Tư tưởng+lịch sử đảng cuối kì

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

CÂU HỎI LIÊN HỆ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Câu 1: Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo hiện nay?
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao Việt
Nam phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc  lên trước hết, trên hết. Qua đối ngoại, Người
muốn gửi đến các nước trên thế giới thông điệp khẳng định: 1) Việt Nam là một nước độc
lập; 2) Việt Nam thực hành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hữu nghị với
các nước “tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không
can thiệp vào các công việc nội bộ, bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hoà
bình”
Chủ quyền quốc gia trên biển - là một bộ phận hữu cơ của chủ quyền quốc gia. Bảo vệ
chủ quyền biển, đảo là bảo vệ lợi ích quốc gia - một mục tiêu đối ngoại cốt lõi theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.  
Trước việc Trung Quốc tuyên bố yêu sách đường 9 đoạn “Đường lưỡi bò”, dựa trên
quyền lịch sử, chiếm đến hơn 80% diện tích Biển Đông (bao gồm cả hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam), và thực hiện hàng loạt hành động “xâm phạm nghiêm
trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại  Biển Đông và  hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (7), thì vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - bảo vệ lợi
ích quốc gia của Việt Nam, đang đặt ra một cách cấp bách. 
Quán triệt mục tiêu đối ngoại theo tư tưởng Hồ Chí Minh và phương châm “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến” của Người, cần thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc - chủ quyền
biển, đảo là lợi ích quốc gia - thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh, từng thay mặt quốc gia Việt Nam, tuyên bố “nhân dân chúng tôi thành thực
mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để
bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất
nước”(8); toàn thể nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải” để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là phải linh hoạt, khôn khéo
trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Theo Hồ Chí Minh: “Nguyên tắc 
của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”
Về tập hợp lực lượng  trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh quan niệm đối ngoại là một
mặt trận, cần mở rộng và tranh thủ mọi lực lượng, hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả
cao nhất về đối ngoại “muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu bạn,
bớt kẻ thù”(11).
Với trong nước, hoạt động đối ngoại phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên trong - sức mạnh
toàn dân, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị,
quân sự và văn hoá của đất nước - đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia (là thực lực). Muốn
thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải có thực lực:
“Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà
ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(12). 
Cơ sở quan trọng hàng đầu cho sự đồng thuận, và phát huy sức mạnh toàn dân bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc, đó là Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý và lịch sử, phù
hợp Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) về chủ quyền biển, đảo.
Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo
của nước ta(13).    
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn quy tụ, phát huy sức mạnh nhân dân, tạo thực
lực mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần:
1) Tuyên truyền, giáo dục để mọi người dân hiểu biết đầy đủ về chủ quyền lãnh thổ trên
biển;
2) Nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ
quốc;
3) Củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước;
4) Xây dựng lực lượng bảo vệ biển, đảo đủ mạnh;
5) Phát triển kinh tế biển nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng biển, đồng thời bảo đảm
thường xuyên an ninh và chủ quyền biển, đảo;
6) Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực để nhân dân biết rõ về các âm mưu, hành động
của các thế lực bành trướng xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta.
Câu 2: Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu
chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành công và thành công đến
nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn
kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách
mạng.

Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải có chính sách và
phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng,
trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp có thể
và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, đoàn kết dân tộc
phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.
Từ thực tiễn như vậy, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm có tính chân lý về
vai trò của khối đại đoàn kết:

Đoàn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này. Người
viết: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có
thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân
giao phó"; "Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn,
giành lấy thắng lợi":; "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi", "Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công”; "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là
điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết"
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của mọi
thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính
sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong các buổi nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường nêu: "Mục đích của Đảng có thể bao gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân,
phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ,
đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe
quần chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở
nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong".

Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng
đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò của
thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng thì
chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu,
nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập
hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân
tộc, Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu của
Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp
tác. ĐCS phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu
cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác,
thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định cần phải tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân và ra sức xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Câu 3: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới
Tiến trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc luôn có sự gắn bó chặt chẽ với những nhân
tố quốc tế. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của sự kết hợp thành công
nhân tố dân tộc với nhân tố thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế. Từ thực
tiễn phong phú ấy, Đại hội XI của Đảng (2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,rút ra những bài học kinh
nghiệm lớn, trong đó có bài học: “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý
chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(1).
Nhìn lại 30 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII một lần nữa nhấn mạnh bài
học “kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
Thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tầm quan trọng đặc
biệt của nhân tố thời đại, nhân tố quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Hệ thống quan
điểm của Người về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chứa đựng nhiều nội
dung quan trọng. Ngay từ những ngày đầu của hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn
Ái Quốcđã khẳng định: “Cách mạng An Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm
cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”(8). Phải giáo dục chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân lao động nước mình, làm cho
tinh thần yêu nước là một bộ phận của tinh thần quốc tế. Người kêu gọi: “vì nền hòa bình
thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại
và chống bọn áp bức”(9). Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết
định, còn sức mạnh thời đại là nguồn lực bên ngoài, nó sẽ làm cho sức mạnh dân tộc
được tăng lên và nó cũng chỉ phát huy tác dụng thông qua nhân tố bên trong, đó là sức
mạnh dân tộc. Người nhiều lần chỉ rõ: “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”,
“muốn người ta giúp cho, thì trước hết phải tự giúp mình đã”, “một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được hưởng độc
lập”(10). Phải kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập dân tộc mình với các mục
tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại trong giai đoạn hiện nayđược cấu thành bởi sức
mạnh của các xu thế lớn, trong đó dòng chủ lưu là hòa bình, hợp tác và phát triển; sức
mạnh của cộng đồng quốc tế ngày càng đồng thuận trong kiến tạo, củng cố một trật tự thế
giới đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công bằng, bình đẳng; sức mạnh của các lực lượng
tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì các mục tiêu cao cả là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và phát triển bền vững; sức mạnh của hàng trăm quốc gia phấn đấu hoàn thành các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG); sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ nguyên
của cách mạng khoa học  công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa...
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh quốc tế, sức
mạnh thời đại; kết hợp chúng một cách vô cùng hiệu quả với sức mạnh dân tộc. Bởi vậy,
đã làm thay đổi tương quan lực lượng ngày càng có lợi trong chiến đấu và chiến thắng
thực dân, đế quốc, các thế lực phản động, làm nên một trong những bản hùng ca đẹp nhất
của loài người tiến bộ trong thế kỷ XX. Trong 30 năm đổi mới, một lần nữa phong cách
Việt Nam kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại lại để lại dấu ấn đặc sắc qua
các kết quả, thành tựu to lớn, bước ngoặt.
Những kết quả, thành tựu đối ngoại nêu trên đã đem lại cho đất nước môi trường quốc tế
hòa bình, hữu nghị và các điều kiện thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế , văn hóa, xã hội,
giáo dục, khoa học - kỹ thuật, bảo đảm quốc phòng, an ninh... Các nguồn lực quốc tế quý
báu và quan trọng ấy đã được kết hợp với các nguồn lực nội sinh trong nước, tạo nên
những thành tựu chung của công cuộc đổi mới: chế độ xã hội trụ vững trước các thách
thức lịch sử thời kỳ hậu Xô viết; đất nước khắc phục được khủng hoảng và ra khỏi tình
trạng kém phát triển; kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; xã hội
ổn định; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế
nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục vững bước phát triển theo
con đường XHCN.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế là vấn đề chiến lược, quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung và phương thức kết hợp phải được xác định phù hợp
với từng điều kiện cụ thể. Trong tình hình hiện nay, cần kế thừa thành tựu, kinh nghiệm
của các thời kỳ trước kia; đồng thời, cần bám sát yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ, lợi ích của
quốc gia dân tộc và các xu thế vận động của thế giới đang đổi thay để bảo đảm cho Việt
Nam có được sức mạnh tổng hợp to lớn nhất, vững bước trên con đường độc lập dân tộc
và CNXH, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Câu 4: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế trong giai đoạn hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của quan hệ quốc tế
ngày càng trở nên quan trọng, đóng góp hiệu quả vào quá trình xây dựng quan hệ hợp tác,
hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia và nỗ lực chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Bài viết khái quát nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và đề
xuất hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế trong thời gian tới.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế là yêu cầu và nội dung quan trọng
được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện từ sớm, đặc biệt sau khi tiến hành sự nghiệp đổi
mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà
nước ta xác định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận, nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho nhận thức và hành động trong quá trình kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Dấu mốc đầu tiên cho quá trình đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là Nghị quyết số 19-
NQ/TW ngày 17/7/1984 của Bộ Chính trị về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước.
Nghị quyết nêu rõ: “Ưu tiên dành sự hợp tác cho các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những
lĩnh vực và quy mô ta định hợp tác, khả năng và yêu cầu của bạn đến đâu, ta hợp tác đến
đó. Phần còn lại hợp tác với các nước dân tộc chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển”
Đại hội ĐBTQ lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) đã khẳng định: “Phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” 7. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng liên
quan trực tiếp đến chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; là sự kế thừa có
phát triển trên tầm cao mới theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hội nhập kinh
tế quốc tế trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và quan hệ quốc tế.
Ngày 03/02/2004, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 34-NQ/TW
về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội ĐBTQ lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng,
toàn dân ta hiện nay là chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị
tốt các điều kiện để sớm gia nhập WTO; tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng,
minh bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; tăng nhanh xuất
khẩu và thu hút mạnh đầu tư nước ngoài.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020”, trong đó có một phần riêng về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc
tế. Tiếp tục cụ thể hóa các quan điểm, nguyên tắc của Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội
nhập kinh tế quốc tế, trong mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006-2010,
Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Từ thực tiễn đổi mới, Đại hội ĐBTQ lần thứ X của Đảng nêu rõ: “Phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới… coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và
hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững
độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa” 8. Trong nhiệm kỳ 2006-2010, Đảng ta
đã tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của đất nước
để đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao
nhất.
Tiếp tục phát huy thành quả đạt được của nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ X, tại các kỳ
Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, XII, Đảng ta xác định mục tiêu, phương hướng: “Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước
từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các
hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn
diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng
cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác
có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”(9).
Đặc biệt, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Văn kiện Đại
hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại,
gắn chặt việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với tăng cường năng lực thể chế đồng
bộ, hiện đại. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà
nước và đối ngoại nhân dân. Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt
chẽ với đối ngoại song phương…’’10.
Câu 5: Liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng, của toàn dân và của mỗi cá nhân. Nội dung
này sẽ liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một bài học kinh nghiệm lớn của
dân tộc ta, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công việc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì bài học kinh nghiệm này vẫn còn
nguyên giá trị và cần được tiếp tục phát huy để khơi dậy sức mạnh to lớn của dân tộc
trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc phát huy tinh thần đại đoàn
kết dân tộc càng cần được phát huy. Do đó mỗi cá nhân cần quán triệt tư tưởng sâu sắc
trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Chúng ta phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc về
Đảng, về Chủ tịc Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao trình độ để thích ứng với điều
kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của
mình như tập trung dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong công việc cũng như trong
cuộc sống cộng đồng.
Đẩy mạnh việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn của bản thân, tuyên truyền
về đường lối chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước. Chống các biểu hiện suy thoái
về phẩm chất đạo đức, luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức.
Mỗi cá nhân cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Cần gương mẫu rèn luyện phẩm
chất tư cách, làm tròn những nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Có lối sống
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã với mọi người. Luôn tự rèn luyện và trau
dồi phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ
người tốt, chân thành, khiêm tốn, không bao che khuyết điểm,…Luôn có ý thức giữ gìn
đoàn kết trong tập thể, trong cơ quan đơn vị.
Bản thân cần tự đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp
luật, không chia bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.
Cần có ý thức coi trọng việc tự phê bình và phê bình; phê phán những biểu hiện xuất phát
từ những động cơ cá nhân; động viên người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức lối sống,
thực hiện xây dựng gia đình văn hóa.
Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc hiện nay mỗi cá nhân không chỉ cần rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức mà còn cần phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
CÂU HỎI LIÊN HỆ LỊCH SỬ ĐẢNG

