Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 10

LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Bài 5 : TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH


5.1. Tổng quan về thị trường tài chính
5.1.1. Cơ sở hình thành thị trường tài chính
Thị trường tài chính ra đời theo sự phát triển của kinh tế thị trường. Đây là một thị
trường đặc thù, bậc cao. Thị trường tài chính là bộ phận hợp thành hệ thống tài chính,
đồng thời là yếu tố thúc đẩy kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả.
Sự hình thành thị trường tài chính xuất phát từ yêu cầu khách quan trong sự phát
triển của kinh tế thị trường. Đó cũng là yêu cầu to lớn về vốn cho sự phát triển nền kinh
tế với tốc độ cao, và khả năng cung ứng vốn trong nền kinh tế thị trường
Khi xuất hiện yêu cầu về hàng hóa vốn → hình thành thị trường vốn.
5.1.2. Khái niệm, phân loại thị trường tài chính
5.1.2.1. Khái niệm thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng quyền
sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài chính nhất định
(financial instruments).
Các công cụ tài chính (financial instruments) này được gọi là các chứng
khoán (securities). Chứng khoán là những trái quyền - claims (quyền được hưởng) đối
với thu nhập hoặc tài sản tương lai của nhà phát hành.
Chứng khoán bao gồm hai loại: chứng khoán nợ - debt securities - là chứng khoán
xác nhận quyền được nhận lại khoản vốn đã ứng trước cho nhà phát hành vay khi chứng
khoán đáo hạn cũng như quyền được đòi những khoản lãi theo thoả thuận từ việc cho vay
và chứng khoán vốn - equity securities - là chứng khoán xác nhận quyền được sở hữu
một phần thu nhập và tài sản của công ty phát hành.
Những người cần vốn (thường là các công ty hay chính phủ) thông qua việc phát
hành (bán) các chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính. Còn những người
có tiền (các nhà đầu tư) bằng cách mua các chứng khoán đã cung cấp các khoản vốn cho
các nhà phát hành. Như vậy các chứng khoán là tài sản có đối với người mua chúng
nhưng lại là tài sản nợ đối với người phát hành ra chúng. Nói một cách khác, đối với
những người cần vốn, chứng khoán là một phương tiện tài chính để huy động vốn đáp
ứng nhu cầu vốn ngắn hạn hoặc dài hạn, còn đối với những người dư tiền, chứng khoán là
một phương tiện đầu tư để hưởng những thu nhập nhất định.
Cùng với sự phát triển của hoạt động tài chính, ngoài chức năng lưu chuyển vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu, thị trường tài chính còn cung cấp các phương tiện để quản lý
những rủi ro liên quan đến các hoạt động lưu chuyển vốn này. Chính vì vậy, bên cạnh hai
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

