Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 64

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
Phần thứ nhất
Tiếng Việt

TiÕt 1- tiÕng viÖt:


TRƯỜNG TỪ VỰNG.
TỪ TƯỢNG HÌNH , TỪ TƯỢNG THANH
I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về trường từ vựng, từ tượng hình, từ tượng thanh.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng sử dụng trường từ vựng, từ tượng hình, từ tượng thanh trong khi nói, viết.
3. Thái độ.
- Yêu thích tìm hiểu sự phong phú của tiếng Việt.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập trường từ vựng, từ tượng hình, từ tượng thanh.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
__________________________

I. Trường từ vựng.
1. Lí thuyết.
? Em hiểu thế nào là trường từ vựng?

- Trường từ vựng là tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa.
? Khi sử dụng trường từ vựng cần lưu ý những gì?
* Lưu ý:
- Tuỳ theo ý nghĩa khái quát mà một ttrường từ vựng có thể bao hàm nhiều trường từ vựng nhỏ hơn.
Ví dụ: Trường từ vựng tay bao gồm các trường nhỏ hơn.
+ Bộ phận của tay: Cánh tay, cẳng tay, khuỷu tay, bàn tay, ngón tay...
+ Hoạt động của tay: Chặt, viết, ném, cầm...
+ Đặc điểm của tay: Dài, ngắn, to, nhỏ, khéo, vụng...
- Các trường từ vựng nhỏ trong trường từ vựng lớn có thể thuộc nhiều từ loại khác nhau.
Ví dụ:
+ Bộ phận của tay: Cánh tay, cẳng tay, khuỷu tay, bàn tay, ngón tay...( danh từ)
+ Hoạt động của tay: Chặt, viết, ném, cầm...( động từ)
+ Đặc điểm của tay: Dài, ngắn, to, nhỏ, khéo, vụng...( tính từ)
- Một từ nhiều nghĩa có thể thuộc nhiều trường từ vựng khác nhau.
Ví dụ.
Trường mùi vị : Chua, cay, đắng, Chua ngọt...
Trường âm thanh: chua, êm dịu, ngọt, chối tai...
? Nêu tác dụng của trường từ vựng?
- Trong khi nói, viết sử dụng cách chuyển trường từ vựng thường nhằm mục đích tăng thêm tính nghệ thuật
của ngôn từ ( các biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ, so sánh...)
2. Luyện tập.
Bài tập 1.
? Có bao nhiêu trường từ vựng trong các từ được in đậm ở đoạn văn sau:
Vào đêm trước ngày khai trường của con, mẹ không ngủ được. Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ
biết thế nào là không ngủ được. Còn bây giờ giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một ly sữa, ăn một cái

---------------------------------------------------------------- 1 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

kẹo. Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên ngối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại
như đang mút kẹo.

Đáp án
- Trường từ vựng quan hệ ruột thịt : Mẹ, con.
- Trường từ vựng hoạt động của người: Ngủ, uống, ăn.
- Trường từ vựng hoạt động cuae mỗi người: Hé mở, chúm, mút.
Bài tập 2.
? Từ nghe trong câu sau đây thuộc trường từ vựng nào?
Nhà ai vừa chín quả đầu
Đã nghe xóm trước vườn sau thơm lừng.

Đáp án
- ở câu thơ này do phép chuyển nghĩa ẩn dụ, nên từ nghe thuộc trường từ vựng khứu giác.
Bài tập 3.
? Các từ sau đây đều nằm tròng trường từ vựng động vật, em hãy xếp chúng vào những trường từ vựng nhỏ
hơn.
gà, trâu, vuốt, nanh, đực, cái, kêu rống, xé, nhai, hót, gầm, đầu, mõm, sủa, gáy, lơn, mái, bò, đuôi, hú, rú,
mổ, gấu, khỉ, gặm, cá, nhấm, chim, trống, cánh, vây, lông, nuốt.

Đáp án
- Trường từ vựng giống loài: gà, lợn, chim, cá, trâu, bò, khỉ, gấu.
- Trường từ vựng giống: đực, cái, trống, mái.
- Trường từ vựng bộ phận cơ thể của động vật: vuốt, nanh, đầu, mõm, đuôi, vây, lông.
- Trường từ vựng tiếng kêu của động vật: Kêu, rống, gầm, sủa, gáy, hí, rú.
- Trường từ vựng hoạt động ăn của động vật: xé, nhai, mổ, gặm, nhấm, nuốt.
Bài tập 4.
?Tìm các từ thuộc các trường từ vựng sau: Hoạt động dùng lửa của người; trạng thái tâm lí của người; trạng
thái chưa quyết định dứt khoát của người; tính tình của người; các loài thú đã được thuần dưỡng.

Đáp án
- Hoạt động dùng lửa của người: châm, đốt, nhen, nhóm, bật, quẹt, vùi, quạt, thổi, dụi...
- Trạng thái tâm lí của người: vui, buồn, hờn, giận...
- Trạng thái chưa quyết định dứt khoát của người: lưỡng lự, do dự, chần chừ...
- Tính tình của người: vui vẻ, cắn cảu, hiền, dữ...
- Các loài thú đã được thuần dưỡng: trâu, bò, dê, chó...

II. Từ tượng hình, từ tượng thanh.


1. Lí thuyết.
? Thế nào là từ tượng hình, từ tượng thanh?
- Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái của sự vật.
Ví dụ: Móm mém, xộc xệch, vật vã, rũ rượi, thập thò...
- Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên của con người.
Ví dụ: Hu hu, ư ử, róc rách, sột soạt, tí tách...
? Nêu tác dụng của từ tượng hình, từ tượng thanh?
->Phần lớn các từ tượng hình, từ tượng thanh là từ láy.
- Từ tượng hình, từ tượng thanh gợi được hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động, có giá trị biểu cảm cao,
thường được dùng trong văn miêu tả và tự sự.
Ví dụ:
Đường phố bỗng rào rào chân bước vội
Người người đi như nước sối lên hè
Những con chim lười còn ngủ dưới hàng me
Vừa tỉnh dậy, rật lên trời, ríu rít...
Xe điện chạy leng keng vui như đàn con nít
---------------------------------------------------------------- 2 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Sum sê chợ Bưởi, tíu tít Đồng Xuân..


( Tố Hữu)
2. Luyện tập.
Bài tập 1.
? Trong các từ sau, từ nào là từ tượng hình, từ nào là từ tượng thanh: réo rắt, dềnh dàng, dìu dặt, thập thò, mấp
mô, sầm sập, gập ghềnh, đờ đẫn, ú ớ, rộn ràng, thườn thượt, rủng rỉnh, lụ khụ.
Đáp án
- Từ tượng hình: dềnh dàng, dìu dặt, thập thò, mấp mô, gập ghềnh, đờ đẫn, rộn ràng, thườn thượt, rủng rỉnh,
lụ khụ.
- Từ tượng thanh: Réo rắt, sầm sập, ú ớ.
Bài tập 2.
? Tìm các từ tượng hình trong đoạn thơ sau đây và cho biết giá trị gợi cảm của mỗi từ.
Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời
Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi!
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người
( Tố Hữu)
Đáp án
- Từ tượng hình: Ung dung, mênh mông, thanh thản, rực rỡ.
-> Các từ tượng hình trên được đặt trong ngữ cảnh gắn liền với sự vật, hành động làm cho sự vật hành động
trở nên cụ thể hơn, tác động vào nhận thức của con người mạnh mẽ hơn.
Bài tập 3.
? Trong đoạn văn sau đây, những từ nào là từ tượng hình? Sử dụng các từ tượng hình trong đoạn văn Nam
Cao muốn gợi tả đặc điểm nào của nhân vật?
Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh
tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng
điệu nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy là chững chạc và hơi bệ vệ.

Đáp án
- Từ tượng hình: Khệnh khạng, thong thả, khềnh khệnh, tủn ngủn, nặng nề, chững chạc, bệ vệ.
-> Sử dụng từ tượng hình trong đoạn văn trên tác giả muốn lột tả cái béo trng dáng điệu của nhân vật Hoàng.
Bài tập 4:
Viết đoạn văn tả mùa hè. Trong đoạn văn có sử dụng từ tượng hình, tượng thanh (gạch chân các từ
tượng hình, tượng thanh trong đoạn văn vừa viết)
3. Củng cố.
? Thế nào là từ tượng hình, từ tượng thanh?
4. Dặn dò.
? Xem lại bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội; trợ từ thán từ; tình thái từ; nói quá.