Câu 1: Chủ trương, chính sách lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam về mở rộng quan hệ
đối ngoại, hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay?
Công tác đối ngoại là một mặt trận quan trọng ngang hàng với các mặt trận kinh tế, chính
trị, quân sự, văn hóa. Ngay từ trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã khẳng định: cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ ngoại
lực, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong thời kì mới để phát
triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình
đẳng cùng có lợi, đoàn kết quốc tế là một trong những bài học thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.

Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế:
 Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định bền vững.
 Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp
 Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế cho phù hợp
 Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hiệu lực của bộ máy nhà nước
 Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập
kinh tế quốc tế
 Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập
 Giữ vững và tăng cường quốc phòng an ninh trong quá trình hội nhập
 Phối hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân,
chính trị đối ngoại và đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị
Câu 2: Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam?
Hoàn cảnh lịch sử:
 Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp từng bước
thiết lập bộ máy thống trị với nhiều chính sách dã man tàn bạo, đẩy nhân dân vào
cảnh khốn cùng. Trong bối cảnh đó, nhiều phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ
nhưng tất cả đều thất bại. Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng bế tắc về
đường lối cứu nước “tưởng chừng như không có lối ra”.
 Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng sang các nước phương Tây
tìm đường cứu nước. Đến tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến
phát khóc” vì tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920, Người gia
nhập Quốc tế cộng sản, tham gia xã hội Đảng Cộng Sản Pháp. Từ một người yêu
nước Nguyễn Ái Quốc trở thành một chiến sĩ cộng sản và hoạt động xuất sắc cách
mạng cộng sản Quốc tế. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã chính thức tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn để đi.
 Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Sự chuẩn bị về tư tưởng - chính trị:
 Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lê-nin, từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã viết và
gửi sách báo, tài liệu về Việt Nam như: báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh,… để truyền bá chủ nghĩa
Mác Lê-nin và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo.
 Các tác phẩm, bài viết của Người từ năm 1921 đến năm 1927 toát lên những quan
điểm sau:
o Một là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
o Hai là, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của
nhân dân các nước thuộc địa.
o Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời
đại-cách mạng vô sản. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng
được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.
o Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối liên hệ
khăng khít với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng chính quốc mà còn có tính
chủ động, sáng tạo, có thể giành thắng lợi trước và góp phần thúc đẩy làm
cho cách mạng ở chính quốc tiến lên.
o Năm là, tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến
hành giải phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn những
người lao động, giải phóng con người.
o Sáu là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên quần chúng phải được
tổ chức thành đội ngũ, được biết về tính thế cách mạng.
o Bảy là, lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng, những người thiết tha
với độc lập dân tộc, trong đó công nông là lực lượng chính, song giai cấp
công nhân phải đóng vài trò lãnh đạo.
o Tám là, cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng, không thỏa hiệp.
o Chín là, cách mạng phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin làm cơ sở cho đường lối cách mạng, phải vững bền về tổ chức. Đảng
phải gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
o Mười là, cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng quốc tế, nên Cách
mạng Việt Nam phải liên hệ, tranh thủ sự giúp đỡ từ cách mạng thế giới
nhưng đồng thời phải đề cao tính tự lực tự cường….
 Những quan điểm này được truyền vào Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ
XX, nhanh chóng trở thành ngọn cờ hướng đạo dẫn dắt phong trào yêu nước ở
Việt Nam phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
Sự chuẩn bị về mặt tổ chức:
 Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
với lực lượng nòng cốt là Cộng sản Đoàn và cơ quan ngôn luận của tổ chức là tờ
Tuần báo Thanh niên. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã truyền bá lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước và gây
dựng cơ sở cách mạng trong nước. Bên cạnh đó, Hội đã mở các lớp huấn luyện
chính trị cho cán bộ và gửi các thanh niên ưu tú đi học tại nước ngoài nhằm đào
tạo cán bộ cách mạng.
 Đồng thời, Hội thực hiện chủ trường “vô sản hóa”, đưa các cán bộ hội viên vào
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm của giai cấp công
nhân, giác ngộ họ, dấn dắt họ đến con đường đấu tranh; để truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lê-nin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong
trào cách mạng Việt Nam.
 Kết quả của sự chuẩn bị: Với những kết quả ấy, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
được ra đời, đó là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đản, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động
biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của
cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Do đó, Hội nghị hợp nhất các
tổ chức Cộng sản được triệu tập vào 6-1 đến 7-2/1930.
 Với việc hội nghị được triệu tập và sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời năm 1930.
Ý nghĩa:
 Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam:
o Chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối, chứng tỏ giai cấp công
nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng
o Cách mạng Việt Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo với đường lối đúng
đắn và thống nhất trên cả nước
o Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử:
 Là kết quả của phong trào đấu tranh dân tộc và giai cấp trong thời
đại mới
 Là kết quả của sự chuẩn bị công phu, chu đáo, tích cực của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng chính trị và tổ chức
 Là sự kết hợp biện chứng giữa 3 nhân tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Phong trào công nhân, Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX
Câu 3: Thanh niên VN trong thời kì đẩy mạnh CNH, HDH đất nước và hội nhập quốc
tế
Thanh niên Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử luôn giữ vai trò quan trọng, luôn thể
hiện tinh thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ nước và luôn là lực lượng quan
trọng trong thời kỳ kiến thiết đất nước. Thanh niên Việt Nam trong cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ; trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước; trong thời kỳ kiến thiết đất nước sau chiến tranh; trong thời kỳ đổi mới,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn phát huy truyền thống của
dân tộc, luôn nêu cao tinh thần xung phong, tình nguyện, xung kích, đi đầu để hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó.
Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm 1986);
tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện kinh tế tri thức; tham gia
sâu rộng vào hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hóa; mở rộng quan hệ đối ngoại theo
phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, làm cho thế và lực của nước ta được củng cố
vững chắc hơn, kinh tế có sự phát triển và tương tối bền vững, đời sống về vật chất và
tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, quốc phòng và an ninh, trật tự an
toàn xã hội được bảo đảm.
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, tạo điều kiện cho các
nước phát triển kinh tế. Kinh tế các nước trên thế giới đã dần dần phục hồi sau cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Hợp
tác quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu, tạo ra nhiều cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa dựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây ra những thử thách không nhỏ cho các
quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Cạnh tranh kinh tế -
thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ nano sẽ phát triển
mạnh mẽ và sẽ có những bước nhảy vọt, thời gian từ phát minh đến ứng dụng ngày càng
thu hẹp. Kinh tế tri thức sẽ được nhiều nước, trong đó có Việt Nam, ứng dụng và thực
hiện.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá vị trí vai trò quan trọng của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đảng xác định thanh niên là chủ hiện tại và
tương lai của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và
toàn xã hội luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt đối với thanh niên và tổ chức Đoàn,
nhất là thời kỳ phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
 Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu
đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để Việt Nam cơ bản
trưởng thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 là điều kiện, môi
trường thuận lợi để thanh niên thể hiện tài năng sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Với
đường lối đúng đắn của Đảng, đất nước tiếp tục ổn định, vị thế không ngừng tăng lên đã
tạo cơ hội lớn cho thanh niên học tập, tiếp cận văn minh nhân loại, nâng cao tri thức nhất
là những thành tựu khoa học - công nghệ. Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với lớp trẻ
không ngừng tăng lên là cơ sở, nguồn lực, điều kiện quan trọng để chăm lo cho thanh
niên những năm tới đây.
    Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh, các hoạt động của
Đoàn bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, phù hợp với từng đối tượng thanh niên,
phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Đoàn từng bước quan tâm, chăm lo tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng
chính đáng của thanh niên, trở thành người bạn gần gũi của thanh niên.
Câu 4: QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự
do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi
mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp
thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết
điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng
đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa
sự nghiệp cách mạng tiến lên.
2. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân
dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát
từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất
khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức
mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và
nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực,
kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do
thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực
tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về
đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
 
Câu 5: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi
to lớn và sâu sắc.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra
mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên
thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển.
Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh
dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển,
đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm
ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những
thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã
đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và
cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn
thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải
cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù
địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ
áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất
là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng
trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận
động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết
định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn,
phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ
độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc. 
Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận
mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố,
bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân
số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc giải quyết những vấn đề
đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt
vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ
có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội.
Câu 6: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp
luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và
pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
2. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân
dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm
kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự
phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên;
thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước;
giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối
liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các
giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo
Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp
và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân
thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ
chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu
quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh
đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng
công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành
động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động
trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng
và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo
và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Đảng kêu gọi tất cả đảng viên của Đảng, toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở
nước ngoài mang hết tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, vững
bước đi tới tương lai.

You might also like