loại cơ bản là chứng khoán nợ và chứng khoán vốn, trên thị trường tài chính còn lưu
thông các công cụ tài chính đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý các rủi ro liên quan
đến không chỉ các tài sản sản tài chính mà cả hàng hoá và tiền tệ. Các công cụ tài chính
đặc biệt này được gọi là các công cụ phái sinh hay chứng khoán phái sinh (derivaties).
Chứng khoán phái sinh thường gắn với một hợp đồng và có đặc điểm là giá trị của
nó phụ thuộc vào mức độ biến động giá cả của các hàng hoá gốc trên thị trường (chứng
khoán nợ, chứng khoán vốn, ngoại hối và hàng hoá thông thường…).
5.1.2.2. Phân loại thị trường tài chính
- Căn cứ vào phương thức huy động nguồn tài chính thị trường tài chính được chia
thành thị trường Nợ và thị trường Vốn
+ Thị trường nợ
Thị trường Nợ là thị trường mà sự chuyển giao quyền sử dụng vốn thông qua việc
chủ thể cần vốn sẽ phát hành một công cụ vay nợ. Ví dụ : một trái khoán hay một món
vay thế chấp. Các công cụ này có tính chất như một hợp đồng trong đó người vay (
người phát hành) phải thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong
những khoảng thời gian đều đặn (trả lãi coupon) hay trả cùng với món tiền gốc khi đáo
hạn. Một số khoản vay có tính chất thanh toán ngay phần lãi nhận được cho người cho
vay tại thời điểm phát hành hoặc phát sinh hợp đồng nợ (trả lãi trước). Đối với các loại
này, giá trị thanh toán khi đáo hạn chính bằng mệnh giá của khoản cho vay. Như vây,
trên thị trường nợ, chủ thể huy động nguồn vốn chỉ có thể sử dụng nguồn vốn đó trong
những khoản thời gian cố định.
+ Thị trường vốn cổ phần
Các chủ thể huy động nguồn vốn trên thị trường này bằng cách phát hành cổ
phiếu. Cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một phần của công ty cổ phần.
Khi bán được cổ phiếu các công ty cổ phần có được nguồn tài chính để hình thành, hay
tăng thêm vốn tự có của mình. Các công ty cổ phần có quyền sử dụng nguồn tài chính đó
trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động của công ty. Các cổ đông (người sở hữu cổ
phiếu) sẽ là đồng sở hữu của công ty cổ phần. Và qua thời gian các cổ đông đó có thể tự
do chuyển nhượng số cổ phiếu của mình cho chủ thể khác để thu hồi vốn về.
- Căn cứ vào kỳ hạn của chứng khoán mua bán trên thị trường, thị trường tài chính
được phân thành hai loại thị trường cơ bản sau:
+ Thị trường tiền tệ (Money market)
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn - short-term
debt securities (có thời hạn đáo hạn từ một năm trở xuống).
Những người đi vay là những người đang thiếu hụt tạm thời về tiền tệ để đáp ứng
cho các nhu cầu thanh toán sẽ phát hành công cụ huy động trên thị trường này. Thông
qua các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn vay ngắn hạn, thị trường tiền tệ đã cung
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ứng một lượng tiền tệ cho họ để thoả mãn nhu cầu thanh toán. Cũng vì thế mà nó được
gọi là “thị trường tiền tệ”.
Những người mua hàng hóa trên thị trường này là những người có vốn tạm thời
nhàn rỗi, chưa muốn đầu tư hoặc đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư, do vậy họ chuyển
nhượng quyền sử dụng vốn của mình trong thời hạn ngắn để tranh thủ hưởng lãi (cho vay
trên thị trường tiền tệ). Đối với họ, việc đầu tư vào thị trường tiền tệ chỉ mang tính nhất
thời, họ không quan tâm nhiều tới mức sinh lợi mà chủ yếu là vấn đề an toàn và tính
thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần. Trên thị trường tiền tệ, do khối lượng giao
dịch chứng khoán thường có qui mô lớn nên các nhà đầu tư (cho vay) thường là các ngân
hàng, ngoài ra còn có các công ty tài chính hoặc phi tài chính, còn những người vay vốn
thường là chính phủ, các công ty và ngân hàng.
Tuỳ theo phạm vi các chủ thể được tham gia giao dịch trên thị trường mà thị
trường tiền tệ còn được chia thành thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) - là thị
trường tiền tệ mà các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW) và
thị trường mở (Open Market) - là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân hàng ra còn có các
tổ chức phi ngân hàng tham gia. Ngoài ra trong thị trường tiền tệ còn có một thị trường
bộ phận chuyên giao dịch các chứng khoán ngắn hạn được ghi bằng ngoại tệ, thị trường
này được gọi là thị trường hối đoái (Foreign Exchange Market). Thị trường hối đoái
ngoài các chứng khoán còn mua bán cả ngoại tệ tiền mặt và các phương tiện thanh toán
ghi bằng ngoại tệ như séc ngoại tệ. Ở Việt nam, thị trường tiền tệ được tổ chức dưới các
hình thức: thị trường nội tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993) và thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994).
+ Thị trường vốn (Capital market)
Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn - long-term debt
securities (có thời hạn đáo hạn trên một năm) và các chứng khoán vốn (equity
securities).
Do các chứng khoán mua bán trên thị trường vốn có thời hạn dài nên các nhà phát
hành có thể sử dụng vốn thu được để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy thị trường
vốn được coi là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Căn cứ vào sự luân chuyển của các nguồn tài chính, thị trường tài chính được chia
thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
+ Thị trường sơ cấp (Primary market)
Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán mới được các nhà phát
hành bán cho các khách hàng đầu tiên, và do vậy còn được gọi là thị trường phát hành.
Thị trường này cho phép các chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính,
chính phủ... huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành các chứng khoán mới. Hoạt
động giao dịch mua bán chứng khoán tại thị trường này diễn ra chủ yếu giữa các nhà phát
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