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /

TiÕt 2- tiÕng viÖt:

TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG VÀ BIỆT NGỮ XÃ HỘI


TRỢ TỪ THÁN TỪ; TÌNH THÁI TỪ.

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội; trợ từ thán từ; tình thái từ; nói quá.
2. Kĩ năng.
---------------------------------------------------------------- 3 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội; trợ từ thán từ; tình thái từ; nói quá. trong khi
nói, viết.
3. Thái độ.
- Yêu thích tìm hiểu sự phong phú của tiếng Việt.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội; trợ từ thán từ; tình thái từ; nói quá.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_________________________
I. Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội.
1. Lí thuyết.
? Thế nào là từ địa phương?
- Từ địa phương là từ ngữ chỉ sử dụng ử một ( hoặc một số) địa phương nhất định.
Ví dụ: O (cô gái) chỉ dùng ở Nghệ Tĩnh.
Hĩm ( bé gái) chỉ dùng ở Thanh Hoá.
? Thế nào là biệt ngữ xã hội?
- Biệt ngữ xã hội chỉ được dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định.
Ví dụ: Thời phong kiến vua tự xưng là trẫm.
- Khi sử dụng từ địa phương và biệt ngữ xã hội phải thực sự phù hợp với tình huống giao tiếp, nhằm tăng thêm
sức biểu cảm.
2. Luyện tập.
Bài tập 1.
? Trong các từ đồng nghĩa: cọp, khái, hổ từ nào là từ địa phương từ nào là từ toàn dân? vì sao?
Đáp án
- Khái là từ địa phương miền Trung Nam Bộ.
- Cọp, hổ là từ toàn dân.
Bài tập 2.
Đáp án
? Cho đoạn trích:
Ai vô thành phố
Hồ Chí Minh
Rực rỡ tên vàng.
Tìm và nêu rõ tác dụng của từ địa phương mà tác giả sử dụng?

Đáp án
- Tác giả lấy tư cách là người miền Nam tâm tình với đồng bào ruột thịt của mình ở thành phố Hồ Chí Minh.
Từ vô là từ địa phương miền Nam, do đó dùng từ vô để tạo sắc thái thân mật, đầm ấm.
Bài tập 3.
? Xác định từ toàn dân tương ứng với những từ địa phương được in đậm trong câu sau: Chị em du như bù
nước lã.
- Du -> dâu.
- Bù -> bầu.

II. Trợ từ, thán từ.


1. Lý thuyết.
? Trợ từ là gì?
- Trợ từ là những từ chuyên đi kèm một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật,
sự việc được nói đến ở từ ngữ đó.
Ví dụ:
+ Trợ từ để nhấn mạnh: Những, cái, thì, mà, là...
+ Trợ từ dùng để biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc: có, chính, ngay, đích, thị...
? Thán từ là gì?

---------------------------------------------------------------- 4 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Thán từ là những từ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của người nói hoặc dùng để gọi đáp. Thán từ thường đứng
ở đầu câu, có khi nó được tách ra thành một câu đặc biệt.
? Thán từ được chia làm mấy loại? đó là những loại nào?
- Thán từ được chia làm hai loại:
+ Thán từ dùng để biểu lộ tình cảm: Thán từ đích thực như ôi, ối, ái, ồ, á, chà, eo ơi, này, hỡi ơi... thán từ đi
kèm thực từ như trời ơi, khổ quá, cha mẹ ơi, chết...
+ Thán từ gọi đáp như hỡi, ơi, ê, vâng...
2. Luyện tập.
Bài tập 1.
? Tìm trợ từ trong các câu sau:
a. Những là rày ước mai ao.
b. Cái bạn này hay thật.
c. Mà bạn cứ nói mãi điều mà tôi không thích làm gì vậy.
d. Đích thị là Lan được điểm 10.
e. Có thế tôi mới tin mọi người.
Đáp án
- Các từ đứng đầu trong mỗi câu đều là trợ từ.
Bài tập 2.
? Tìm và xác định ý nghĩa của trợ từ trong các câu sau:
a. Nó hát những mấy bài liền.
b. Chính các bạn ấy đã giúp Lan học tập tốt.
c. Nó ăn mỗi bữa chỉ lưng bát cơm.
d. Ngay cả bạn thân, nó cũng ít tâm sự.
e. Anh tôi toàn những lo là lo.
Đáp án
- Câu a, e trợ từ những dùng để nhấn mạnh sự quá ngưỡng về mức độ.
- Câu b trợ từ chính dùng để nhấn mạnh độ chính xác, đáng tin cậy.
- Câu c trợ từ chỉ dùng để nhấn mạnh độ chính xác, đáng tin cậy.
- Câud trợ từ ngay cả dùng để nhấn mạnh độ chính xác, đáng tin cậy.
Bài tập 3.
? Đặt câu với những thán từ sau đây: à, úi chà, chết thật, eo ơi, ơi, trời ơi, vâng.

III. Tình thái từ.


1. Lí thuyết.
? Thế nào là tình thái từ?
- Tình thái từ là những từ được thêm vào câu để cấu tạo câu theo mục đích nói( ghi vấn, cầu khiến, cảm thán)
và để biểu thị sắc thái tình cảm của người nói.
Ví dụ: Mời u xơi khoai đi ạ!
U bán con thật đấy ư?
Từ ạ trong câu trên biểu thị thái độ kính trọng của Tí đối với mẹ, còn từ ư đã biến cả câu thành câu ghi vấn.

- Chức năng của tình thái từ


+ Tạo câu ghi vấn : à, ư, chứ, hả, phỏng, chăng...
+ Tạo câu cầu khiến: đi, nào, thôi, với...
+ Để tạo câu cảm thán: thay, thật, sao ...
+ Tình thái từ còn có chức năng biểu thị sắc thái tình cảm: à, ạ, nhé, cơ, mà, kia, thôi...
2. Luyện tập.
Bài tập 1.
? Trong gao tiếp, các trường hợp phát ngôn sau đây thường bị phê phán. Em hãy giải thích vì sao và chữa lại
cho thích hợp.
- Em chào thầy.
- Chào ông cháu về.
- Con đã học bài rồi.
- Mẹ ơi, con đi chơi một lát.
Bài tập 2.
? Xác định từ loại của các từ in đậm sau đây và giải thích vì sao:

---------------------------------------------------------------- 5 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

a. - Đảng cho ta trái tim giầu


Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay.
( Tố Hữu)
- Tôi mà có nói dối ai
Thì trời đánh chết cây khoai giữa đồng.
( Ca dao)
- Tôi đã giúp bạn ấy nhiều rồi mà.
b. – Mà nói vậy trái tim anh đó.
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
( Tố Hữu)
- Trời mưa thì chúng mình đành ở nhà vậy.

Bài tập 3.
? Từ vậy trong các trường hợp sau có gì đặc biệt?
a. Anh bảo sao thì tôi nghe vậy.
b. Không ai hát thì tôi hát vậy.
c. Bạn Lan hát vậy là đạt yêu cầu.

Bài 4.
? Đặt câu có sử dụng tình thái từ để biểu thị các ý sau đây: miễn cưỡng, kính trọng, thân thương, thân
mật, phân trần.
3. Củng cố.
? Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, trợ từ thán từ, tình thái từ, nói quá?
4. Dặn dò.
? Học nội dung bài và tự lấy ví dụ?

