Professional Documents
Culture Documents
Ton Thuong Co Ban
Ton Thuong Co Ban
2.1.Vẩy: (squame)
Là những phiến thượng bì mỏng tróc trên mặt da. Vẩy có khi tiên
phát (da vẩy cá), có khi thứ phát (chàm). Có nhiều loại vẩy: như
vẩy phấn, như phiến mica hoặc thật dày như vỏ sò.
2.2.Vẩy tiết: (mài,croute)
Là khối huyết thanh đông lại trong có bạch cầu đa nhân, hồng cầu,
vi khuẩn hay sợi nấm. Tùy theo nguyên nhân vẩy tiết có màu khác
nhau: vàng (huyết thanh), vàng xanh (mủ), đen (máu).
Vẩy tiết
2.3.Vết xước: (excoriation)
Do chấn thương gây ra cho các tầng trên của da.
Nếu lớp sừng bị thương, ta có một vết trắng hồng
ở chung quanh. Nếu lớp gai bị tổn thương, tiết chất
đông lại thành vẩy tiết. Trong trường hợp nhú bì bị
tổn thương thì tiết chất có lẫn máu, khi đông lại
thành vẩy tiết đen và dính.
2.4.Lở: (erosion)
Còn gọi là trợt. Thượng bì bị tróc mất. Ví dụ: săng giang mai.
2.5.Loét: (ulcération)
Da bị mất đến tận bì, do đó khi lành để lại sẹo. Ví dụ: loét
sâu quảng.
2.6.Lichen hóa:
Do gãi hay cọ xát thường xuyên. Da dày có màu
nâu, các rãnh ngang dọc nằm sâu vẽ thành ô không
đều. Các ô láng, bóng, sáng, đôi khi có vẩy hay vết
xước. Thương tổn này thường thấy trong bệnh
chàm mãn tính.
2.7.Teo da:
- Teo thượng bì: thượng bì mỏng đi vì số lượng thượng bì
giảm. Da có nhiều nếp nhăn, dễ xếp nếp, hơi trong nên có
khi thấy được tĩnh mạch bên dưới. Nhưng trong trường hợp
teo do viêm hay thương tích, da trơn không còn những
đường rãnh mặc dù dễ xếp nếp.
- Teo bì: da bị lõm xuống, teo bì có thể đi kèm với teo
thượng bì. Ví dụ: vết rạn da.
2.8.Cứng da:
Các yếu tố cấu tạo bì đặc lại làm cho sự trợt của da trở thành khó khăn.
Cũng nên để ý là cứng da không đồng nghĩa với dày da, nhiều khi cứng
da nhưng thượng bì lại teo mỏng như các trường hợp teo cứng bì.
2.9.Sẹo:
Tạo bởi mô sẹo tân lập thay chỗ mô đã bị mất hoặc bị viêm trong
trường hợp lupus đỏ, lupus lao, giang mai. Sẹo có thể phì đại do
sự phát triển quá mức của chất tạo keo hoặc có thể teo. Trên mặt
sẹo, da trơn mỏng và không có các bộ phận phụ như lông và
tuyến.
Trong thực tế, các thương tổn căn bản thường kết hợp với nhau
thành từng cặp thương tổn. Những cặp thương tổn thường gặp là
hồng ban vẩy (vẩy phấn hồng), sẩn vẩy (ban giang mai), sẩn mài
(bệnh Darier), sẩn mụn nước (sẩn ngứa).
III. CÁCH SẮP XẾP CÁC DẠNG THƯƠNG TỔN
CĂN BẢN
Thương tổn căn bản của nhiều bệnh da thường gặp sắp xếp theo những
mô hình đặc biệt. Do đó, để đi đến chẩn đoán, bên cạnh việc nhận diện
các thương tổn căn bản, cần phải phân tích hình dáng, kiểu sắp xếp của
các thương tổn trong tương quan vị trí giữa chúng với nhau và kiểu
phân bố của chúng trên toàn cơ thể.
1. Hình dáng và kiểu sắp xếp của các thương tổn thường gặp:
Định nghĩa Ví dụ
Mảng (plaque, placard) Vẩy nến
Bờ rõ Chàm
Bờ gián đoạn
Hiện tượng de Jacquet Hiện tượng Koebner trên da bị chấn thương Lichen phẳng
mà hiện tại không còn vết tích
Dấu hiệu Nikolsky Bong bóng nước trên da có vẻ bình thường Pemphigus thông thường, hội chứng Lyell, ly
dưới một áp lực mạnh trên da ở bệnh nhân bị thượng bì bóng nước
bệnh bóng nước
Lichen hóa Tiếp theo sự gãi liên tiếp Lichen hóa khu trú hay lan tỏa
IV. KẾT LUẬN
Thương tổn căn bản có thể so sánh như những
mẫu tự trong da liễu. Chỉ có thông qua sự phân tích
tỉ mỉ các thương tổn căn bản, chúng ta mới đi đến
chẩn đoán một cách đúng đắn và khoa học.