Professional Documents
Culture Documents
Ivcn 1
Ivcn 1
Ivcn 1
Kiến trúc mạng trong xe có thể thuộc loại điện và điện tử (E/E) cổ điển với cổng
trung tâm hoặc loại E/E dựa trên một số miền chức năng được kết nối thông qua cổng
trung tâm. Chi phí liên lạc ngày càng tăng trong kiến trúc E/E cổ điển, bởi vì nhiều loại
ECU phải liên lạc và định tuyến dữ liệu thông qua một cổng trung tâm. Để giảm bớt nút
thắt cổ chai này, một kiến trúc dựa trên miền đã được phát triển, trong đó các miền chức
năng khác nhau với bộ điều khiển miền được kết nối với nhau thông qua cổng trung tâm.
Ở đây, hầu hết giao tiếp dữ liệu xảy ra trong các miền chức năng này, giảm tải giao tiếp
trên cổng. Hơn nữa, kiến trúc có thể mở rộng để cho phép thêm nhiều miền chức năng
hơn.
Trong Hình 9.1, một số hệ thống con điện tử được kết nối bằng liên kết dữ liệu số.
Việc liên kết các hệ thống với nhau theo cách này mang lại lợi ích hiệu suất tiềm năng
lớn cho phương tiện. Mỗi hệ thống con ô tô có các biến chính của riêng nó, có được
thông qua các phép đo thông qua các cảm biến. Một biến chính trong một hệ thống con
có thể là một biến thứ cấp trong một hệ thống khác. Có thể không hiệu quả về mặt chi phí
khi cung cấp cảm biến cho một biến thứ cấp để đạt được hiệu suất tốt nhất có thể trong
một hệ thống con độc lập. Tuy nhiên, nếu dữ liệu đo lường có thể được chia sẻ qua liên
kết dữ liệu kỹ thuật số, thì phép đo thứ cấp có thể khả dụng để sử dụng nhằm tối ưu hóa
hiệu suất. Hơn nữa, các cảm biến dư thừa để đo các biến số chính có thể được loại bỏ
bằng một hệ thống điện tử tích hợp cho xe. Ví dụ: phép đo tốc độ bánh xe là biến số
chính cho hệ thống ABS và cũng hữu ích trong điều khiển hộp số điện tử, hiển thị tốc độ
xe, v.v. và rất hữu ích cho các ứng dụng như máy tính hành trình hoặc phạm vi nhiên
liệu.
Bất kỳ mạng nào cho IVC đều liên quan đến các hệ thống liên lạc kỹ thuật số có cả
yêu cầu phần cứng cụ thể và phần mềm để kiểm soát giao tiếp này. Liên kết vật lý kết nối
các hệ thống điện tử của phương tiện có thể có nhiều dạng. Liên kết này được gọi là bus
hoặc thường là phương tiện.
Ngoài bus vật lý, còn có yêu cầu cụ thể đối với định dạng của bất kỳ tin nhắn nào
được gửi dọc theo bus. Định dạng này và tất cả các thông số kỹ thuật cho nó được gọi là
giao thức cho hệ thống. Có một số cấu hình và giao thức IVN để ứng dụng trên các
phương tiện giao thông đường bộ. Mỗi cái có một bộ thông số kỹ thuật rất chính xác cho
định dạng phần cứng và tin nhắn.
