EN - VEPR PD06 1ddddd

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

Machine Translated by Google

Tiền lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và nhận xét

Thảo luận chính sách

chap-06

Mức lương tối thiểu ở Việt Nam:


Quan sát sơ bộ

Nguyễn Đức Thành, Phạm Thị Tuyết Trinh, Nguyễn Thanh Tùng
Machine Translated by Google

Thảo luận chính sách


PD-06

Mức lương tối thiểu ở Việt Nam:

Quan sát và thảo luận sơ bộ

Nguyễn Đức Thành, Phạm Thị Tuyết Trinh, Nguyễn Thanh Tùng

Được hỗ trợ bởi

chính phủ Úc

Thảo luận chính sách – PD 06 6


Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và thảo luận sơ bộ

Sơ lược về lịch sử tiền lương tối thiểu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, khái niệm “lương tối thiểu” lần đầu tiên được đề cập trong Nghị định số
29-SL (12-3-1947). Theo đó, mức lương tối thiểu, được định nghĩa là “số tiền do chính phủ quy định cho một người lao
động không chuyên nghiệp sống một mình để trang trải chi phí sinh hoạt hàng ngày của họ ở một khu vực nhất định”,
được coi là cơ sở để từ đó xác định mức lương cho những người lao động khác nhau. Khái niệm này về cơ bản có những
đặc điểm, tính chất cơ bản của tiền lương tối thiểu theo cách hiểu hiện nay.
Sắc lệnh số 188-SL (29-5-1948) dẫn đến việc thiết lập chế độ công chức mới và thang lương chung cho các hạng, ngạch.
Tuy không quy định mức lương tối thiểu để tính lương nhưng Điều 5 đã ghi rõ “Nếu các mức lương và phụ cấp nêu trên
của công chức dưới 220 đồng/tháng thì được trả 220 đồng/tháng.” Mức 220 đồng/tháng có thể coi là mức lương tối thiểu
của công chức. Sắc lệnh số 270-TTg (31-5-1958) quy định chế độ tiền lương khu vực hành chính sự nghiệp.

Theo Điều 3, mức thấp nhất được trả là 27.300 đồng/tháng.

Từ năm 1960 đến năm 1985, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi vấn đề liên quan đến lao động đều do Nhà
nước quy định và thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính. Đối với khu vực nhà nước, mức lương cho từng loại công việc,
thời gian trả lương, hình thức trả lương, điều chỉnh tiền lương và các vấn đề liên quan khác đều do Nhà nước quy định
thông qua hệ thống tiền lương và hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Trong thời kỳ này, mặc dù tiền lương tối
thiểu chưa được đề cập trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng mức lương khởi điểm của người lao động có yêu
cầu công việc
thấp nhất của từng thành phần kinh tế thường được coi là mức lương tối thiểu cho từng ngành nghề.
lĩnh vực.

Trong giai đoạn tiếp theo từ năm 1985 đến năm 1992, với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng khung pháp lý nhằm hạn chế hành vi của các cá nhân, tổ
chức tham gia các hoạt động kinh tế hợp pháp là rất cần thiết. Chính phủ quyết định xóa bỏ chế độ cũ trả lương bằng hiện
vật, chuyển sang chế độ mới trả lương bằng tiền trên nguyên tắc phân phối, xóa bỏ hệ thống ngân sách bao cấp, đảm bảo
tính thống nhất của hệ thống tiền lương trong cả nước, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của công nhân, viên chức
và lực lượng vũ trang.

Nghị định số 235/NĐ-HĐBT (18-9-1985) quy định mức lương tối thiểu bằng 220 đồng/tháng đối với lao động phổ thông,
làm việc trong điều kiện bình thường ở những vùng có giá sinh hoạt thấp nhất. Đối với những vùng có giá sinh hoạt cao
hơn hoặc trong trường hợp giá cả thay đổi thì các khoản phụ cấp sẽ được cộng vào lương.

1 Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Kể từ cuộc cải cách toàn diện “Đổi Mới” năm 1986, chi phí sinh hoạt đã tăng lên nhanh chóng.

Hệ quả là tiền lương thực tế giảm nhanh, ảnh hưởng tiêu cực đến mức sống của người lao động. Tháng 9 năm 1987, Hội
đồng Bộ trưởng Việt Nam quyết định điều chỉnh tiền lương (kể cả lương tối thiểu) với các mức tăng khác nhau đối với các
nhóm, kể cả khu vực sản xuất, kinh doanh; công chức, viên chức cấp xã; và lực lượng vũ trang (Quyết định số
147/HĐBT). Đến tháng 4 năm 1988, một hệ số được áp dụng thống nhất cho tất cả các nhóm nói trên, trong khi các tháng
tiếp theo áp dụng phụ cấp.