hành và các nhà đầu tư lớn như các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư hay công ty
bảo hiểm... theo hình thức bán buôn. Các nhà đầu tư này khi đó đóng vai trò như nhà bảo
lãnh cho đợt phát hành chứng khoán (underwriting securities), họ sẽ mua lại toàn bộ số
chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn mức giá công bố)
để sau này bán lẻ ra thị trường cho các nhà đầu tư khác. Vì các thoả thuận về bảo lãnh
chứng khoán thường được tổ chức riêng giữa các nhà bảo lãnh và nhà phát hành nên hoạt
động giao dịch cụ thể tại thị trường này không được công khai cho mọi người.
+ Thị trường thứ cấp (Secondary market)
Thị trường thứ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp được mua đi bán lại, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Thị
trường thứ cấp được xem như thị trường bán lẻ các chứng khoán để phân biệt với thị
trường sơ cấp là thị trường bán buôn các chứng khoán.
Thị trường thứ cấp đảm bảo khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền, cho
phép những người giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi sự đầu tư tại thời điểm nào mà họ
mong muốn hoặc có thể thực hiện chuyển đầu tư từ khu vực này sang khu vực khác.
Sự khác nhau chủ yếu giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là ở chỗ hoạt
động của thị trường sơ cấp làm gia tăng thêm vốn cho nền kinh tế còn hoạt động của thị
trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán đã phát hành, mà không
làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế, tức là chỉ làm tăng tính lưu thông của
các chứng khoán vốn có trên thị trường sơ cấp.
Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối liên hệ tác động qua lại lẫn
nhau. Thị trường sơ cấp đóng vai trò tạo cơ sở cho những hoạt động của thị trường thứ
cấp (cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp). Thị trường thứ cấp cũng có tác dụng trở
lại đối với thị trường sơ cấp, đóng vai trò tạo động lực cho sự phát triển của thị trường
này. Tác dụng của thị trường thứ cấp tới thị trường sơ cấp được thể hiện ở hai chức năng
của nó:
Thứ nhất, thị trường thứ cấp tạo ra tính lỏng cho các chứng khoán được phát hành
ra trên thị trường sơ cấp1, nhờ vậy sẽ làm tăng tính hấp dẫn cho các chứng khoán, giúp
cho việc phát hành chúng tại thị trường sơ cấp được thuận lợi;
Thứ hai, thị trường thứ cấp đóng vai trò xác định giá của các chứng khoán sẽ được
phát hành trên thị trường sơ cấp. Các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp sẽ không thể mua
các chứng khoán phát hành mới tại thị trường này với giá cao hơn giá mà họ nghĩ sẽ có
thể bán được tại thị trường thứ cấp. Nếu chứng khoán của một nhà phát hành được mua
bán với giá cao tại thị trường thứ cấp thì nhà phát hành càng có cơ hội thu được nhiều
vốn nhờ việc phát hành các chứng khoán mới tại thị trường sơ cấp.

