lợi. Người Việt Nam với những tố chất tích cực như tính cộng đồng cao, ý thức đồng thuận, tính cần cù, cường độ lao động lớn, truyền thống hiếu học... đã và sẽ làm được nhiều việc phi thường