Ngày 28/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã thông qua Quyết định số 202/HĐBT về tiền lương của công nhân viên chức sản
xuất, kinh doanh của khu vực công và công ty hợp danh; cũng như Quyết định số 203/HĐBT về tiền lương của viên chức
hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đối tượng xã hội, nâng mức lương tối thiểu lên 22.500 đồng/tháng. Như
vậy, trong giai đoạn này, khu vực sản xuất đã tách khỏi khu vực hành chính sự nghiệp khi nói đến tiền lương tối thiểu. Tuy
nhiên, cùng một mức lương tối thiểu đã được áp dụng cho

hai khu vực.

Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, hình thành một khu vực kinh tế mới – doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần có một mức lương tối thiểu riêng cho lao động trong ngành này vì họ có xu hướng chịu áp lực nhiều hơn và có trình
độ chuyên môn cao hơn. Quyết định số 356-LĐTBXH/QĐ (29/8/1990) quy định mức lương tối thiểu 50 USD/tháng đối
với người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc áp dụng chung một mức lương tối thiểu
chung cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước, không phân biệt vùng miền, ngành nghề đã bộc lộ nhiều
điểm yếu.
Trước tình hình đó, Quyết định số 356-LĐTBXH/QĐ (5/5/1992) đã nêu rõ mức lương tối thiểu của người lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là từ 30 đến 35 USD/tháng, tuỳ theo từng địa phương và đặc điểm của từng
ngành.
Ngày 23/5/1995, chính phủ ban hành Nghị định số 25-CP và Nghị định số 26-CP quy định tạm thời hệ thống tiền lương
mới của viên chức hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang; và của doanh nghiệp tương ứng. Mức lương tối thiểu chung
là 120.000 đồng/tháng được áp dụng cho cả hai khu vực.

Bộ luật Lao động 1994 đã cung cấp cách hiểu đầy đủ và toàn diện về tiền lương tối thiểu.

Theo đó, tiền lương tối thiểu được xác định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc cơ bản nhất
trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp được khả năng lao động, tái sản xuất một phần sức lao động và làm căn cứ
tính tiền lương. cho các loại lao động khác nhau. Mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và mức lương tối
thiểu của từng ngành do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ sau khi tham khảo ý kiến của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động. Lương tối thiểu sẽ được điều chỉnh để đảm bảo tiền lương thực tế khi
chi phí sinh hoạt

Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và thảo luận sơ bộ

tăng (tức là khi tiền lương thực tế của người lao động giảm) vẫn đáp ứng được nhu cầu sống cơ bản của người lao động
và gia đình của họ.

Nghị định số 197/CP (31/12/1994) và sau đó là Thông tư số 11-LĐTBXH/TT (03/5/1995) được ban hành nhằm cụ thể hóa
và hướng dẫn thực hiện các quy định về tiền lương, mức lương tối thiểu đối với người lao động Việt Nam làm việc tại
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, mức lương tối thiểu là 35
USD/tháng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trụ sở tại Hà Nội và TP.HCM và 30 USD/tháng đối với
doanh nghiệp có trụ sở tại các địa phương khác hoặc doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động phổ thông trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp . Đối với các thành phần kinh tế khác đã thỏa thuận mức lương tối thiểu cao hơn thì tiếp tục thực hiện, trừ
khi

một quyết định mới đã được đưa ra.

Sau một thời gian thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu năm 1993, tiền lương tối thiểu đã xuất hiện tình trạng không
đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người lao động. Trước tình hình đó, ngày 21/01/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 06/CP về giải quyết tiền lương và các chế độ đối với công chức, viên chức hành chính sự nghiệp, người nghỉ hưu, lực
lượng vũ trang và các đối tượng xã hội khác. Lương tối thiểu tăng từ 120.000 đồng/tháng lên 144.000 đồng/tháng.

Ngày 15/12/1999, chính phủ tiếp tục điều chỉnh mức lương tối thiểu đối với người hưởng lương từ ngân sách nhà nước từ
144.000 đồng/tháng lên 180.000 đồng/tháng (Nghị định số
175/1999/NĐ-CP). Từ ngày 15/12/2000, mức lương tối thiểu chung của cả khu vực doanh nghiệp và khu vực hành chính
sự nghiệp được điều chỉnh thành 210.000 đồng/tháng (Nghị định số
77/2000/NĐ-CP).

