Professional Documents
Culture Documents
Tổng hợp bản word I. Khái niệm Chủ nghĩa xã hội
Tổng hợp bản word I. Khái niệm Chủ nghĩa xã hội
I. Khái niệm
Chủ nghĩa xã hội:
Từ thực tế lịch sử và theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm “chủ
nghĩa xã hội” được nhận thức theo các góc độ sau đây:
Thứ nhất, đó là một trào lưu tư tưởng, lý luận chống lại áp bức, bất công và hướng tới
xã hội công bằng, bình đẳng dựa trên chế độ công hữu. Trào lưu này có hai trình độ là:
chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trào lưu tư tưởng trong lịch sử nhân loại
phản ánh những cuộc đấu tranh chống ách áp bức, bất công trong các xã hội có giai cấp
mong muốn có một xã hội không có tư hữu, không có bóc lột và xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, lao động, hòa bình nhưng bằng những biện pháp không thực tế.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong quá trình tự giải phóng, là cơ sở lý luận và phương pháp luận của các
Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là một phong trào hoạt động thực tiễn của đời sống chính trị -
xã hội.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội hiện thực, một mô hình xã hội tổ chức theo
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa cộng sản:
Chủ nghĩa cộng sản là học thuyết triết học xã hội và chính trị do Mác và Ăngghen
xây dựng, sau đó được Lênin áp dụng và phát triển. Về mặt học thuyết, chủ nghĩa cộng
sản là hệ thống những quan điểm duy vật, khoa học về thế giới, về vị trí của con người
trong thế giới đó. Đây là một cấu trúc kinh tế - xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc
thiết lập một xã hội phi nhà nước, không giai cấp, bình đẳng, dựa trên sự sỡ hữu chung và
điều khiển chúng đối với các phương tiện sản xuất và tài sản nói chung.
Mác và Ăngghen cho rằng: “Chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của xã hội
loài người, đạt được qua một cuộc cách mạng vô sản”.
Mục đích
NEP
Khắc phục tình trạng suy sụp kinh Học tập, kế thừa, phát huy, có
tế sau chiến tranh và ngăn chặn chọn lọc cở sở vật chất, khoa học
những nảy sinh tự phát của nền kĩ thuật, khoa học quản lí kinh tế
sản xuất hàng hóa nhỏ của tư bản chủ nghĩa
Khôi phục công
nghiệp nặng, tư
nhân hóa những xí
nghiệp nhỏ
→ Thực chất chính sách này là thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do
Nhà nước quản lí trong quá trình xây dựng CNXH.
Chính trị-xã hội:
- Hội đồng Dân ủy đã ra Sắc luật “Về việc tách nhà thờ khỏi nhà nước, tách trường học
khỏi nhà thờ” và chỉ thị “Về việc thanh toán nạn mù chữ trong nhân dân Cộng hòa
XHCN Xô viết Liên Bang Nga”.
- Đảng và Nhà nước Nga đã ưu tiên cho phát triển giáo dục phổ thông, bảo đảm cho tất cả
người cần lao của Nga được hưởng “nền giáo dục phổ thông đầy đủ và miễn phí”; được
đảm bảo quyền ngôn luận, báo chí và tụ họp cũng như tự do tôn giáo.
- Xác lập hệ thống chính sách xã hội, bảo đảm cho người lao động, mọi người dân được
hưởng những thành quả chính đáng của Cách mạng T10, từng bước nâng cao chất lượng
cuộc sống, tạo động lực để họ yên tâm lao độn, cống hiến.
- Để tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ Quốc, vai trò lãnh đạo tập trung thống nhất Đảng,
sự quản lí của nhà nước Xô viết được đặt lên hàng đầu; tập hợp, huy động mọi tiềm lực
vật chất và tinh thần, động viên cao nhất tinh thần cách mạng của quần chúng công nông,
bảo về vững chắc thành quả cách mạng, Tổ chức XHCN.