Có một số thành phần chung cho tất cả các loại IVN. Bus cho mỗi loại là một dây
hoặc một cặp dây hoặc cáp quang đi qua phương tiện đủ gần với tất cả các hệ thống/hệ
thống điện tử liên quan để kết nối với chúng. Ngoài ra, phải có một giao diện giữa bus và
mỗi thiết bị có khả năng nhận hoặc truyền tin nhắn đến thiết bị. Trong một số trường hợp
nhất định, có một bộ điều khiển bus kỹ thuật số riêng biệt xác định cách mỗi thiết bị được
kích hoạt để gửi tin nhắn. Có hai chiến lược chính để xác định quyền truy cập của thiết bị
riêng lẻ vào bus để gửi tin nhắn:
a) Ghép kênh phân chia theo thời gian trong đó mỗi thiết bị có một khoảng thời gian
cụ thể trong một chu kỳ hoàn chỉnh
b) Truy cập theo sự kiện trong đó thiết bị truyền một thông báo khi một sự kiện cụ
thể xảy ra. Trong trường hợp sau này, sẽ thường xảy ra trường hợp hai hoặc nhiều thiết bị
truyền đồng thời sao cho thông điệp của chúng chồng lên nhau. Khi điều này xảy ra, bộ
điều khiển bus (nếu có) sẽ xác định mức độ ưu tiên và gửi lệnh để thiết bị lặp lại việc gửi
thông báo theo hướng sự kiện. Trong trường hợp không có bộ điều khiển bus, một số
hình thức phân xử mạng được yêu cầu để xác định mức độ ưu tiên của việc sử dụng IVN
bất cứ khi nào có xung đột giữa các hệ thống con để sử dụng nó. Tính năng phân xử này
có thể được xử lý bởi hệ thống con của trình quản lý hệ thống (xem hình II.1) nếu một
tính năng này tồn tại trong hệ thống hoặc tự động trong các trường hợp khác.
Một trong những đặc điểm của IVN là các tin nhắn được gửi theo chế độ nối tiếp.
Mỗi tin nhắn là kỹ thuật số và bao gồm nhiều trường. Một trường là mã định danh,
trường khác chứa dữ liệu và các trường còn lại dành riêng cho IVN.
II.2.2. MẠNG TRUYỀN THÔNG CAN
Controller Area Network (CAN) là giao thức truyền thông nối tiếp, hỗ trợ những hệ
thống điều khiển thời gian thực; CAN là đường bus truyền tải số (broadcast digital bus)
với nhiều Master, có tốc độ truyền tin từ 20kb/s tới 1Mb/s (với ứng dụng tốc độ cao
(500kbit/s) được tiêu chuẩn hóa trong ISO/DIS 11898:1993 và ứng dụng ở tốc độ thấp
hơn (125kbit/s) được tiêu chuẩn hóa trong ISO 11519-2:1994). CAN có độ ổn định, bảo
mật và đặc biệt là chống nhiễu tốt. CAN được sử dụng trong mạng cần truyền dữ liệu lớn,
đáp ứng thời gian thực và trong môi trường khác nhau. Cơ chế hoạt động của CAN là
hoạt động không đồng bộ với tốc độ dữ liệu lên tới 1 mbps trong khoảng cách 40 m.
CAN đầu tiên được phát triển bởi nhà cung cấp phụ tùng ô tô Robert Bosch (Đức)
vào giữa những năm 80. Khi đó, trên ôtô đã phát triển rất nhiều hệ thống điện tử như hệ
thống chống trượt bánh xe, bộ điều khiển động cơ, điều hòa nhiệt độ, bộ điều khiển cửa.
v.v…Mục đích chính của CAN là tăng tính an toàn, ổn định và tiết kiệm nhiên liệu đồng
thời giảm thiểu việc tăng khối lượng các dây dẫn tín hiệu, đơn giản hóa hệ thống và tiết
kiệm chi phí sản xuất. Với thời gian, CAN càng trở nên thông dụng không chỉ trong lĩnh
vực ô tô mà còn cả trong các hệ thống tự động hóa công nghiệp vì tính hiệu quả, ổn định,
đơn giản, mở và đặc biệt là chi phí rẻ.
Cấu trúc chuẩn giao tiếp CAN
Chuẩn mạng CAN bao gồm: tầng vật lý và tầng liên kết dữ liệu. Hình trình bày giao
thức của mạng CAN. Cách thức giao tiếp mạng CAN như trên hình II.2. Theo tiêu chuẩn
ISO11898:2003 định nghĩa hai lớp Physical layer và Data link layer.
Lớp Physical layer định nghĩa cách biểu diễn/thu nhận bit 0 bit 1, cách định thời và
đồng bộ hóa. Lớp Data link layer được chia làm 2 lớp nhỏ là logical link control (LLC)
và Medium Access Control (MAC): định nghĩa cấu trúc dữ liệu truyền và những nguyên
tắc phân xử dữ liệu để tránh trường hợp cả hai Master cùng truyền đồng thời. Ngoài ra,
chuẩn CAN còn định nghĩa nhiều cơ chế khác để kiểm tra lỗi, xử lý lỗi… cơ chế kiểm tra
và xử lý lỗi chia làm 5 loại lỗi: Bit error, Stuff error, CRC error, Form error, ACK error.