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /

TiÕt 3- tiÕng viÖt:

NÓI QUÁ;
NÓI GIẢM NÓI TRÁNH
I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về nói quá, nói giảm nói tránh.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng sử dụng cách nói giảm, nói tránh trong khi nói, viết.
- Biết xác định BP nói quá và tác dụng của nó.
3. Thái độ.
- Yêu thích tìm hiểu sự phong phú của tiếng Việt.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập về bp nói quá, nói giảm nói tránh.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
__________________________________
I. Nói quá.
1. Lí thuyết.
? thế nào là bp nói quá? Phân biệt nói quá với nói khoác, nói dối?
- Nói quá còn gọi là khoa trương, phóng đại, ngoa dụ, thậm xưng, cường điệu… Nói quá dùng cách
phóng đại quy mô, mức độ, tính chất…của đối tượng để nhấn mạnh, tăng thức biểu cảm.

---------------------------------------------------------------- 6 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Nói khoác, nói dốicũng phóng đại mức độ, tính chất…của đối tượng nhưng nhằm mục đích làm người
nghe tin vào điều không có thực.
? Nói quá thường liên quan đến bp tu từ nào?
- Nói quá thường được dùng kèm với bp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ.
? Bp nói quá thường gặp trong các trường hợp giao tiếp, các loại vb nào?
- Dùng trong văn tự sự, miêu tả….ít được sử dụng trong vb hành chính, khoa học.
2. Luyện tập.
Bài tập 1. Chỉ rõ và nêu tác dụng của phép nói quá trong câu:
- Hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực.
(Ai-ma-tốp – Người thầy đầu tiên)

Đáp án.
Hình ảnh nói quá: “reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Nói quá như vậy để diễn tả màu đỏ
và âm thanh gió thổi vào hai cây phong rất mạnh.
Bài tập 2.
Tìm bp nói quá trong câu sau:
Giá những cổ tục đã đầy đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ
ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.

Đáp án.
Cách nói quá thể hiện ở cụm từ: mà cắn, mà nhai, mà nghiến kì nát vụn mới thôi.
Bài tập 3. Viết đọan văn ngắn diễn tả niềm vui của em trong dịp nào đó. Trong đoạn có dùng cách nói
quá.
II. Nói giảm nói tránh.
1. Lí thuyết.
? Thế nào là nói giảm nói tránh?
- Là dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề, thô tục,
thiếu lịch sự.
? Cách sử dụng nói giảm nói tránh?
- Cần sử dụng linh hoạt đúng lúc, đúng chỗ.
2. Luyện tập.
Bài tập 1.Đặt hai cặp câu không dùng và có dùng cách nói giảm nói tránh. Nhận xét, so sánh sắc thái ý
nghĩa và giá trị biểu cảm của mỗi cách nói.
Bài tập 2. Viết đoạn văn khoảng 8 câu có dùng cách nói giảm nói tránh bằng cách dùng từ đồng nghĩa
Hán Việt.

3. Củng cố.
- Thế nào là nói quá? Cho ví dụ?
- Thế nào là nói giảm nói tránh? Cho ví dụ?
4. Dặn dò.
Về nhà ôn bài, xem lại các bài tập, học thuộc các ghi nhớ.
_____________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /

Phần thứ hai: Tập làm văn


TiÕt 4- - tËp lµm v¨n:
§1. VĂN BẢN
I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về chủ đề, phân biệt chuyện với chủ đề, đại ý của bài, tính thống nhất của chủ
đề.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân biệt chuyện với chủ đề, xác định chủ đề, đại ý của bài, tính thống nhất của chủ đề.
3. Thái độ.
- Có ý thức khi viết bài.
---------------------------------------------------------------- 7 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

II. Chuẩn bị.


- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập về chủ đề, phân biệt chuyện với chủ đề, đại ý của bài, tính thống nhất của chủ đề.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
___________________________________
I. Chủ đề.
1. Chủ đề là gì?
Là đề tài chính và đối tượng mà văn bản biểu đạt, là tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn bản.
VD: Chủ đề của truyện “Lục Vân Tiên” là trung, hiếu, tiết, nghĩa.
- Bức thư của bố: “mẹ tôi” trong “những tấm lòng cao cả có chủ đề như sau:
“Qua bức thư, bố nghiêm khắc phê phán hành vi vỗ lễ của con đối với mẹ; chỉ cho con thấy công ơn to
lớn và tình thương bao la của mẹ hiền, khuyên con phải thành khẩn xin lỗi mẹ”
- Chủ đề bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh là: Tình yêu gia đình và quê hương dào dạt trong tâm
hồn người lính trẻ trên đường hành quân ra trận thời đánh Mĩ.
2. Chuyện với chủ đề.
- Không được lầm lẫn giữa chuyện với chủ đề
VD: “Buổi học cuối cùng” - Đô đê
Tác giả kể chuyện : Em bé Phrăng kể lại chuyện buổi dạy học cuối cùng của thấy Ha –men ở vùng An-
dát của nước Pháp bị Đức chiếm đóng.
Chủ đề của truyện đó là : nỗi đau của nhân dân dưới ách thống trị của ngoại bang; biết yêu tiếng mẹ đẻ
là yêu nước; biết giữ lấy tiếng nói của dân tộc mình là nắm được chìa khoá để giải phóng, để giành lại tự do.
- Vậy “chuyện” và “chủ đề” của truyện “lão Hạc” là gì?
+ Chuyện về lão Hạc- một người nông dân vì nghèo đói quá nên đã tìm đến cái chết bằng cách ăn bả
chó tự tử sau khi đã bán chó, dành dụm tiền cho đứa con trai đang làm thuê ở đồn điền cao su.
+ Chủ đề: Số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của
họ. Đồng thời truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn đối với người nông dân.
3. Đại ý.
Đại ý là ý lớn trong một đoạn thơ, một tình tiết, một đoạn, một phần của truyện. Một đoạn thơ, một tình
tiết, một đoạn, một phần của truyện thì chưa hình thành được chủ đề. Cần phân biệt đại ý với chủ đề.
VD: Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
- 4 câu thơ đầu, đại ý là tả cảnh Đèo Ngang lúc bóng xế tà.
- 4 câu thơ cuối (2 câu luận + 2 câu kết) ; nỗi buồn cô đơn của nữ sĩ (đại ý)
=> Chủ đề: tâm trạng buồn, cô đơn của li khách khi bước tới Đèo Ngang trong ngày tàn.
4. Đa chủ đề. một tác phẩm có thể chỉ có một chủ đề. Một tác phẩm cũng có thể có nhiều chủ đề (đa
chủ đề)
VD: Bài thơ “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt) rút trong “Nhật kí trong tù” có chủ đề tình yêu trăng (thiên
nhiên) và phong thái ung dung tự tại của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đầy.
- “Nhật kí trong tù” là một tập thơ đa chủ đề
+ Những khổ cực đày đoạ của thân tù
+ ý chí kiên cường bất khuất, lạc quan
+ Lòng khao khát tự do
+ Lòng yêu nước
+ Lòng thương người
+ Tình yêu thiên nhiên
+ Phong thái ung dung, tự tại
Đó là những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ vĩ đại
+ Hiện thực chế độ nhà tù tăm tối, vô nhân đạo.
- Những bộ tiểu thuyết đồ sộ hàng nghìn trang như “tam quốc chí”, “tây du kí”, “thuỷ hử”, “chiến tranh
và hoà bình”… đều có đa chủ đề là một điều dễ hiểu. Nhưng có những tác phẩm quy mô nhỏ vẫn có thể có
nhiều chủ đề.
VD: Bài thơ “Bánh trôi nước” có các chủ đề sau:
+ Tự hào về một loại bánh ngon của dân tộc
+ Ca ngợi phẩm chất người phụ nữ Việt Nam (nhan sắc, thuỷ chung…)

---------------------------------------------------------------- 8 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