- Về đối ngoại, ngay từ khi ra đời, Nhà nước Xô viết đã xây dựng “Sắc luật hòa bình” -
văn kiện đầu tiên trong lịch sử về chính sách đối ngoại, thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ và
quyền tự quyết của các đan tộc trong quan hệ quốc tế cũng như thái độ dứt khoát của
người cộng sản đối với việc phản đối chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
Văn hóa:
- V.I Lê nin cũng trực tiếp soạn thảo “Đề cương về cách mạng văn hóa” trong tình cảnh
khó khăn lớn nhất của cách mạng văn hóa ở nước Nga là rất nhiều dân tộc ít người, có
hơn 90% dân cư không biết chữ và chống phá quyết liệt của kẻ thù.
- Đảng và Nhà nước Xô viết đã thi hành mọi biện pháp nhằm nâng cao trình độ văn hóa
của nhân dân, nhanh chóng đào tạo một đội ngũ công nhân, cán bộ kĩ thuật phục vụ công
nghiệp hóa XHCN.
Sự ra đời của các hệ thống xã hội chủ nghĩa, các giai đoạn phát triển
1. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng Sản ở nhiều nước châu Âu và châu
Á đã lãnh đạo quần chúng nhân dân cùng với Hồng quân Liên Xô thành lập mặt trận
chống phát xít. Chính sự lớn mạnh của Đảng Cộng Sản trong thời kì chiến tranh là cơ sở
để khi chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, Đảng Cộng Sản nhiều nước tổ chức đấu tranh vũ
trang giành chính quyền, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Trong thời gian 5 năm (từ
năm 1944 đến năm 1949) đã có 11 nước ở châu Âu, châu Á giành được chính quyền và đi
lên chủ nghĩa xã hội. Có được thành tựu này là nhờ Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng ba
phương thức.
Phương thức thứ nhất chủ yếu dựa vào lực lượng vũ trang của nhân dân nước
mình, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, khi thời cơ đến đã lãnh đạo nhân dân đứng lên
giành chính quyền như: Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư (1944), nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (1945), Cộng hòa Nhân dân Anbani (1946) và Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa (1949).
Phương thức thứ hai chủ yếu dựa vào Hồng quân Liên Xô giải phóng đồng thời
phối hợp vũ trang của nhân dân nước mình như Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (1945),
Bungari (19460, Rummani (1948), Hunggari và Tiệp Khắc (1946),…
Phương thức thứ ba hoàn toàn do Hồng quân Liên Xô giải phóng và dưới sự giúp
đỡ của Liên Xô để đi lên con đường chủ nghĩa xã hội như Cộng hòa Dân chủ Đức
(10/1949).
Vậy là sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước mở rộng ra
nhiều nước ở châu Âu và châu Á; với thắng lợi của cách mạng dân chủ ở Cuba năm
1959, phong trào 26 tháng 7 do Phiden Castrô lãnh đạo, nước Cộng hòa Cuba chuyển
sang chủ nghĩa xã hội. Như vậy chủ nghĩa xã hội đã mở rộng đến châu Mỹ Latin. Những
nước này về hình thái đều lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm tư tưởng chỉ đạo. Về chính trị
hình thành phe chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng đầu, về quân sự ở châu Âu hình thành
tổ chức thông qua Hiệp ước Vacsava. Về quan hệ kinh tế, đó là những nước có chung một
kiểu cơ sở kinh tế - xã hội, quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và thông qua các hiệp ước
song phương, Hội đồng tương trợ kinh tế để giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cộng đồng thị
trường thế giới xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song
với hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Năm 1960, tại Mátxcơva, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước
trên thế giới đã tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội
loài người”.
2. Các giai đoạn phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa :
Cách mạng tháng 10 Nga đã mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại đấu tranh cho hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là thời đại đang diễn ra cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ nhằm chuẩn bị những tiền đề vật chất chín muồi cho sự xuất hiện chủ
nghĩa xã hội.
Lênin khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch sử nhân loại, song có
thể chia thời đại từ Cách mạng Tháng Mười tới nay thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn I: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 tới kết thúc Chiến tranh thế
giới lần thứ hai năm 1945 (Giai đoạn này là giai đoạn chủ nghĩa xã hội mới hình thành
trên phạm vi một số nước như Liên Xô, Mông Cổ …)
Cuộc Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử đưa nhân
dân lao động từ những người nô lệ làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước.