CAN phải được kết thúc ở một trong hai đầu bằng điện trở R L có dải dung sai 118
RL 132Ω. Giá trị danh định cho R L là 120 Ω. Điện trở này được kết nối giữa dây
CAN_H và CAN_L. Ngoài ra, mỗi ECU phải có điện dung nối đất không quá 100 pF và
chênh lệch không quá 50 pF.
Hình II.5. Cấu trúc mạng CAN nối ghép n-ECU
Các tham số phương tiện vật lý cho một cặp xoắn không bọc chống nhiễu được quy
định trong SAE J-2284-3. Trở kháng đặc tính của cặp xoắn zo phải thỏa mãn 108 z0
132Ω. Điện trở/đơn vị chiều dài R l phải nhỏ hơn 0,070 Ω/m. Độ trễ lan truyền của
phương tiện phải nhỏ hơn 5,5 ns/m. Các yêu cầu thời gian bit CAN cơ bản là một đặc
điểm kỹ thuật quan trọng. Trong SAE J-2284-3, thời gian bit (t bit) phải đáp ứng 1990 tbit
2010 ns. Một hạn chế nữa là thời gian bit danh nghĩa phải là bội số có thể lập trình của
chu kỳ đồng hồ hệ thống. Để biết chi tiết về thời gian chính xác, có thể tham khảo tài liệu
SAE J-2284-3.
SAE J-2294-3 cũng có các yêu cầu cụ thể liên quan đến khả năng tương thích điện
từ. Bức xạ điện từ CAN và tính dễ bị nhiễu từ các hệ thống điện/điện tử CAN khác được
quy định trong tiêu chuẩn SAE J-2284-3. Điển hình của các tài liệu tiêu chuẩn SAE (bao
gồm cả J-2284-3) là chúng phát triển theo thời gian để phù hợp với những tiến bộ công
nghệ, tuy nhiên, các khái niệm cơ bản cho mạng CAN là không thay đổi.
Sơ đồ khối điện tử giao diện mạng CAN được mô tả trong hình II.6. Trong đó, bộ
thu phát CAN và bộ điều khiển là những con chip có sẵn trên thị trường. Trong hình, các
điện trở của bus 120 Ω được ký hiệu là RT.
Hình II.6. Giao diện mạng CAN
Mạch thu phát CAN bus
Bộ thu phát CAN bus là một mạch tích hợp có sẵn trên thị trường, xử lý việc trao
đổi dữ liệu giữa các modules được kết nối với bus. Nó có một cặp thiết bị đầu cuối với
một kết nối với dòng CAN_H và thiết bị đầu cuối còn lại với dòng CAN_L. Nó có khả
năng nhận và truyền dữ liệu dọc theo bus CAN. Hình II.7, mô tả các dạng sóng điện áp
CAN_H và CAN_L được liên kết với một cặp mô-đun S1 và S2. Trong hình, thời gian
trạng thái lặn và trội của bits được ghi trên trục thời gian, nhịp thời gian bit được mô tả
có thời lượng kéo dài 1 μs. Các đồ thị của T xn hoặc Rxn là các mức logic cho bộ thu phát
trong việc mô tả những gì bộ thu phát đó đang gửi lên bus (tức là T xn) và nhận từ bus (tức
là Rxn). Hai điện áp đường dây này được hiển thị cùng nhau trong biểu đồ có thứ tự được
gắn nhãn VCAN. Điện áp trên CAN_H được ký hiệu là V CH và được cho bởi đường liền
nét, còn trên CAN_L, điện áp được ký hiệu là V CL và được cho bởi đường đứt nét. Trong
các bit thời gian lặn, hai điện áp xấp xỉ bằng nhau:
Điện áp vi sai (Vdiff) trong thời gian bit chiếm ưu thế hoạt động:
Một tiêu chuẩn quốc tế yêu cầu giá trị tối thiểu của δV là 1,5 V. Trong các bit lặn,
cả Txn và Rxn đều ở mức logic cao. Đối với hai mô-đun có điện áp được mô tả trong Hình
9.5, trạng thái logic máy thu (R x1 và Rx2) trong thời gian bit vượt trội đầu tiên đều ở mức
thấp. Mỗi bộ thu phát tạo tín hiệu điện tương ứng để đáp ứng với V CH và VCL trong các
thời gian bit chiếm ưu thế.