+ Cảm thông với thân phận, số phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Bài thơ “bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến có người bảo chỉ có một chủ đề: tình bạn cố tri chân
thành, chung thuỷ. Có người lại cho rằng có hai chủ đề:
+ Tình bạn đẹp, chân thành
+ Hai cuộc đời thanh bạch của một nhà nho.
=>Ý kiến của em thế nào?
5. Tính thống nhất của chủ đề.
Nếu các câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn, các tình tiết.. là xương thịt của tác phẩm, thì chủ đề là linh hồn của
bài thơ, của truyện. Nếu không nắm được toàn bộ các chi tiết của văn bản thì khó hình dung được chủ đề, tính
tư tưởng của tác phẩm. Các chi tiết bộ phận của tác phẩm liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành chủ đề. Tựa
như nền, móng, cột kèo, xà, tường, nóc, ngói, tranh… hợp thành mới ra cái nhà.
Tính thống nhất của chủ đề là sự liên kết chặt chẽ, sự hoà hợp gắn bó của các bộ phận tác phẩm như
nhan đề, lời đề từ (nếu có), từ ngữ hình tượng, giọng điệu (thơ), cốt truyện, nhân vật, diễn biến, câu trữ
tình ngoại đề (nếu có)- tạo thành một chỉnh thể. Sự thừa, thiếu trong tác phẩm là hiện tượng biểu lộ sự
non yếu của tác giả đã phá vỡ tính thống nhất của chủ đề.
VD: Truyện ngắn “cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài, từ nhan đề đến cốt truyện, các
tình tiết đều mang tính liên kết khá chặt chẽ:
- Thuỷ và Thành đau khổ khóc suốt đêm
- Sáng sớm Thành đau buồn đi ra vườn ngồi một mình, thì em gái theo ra.
- Hai anh em chia đồ chơi
- Thành dẫn Thuỷ về trường cũ, chào giã biệt cô giáo Tâm và các bạn lớp 4B.
- Trước lúc lên xe, Thuỷ để lại cho anh trai cả hai con búp bê…. Thành nhìn theo bóng em gái rối khóc.
=> Qua đó, ta rút ra chủ đề của truyện là:
- Sự đau khổ của tuổi thơ trước bi kịch gia đình (cha mẹ bỏ nhau)
- Tình thương yêu của anh em, của bè bạn trong bi kịch gia đình.
II. Bài tập.
Bài 1.
1. Phân tích bố cục bài “Rừng cọ quê tôi” (trang 13 –sách ngữ văn 8)
2. Giới thiệu hai câu văn biểu cảm trực tiếp
3. Chủ đề văn bản “Rừng cọ quê tôi” là gì?
Gợi ý: Đây là một văn bản biểu cảm rất đặc sắc
Đáp án
1.
Phần I: Câu mở đầu tác giả tự hào giới thiệu cảnh “rừng cọ trập trùng”, là vẻ đẹp của sông Thao quê tôi
không có nơi nào đẹp bằng
Phần II: gồm 3 đoạn văn tả cây cọ, rừng cọ và lợi ích của nó
+Đoạn 1: tả cụ thể cây cọ: thân cao vút thẳng, rất dẻo dai “gió bão không thể quật ngã”. Búp cọ “như
thanh kiếm sắc vung lên”. Cây non… “lá đã xoà sát mặt đất”. Lá cọ tròn xoe “như một rừng tay vẫy”. Rừng
cọ là nơi trú ngụ ca hót của đàn chim khi mùa xuân về. Tất cả các chi tiết : thân cọ, búp cọ, cây non, lá cọ,
rừng cọ mùa xuân, đều thể hiện rừng cọ rất đẹp, cây cọ có một sức sống vô cùng mạnh mẽ.
+ Đoạn 2: Nói rừng cọ với tuổi thơ tác giả. Tâm hồn tác giả đã gắn bó thiết tha với rừng cọ. Căn nhà
“núp dưới rừng cọ”. Ngôi trường “khuất trong rừng cọ”. Con đường đi học “đi trong rừng cọ”. Ngày nắng,
ngày mưa có bóng cọ chở che.
+ Đoạn 3: Rừng cọ gắn bó với đời sống vật chất của người dân sông Thao. Cha làm chổi cọ, mẹ lấy
móm lá cọ đựng hạt giống. Chị đan lá cọ, làm mành cọ, lán cọ để xuất khẩu. Trẻ chăn trâu nhặt trái cọ đem
về om, “ăn vừa béo vừa bùi”
- Phần III: tác giả nhắc lại câu hát: “cơm nắm lá cọ là người sông Thao”, rồi khẳng định một tình yêu
thuỷ chung của người sông Thao: “đi đâu rồi cũng nhớ về rừng cọ quê mình”
2. Có hai câu văn biểu cảm trực tiếp nói lên tình cảm của tác giả, của người sông Thao đối với rừng cọ
quê nhà
- Chẳng có nơi nào đẹp như sông Thao quê tôi, rừng cọ trập trùng
- Người sông Thao đi đâu, rồi cũng nhớ về rừng cọ quê mình
3. Chủ đề “rừng cọ” quê tôi là gì?
- Rừng cọ là vẻ đẹp của vùng sông Thao
- Tình yêu mến quê nhà của người sông Thao.
Bài 2:

---------------------------------------------------------------- 9 -----------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hãy nêu xuất xứ, chủ đề của truyện ngắn “tôi đi học” của Thanh Tịnh? Hãy chỉ ra tính thống nhất về
chủ đề của văn bản đó?
Đáp án
1. Xuất xứ, chủ đề.
Truyện “tôi đi học” như một trang hồi kí ghi lại những hoài niệm, kỉ niệm đẹp của tuổi thơ trong buổi
tựu trường, truyện được in trong tập “Quê mẹ”, xuất bản năm 1941
“Tôi đi học” đã thể hiện những tình cảm hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng, tâm trạng bâng khuâng, hồi
hộp của một em bé trong buổi tựu trường. Em “như một con chim con đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng
muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ”
2. Tính thống nhất về chủ đề của truyện “Tôi đi học”.
Truyện ngắn “tôi đi học” gồm có các chi tiết, tình tiết diễn tả tâm trạng của chú bé (nhân vật “tôi”) trong
buổi tựu trường.
- Mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi tren con đường làng dài và hẹp trong một buổi mai đầy sương thu và gió
lạnh. Lòng tôi “có sự đổi thay lớn”… nên tôi thấy cảnh vật thân quen trở nên “lạ”
- Thấy các bạn nhỏ cầm sách vở, bút, thước… tôi rất “thèm” và đòi mẹ đưa bút thước cho cầm thử để
thử sức mình.
- Thấy trường làng Mĩ Lí oai nghiêm như đình làng Hoà Ấp, đông đặc cả người, ai cũng áo quần sạch
sẽ, gương mạt vui tươi sáng sủa. Lòng tôi “đâm ra lo sợ vẩn vơ”. Học trò mới “thèm vụng và ước ao thầm”…
được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy đề khỏi “rụt rè” trong cảnh lạ
- Nghe tiếng trống trường dội vang, nghe ông đốc đọc tên, các học sinh mới đều khóc, còn tôi cũng nức
nở theo. Nghe gọi đến tên minh, tôi “giật mình và lúng túng”, quên cả mẹ đang đứng sau. Khi thấy giáo trẻ
dẫn vào lớp, tôi cảm thấy “trong thời thơ ấu tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này”.
- Vào ngồi trong lớp, tôi thấy một mùi hương lạ xông lên; tôi bâng khuâng ngắm nhìn xung quanh, nhìn
bạn… rồi vòng tay lên bàn, nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc bài tập viết: “Tôi đi học”
=> Các chi tiết trên không chỉ thể hiện diễn biến sự việc, cảnh vật và tâm trạng nhân vật “tôi” trong buổi
tựu trường mà còn gắn kết với nhau trong một thời gian (buồi sớm đầy sương thu và gió lạnh), trong ba không
gian: con đường làng dài và hẹp, sân trường làng Mĩ Lí, phòng học lớp Năm. Cảnh vật và tâm trạng đều diễn
biến, hoà quyện, không thừa. Ví dụ con chim nhỏ đậu trên cửa sổ lớp học rồi vụt cách bay đi.
Qua đó ta thấy tính thống nhất của chủ đề truyện “tôi đi học”: tâm trạng hồi hộp, bâng khuâng, tình cảm
trong sáng hồn nhiên của tuổi thơ trong buổi tựu trường (đầu tiên của đời mình)
Bài 3: Cho đề văn sau: “Kể lại kỉ niệm ngày đầu tiên đi học lớp Một của em”.
Có hai bạn triển khai hai hướng như sau:
Hướng 1:
a,Chú em cho em một chiếc cặp sách rất đẹp khi em sắp vào năm học lớp Tám. Chiếc cặp đã gợi nhớ kỉ
niệm ngày đầu tiên đi học lớp một
b, Cách đây tám năm, ngày đầu tiên đi học lớp một, bà nội đưa em đi, vì bố mẹ em đi công tác xa.
c, Bà đã già nên không kịp ra phố mua cặp mới cho em, em đựng sách trong túi vải rất to của bà, trông
rất ngộ.
d, Hai bà cháu đi dò qua sông, sang trường học. Trên đò rất nhiều các bạn và các vị phụ huynh. Không
khí như ngày hội, ai cũng mặc quần áo đẹp. Giá như mọi ngày em sẽ gấp chiếc thuyền giấy thả trôi sông.
Nhưng hôm nay, em đứng thật nghiêm chỉnh trên đò.
e, Ấn tượng của buổi học đầu tiên là hình ảnh cô giáo của em. Cô rất dịu dàng và đặc biệt có hai bím tóc
dài tới tận khoeo chân. Lời nói của cô: “con đưa mũ để cô cất nào” và nụ cười của cô- đến tận bây giờ em vẫn
không quên.
Hướng 2:
a. Hôm em sang trường dự khai giảng năm học lớp Tám, em đã tự đi xe đạp một mình. Em bỗng mỉm
cười nhớ lại cái ngày đầu tiên ở lớp một mẹ đưa em đến lớp
b. Từ nhà em ở phố Mai Hắc Đế, đi qua phố Tô Hiến Thành, đi thẳng rất lâu mới đến trường cấp I, II
Vân Hồ. Em rất ghét mấy chị lớn hơn em một chút, thấy em lũn cũn cắp cặp đi học, cứ đùa doạ bắt trói em và
đem nhốt. Cái năm “ngớ ngẩn” ấy, em rất sợ các chị.
c. Vào lớp học, cô giáo đi thu mũ nón của các bạn trong lớp để gọn gàng một góc lớp. Em đã thật thà
hỏi cô: “lát nữa con về, cô có trả mũ nón không ạ?”. Cô giáo bật cười, xoa đầu em và bảo: “Có chứ, con!”
d. Cô giáo em có giọng nói rất hay, cô viết chữ mẫu trên bảng rất đẹp, nhưng cô lại có tên không hay.
Em nghe các bạn gọi là cô Chưng