1
Tức là tạo điều kiện để người nắm giữ chứng khoán có thể bán chứng khoán để thu tiền về. Chứng khoán càng dễ bán thì tính lỏng của nó càng
cao
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Chính vì những đặc điểm này mà các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư
quan tâm nhiều tới thị trường thứ cấp hơn là thị trường sơ cấp.
- Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường. Thị trường thứ cấp
hoạt động dưới hai hình thức: thị trường tập trung và thị trường phi tập trung.
+ Thị trường tập trung (Exchanges)
Thị trường tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán được
thực hiện có tổ chức và tập trung tại một nơi nhất định.
Ví dụ về thị trường tập trung là các Sở giao dịch chứng khoán như Sở giao dịch
chứng khoán New York, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Sở giao dịch chứng khoán
London, Sở giao dịch chứng khoán Paris...
Sở giao dịch được tổ chức theo một trong ba hình thức: công ty cổ phần, sở hữu
thành viên hoặc sở hữu nhà nước2. Sở giao dịch cung cấp cho những người mua bán
chứng khoán các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: dịch vụ
thanh toán, lưu ký chứng khoán, hệ thống máy tính nối mạng, hệ thống bảng giá điện tử
để yết giá chứng khoán, hệ thống ghép lệnh mua và bán chứng khoán v.v...
Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch bắt buộc phải thông qua các
trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán (brokers). Các nhà môi giới
muốn hoạt động tại Sở giao dịch phải làm thủ tục đăng ký để có chỗ trong Sở.
Những người mua và bán chứng khoán sẽ thông qua những nhà môi giới để đưa ra
các lệnh mua và bán chứng khoán. Các nhà môi giới sau khi nhận lệnh sẽ gặp nhau tại
trung tâm của Sở giao dịch gọi là Sàn giao dịch sau đó tiến hành đàm phán. Ngày nay, do
sự phát triển của công nghệ máy tính, nhiều Sở giao dịch đã thay việc đàm phán trực tiếp
bằng một hệ thống ghép lệnh tự động. Tuy vậy hình thức đàm phán trực tiếp vẫn được
duy trì tại nhiều Sở giao dịch nổi tiếng trên thế giới.
Chỉ những chứng khoán đã được đăng ký yết giá mới được mua bán tại Sở giao
dịch. Một công ty phát hành để được đăng ký yết giá phải thoả mãn các điều kiện cần
thiết như: qui mô vốn, số lượng chứng khoán đã phát hành, về hiệu quả kinh doanh trong
thời gian gần đây, phương án dử dụng vốn ... Sau khi được Sở giao dịch chấp nhận,
chứng khoán được đăng ký vào danh bạ của Sở giao dịch chứng khoán và thường xuyên
được niêm yết giá trên Sở giao dịch.
+ Thị trường phi tập trung OTC (Over the Counter or Off-exchange markets)
Thị trường phi tập trung là thị trường mà các hoạt động mua bán chứng khoán
được thực hiện phân tán ở những địa điểm khác nhau chứ không tập trung tại một nơi
nhất định.

2
Ở Việt nam, Sở giao dịch chứng khoán hiện nay thuộc sở hữu nhà nước
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Thị trường phi tập trung trên thế giới được tổ chức dưới hình thức một thị trường
giao dịch “qua quầy” - OTC Market (Over-the-counter Market3). Đó là hình thức giao
dịch mà những nhà buôn chứng khoán (dealer) tại các địa điểm khác nhau công bố một
danh mục chứng khoán với giá mua và bán được yết sẵn, và họ sẽ sẵn sàng mua hoặc bán
chứng khoán thẳng cho những ai chấp nhận giá của họ4. Do hoạt động mua bán chứng
khoán tại thị trường OTC đều được thực hiện qua mạng máy tính nên các nhà buôn
chứng khoán cũng như khách hàng có điều kiện biết rõ các mức giá mà các nhà buôn
chứng khoán khác chào bán, vì vậy thị trường tính theo kiểu này có tính cạnh tranh rất
cao và không khác gì nhiều so với thị trường với trung tâm giao dịch có tổ chức nói trên.
Có thể nói thị trường OTC không phải là một thị trường hiện hữu, không có địa
điểm tập trung nhất định. Đó là một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại mà các bên tham
gia thị trường sử dụng để thương lượng việc mua bán chứng khoán.
Do hình thức tổ chức như vậy nên các chứng khoán mua bán tại thị trường OTC
rất đa dạng, bao gồm chứng khoán của cả những công ty chưa đủ điều kiện yết giá tại Sở
giao dịch lẫn những công ty chưa muốn yết giá tại Sở giao dịch. Số liệu thống kê tại các
nước phát triển đều cho thấy giá trị chứng khoán được mua bán qua thị trường OTC lớn
hơn rất nhiều so với mua bán tại Sở giao dịch5.
Ngoài hai hình thức giao dịch mua bán chứng khoán nêu trên, thị trường tài chính
thực tế còn tồn tại một bộ phận các giao dịch mua bán trực tiếp giữa những người sở hữu
chứng khoán. Thị trường các giao dịch chứng khoán này có thể gọi là thị trường tự do
hay thị trường chợ đen (The Thirst markets). Các thị trường này xuất hiện đầu tiên trong
lịch sử phát triển của thị trường tài chính, khi mà những người nắm giữ chứng khoán có
nhu cầu bán lại những chứng khoán của mình. Ngày nay, do độ rủi ro lại cao nên quy mô
của thị trường này khá nhỏ và chỉ có ý nghĩa tại các quốc gia mới hình thành thị trường
tài chính.
5.1.3. Chức năng của thị trường tài chính
5.1.3.1. Thị trường tài chính dẫn vốn từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài
chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính (kết nối cung – cầu tài chính)
Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những
người có thặng dư tạm thời về vốn (chi tiêu ít hơn thu nhập) tới những người ở trạng thái
ngược lại “thiếu hụt” (do chi tiêu nhiều hơn thu nhập). Sơ đồ 3.1.3. cho chúng ta hình
dung tốt hơn nhận định này
3
Thuật ngữ “Giao dịch qua quầy” bắt nguồn từ việc các giao dịch mua bán chứng khoán trước đây hầu hết đều được thực hiện tại các quầy giao
dịch của ngân hàng. Một số tài liệu gọi thị trường mày là “ thị trường trao tay”
4
Khác với giao dịch tại Sở giao dịch, nơi mà giá cả chứng khoán được hình thành trên cơ sở đàm phán hoặc ghép lệnh, thì ở thị trường OTC giá
cả là yết sẵn và việc mua bán sẽ chỉ xảy ra nếu tuân theo những mức giá này.
5
Thị trường mua bán chứng khoán chính phủ, thị trường mua bán thương phiếu hay thị trường hối đoái đều được tổ chức theo hình thức thị trường
OTC
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Sơ đồ 5.1.3. Những dòng vốn trên thị trường tài chính