Theo thời gian, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng, Chính phủ đã phải nhiều lần điều chỉnh chính sách tiền lương
tối thiểu để đáp ứng nhu cầu cơ bản, nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên, trong
khi mức lương tối thiểu được chính thức quy định theo vùng từ năm 1995 thì mức lương tối thiểu vùng chỉ được áp dụng
đối với người lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
Trong khi đó, tiền lương tối thiểu cho các doanh nghiệp trong nước không có sự phân biệt theo vùng cho đến năm 2006.

3 Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Hệ thống tiền lương tối thiểu ở Việt Nam

Lương tối thiểu quốc gia và Lương tối thiểu vùng

Hệ thống tiền lương tối thiểu hiện tại được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2006 và đã được chuyển đổi từ hệ thống theo
đó mức lương được thiết lập theo bốn khu vực và thành phần kinh tế được xác định rộng rãi (cụ thể là nhân viên chính phủ
nói chung, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài) sang một hệ thống mới trong đó kể từ cuối năm 2011,
tỷ lệ này chỉ được phân biệt theo bốn vùng, do quy định của thỏa thuận gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt
Nam về việc điều chỉnh dần mức lương tối thiểu giữa các doanh nghiệp trong nước và các công ty có vốn nước ngoài
(Schmillen và Packard, 2016). Tuy nhiên, đối với khu vực chính phủ nói chung, một tỷ lệ riêng vẫn được áp dụng cho
nhân viên của khu vực này trên toàn quốc – mức lương tối thiểu chung.
Mức lương tối thiểu chung (sau đây gọi là mức lương cơ sở) được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người
hưởng lương, phụ cấp và người lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, do ngân
sách nhà nước cấp. các tổ chức, cơ quan chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và lực lượng vũ trang.

Bảng 1. Lương tối thiểu chung (Lương cơ sở), 1995-2017

Án Lệnh Ngày có hiệu lực Tốc độ tăng lương cơ bản (%)


05/CP 01/01/1995 120.000
06/CP 01/01/1997 144.000 20,0
175/1999/NĐ-CP 01/01/2000 180.000 25,0
77/2000/NĐ-CP 01/01/2001 210.000 16,7
03/2003/NĐ-CP 01/01/2003 290.000 38,1
118/2005/NĐ-CP 01/10/2005 350.000 20,7
94/2006/NĐ-CP 10/01/2006 450.000 28,6
166/2007/NĐ-CP 01/01/2008 540.000 20,0
33/2009/NĐ-CP 01/05/2009 650.000 20,4
28/2010/NĐ-CP 01/05/2010 730.000 12,3
22/2011/NĐ-CP 05/01/2011 830.000 13,7
31/2012/NĐ-CP 05/01/2012 1.050.000 26,5
66/2013/NĐ-CP 01/07/2013 1.150.000 9,5
47/2016/NĐ-CP 05/01/2016 1.210.000 5,2
27/2016/QH14 01/07/2017 1.300.000 7,4
Nguồn: Các tác giả

Mức lương tối thiểu vùng được áp dụng đối với người lao động làm việc trong doanh nghiệp, hợp tác

xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và cơ quan, tổ chức sử dụng lao động theo hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động. 1

1 Bốn khu vực được xác định trong các Phụ lục của Nghị định tương ứng.

Thảo luận chính sách – PD 06 4


Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và thảo luận sơ bộ

Bảng 2. Lương tối thiểu vùng, 2009-2017

Án Lệnh Ngày ký Ngày hiệu lực Khu vực I Khu vực II Khu vực III Khu vực
IV 110/2008/NĐ-CP 10/10/2008 7401./0010/260909.000 860500..000000 111/2008/NĐ-CP 10/10/2008
1.080.000a 950.000a 920.000a 97/2009 /NG-CP1.3200/0.1000/02a 009 880.000 810.000 730.000
98/2009/NG-CP 30/10/2009 1.190,00 A 1,040,009080-.C00P0 29/10/2010 1.350.000A
01/01/201
1,170,000A 1,100.000A 70/2011/NG -CP 22/081/.230401.10000a1/10/2011
0
2013 2.350.000
2.100.000 1.800.000 1.650.000 182/2013/NG-CP1.13540/.10100/20132.3710/01.20/0200123.400.000
01/01/201
2.100.000 1.900.000 103/2014/Nđ-CP 11/11/2011.455/02.000105a/NĐ-CP
1
14/11/2015 01/01/2016
3.500.000 3.100.000 2.700.000 2.400.000 153/2016/NĐ-CP 14/11/2016 01/01/2017
3.750.000 3.320.000,5 8.000.000