--------------------------------------------------------------- 10 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

e. Khi về nhà, sau buổi học đầu tiên, em đã hãnh diện nói với bố mẹ và chị của em là em học lớp cô
Chưng. Lập tức em đã bị chị em cười rất to và giễu: “Đó là cô Hưng. Thật là ngớ ngẩn. Tên cô giáo cũng nghe
nhầm” (Chị em học lớp ba cùng trường mà). Thật là ngượng nhớ đời!
Theo em, hai hướng triển khai của hai bạn học sinh trên về đề văn đã cho, bạn nào đúng, bạn nào sai?
Vì sao? Có điểm nào ai bạn cùng giống nhau không ? Em thích khai triển theo hướng nào?
Hãy trình bày hướng triển khai đề văn của riêng em và viết thành bài cụ thể.
Gợi ý: Cả hai hướng triển khai của hai bạn học sinh đều đúng. Vì các sự việc, các chi tiết nêu ra đều
hướng tới làm rõ ý cơ bản của đề bài là về kỉ niệm buổi đi học đầu tiên của em (tức là bài văn đã xác định
được sự thống nhất của chủ đề văn bản)
3. Củng cố.
- Chủ đề là gì?
- Điểm khác biệt chuyện với chủ đề?
4. Dặn dò.
- Về nhà xem lại và hoàn thiện các bài tập.
________________________________________________

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 5- tËp lµm v¨n:

§1. VĂN BẢN (Tiếp)

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về bố cục của văn bản, Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây
dựng đoạn văn trong văn bản, Cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng sử dụng bố cục của văn bản, Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây dựng đoạn
văn trong văn bản, Cách trình bày nội dung trong đoạn văn. trong khi nói, viết.
3. Thái độ.
- Biết cách trình bày bài nói, viết.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập về bố cục của văn bản, cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, xây dựng đoạn văn trong
văn bản, cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
______________________________________
I.
II.
III- Bố cục của văn bản.
1. Ghi nhớ :
- Bố cục của văn bản là sự tổ chức các đoạn văn để thể hiện chủ đề. Văn bản thường có bố cục 3 phần:
Mở bài, thân bài, kết bài
+ Phần mở bài có nhiệm vụ nêu ra chủ đề của văn bản.
+ Phần thân bài thường có một số đoạn nhỏ trình bày các khía cạnh của chủ đề.

--------------------------------------------------------------- 11 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

+ Phần kết bài tổng kết chủ đề của văn bản.


- Nội dung phần thân bài thường được trình bày theo một thứ tự tuỳ thuộc vào kiểu văn bản, chủ đề, ý đồ
giao tiếp của người viết. Nhìn chung, nội dung ấy thường được sắp xếp theo trình tự thời gian và không
gian, theo sự phát triển của sự việc hay theo mạch suy luận, sao cho phù hợp với sự triển khai chủ đề và
sự tiếp nhận của người đọc.
VD:
a. Văn miêu tả.
- Mở bài: giới thiệu chung về ấn tượng cảm xúc đối với cảnh vật
- Thân bài: tả từng phiên cảnh cụ thể, tả khái quát toàn cảnh
- Kết bài: nêu cảm xúc, ý nghĩ
b. Văn tự sự.
- Mở bài: giới thiệu câu chuyện
- Thân bài: kể diễn biến câu chuyện
- Kết bài: kết cục câu chuyện, hoặc nói lên suy nghĩ, cảm nghĩ
Câu chuyện: Con chim hồng
1. Một người đi săn ở Thiên Tân đem bẫy vào rừng đánh bắt được một con chim hồng mái rất đẹp. Bỏ
chim vào lồng, đem về. Con chim trống cứ bay theo, cất tiếng kêu rất ai oán. Con trống bay theo về tận nhà
người đi săn, kêu khóc như van xin cho đến tối mịt mới chịu bay đi.
2. Mờ sáng hôm sau, người đi săn dậy mở cửa đã nhìn thấy con chim trống đậu trước sân. Chim vẫy
cánh nhịp nhàng như có ý ra hiệu gì. Người đi săn lại gần định bắt lấy cho được cả đôi. Chim trống vươn cao
cổ, nhả ra một cục vàng rất to, sáng lấp lánh. Người đi săn chợt hiểu, hỏi: “muốn chuộc vợ sao?” Bèn thả con
chim mái ra. Đôi chim mừng mừng tủi tủi, quanh quẩn mãi, chưa nỡ bay đi.
3. Người đi săn cân vàng. Được hai lạng sáu đồng cân. Cầm cục vàn trên tay, anh ta xúc động nghĩ:
“Cầm thú không biết gì mà còn chung tình thế? Có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn của đôi lứa phải chia li. Loài
cầm thú cũng thế ư?..”
(Theo “Liêu trai chí dị”)
c. Văn nghị luận.
- Mở bài: nêu vấn đề
- Thân bài: giải quyết vấn đề. Có thể lần lượt dùng lí lẽ hoặc dẫn chứng để giải thích, hay chứng minh,
hay bình luận từng luận điểm, từng khía cạnh của vấn đề
- Kết bài: khẳng định vấn đề. Liên hệ cảm nghĩ
VD: Bài “tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Hồ Chí Minh
- Mở bài: Tác giả nêu vấn đề: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. Lòng yêu nước của nhân dân ta
là một truyền thống quý báu, có sức mạnh vô địch để chiến thắng thù trong, giặc ngoài.
- Thân bài: tác giả chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta
+ Những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…
+ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp: đủ các lứa
tuổi, các thành phần giai cấp, tôn giáo, khắp mọi miền đất nước (miền ngược, miền xuôi, tiền tuyến, hậu
phương, những hành động yêu nước…)
- Kết bài: tác giả nêu lên nhiệm vụ của toàn dân là phải phát huy tinh thần yêu nước để kháng chiến và
kiến quốc.
2. Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài.
Thân bài là phần chính trung tâm, phần trọng tâm của bài văn, của văn bản. Mỗi loại văn bản ở phần
thân bài có cách bố trí, sắp xếp nội dung khác nhau.
a. Thân bài văn miêu tả: có thể sắp xếp bố trí từ cảnh này đến cảnh khác, từ bộ phận này đến bộ phận
khác theo thời gian và không gian, có cảnh chính và cảnh phụ.
b. Thân bài văn tự sự: có thể sắp xếp, bố trí các tình tiết, các sự việc, các nhân vật nối tiếp hoặc xen kẽ
nhau xuất hiện theo diễn biến tự nhiên của câu chuyện.
VD: truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” có 5 tình tiết sau hình thành cốt truyện và diễn biến câu
chuyện:
- Mụ vợ ông lão đánh cá bảo chồng ra biển xin con cá vàng một cái máng lợn
- Mụ vợ sai chồng ra biển xin con cá vàng cho mụ một cái nhà mới
- Mụ vợ bắt chồng đi gặp con cá vàng xin cho mụ làm nhất phẩm phu nhân
- Mụ vợ bắt chồng đòi cá vàng để mụ được làm nữ hoàng
- Mụ vợ ông lão đánh cá đòi được làm Long Vương ngự trên mặt biển