Giai đoạn II : Từ sau năm 1945 tới đầu những năm 1970 (Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã
hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh
vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản
động quốc tế.
Mặt khác, những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ
nghĩa đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong
các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh
giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia giành được
độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế đã có những bất hoà.
Đây là giai đoạn cơ bản nhất biểu hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện
thực. Chủ nghĩa xã hội hiện thực trở thành hệ thống trên phạm vi toàn thế giới và đạt
nhiều thành tựu rực rỡ mang lại hòa bình độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội.
Giai đoạn III : Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1991 (Đây là giai
đoạn khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội).
Nguyên nhân: Trong giai đoạn này, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới
công tác xây dựng Đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ cộng sản. Một số cá nhân
mắc vào tệ sùng bái cá nhân, kiêu ngạo cộng sản, không đánh giá đúng những thay đổi
trong chính sách của chủ nghĩa tư bản. Ở không ít nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà
nước trở nên quan liêu, vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân. Trong xây dựng
kinh tế chủ quan, nóng vội, lạc hậu. Trong lĩnh vực xã hội: thực hiện bao cấp tràn lan,
không kích thích được tính tích cực cá nhân.
Những sai lầm kéo dài đã hạn chế phát triển kinh tế - xã hội, dẫn tới tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách đổi mới.
Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều Đảng Cộng Sản mắc những sai lầm mang
tính nguyên tắc. Do vậy những thế lực thù địch đã tấn công làm sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm 80 của thế kỷ XX.
Giai đoạn IV : Giai đoạn từ đầu những năm 1991 tới nay. (Giai đoạn hiện nay, chủ
nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào)
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã làm cho
nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng giờ đây mất chỗ
dựa về vật chất và tinh thần, các lực lượng phản động giành lại chính quyền và đưa đất
nước theo con đường khác.
Khó khăn hiện nay là: Những thế lực phản động quốc tế đang tìm mọi cách để xoá
bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại
Để vượt qua khó khăn đó, đòi hỏi các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới, phải
khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong lĩnh vực đời sống xã hội. Mặt khác,
không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức
mạnh mọi mặt của đất nước.
Thời đại ngày nay: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và
thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng
tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX)
Nguyên nhân khủng hoảng – sụp đổ
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do nhiều nguyên
nhân
1. Nguyên nhân sâu xa
Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp
thay cho cơ chế thị trường, kế hoạch hóa cao độ ( Mô hình đó đã có những phù hợp
nhất định trong thời kì đặc biệt trước đây, nhưng không còn phù hợp trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Không sáng tạo và không năng động, ngày càng bộc lộ sự thiếu tôn trọng các
quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, chủ quan, duy ý chí, làm nảy sinh tình
trạng thụ động xã hội, thiếu dân chủ và công bằng, vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa)
- Kinh tế, khiếm khuyết và hạn chế của mô hình cũ là đã không chú trọng đầy đủ
tới đặc điểm kinh tế hàng hóa và quy luật giá trị, tới cơ cấu đa dạng của sản
phẩm hàng hóa có chất lượng và giá trị cao để cạnh tranh. Tài sản, nguyên
vật liệu và các nguồn lực, kể cả con người bị lãng phí rất lớn. Kĩ thuật công
nghệ chậm đổi mới, bị lạc hậu.
- Chính trị, hạn chế của mô hình này biểu hiện ở chỗ hệ thống tổ chức và bộ máy
cồng kềnh, nhiều tầng nấc, dễ dẫn tới tình trạng quan liêu hóa, xa rời thực
tiễn, xa dân, kém hiệu quả, không phân biệt rõ ràng, chức năng, nhiệm vụ và
phương thức hoạt động giữa Đảng và Nhà nước cũng như các tổ chức khác
trong hệ thống tổ chức chính trị, dẫn tới sự chồng chéo dẫm chân lên nhau.
Nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm. Quyền làm chủ của người lao động, sự
tham gia của quần chúng vào hoạt động quản lí Nhà nước và đời sống chính trị -
xã hội nói chung còn bị hạn chế và ít tác dụng do tính chất dân chủ hình thức,
quan liêu, tham nhũng gây nên
- Văn hóa – xã hội và đời sống tinh thần, những khiếm khuyết của mô hình cũ
biểu hiện ở sự vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân, sự thiếu nghiêm
minh trong việc thực thi pháp luật, thiếu dân chủ và công bằng xã hội. Tính
hình thức và bệnh giáo điều đã làm cho công tác giáo dục hệ tư tưởng và ý thức xã
hội xa rời thực tế cuộc sống. Lí luận tách rời thực tiễn
Những thiếu sót, khuyết tật lâu ngày chậm được khắc phục, sửa chữa càng làm cho
các nước xã hội chủ nghĩa xa rời những tiến bộ, văn minh của thế giới, nhất là sự phát
triển như vũ bão của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại, đưa tới tình trạng trượt dài
từ trì trệ đến khủng hoảng nặng nề về kinh tế - xã hội.
2. Nguyên nhân trực tiếp
Sau này khi tiến hành cải tổ, cải cách, những người lãnh đạo ở Liên Xô và Đông Âu
lại liên tiếp phạm thêm nhiều sai lầm nghiêm trọng về bước đi, nội dung, phương pháp,
trong đó điều chủ yếu là buông lỏng chuyên chính vô sản, hạ thấp vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, hiện thực dân chủ hóa, công khai hóa cao
độ, mơ hồ về chính trị, giai cấp; bị các thế lực phản động, đế quốc lợi dụng tiến công chủ
nghĩa xã hội
Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu đã mắc sai lầm rất
nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức
Có thể thấy sai lầm của cải tổ biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau:
- Thứ nhất, sự dao động về tư tưởng, lập trường chính trị dẫn tới mất phương
hướng chính trị và từ bỏ nguyên tắc ở những thời điểm bước ngoặt, chấp nhận đa
nguyên hệ tư tưởng và đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận tập trung
dân chủ là nguyên tắc cốt tử của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
làm cho Đảng không còn là một tổ chức chính trị cầm quyền mà trở thành một câu
lạc bộ bàn suông. Nhà nước không còn quyền lực điều hành và không kiểm soát
nổi tình hình đất nước. Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước,
thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà
họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
- Thứ hai, không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải
cách chính trị. Khi cải cách kinh tế tiến triển thì không kịp thời tiến hành cải cách
chính trị. Đến khi cải cách kinh tế gặp khó khăn thì lại chuyển trọng tâm sang cải
cách chính trị.
- Thứ ba, phiêu lưu mạo hiểm trong chính sách, bước đi và biện pháp cải tổ. Đó
là tăng tốc kinh tế - kĩ thuật thời kì đầu, cấm bia rượu… là những tính toán chủ
quan duy ý chí gây rối loạn kinh tế, mất ổn định xã hội. Cải tổ chính trị không dựa
trên thực trạng kinh tế, tiến hành “dân chủ công khai” một cách mơ hồ, mở đường
cho các thế lực phản động tấn công vào Đảng, vào chủ nghĩa xã hội, thao túng xã
hội, kích động, mị dân, lừa bịp quần chúng.
Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh
chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử hơn 70
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của
quần chúng đối với những giá trị của chủ nghĩa xã hội
- Thứ tư, không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình hình ngày một xấu đi
nghiêm trọng về đời sống vật chất, tinh thần tối thiểu của quần chúng, gây nên sự
thờ ơ về chính trị, thậm chí chống lại công cuộc cải tổ. Mất cơ sở xã hội và bị phân
liệt về tổ chức nên Đảng đã mất sức chiến đấu và mất vai trò lãnh đạo.
- Thứ năm, các quan điểm mơ hồ, hữu khuynh, xét lại xung quanh vấn đế “tư
duy chính trị mới”, phủ nhận đấu tranh giai cấp và cách mạng, tuyệt đối hóa lợi
ích toàn cầu nhân loại, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản, tạo mảnh đất thuận lợi cho
âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc