Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 6

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
Môn học: Triết học Mác – Lênin
Đề tài:
Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về con
người và bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực
tiễn của quan điểm trên.

Giảng viên: TS. Bùi Xuân Thanh


Mã lớp học phần: 21C1PHI51002320
Họ tên: Nguyễn Thị Thúy Kiều
MSSV: 31211021825
Ngày tháng năm sinh: 16/06/2003

TP Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2021

1
1. Khái niệm con người và bản chất con người

Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, con người luôn là nội dung cơ bản. Tìm bản chất con
người để giải phóng con người khỏi xã hội tư bản cũ với những giai cấp và những sự
đối kháng giai cấp của nó; xây dựng một liên hợp, trong đó, sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người là mục đích cuối cùng của chủ
nghĩa Mác - Lênin về con người.

* Khái niệm con người

Con người là một thực thể sinh học – xã hội:

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người
chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên phải là một trong những phương diện
cơ bản của con người, loài người. Cũng do vậy, việc nghiên cứu khám phá khoa học về
cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để
con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi
hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.

Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:

Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các
loài.

Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là
thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người
và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên;
ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại
môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng
giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.

- Con người là một thực thể xã hội: mặc dù con người sinh ra từ sự tiến hóa tự nhiên
song khác với mọi động vật khác, con người có đặc tính xã hội. Mỗi con người với tư

1
cách là “người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng
đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.

Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác độ sau đây:

Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ có
nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội
của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con
người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.

Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của nó
luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì
mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển
của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.

Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó,
quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó.

Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử

Cả con người lẫn động vật đều có lịch sử cho riêng mình nhưng vẫn có sự khác biệt giữa
chúng. Như C.Mác đã nói “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái
sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”, như vậy con người là chủ thể của lịch sử vì lịch sử do
chính tay con người tạo ra, còn các loài động vật khác chỉ đơn thuần là dựa vào bản năng
mà tham gia vào dòng chảy của lịch sử.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau: quy luật từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định, nhưng luôn thống nhất với nhau.
Do đó khi con người sống trong một xã hội nhất định, ở chung một thời điểm nhất định,
cùng nhau sinh hoạt, sinh sống và khai thác giới tự nhiên, thiên nhiên thì con người đã
là một phần của lịch sử, là sản phẩm của lịch sử.

* Bản chất con người

2
Trước C.Mác, các nhà triết học coi bản chất con người hoặc là ở nguồn gốc thần thánh
của nó (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc là một bộ phận và là sự thể hiện cao nhất của
giới tự nhiên (chủ nghĩa duy vật siêu hình). Ngược lại, C.Mác khẳng định: “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” và bản chất đó
cũng biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội.

Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có
quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Bản chất của con người luôn được hình thành và
thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các
quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn
hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng.

Mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau.
Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất,
quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc
hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế,… Tất cả các quan hệ đó đều góp phần
hình thành lên bản chất của con người khi ta tổng hòa chúng lại với nhau, do đó khi
chúng thay đổi ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn thì bản chất con người cũng sẽ thay đổi
theo.

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

* Về lý luận

Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con người đã
đóng góp rất nhiều trong công cuộc xây dựng, cải tiến và phát triển cuộc sống của con
người, là nền tảng quan trọng bậc nhất, là nấc thang đầu tiên khởi đầu cho mọi hoạt động
của con người. Để hiểu hơn về những quan điểm ấy đã mang lại điều gì thì chúng ta sẽ
xét tới ba khía cạnh cụ thể sau đây để làm rõ:

Đầu tiên, ta xét khía cạnh về nhận thức. Để đánh giá toàn diện một con người một cách
khoa học thông qua những vấn đề của họ thì phải xét cả phương diện bản tính xã hội lẫn
bản tính tự nhiên của họ, chứ không xét đơn thuần một cái riêng lẻ nào cả mặc dù bản
3
tính xã hội là cái căn bản và có tính quyết định cao hơn. Không những thế, khía cạnh
nhận thức còn được thể hiện ở thái độ sống vừa phải, biết rèn luyện các phẩm chất tốt
đẹp của xã hội và ý thức được các nhu cầu sinh học của bản thân để không rơi vào tình
trạng sa đọa bởi những nhu cầu bản năng tầm thường.