--------------------------------------------------------------- 12 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

c. Thân bài văn nghị luận: chất liệu làm nên bài văn nghị luận là lí lẽ, dẫn chứng và cách lập luận. Thân
bài của một bài văn nghị luận là hệ thống các luận điểm, luận cứ. Qua các luận điểm, luận cứ, người viết dùng
lí lẽ, dẫn chứng để giải thích, chứng minh, bình luận để làm nổi bật luận đề (vấn đề đã nêu ra)
VD: trong bài “thế nào là học tốt”, ông Trường Chinh đã nêu lên 4 căn cứ, 4 luận điểm sau:
- Học tốt trước hết là học sinh phải đi học cho đều, chăm chú nghe giảng…
- Hai là học phải gắn với hành, với lao động….
- Ba là học sinh phải chăm lo học tập và rèn luyện về các mặt trí dục, đức dục, mĩ dục, thể dục để phát
triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa
- Bốn là, học sinh phải kính trọng thầy, cùng gánh trách nhiệm với thầy trong việc xây dựng nhà trường
xhcn….
3. Xây dựng đoạn văn trong văn bản.
a. Đoạn văn là gì?
Một văn bản gồm có nhiều đoạn văn hợp thành. Vậy, đoạn văn là một phần của văn bản. Đoạn văn chỉ
có một câu văn, hoặc do một số câu văn tạo thành. Đoạn văn biểu đạt một ý tương đối trọn vẹn của văn bản.
Về hình thức, chữ đầu đoạn văn phải viết hoa, lùi vào độ một ô tính từ lề. Kết thúc đoạn văn bằng dấu chấm
xuống dòng.
b. Câu chủ đề của đoạn văn.
Câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) mang nội dung khái quát lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần
chính C- V; nó có thể đứng đầu đoạn văn (đoạn diễn dịch) cũng có thể đứng cuối đoạn (đoạn quy nạp)
VD1 : Đảng ta vĩ đại thật. Trong lịch sử ta có ghi chuyện anh hùng dân tộc là Thánh Gióng đã dùng gốc
tre đánh đuổi giặc ngoại xâm. Trong những ngày đầu kháng chiến, Đảng ta đã lãnh đạo hàng nghìn, hàng vạn
anh hùng noi gương Thánh Gióng dùng gậy tầm vông đánh thực dân Pháp.
(Hồ Chí Minh)
VD2: Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc. Tuổi trẻ
VN được cắp sách đến trường, được hưởng thụ một nền giáo dục hoàn toàn tự do. Một chân trời tươi sáng bao
la mở rộng trước tầm mắt thanh, thiếu niên nhi đồng. Học không phải để làm quan. Học để làm người, người
lao động sáng tạo, có trình độ văn hoá, khoa học, kĩ thuật để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Người người học tập, nhà nhà học tập để nâng cao dân trí. Vì vậy, học tập là nghĩa vụ của chúng
ta.
c. Quan hệ giữa các câu trong đoạn văn.
Trong một đoạn văn các câu có quan hệ ý nghĩa chặt chẽ với nhau. Có thể bổ sung ý nghĩa cho nhau; có
thể liên kết, phối hợp với nhau về ý nghĩa.
4. Cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
- Dựng đoạn diễn dịch ( là cách thức trình bày ý đi từ ý chung, khái quát đến các ý cụ thể chi tiết. Đoạn
diễn dịch thì câu chốt đứng đầu đoạn, các câu đi kèm sau nhằm minh hoạ câu chốt.
VD: Em rất kính yêu mẹ. Bố thì nghiêm, mẹ thì hiền. Mẹ giống bà ngoại, từ nét mặt, nụ cười đôn hậu
đến đôi bàn tay nhỏ nhắn, khéo léo. Mẹ đã về hưu được vài năm nay. Mẹ thức khuya, dậy sớm lo cho các con
được ăn ngon, mặc đẹp, được học hành giỏi giang. Đứa con nào bị ốm, mẹ thở dài lo lắng, chăm sóc từng viên
thuốc, từng bát cháo… Mẹ luôn dặn các con: “nhà ta còn khó khăn, các con phải ngoan và chăm chỉ học
hành”. Mỗi lần đi xa một hai ngày, em nhớ mẹ lắm!
- Dựng đoạn quy nạp ( là cách trình bầy nội dung đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý chung khái quát.
Trong đoạn quy nạp, các câu mang ý chi tiết, cụ thể đứng trước, câu chủ đề đứng cuối đoạn.
Chú ý: đoạn diễn dịch có thể đảo lại thành đoạn quy nạp, hoặc ngược lại
VD: Tình bạn phải chân thành, tôn trọng nhau, hết lòng yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Lúc vui,
lúc buồn, khi thành đạt, khi khó khăn, bạn bè phải san sẻ cùng nhau. Có bạn chí thiết, có bạn tri âm, tri kỉ…
Nhân dân ta có nhiều câu tục ngữ rất hay nói về tình bạn như : “giàu vì bạn, sang vì vợ” hay “Học thầy không
tày học bạn”, nhà thơ Nguyễn Khuyến có bài “bạn đến chơi nhà” được nhiều người yêu thích. Trong đời
người, hầu như ai cũng có bạn. Bạn học thời tuổi thơ, thời cắp sách là trong sáng nhất, hồn nhiên nhất. Thật
vậy, tình bạn là một trong những tình cảm cao đẹp của chúng ta.
- Dựng đoạn song hành (là đoạn văn được sắp xếp các ý ngang nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp nhau
để diễn tả ý chung. Đoạn song hành không có câu chủ đề.
VD: Đi giữa Hạ Long vào mùa sương, ta cảm thấy những hòn đảo vừa xa lạ, vừa quen thuộc, mờ mờ,
ảo ảo. Chung quanh ta, sương buông trắng xoá. Còn thuyền bơi trong sương như bơi trong mây. Tiếng sóng
vỗ loong boong trên mạn thuyền. Tiếng gõ thuyền lộc ộc của bạn chài săn cá, âm vang mặt vịnh. Thỉnh thoảng
mấy con hải âu đột ngột hiện ra trong màn sương….
(Vịnh Hạ Long)

--------------------------------------------------------------- 13 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Dựng đoạn móc xích là đoạn văn trong đó cách sắp xếp ý nọ tiếp theo ý kia theo lối móc nối vào ý
trước (qua những từ ngữ cụ thể) để bổ sung, giải thích cho ý trước.
VD: Muốn xây dưng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có
kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật cải tiến thì phải có văn hoá. Vậy, việc bổ túc văn hoá là cực kì cần
thiết.