Tài chính Chủ thể cầu về vốn


Chủ thể cung ứng vốn trực tiếp
- Các doanh
nghiệp
- Các gia đình V
ố - Chính phủ
- Các doanh nghiệp
n - Hộ gia đình
- Chính phủ - Người nước
Tài chính ngoài
- Người nước ngoài
gián tiếp

Các nguồn vốn có thể được chuyển dẫn tới các chủ thể cần vốn bằng hai con đường:
thị trường tài chính trực tiếp và thị trường tài chính gián tiếp.
Trong thị trường tài chính trực tiếp, những chủ thể cần vốn có thể vay vốn trực tiếp
từ người cho vay bằng cách phái hành những chứng khoán (công cụ tài chính), những
chứng khoán này là những trái quyền. Trong khi chứng khoán là Tài sản có đối với
những người mua nó nhưng lại là Tài sản Nợ đối với những người phát hành. Các chứng
khoán Vốn như cổ phiếu cũng được coi là một công cụ huy động vốn trên thị trường tài
chính trực tiếp.
Thị trường tài chính gián tiếp có sự tham gia của các trung gian tài chính như ngân
hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các quỹ tài chính trong nền kinh
tế… Với lợi thế từ uy tín, năng lực kinh tế, tính chuyên nghiệp cao… các chủ thể này có
thể thu hút được nguồn vốn rất lớn để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của các chủ thể thiếu
vốn. Tuy nhiên, bản thân các trung gian tài chính này cũng đang ở vị thế đi vay các chủ
thể khác, nên chúng đưa ra các điều kiện kiểm soát chất lượng khoản vay và khả năng thu
hồi vốn của con nợ. Chính vì vậy, không phải chủ thể nào cũng có thể vay vốn được từ
các trung gian tài chính này.
Giữa thị trường tài chính trực tiếp và thị trường tài chính gián tiếp cũng có mối quan
hệ về vốn rất tích cực. Bản thân các trung gian tài chính, ví dụ ngân hàng thương mại
cũng có thể phát hàng các công cụ tài chính để huy động vốn. Hoặc lượng vốn từ thị
trường tài chính trực tiếp cũng có thể nhanh chóng chuyển hướng sang gửi tại các trung
gian tài chính. Chính vì vậy, có thể nói thị trường tài chính có tính lưu dẫn rất cao và
quan trọng hơn là nó tiếp ứng cho các nhu cầu vốn để hướng tới những hiệu quả kinh tế
lớn hơn.
5.1.3.2. Chức năng cung cấp thanh khoản cho các chứng khoán
Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được hình thành và trao đổi. Nhờ thị
trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