Thứ hai, ta xét khía cạnh về cuộc sống. Chính Mác - Lênin đã chỉ ra trong triết học của
mình rằng “động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người”, chính vì thế mỗi con người trong cuộc sống của riêng
mình phải biết nhìn nhận được những gì đã xảy ra trong quá khứ: cả những thành tựu đã
đạt được và cả những điều tiêu cực để rồi phát huy sự sáng tạo, để cải thiện những điều
ấy ngày một tốt hơn từ những gì thế hệ trước đã để lại.

Thứ ba, ta xét khía cạnh về xã hội. Vì bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ
xã hội nên việc xây dựng được một môi trường xã hội tốt đẹp là điều rất cần thiết trong
công cuộc phát triển những con người toàn diện và tốt đẹp. Để làm được điều đấy thì
cần phải chú trọng việc giải quyết các mối quan hệ cá nhân – xã hội một cách đúng đắn,
tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội, giải phóng những mối quan
hệ kinh tế - xã hội gây cản trở khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân bằng
cách áp bức, bóc lột,…

* Về thực tiễn

Sau khi tìm hiểu trên cơ sở ý nghĩa lý luận của quan điểm triết học Mác – Lênin về con
người và bản chất con người, ta có thể rút ra những ý nghĩa thực tiễn sau:

Cuộc cách mạng tháng Tám ở Việt Nam (1945) là một cuộc cách mạng mở đầu cho chế
độ XHCN vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã đề ra đường lối, mục
tiêu phù hợp, từ đó tạo ra nguồn động lực Cách mạng to lớn: lấy quần chúng nhân dân
làm trọng tâm với mục tiêu là giải phóng con người, giành chính quyền về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ người bóc lột người và đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Từ thực tiễn trong lịch sử, ta nhận thấy muốn phát triển đất nước thì trước hết phải chú
trọng phát huy nguồn lực con người, nghĩa là phát huy tổng thể những yếu tố thuộc về
thể chất, tinh thần đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức,… tạo nên năng lực của con
4
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã khẳng
định: “Con người là trọng tâm, là vốn quý nhất, yếu tố quyết định hàng đầu của tương
lai quốc gia, dân tộc. Nguồn lực con người là động lực để đưa đất nước Việt Nam phát
triển trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng và nhà nước ta
luôn chú trọng: “Phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo
đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”.

Để làm được điều đó, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân: luôn quan tâm đến các nhu cầu chính đáng của con người như ăn, uống, vui chơi,
nhu cầu được mọi người yêu thương, thừa nhận,... Quan trọng không kém là việc phát
triển vai trò của ngành giáo dục, tạo điều kiện cho mọi người được học tập, nâng cao
trình độ của bản thân. Hơn nữa, cần chú tâm đến các chính sách xã hội như: điều kiện
lao động, sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe,…để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tất
cả mọi người. Giải quyết triệt để các vấn đề xã hội: an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, đem
lại cuộc sống hạnh phúc cho con người, góp phần lành mạnh hóa xã hội, tạo ra môi
trường sống an toàn, lành mạnh.

Cuối cùng, ở thế hệ trẻ, phải luôn chủ động học tập, tìm tòi, sáng tạo và đổi mới tư duy,
nhất là có sự tự tin vào khả năng, năng lực của mình. Không ngừng nỗ lực phát triển để
trở thành con người toàn diện, phù hợp, không chỉ đóng góp cho xã hội và đất nước mà
còn là “đóng góp” cho tương lai của chính bản thân sau này.

Do còn hạn chế về kiến thức chuyên môn nên bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Kính
mong nhận được sự góp ý của thầy để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!

Tài liệu tham khảo:

1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin; Tài liệu dành cho bậc đại học – không chuyên
ngành lý luận chính trị - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2019. (Triết học về con người)

2. Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác – Lênin; Bộ môn Nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin thuộc Khoa Lý luận chính trị trường Đại học Kinh tế TP.
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2020. (Triết học về con người)

You might also like