Tại thời điểm chuyển đổi từ trạng thái lặn sang trạng thái trội, giá trị cuối cùng của
VR ở trạng thái trội được ký hiệu là VRD:
Độ lợi Gx của bộ khuếch đại được kết nối với điện trở R3
được chọn sao cho Vx tương ứng với logic 1.
Tuy nhiên, do trạng thái chiếm ưu thế tương ứng với
logic 0 trong giao thức CAN, đầu ra Vx phải là đầu đảo (hình II.8) bởi bộ đảo Inv.
Hình II.8. Sơ đồ mạch điện tử của CAN
Phần truyền của mạch bao gồm một phần điều khiển với hai điện áp điều khiển đầu
ra C_H và C_L, mỗi điện áp được kết nối với một FET. Trong trạng thái lặn, các bóng
bán dẫn FET bị cắt (nghĩa là gần như hở mạch). Cả hai đường CAN_H và CAN_L đều
được giữ ở điện áp VCC/2 bởi cặp bộ chia điện áp (nghĩa là các điện trở nối tiếp R được
nối giữa VCC và đất). Trong trạng thái chiếm ưu thế, điện áp điều khiển đưa các bóng bán
dẫn FET vào trạng thái bão hòa sao cho:
Điện áp zener đáp ứng các yêu cầu đối với điện áp trên CAN_H và CAN_L trong
trạng thái chiếm ưu thế sao cho V diff = δV đáp ứng yêu cầu δV tối thiểu. Một trong những
vấn đề quan trọng đối với CAN IVN, đặc biệt là trong các cấu hình hướng sự kiện, là yêu
cầu xử lý việc truyền đồng thời từ hai hệ thống phương tiện trở lên. Quá trình xử lý một
sự cố như vậy được gọi là trọng tài. Kết quả của việc truyền đồng thời bằng một cặp bộ
thu phát bus CAN có thể được tham khảo trong Hình II.7. Trong thời gian bit từ T3 đến
T4, cả Tx1 và Tx2 đều hoạt động. Điện áp chênh lệch trong khoảng thời gian này được
ký hiệu là δVS trong hình II.7. Trong mạch gửi tin của hình II.8, cho thấy rằng các
chuyển đổi đầu ra của cả hai bộ thu phát hoạt động song song dẫn đến δV S > δV. Mặc dù
δVS chỉ lớn hơn một chút so với δV, kết quả này có thể được sử dụng trong quá trình
“trọng tài phân xử” (Arbitration)
Chức năng “trọng tài” trên CAN không yêu cầu nút chính hoặc bộ điều chỉnh bus.
Việc phân xử được thực hiện tự động trong trường định danh của khung truyền. Mỗi nút
trên CAN, khi cố gắng truyền dữ liệu, sẽ nhận các bit trên bus trong phần ID của một chu
kỳ. Việc truyền dữ liệu trên bus chỉ được kích hoạt nếu các bit trên bus trong quá trình ID
khớp chính xác với các bit ID của thiết bị. Bất cứ khi nào hai hoặc nhiều nút đang cố
truyền, bus sẽ thực hiện hiệu quả thao tác AND trên các bit. Trong quá trình truyền các
bit ID, bit trội (logic 0) sẽ ghi đè lên bit lặn (logic 1). Khi có hai nút cố gắng truyền, mỗi
nút sẽ giám sát trạng thái của bus. Tại bất kỳ thời điểm bit nào trong chuỗi bit ID được
truyền, một nút phát hiện sự không khớp giữa bus truyền của nó và bit bus, nó sẽ ngừng
truyền. Vì logic 0 chiếm ưu thế nên thiết bị có ID thấp nhất sẽ có mức ưu tiên cao nhất.
II.2.3. MẠNG TRUYỀN THÔNG LIN (Local Interconnect Network)
Mạng CAN được sử dụng rộng rãi trong ô tô để kết nối các hệ thống như hệ thống
truyền lực, hệ thống treo và hệ thống lái. Tuy nhiên, có những ứng dụng dành cho xe yêu
cầu ít khả năng về băng thông cũng như giảm được chi phí so với dùng mạng CAN. Một
trong số đó là mạng kết nối cục bộ (LIN).
LIN là hệ thống kết nối mạng ít tốn kém nhất hiện có cho ứng dụng trên xe và hoạt
động ở tốc độ dữ liệu nhỏ hơn nhiều so với CAN và trên thực tế, cung cấp sự bổ sung cho
CAN hiện có. Các ứng dụng của LIN cho các mạng truyền tin tốc độ thấp hơn nhiều như
hệ thống điều khiển khóa cửa, vận hành cửa sổ, quạt làm mát động cơ, điều khiển động
cơ HVAC, công tắc đèn, đèn nội thất, điều khiển động cơ vị trí ghế ngồi, điều khiển cần
gạt nước, giao diện với radio, điều hướng và điện thoại… Đó là mạng không đồng bộ với
tốc độ tối đa 20 kbps và hoạt động trên một dây duy nhất với giao thức truyền thông nối
tiếp dựa trên giao thức UART. Nó hoạt động ở điện áp danh định là 12 V, với dao động
điện áp nguồn điện trong khoảng từ 7 đến 18 V.
LIN bao gồm một nút chính với nhiều nút phụ. Master kiểm soát truy cập bus LIN
một cách đồng bộ để không có truy cập các slave đồng thời (nghĩa là xung đột) và không
cần cơ chế phân xử. Tất cả thời gian trễ trong mạng LIN đều cố định. Giao thức LIN có
các trạng thái lặn và chiếm ưu thế tương tự như trong giao thức CAN (hình II.9). Như
trong trường hợp CAN, mỗi hệ thống/hệ thống con được kết nối với LIN đều yêu cầu một
bộ thu phát. Có nhiều IC thu phát thương mại có chức năng cùng với hoặc bao gồm bộ vi
xử lý như một phần của nút.
Độ lớn của δV được chỉ định trong giao thức FlexRay. Hình II.13 mô tả ba trạng
thái bus ở chế độ chuẩn. Trong chế độ chờ, cả HA và BM về cơ bản đều bằng không.
Chu kỳ giao tiếp cho FlexRay IVN là mẫu cho định dạng dữ liệu khu vực ghép kênh
miền thời gian (TDMA). Thời lượng của chu kỳ được đặt trong quá trình thiết kế mạng
và hầu hết nằm trong khoảng 1–5 mili giây. Trong mỗi chu kỳ, có bốn phần chính: phân
đoạn tĩnh, phân đoạn động, cửa sổ biểu tượng và thời gian nhàn rỗi của mạng. Mỗi phân
đoạn bao gồm một số khe thời gian rời rạc. Phân đoạn tĩnh có các vị trí được chỉ định cho
các hệ thống phương tiện cụ thể truyền dữ liệu hoặc nhận dữ liệu trong vị trí được chỉ
định. Dữ liệu xác định thuộc loại này với độ trễ cố định rất quan trọng đối với hoạt động
của hệ thống phương tiện liên quan. Phân đoạn động được sử dụng để trao đổi dữ liệu
dựa trên sự kiện và hoạt động tương tự như CAN IVN. Một phân đoạn như vậy rất hữu
ích trong các phương tiện có một số hệ thống không quan trọng ở tốc độ tương đối thấp
và cung cấp nhiều khe thời gian hơn cho phân đoạn tĩnh. Phân đoạn động này có độ dài
cố định được xác định trước, do đó hạn chế số lần trao đổi dữ liệu theo hướng sự kiện tối
đa trên mỗi chu kỳ. Các khe thời gian trong phân đoạn động có thời lượng nhỏ hơn nhiều
so với trong phân đoạn tĩnh và được gọi là các khe nhỏ. Các hệ thống có mức độ ưu tiên
cao nhất có các khe nhỏ ở gần đầu phân đoạn động. Trong khe cắm nhỏ được chỉ định,
ECU hệ thống có một khoảng thời gian ngắn để gửi dữ liệu. Phân đoạn động bao gồm
một cơ chế tương tự như phân xử CAN.