hữu thành tiền hoặc thành các chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là
một yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Chức năng cung
cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán đảm bảo cho thị trường tài chính hoạt động
năng động và có hiệu quả.
5.1.3.2. Thị trường tài chính cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị doanh
nghiệp
Với những phương tiện kỹ thuật và thông tin hiện đại, thị trường tài chính là nơi
cung cấp kịp thời, chính xác những nguồn thông tin cần thiết có liên quan đến việc mua
bán các chứng khoán cho mọi thành viên của thị trường.
Thị trường tài chính là nơi lưu thông các giấy tờ mang giá trị, hay các bằng chứng
giá trị về các tài sản của doanh nghiệp. Do giá cả của chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi
nhiều nhân tố trong đó quan trọng nhất là giá trị nội tại của chủ thể phát hành, tức là tình
hình hoạt động và kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mặt khác, giá trị của doanh
nghiệp có cổ phiếu trên thị trường tài chính phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của các cổ
phiếu đang lưu hành. Vì vậy thông qua giá cổ phiếu của doanh nghiệp người ta có thể
đánh giá được giá trị của doanh nghiệp đó.
Hơn thế nữa, tài chính doanh nghiệp được coi là mắt khâu cơ sở của toàn bộ hệ
thống tài chính. Các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đầu tư đẩy mạnh, phát triển tốt…
làm tổng sản lượng quốc gia tăng, thất nghiệp giảm, đời sống nhân dân được cải thiện,
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế… Như vây, có thể khái quát là thông qua sự
biến động của chỉ số giá chứng khoán, thị trường tài chính phản ánh tính hiệu quả của
nền kinh tế, các xu hướng phát triển kinh tế… Và với xu hướng quốc tế hóa thị trường tài
chính như ngày nay, thị trường tài chính còn phản ánh xu hướng phát triển của kinh tế thế
giới

5.2. Cơ chế hoạt động của thị trường tài chính


5.2.1. Đối tượng mua bán trên thị trường tài chính
Đối tượng giao dịch trên thị trường tài chính là quyền sử dụng khoản tiền với tư
cách là vốn. Người mua cần quyền sử dụng vốn để có thể tạo ra thu nhập lớn hơn số lợi
tức phải trả cho người bán. Thực chất của hoạt động mua bán trên thị trường tài chính là
quyền sử dụng các nguồn tài chính ngắn hạn, dài hạn.
5.2.2. Giá trị trên thị trường tài chính
Chính là số lợi tức người mua trả cho người bán quyền sử dụng vốn. Nó có thể là
lợi tức tiền vay, lãi suất trái phiếu. lãi suất tín phiếu, lợi tức cổ phần…tuỳ theo từng hình
thức mua bán cụ thể giá cả trên thị trường này có thể được xác định trước như lãi suất trái
phiếu,…hoặc không được xác định trước như lợi tức cổ phần,…
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Giá cả trên thị trường tài chính cũng chịu biến động của cung cầu về vốn.
5.2.3. Hình thức mua, bán trên thị trường tài chính
Người mua quyền sử dụng vốn chính là người phát hành, người bán các chứng
khoán. Người bán quyền sử dụng vốn là người mua chứng khoán.
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Câu hỏi ôn tập


1. Thị trường tài chính được phân thành những loại thị trường nào? Đặc điểm của từng
thị trường?
2. Trình bày cơ chế hoạt động của thị trường tài chính?
3. Phân tích vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường tài chính
quốc gia?
4. Đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính của Việt Nam
hiện nay?
5. Hãy phân tích vai trò của các trung gian tài chính đối với thị trường tài chính?
6. Cho biết ý kiến của bạn về nhận định sau: “Nền kinh tế ở các nước đang phát triển
tăng trưởng chậm là do họ không có các thị trường tài chính được mở mang đầy đủ”.
7. Nhận định sau đây là đúng hay sai? Giải thích?
“ Trong một thế giới không có thông tin và chi phí giao dịch, nhưng trung gian tài chính
sẽ không tồn tại”
8. Hãy bình luận ý kiến sau:
“ Do các công ty không làm tăng thêm được bất kỳ vốn nào trong các thị trường thứ cấp
hiện nay, thị trường này ít quan trọng hơn thị trường sơ cấp?”
9. Theo em, thị trường tài chính Việt nam có những hạn chế cơ bản nào? Cách khắc
phục?
10. Để phát triển thị trường tài chính Việt nam hiện nay, nếu được đưa ra 05 ưu tiên cho
cải cách và phát triển, em nhấn mạnh vào những giải pháp nào? Giải thích?

You might also like