Lưu ý: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng mức lương tối thiểu theo
từng vùng . b Từ ngày 01 tháng 10 năm 2011, lương tối thiểu chỉ phân biệt theo vùng. Ở mỗi khu vực, tối thiểu
tiền lương là như nhau cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn: Các tác giả

Theo Điều 91 Bộ luật Lao động 2012, mức lương tối thiểu được xác định theo tháng, ngày hoặc giờ. Tuy nhiên, trên thực
tế, mức lương tối thiểu hàng tháng hầu như chỉ được chú trọng.
Về cơ bản, chính phủ thực hiện các điều chỉnh cần thiết đối với tiền lương tối thiểu khi có những thay đổi về tăng trưởng
kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và cung cầu lao động. Tuy nhiên, việc điều chỉnh còn phụ thuộc vào khả năng chi trả của ngân
sách nhà nước cũng như của doanh nghiệp. Hiện nay, việc điều chỉnh lương tối thiểu chung có nhiều khác biệt so với
lương tối thiểu vùng. Một mặt, việc điều chỉnh lương tối thiểu chung phụ thuộc vào ngân sách quốc gia do tiền lương của
người lao động trong khu vực nhà nước nói chung được xác định dựa trên mức lương tối thiểu chung. Mặt khác, việc điều
chỉnh lương tối thiểu vùng dựa trên khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc
gia, được đưa ra trên cơ sở thương lượng, thống nhất của 3 bên: (1) Bộ LĐ-TB&XH, (2) đại diện người lao động ở cấp
trung ương (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) và (3) đại diện người sử dụng lao động ở cấp trung ương (Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, v.v.).2

Hội đồng tiền lương quốc gia được thành lập năm 2003 theo Quyết định 1055/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với mục
tiêu tham vấn với Chính phủ về điều chỉnh mức lương tối thiểu (Xem thêm tại Điều 3 và Điều 4, Nghị định số 11/2003/
NĐ-CP). 49/2013/NĐ-CP). Hội đồng gồm 15 thành viên, trong đó: 05 đại diện của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
05 đại diện của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, 05 đại diện của người sử dụng lao động ở Trung ương (Xem thêm tại
Điều 5, Nghị định số 49/2013/NĐ-CP).

5 Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Nhận xét về Hệ thống tiền lương tối thiểu và chính sách tiền lương tối thiểu

Tốc độ tăng lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng tương đối cao

Trong hai thập kỷ qua, mức lương tối thiểu chung tăng bình quân gần 19%.
Tuy nhiên, con số này đã giảm dần trong những năm gần đây xuống mức dưới 10% (Xem Bảng 1). Về lương tối thiểu
vùng, tốc độ tăng lương tối thiểu giai đoạn 2009-2016 cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Theo đó, lương tối thiểu vùng tăng trưởng 20% theo 4 vùng (vùng I: 24,69%; vùng II: 23,85%; vùng
III: 22,75%; vùng IV: 21,61%). Tốc độ tăng lương tối thiểu vùng bình quân cao gấp 4 và 3 lần so với tốc độ tăng GDP và
CPI.

Hình 1. Tốc độ tăng lương tối thiểu vùng, CPI và GDP (%)

80
70
60
50
40
30
20
10
0
2009

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016


CPI
Lương tối thiểu vùng I Lương tối thiểu vùng II GDP
Lương tối thiểu vùng III Lương tối thiểu vùng IV

Ghi chú: Dữ liệu GDP được tổng hợp từ Tổng cục Thống kê Việt Nam. Dữ liệu CPI được tổng hợp từ Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (ngoại trừ năm 2016, Tổng cục Thống kê Việt Nam). Trước tháng 10/2011, mức lương tối thiểu vùng được áp dụng cho
doanh nghiệp trong nước.
Nguồn: Các tác giả

Thảo luận chính sách – PD 06 6


Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và thảo luận sơ bộ

Hình 2. Mô hình tăng trưởng của Lương tối thiểu vùng, CPI và GDP (2008=100)

600

500

400

300

200

100

0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
CPI GDP
Lương tối thiểu vùng I Lương tối thiểu vùng III Lương tối thiểu vùng II Lương
tối thiểu vùng IV

Ghi chú: Dữ liệu GDP được tổng hợp từ Tổng cục Thống kê Việt Nam. Dữ liệu CPI được tổng hợp từ Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (ngoại trừ năm 2016, Tổng cục Thống kê Việt Nam). Trước tháng 10/2011, mức lương tối thiểu vùng được áp dụng cho
doanh nghiệp trong nước.
Nguồn: Các tác giả

Tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động

Trước năm 2011, mặc dù tốc độ tăng của tiền lương tối thiểu vùng cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động nhưng tiền
lương tối thiểu vùng lại tăng theo năng suất. Tuy nhiên, từ năm 2012, khoảng cách giữa tốc độ tăng lương tối thiểu vùng
và năng suất lao động của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ngày càng nới rộng theo thời gian. Theo Schmillen và Packard (2016), nếu không có sự gia tăng đáng kể về năng
suất lao động, khoảng cách này sẽ ngày càng lớn hơn trong những năm tới. Sự gia tăng không đồng bộ giữa lương tối
thiểu và năng suất lao động là mối đe dọa không chỉ đối với tăng trưởng việc làm mà còn đối với khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp thâm dụng lao động (tức là nhạy cảm với chi phí lao động) và các
ngành kinh tế quan trọng như may mặc, giày dép, sản xuất, điện tử.3
Hình 3. Năng suất lao động và tăng trưởng tiền lương tối thiểu vùng, 2006-2018

Nguyen, Cuong Viet (2013), sử dụng Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam 2004-2006, phân tích tác động của việc
điều chỉnh lương tối thiểu năm 2005 đối với việc làm của người lao động trong khu vực chính thức có mức lương dưới
mức tối thiểu ở Việt Nam. Nghiên cứu cho thấy sự điều chỉnh này đã làm giảm tỷ lệ lao động có việc làm trong khu vực
chính thức trong nhóm lao động có mức lương thấp. Bên cạnh đó, hầu hết những người lao động bị mất việc làm trong khu
vực chính thức đều trở thành lao động tự do. Hansen et al. (2015) xem xét tác động của việc điều chỉnh lương tối thiểu đối
với bất bình đẳng thu nhập, sử dụng Khảo sát lực lượng lao động 2011-2013. Họ thấy rằng sự điều chỉnh dẫn đến tiền
lương trung bình cao hơn đáng kể và giảm bất bình đẳng tiền lương.

7 Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

“*” biểu thị dự đoán. Các đường thẳng đứng thể hiện ba năm then chốt đối với thị trường lao động và thị trường lao động
Việt Nam Ghi chú:

chính sách.

Nguồn: Schmillen và Packard (2016)

Lương tối thiểu chưa đáp ứng nhu cầu sống cơ bản của người lao động

Về con số tuyệt đối, mức lương tối thiểu chung của Việt Nam thấp hơn nhiều so với mức lương tối thiểu vùng, mức lương
trung bình và trung vị. Năm 2013, tỷ lệ lương tối thiểu chung so với lương trung bình và trung bình là khoảng 25%, trong
khi con số này của lương tối thiểu vùng so với lương trung bình và trung bình lần lượt là 50 và 58% ở cả 4 vùng
(Schmillen và Packard, 2016 ). 4

Ngoài ra, mặc dù lương tối thiểu được kỳ vọng là công cụ đảm bảo mức sống, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng, dù tốc độ
tăng trưởng nhanh nhưng lương tối thiểu vẫn chưa tăng đến mức các hộ gia đình có thể đạt được mức sống tối thiểu hàng
tháng. . Giai đoạn 2010-2011, khi CPI tăng mạnh, lương tối thiểu vùng chỉ đáp ứng được 47% mức sống tối thiểu của
người lao động. Năm 2015, nhờ tốc độ tăng lương tối thiểu nhanh, con số này đã tăng lên 80% (Viện Khoa học Lao động
và Xã hội, 2015). Một nghiên cứu của Viện Công nhân và Công đoàn (2014), trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam cũng đưa ra kết luận tương tự: mức lương tối thiểu hiện tại bên ngoài khu vực nhà nước nói chung còn rất xa so với
mức sống tối thiểu hàng tháng. của một người lao động.

Tỷ lệ này được coi là phù hợp theo khung lương tối thiểu hiệu quả ở cấp tiểu bang và địa phương do Dube (2014) đề xuất.
Theo đó, một nửa mức lương trung bình của khu vực địa phương là thước đo quan trọng để xác định mức lương tối thiểu
phù hợp.
Machine Translated by Google
Thảo luận chính sách – PD 06 8
Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và thảo luận sơ bộ

Tuy nhiên, kết quả này không nhất thiết hàm ý rằng một hộ gia đình có công nhân làm công ăn lương tối thiểu sẽ rơi
xuống dưới chuẩn nghèo, hay nói cách khác, thuộc nhóm hộ nghèo. Theo Schmillen và Packard (2016), trong khi các hộ
gia đình có một người làm công ăn lương tối thiểu và ít nhất thêm ba người phụ thuộc sẽ ở dưới chuẩn nghèo, thì các hộ
gia đình có ít nhất hai người làm công ăn lương tối thiểu hoặc hộ gia đình có một người làm công ăn lương tối thiểu và ít
hơn ba người phụ thuộc trong hộ gia đình. các thành viên tiêu dùng toàn bộ số tiền kiếm được từ sức lao động, có khả
năng chi trả ở mức tiêu dùng trên mức chuẩn nghèo. Các tác giả cũng kết luận rằng hộ gia đình trung bình hoặc hộ gia
đình đại diện của Việt Nam (hộ gia đình có hai người lao động và hai người phụ thuộc) thuộc nhóm hộ gia đình có thu
nhập từ lao động tối thiểu trên chuẩn nghèo.
Có bằng chứng về mức lương tối thiểu không ràng buộc và không tuân thủ

Để phân tích sự ràng buộc và thực thi của lương tối thiểu, chúng tôi minh họa phân phối tiền lương hàng tháng cho công
việc chính của người lao động, sử dụng Mật độ hạt nhân Epanechnikov với băng thông = 0,1 và dữ liệu Khảo sát mức
sống hộ gia đình Việt Nam 2014.5
Hình 4 cho thấy mức lương tối thiểu ít nhất có thể ràng buộc đối với người lao động có hợp đồng lao động trong khu vực
tư nhân và khu vực FDI. Trong cả hai trường hợp, có điều gì đó giống như sự tăng đột biến trong phân phối thu nhập hàng
tháng xung quanh mức lương tối thiểu. Đối với cả hai lĩnh vực, ít người lao động có mức lương dưới mức tối thiểu nên
việc cưỡng chế thi hành cũng có vẻ cao. Không có nhiều bằng chứng về tác động mạnh mẽ của tiền lương tối thiểu đối với
người lao động trong khu
vực tư nhân giúp việc gia đình mà không có hợp đồng. Một phần tương đối lớn trong số những người lao động này báo
cáo mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu và không có sự tăng đột biến rõ ràng trong phân phối tiền lương của họ ở
mức lương tối thiểu.

Mật độ nhân đã được sử dụng rộng rãi trong việc minh họa sự ràng buộc và thực thi của mức lương tối thiểu (Xem thêm
Cunningham, 2007; Dinardo và cộng sự, 1996; Heckman và Pagés, 2003; Schmillen và Packard, 2016).

9 Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Hình 4. Phân phối thu nhập hàng tháng

Ghi chú: Tiền lương của người lao động trong độ tuổi lao động (nữ từ 15 đến 55 tuổi, nam từ 15 đến 60 tuổi). Số liệu từ
Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2014. Đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ bao gồm lao động có
hợp đồng lao động. Tất cả các khoản thu nhập hàng tháng được thể hiện tương ứng với mức lương tối thiểu vùng. Các
đường thẳng đứng màu đỏ thể hiện bội số của mức lương tối thiểu.
Nguồn: Các tác giả

Ngoài ra, một số lượng lớn lao động tại Việt Nam đang làm việc trong khu vực phi chính thức và không có hợp đồng lao
động. Điều này có nghĩa là tiền lương tối thiểu chưa thể phát huy hết vai trò then chốt của nó trong việc đảm bảo mức
sống tối thiểu của mọi người lao động.6

Kết luận và hàm ý chính sách

Tiền lương tối thiểu đã được sử dụng rộng rãi như một công cụ để điều chỉnh những khiếm khuyết của thị trường lao động
có thể dẫn đến sự phân bổ lợi ích về năng suất không công bằng. Đồng thời, tiền lương tối thiểu là sự bảo đảm hợp pháp
của Nhà nước đối với người lao động trong mọi ngành, lĩnh vực có quan hệ lao động, bảo đảm các
nhu cầu cơ bản trong cuộc sống hàng ngày của người lao động. Tuy nhiên, khi đặt sai quy định về tiền lương tối thiểu có
thể dẫn đến thất nghiệp, nhất là đối với lao động có trình độ, tay nghề thấp, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo
nghĩa này, chúng tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn đến những điểm sau.

Theo ước tính của chúng tôi từ số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2014, 43,15% lao động trong độ tuổi
lao động (từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ và đến 60 tuổi đối với nam) đang làm công ăn lương, trong đó , chỉ có 40,9%
có hợp đồng lao động.

Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan sát và thảo luận sơ bộ

Thứ nhất, liên quan đến việc xác định và điều chỉnh lương tối thiểu vùng, bên cạnh sự tham gia của ba bên trong Hội đồng
tiền lương quốc gia, cần có giới học thuật, những người có kiến thức vững vàng về kinh tế vĩ mô và có khả năng xem xét
tác động của tiền lương tối thiểu đến việc làm, thu nhập và thu nhập trước/sau điều chỉnh, tham gia thương lượng. Bên
cạnh đó, do tiền lương tối thiểu hiện được quy định trên cơ sở hàng tháng, nên cần phải thiết lập một hệ thống trong đó
tiền lương tối thiểu được thiết lập trên cơ sở hàng ngày, thậm chí hàng giờ.
Điều này nhằm đảm bảo những người làm việc theo giờ, theo ngày được hưởng đầy đủ quyền lợi của mình.

Thứ hai, để bảo đảm mức lương tối thiểu đáp ứng mức sống tối thiểu thì mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu
vùng phải tương đồng với nhau. Nói cách khác, không được có bất kỳ sự khác biệt nào giữa mức lương tối thiểu áp dụng
cho khu vực nhà nước và mức lương tối thiểu áp dụng cho doanh nghiệp. Về khu vực nhà nước, nguyên nhân chính dẫn
đến tồn tại sự chênh lệch về hai mức lương tối thiểu như vậy là do ngân sách quốc gia hạn hẹp và bộ máy cồng kềnh, kém
hiệu quả. Vì vậy, việc tinh gọn bộ máy nhà nước, cắt giảm các khoản chi tiêu không cần thiết là hết sức cần thiết.

Thứ ba, trong khi tiền lương tối thiểu chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của người lao động, thì tốc độ tăng
của tiền lương tối thiểu trong những năm qua cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của CPI và GDP.
Theo nghĩa này, một cách tiếp cận mới và khả thi cho chính sách lao động là cung cấp một hệ thống phúc lợi xã hội tốt
hơn. Thay vì tăng lương tối thiểu, các loại hình hỗ trợ như nhà ở xã hội, cơ sở giáo dục, y tế gần khu công nghiệp, khu
công nghiệp không chỉ giảm bớt gánh nặng tiêu dùng cho người lao động mà còn giúp họ bớt căng thẳng, tập trung làm
việc, gián tiếp tăng thêm năng suất lao động. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và thậm chí tăng cường khả năng cạnh
tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Thứ tư, còn tồn tại doanh nghiệp chưa chấp hành nghiêm túc tiền lương tối thiểu.

Một bộ phận lớn người lao động làm công ăn lương, nhất là lao động không có hợp đồng lao động chỉ được nhận mức tiền
lương/tiền công dưới mức lương tối thiểu vùng tương ứng. Nếu chính sách tiền lương tối thiểu không được thực thi
nghiêm túc thì về lâu dài, chính sách này sẽ khó phát huy vai trò then chốt trong việc đảm bảo mức sống tối thiểu cho toàn
bộ lực lượng lao động.
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong hai thập kỷ qua, tốc độ tăng năng suất lao động ở Việt
Nam vẫn tương đối thấp. Theo Viện Năng suất Việt Nam (2015), năng suất lao động tăng trưởng bình quân hàng năm là
3,5% trong giai đoạn 2006-2015. Ngoài ra, tốc độ tăng năng suất trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ thấp hơn so với nông
nghiệp (Viện Khoa học Lao động và Xã hội, 2016). Cần nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa tiền lương tối thiểu, tiền
lương và năng suất lao động để đưa ra các khuyến nghị chính sách.

11 Thảo luận chính sách – PD 06


Machine Translated by Google

Lương tối thiểu ở Việt Nam: Quan Sát và thảo luận Sơ bộ

Người giới thiệu

Cickyham, Wendy V. (2007). Lương tối thiểu và chính Sách xã hội Bài học từ quá trình phát triển Quốc gia. WaShington,
DC: Ngân hàng Thế giới.
Nguyễn Cường Việt (2013). “Tác động của tiền lương tối thiểu đến việc làm của người lao động có thu nhập thấp: Bằng
chứng từ Việt Nam”. Kinh tế của quá trình chuyển đổi 21, không. 3 (2013): 583-615.
DiNardo, John, Nicole, M. Fortin và Lemieux, ThomaS. (1995). “Các thể chế thị trường lao động và phân phối tiền lương,
1973-1992: Một cách tiếp cận bán tham Số”. Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Tài liệu 5093, Cambridge, MA:
NBER.
Dube, Arindrajit. 2014. “Thiết kế chính Sách lương tối thiểu chu đáo ở cấp địa phương và tiểu bang” trong Kearney,
MeliSSa S., và HarriS, Benjamin H.: “Chính Sách giải quyết tình trạng nghèo đói ở Mỹ”. Viện BrookingS. WaShington
DC.
HanSen, Henrik, Rand, John và Torm, Nina. 2015. “Tác động của việc điều chỉnh lương tối thiểu đối với tiền lương theo
giờ của người lao động Việt Nam.” Báo cáo được trình bày tại Hội nghị lần thứ tư của Mạng lưới Quy định về Việc làm
Bền vững.
Heckman, JameS và PageS, Carmen. (2003). “Luật pháp và việc làm: Bài học từ Mỹ Latinh và Caribe”. Văn phòng
Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Tài liệu 10129, Cambridge, MA: NBER.

Schmillen, Achim D., và Packard, Truman G. 2016. “Các thể chế, quy định và can thiệp thị trường lao động của Việt
Nam: Giúp mọi người nắm bắt cơ hội việc làm trong một thế giới đầy rủi ro”. Tài liệu Nghiên cứu Chính Sách của Ngân
hàng Thế giới 7587. WaShington, DC.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội. 2015. Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam: Báo cáo thường niên 2015 [Labour
trend and VietnameSe Society: Annual report 2015]. NXB Lao động. hà nội.

Viện Năng Suất Việt Nam. 2015. Báo cáo Năng Suất Việt Nam 2015 [Viet Nam Productivity Report 2015].
httpS://drive.google.com/ ile/d/0B430_6GZ1p_1TkIzZ1BvbE0xR00/view Viện Công nhân và Công đoàn.
2014. Kết quả khảo Sát mức Sống tối thiểu của người lao động trong các doanh nghiệp năm 2014 [Kết quả khảo Sát mức
Sống tối thiểu của người lao động trong doanh nghiệp 2014]. hà nội.
Machine Translated by Google

phụ lục công bố thông tin


Chứng nhận của tác giả

Tác giả Sau đây, người chịu trách nhiệm chính cho báo cáo này, xác nhận rằng ý kiến về chủ đề hoặc các vấn đề và/hoặc
bất kỳ quan điểm hoặc dự báo nào khác được thể hiện ở đây phản ánh chính xác quan điểm cá nhân của họ và rằng không
có phần thù lao nào của họ đã, đang hoặc Sẽ trực tiếp hoặc liên quan gián tiếp đến các khuyến nghị hoặc quan điểm cụ thể
trong báo cáo nghiên cứu này: Nguyễn Đức Thành, Phạm Thị Tuyết Trinh, và Nguyễn Thanh Tùng.
Tài liệu này do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính Sách Việt Nam (VEPR) biên Soạn và phân phối với mục đích dành
riêng cho các khách hàng của VEPR và không dùng để công bố cho người khác, cho dù thông qua báo chí hay các phương
tiện khác. Lời khuyên trong tài liệu này là chung chung và không nên được hiểu là lời khuyên cá nhân.

tiết lộ bổ Sung

Báo cáo này được lập vào ngày 6 tháng 3 năm 2017.

VEPR có Sẵn các quy trình để xác định và quản lý mọi xung đột lợi ích tiềm ẩn phát Sinh liên quan đến các tác giả. Mọi
thông tin bí mật và/hoặc nhạy cảm đều được xử lý theo cách phù hợp. Mọi đóng góp, trao đổi xin gửi về: Viện Nghiên cứu
Kinh tế và Chính Sách, Phòng 707, Nhà E4, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội. Email: nguyen.ducthanh@vepr.org.vn
Machine Translated by Google
Machine Translated by Google

GIẤY TỜ LÀM VIỆC THÊM

PD-05 Tóm tắt về tác động của Brexit đối với Kinh tế Thế giới và Kinh tế Việt Nam

PD-04 Tác động của thay đổi thị trường dầu thô đối với ngân Sách nhà nước

PD-03 Đặc điểm nợ công Việt Nam

PD-02 Dự báo kinh tế vĩ mô - xã hội Việt Nam giai đoạn 2016-2020

PD-01 Tác động của Sự cố giàn khoan 981 đối với nền kinh tế Việt Nam năm 2014 và vượt ra

VMM16 Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý của Việt Nam, Quý 4 – 2016
Q4
VMM16 Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý của Việt Nam, Quý 3 – 2016
Q3
VMM16 Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý của Việt Nam, Quý 2 – 2016
Q2
VMM16 Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý của Việt Nam, Quý 1 – 2016
Q1
VMM15 Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý của Việt Nam, Quý 4 – 2015
Q4
VMM15 Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý của Việt Nam, Quý 3 – 2015
Q3

You might also like