3. Củng cố.
- Bố cục của văn bản là gì?
- Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây dựng đoạn văn trong văn bản, Cách trình bày nội dung
trong đoạn văn ntn?
4. Dặn dò.
- Về xem nd bài.
- Tìm hiểu cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây dựng đoạn văn trong văn bản, Cách trình bày
nội dung trong đoạn văn.
__________________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 6- tËp lµm v¨n:

§1. VĂN BẢN (Tiếp)

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về bố cục của văn bản, Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây dựng
đoạn văn trong văn bản, Cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng sử dụng bố cục của văn bản, Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây dựng đoạn văn
trong văn bản, Cách trình bày nội dung trong đoạn văn. trong khi nói, viết.
3. Thái độ.
- Biết cách trình bày bài nói, viết.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập bố cục của văn bản, Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài, Xây dựng đoạn văn trong văn
bản, Cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_________________________________________
BÀI TẬP
Bài 1. Nhận diện đoạn văn ( trang 33, 34, 35 sách “cảm thụ ngữ văn THCS 8; bài 13 tr 17, 18 sách “các
dạng tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8).
Bài 2. Cho câu chủ đề sau:
a.“Em quên sao được kỉ niệm ngày đầu tiên đi học lớp Một”.
1. Viết tiếp câu chủ đề trên để có một đoạn văn diễn dịch khoảng từ 10 đến 12 câu.
2. Sau đó, hãy chuyển đổi đoạn văn diễn dịch thành đoạn văn quy nạp. Nêu cách chuyển đổi.
b. Ca dao và tục ngữ Việt Nam đã diễn tả sâu sắc tình cảm yêu thương cộng đồng.
Hãy viết tiếp câu chủ đề trên để có một đoạn văn nghị luận chứng minh kết cấu theo kiểu tổng – phân -
hợp
c. Viết đoạn văn tổng phân hợp cho sẵn câu chủ đề.
Cái tình của lão Hạc đối với “cậu Vàng” thật là hiếm có và Nam Cao đã ghi lại trong những dòng
chữ xúc động. Bởi không còn là con chó thường, cậu “vàng” đã trở thành người thân, niềm vui, niềm an ủi
đối với cuộc sống cô đơn, lủi thủi một mình của lão. Lão “gọi nó là cậu Vàng như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa
con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm, cho nó ăn cơm
trong một cái bát như một nhà giầu(…) Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp
thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Tình thế cùng
--------------------------------------------------------------- 14 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đường khiến lão phải tính đến việc bán ‘cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ. Lão kể lại
cho ông giáo việc bán “cậu vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậc nước”.
Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị
lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nổi nỗi đau đớn cứ dội lên : “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết
nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Lão Hạc đau đớn đến thế khỏng phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì
lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương thiện” ấy cảm
thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt của con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc… Thì ra tôi
già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó. Phải có trái tim vô cùng
nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó
như vậy.

Bài 3. Một bạn học sinh đã có dự định sắp xếp dàn ý phần thân bài như sau và mỗi ý bạn ấy sẽ triển khai
thành một đoạn văn:
a. Kỉ niệm khi ở nhà, chuẩn bị đến trường
b. Kỉ niệm khi kết thúc buổi học
c. Kỉ niệm suốt dọc đường đến lớp
d. Kỉ niệm trong buổi lễ khai giảng
e. Kỉ niệm trong lớp, buổi học đầu tiên
g. Theo em, dàn ý thân bài mà bạn học sinh dự kiến như trên đã hợp lý chưa? Vì sao? Nếu chưa hợp lý,
hãy sửa lại.
2. Chọn một ý của dàn ý thân bài đã sửa, viết thành một đoạn văn diễn dịch hoặc quy nạp.
Bài 4. Đề chuẩn bị cho bài viết số 1 về văn tự sự trong tuần sau, cô giáo đã hướng dẫn cả lớp tôi làm đề
văn số 2 (ngữ văn 8, tập một) như sau:
- Các em có thể chọn “người ấy” là một người bạn, hoặc một thầy giáo, cô giáo, hoặc một người thân
trong gia đình như ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em..
- “Sống mãi” có nghĩa là để lại những kỉ niệm sâu sắc, không thể quên. Không nên quan niệm về sống
chế, hoặc hiểu lầm là viết về người đã khuất.
- Tôi đã chọn viết về bà nội yêu quý của mình. Dự kiến phần thân bài của tôi như sau:
1. Một vài nhận xét nhanh về bà từ hình dáng, đến công việc hằng ngày
2. Kỉ niệm khi em mới sinh, bà đã giúp mẹ chăm sóc em (nghe mẹ kể lại)
3. Kỉ niệm khi em chập chững biết đi, bà đã chăm em.
4. Kỉ niệm khi em lớn lên và đi học, bà vẫn chăm sóc và dạy bảo em.
- Các bạn có trùng dự định như tôi không? Nếu đồng cảm, mời các bạn hãy triển khai mỗi ý của dàn ý
thành một đoạn văn và hoàn thành đề văn số 2.
5. Chuyển đoạn văn trong văn bản.
a. Mục đích của việc chuyển đoạn văn.
Mỗi văn bản do nhiều đoạn văn hợp thành. Người viết và nói phải chuyển đoạn văn để liên kết lại thành
một khối chặt chẽ, tránh rời rạc, lộn xộn.
b. Các phương tiện chuyển đoạn.
Muốn chuyển đoạn, liên kết đoạn, người ta có thể sử dụng từ ngữ hoặc dùng câu văn
* Dùng từ ngữ để liên kết đoạn, chuyển đoạn, có thể:
- Dùng các quan hệ từ
- Dùng từ ngữ chỉ sự liệt kê
- Dùng từ ngữ thể hiện ý tiểu kết, tổng kết, khái quát sự việc
- Dùng từ ngữ chỉ sự tiếp diễn, nối tiếp
- Dùng từ ngữ chỉ ý tương phản, đối lập
- Dùng từ ngữ thay thế (các đại từ…)
* Dùng câu nối để chuyển đoạn văn:
Có lúc, người viết phải sử dụng một câu văn để nối hai đoạn văn. Nhờ thế, sự vật với sự vật, tình thế với
tình thế, thời gian với thời gian, không gian với không gian được nối kết liền mạch, chặt chẽ.
VD: “Học thơ ca dân gian và thơ cổ điển cho vững chãi nghề thơ, thà biết rất sâu rất thạo rồi sau đó
không dùng không theo, vì mình thấy cái lối mới của mình hay hơn nhiều, khong theo một cách tự giác, chứ
không phải vì chưa hiểu biết.
Trở lại với vần thơ dân gian. Trong bài “Biển” (1961), tôi đã dùng nhiều vần theo lối hát dặm Nghệ
Tính:

--------------------------------------------------------------- 15 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bờ đẹp đẽ cát vàng


Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng..”
(Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống – Xuân Diệu)

3. Củng cố.
- Nêu các bước lập dàn ý cho một đề văn?
4. Dặn dò.
- Về xem lại nd bài.
- Hãy viết một số đoạn văn phân tích tấm lòng nhân hậu và lương thiện của lão Hạc. Sau đó, hãy phân
tích các phương tiện chuyển đoạn văn được sử dụng. (Tham khảo bài “Lão Hạc”)
________________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 7- tËp lµm v¨n:

§2. VĂN TỰ SỰ
I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức về văn tự sự, cách xây dựng chuyện, Lập dàn bài cho một bài văn tự sự, phương pháp
cụ thể.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng xây dựng chuyện, Lập dàn bài cho một bài văn tự sự, phương pháp cụ thể.
3. Thái độ.
- Biết cách lập dàn bài cho một bài văn tự sự.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập về văn tự sự, cách xây dựng chuyện, Lập dàn bài cho một bài văn tự sự, phương pháp cụ thể.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_____________________________________
I. Định nghĩa.
1. Chuyện là gì? Là các sự việc do nhân vật gây ra, cũng gọi là các tình tiết, diễn biến liên tục trong một
thời gian nhất định, trên không gian nhất định, thể hiện tư duy và phẩm chất con người mang ý nghĩa đời sống.
2. Thế nào gọi là văn tự sự?
Văn tự sự là loại văn trong đó tác giả giới thiệu, thuyết minh, miêu tả nhân vật, hành động và tâm tư tình
cảm của nhân vật, kể lại diễn biến câu chuyện… sao cho người đọc, người nghe hình dung được diễn biến và
ý nghĩa của câu chuyện ấy.
II. Cách xây dựng truyện.
1. Truyện là một thể loại… là văn bản kể được tác giả sáng tác. VD: truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn….
Cái được kể trong văn bản truyện thì gọi là câu chuyện, được viết là “truyện”.
2. Xây dựng nhân vật.
- Trong truyện phải có nhân vật. Nhân vật có ngoại hình, có ngôn ngữ hành động, tâm lí- tính cách, có
xung đột, có tình huống… giữa các nhân vật mới có “chuyện” xảy ra trong thời gian và không gian nhất định.
Nhân vật phải cụ thể, cá tính hoá, tiêu biểu cho một lớp người nào đó trong xã hội. Viết truyện phải biết xây
dựng nhân vật. Đọc truyện phải biết nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
3. Xây dựng tình tiết truyện: Tình tiết truyện là những mạch, những chặng, những sự việc diễn biến của
câu chuyện được kể trong tác phẩm truyện. Tình tiết có thú vị thì truyện mới hay. Bằng phẳng quá thì nhạt
nhẽo, vô vị.
VD: Truyện “Tấm lụa và cây roi” có mấy tình tiết sau:
- Một là, thân mẫu Trần Bích San nhận được tấm lụa con đi làm quan xa gửi về tặng mẹ, bà buồn và
giận lắm.
- Hai là, bà trả lại con tấm lụa kèm theo cái roi.
--------------------------------------------------------------- 16 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Ba là, Án San lập bàn thờ lạy sống mẹ và nghiêm khắc tự xử phạt mình.
4. Tình huống của truyện.
Tình huống được thể hiện qua các tình tiết, sự cố bất ngờ, giầu kịch tính đem đến cho người đọc nhiều
lí thú, hấp dẫn.
Cô bé hái nấm.
Hai em bé gái trên đường về nhà, mang theo một giỏ đầy nấm vừa hái trong rừng. Chúng phải đi ngang
qua đường tàu. Tưởng rằng tàu hoả còn xa, chúng băng ngang đường ray. Không ngờ tàu hoả xuất hiện. Em
gái lớn nhảy lùi lại, con em nhỏ đánh đổ giỏ nấm và cúi xuống nhặt. Tàu hoả đã đến quá gần. Em lớn kêu lê:
“Bỏ hết nấm, chạy đi!”. Nhưng em nhỏ không nghe thấy và tiếp tục nhặt nấm. Người lái tầu không thể dừng
lại được và tàu chẹt em gái nhỏ. Em gái lớn gào khóc sướt mướt. Hành khách đổ xô đến cửa sổ các toa tầu.
Khi tàu chạy qua, người ta thấy em gái nhỏ nằm bất động giữa các thanh ray mặt úp xuống.
Một lúc sau, cô bé nhổm dậy, đứng lên nhặt hết nấm vào giỏ và chạy đến chỗ chị.
- Em bé đánh đổ nấm cúi xuống nhặt. Tàu chạy qua chẹt lên em bé nhỏ. Chị khóc. Hành khách vô cùng
lo sợ, thương cảm. Tàu chạy qua, em bé nằm bất động giữa các thanh ray, mặt úp xuống. Ai cũng ngỡ là em
đã bị chết.
=> Đó là tình huống thứ nhất.
- Ai ngờ, “một lúc sau cô bé nhổm dậy, đứng lên nhặt hết nấm bỏ vào giỏ và chạy đến chỗ chị”.
=> Đó là tình huống thứ hai.
Từ lo âu, sợ hãi mà người đọc vui mừng vì em bé may mắn, do khôn ngoan mà thoát chết. Hai tình
huống trên đã tạo nên tính hấp dẫn của truyện. Đồng thời giá trị nhân bản của truyện được tô đậm.
III. Lập dàn bài cho một bài văn tự sự.
1. Mở bài:
Có thể giới thiệu nhân vật và tình huống xẩy ra câu chuyện.. Cũng có lúc người ta bắt đầu từ một sự cố
nào đó, hoặc kết cục câu chuyện, số phận nhân vật rồi ngược lên kể lại từ đầu.
2. Thân bài: Kể các tình tiết làm nên câu chuyện. Nếu tác phẩm truyện có nhiều nhân vật thì tình tiết
lồng vào nhau, đan xen nhau theo diễn biến của câu chuyện
3. Kết bài: câu chuyện kể đi vào kết cục. Sự việc kết thúc, tình trạng và số phận nhân vật được nhận diện
khá rõ.
IV. Phương pháp cụ thể .
1. Miêu tả trong văn tự sự.
Miêu tả không chỉ làm nổi bật ngoại hình mà còn có thể khắc hoạ nội tâm nhân vật, làm cho chuyện kể
trở nên đậm đà, lí thú
Trong văn tự sự thường có 4 yếu tố miêu tả đan xen vào các tình tiết theo diễn biến của câu chuyện:
- Miêu tả cảnh vật- không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật ( Dế Mèn phiêu lưu kí - đoạn miêu tả
vùng cỏ may, võ đài diễn ra cuộc thì đấu giữa Trũi và Mèn)
- Miêu tả ngoại hình nhân vật ( Miêu tả Dế Mèn)
- Miêu tả hành động nhân vật: (hành động của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, hành động của chị
Dậu…)
- Miêu tả tâm lí, tâm trạng nhân vật (tâm trạng nhân vật chị Dậu trong cảnh bán con)
2. Biểu cảm trong văn tự sự.
a. Sự biểu hiện và giá trị của yếu tố biểu cảm trong văn tự sự.
- Trong văn tự sự, ngoài các yếu tố tình tiết, yếu tố miêu tả cảnh vật, nhân vật… còn có yếu tố biểu cảm.
Những yếu tố biểu cảm (vui, buồn, giận, hờn, lo âu, mong ước, hi vọng, nhớ thương….) luôn luôn hoà quyện
vào cảnh vật, sự việc đang diễn ra, đang được nói đến.
- Các yếu tố biểu cảm trong văn tự sự thường được biểu hiện qua 3 dạng thức sau đây:
+ Tự thân cảnh vật, sự việc diễn biến mà cảm xúc tràn ra, thấm vào lời văn, trang văn do người đọc cảm
nhận được.
+ Cảm xúc được bày tỏ, được biểu hiện qua các nhân vật, nhất là qua ngôi kể thứ nhất.
- Cảm xúc được tác giả bày tỏ trực tiếp. Đó là đoạn trữ tình ngoại đề mà ta thường bắt gặp trong một số
truyện.
Chú ý: lúc đọc, lúc cảm thụ, lúc phân tích tác phẩm, phân tích nhân vật (tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện
thơ, nhất là tuỳ bút…) ta phải đặc biệt lưu ý tới các yếu tố biểu cảm.
Luyện tập: Cho sự việc và nhân vật sau đây: Sau khi bán chó, lão Hạc sang báo cho ông giáo biết. Hãy
đóng vai ông giáo và viết một đoạn văn kể lại giây phút lão Hạc sang báo tin bán chó với vẻ mặt và tâm trạng
đau khổ.

--------------------------------------------------------------- 17 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Lão Hạc ra về rồi. Nước mắt ứa ra nơi hai hõm mắt. Như một kẻ mất hồn. Thương lão quá. Cảnh già cô
đơn chỉ có con chó làm bạn sớm khuya, giờ lại bán đi. Cảnh cậu Vàng bị thằng Xiên, thằng Mục bất ngờ túm
lấy hai chân sau dốc ngược lên rồi trói lại, đôi mắt đờ ra, dại đi, rên ư ử như khóc như van… cứ hiện ra trước
mắt tôi. Và hình ảnh lão Hạc, sau khi báo tin “cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!, “Mặt co rúm lại, cái đầu ngọeo
về một bên, cái miệng móm mém cất tiếng khóc hu hu của lão làm cho tôi đau đớn và xúc động vô cùng. Tôi
nghĩ về kiếp chó, kiếp cậu Vàng, nghĩ về kiếp người. Câu nói của lão Hạc làm tôi day dứt và thảng thốt mãi:
“thì ra tôi già bằng ngần này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”.

3. Củng cố.
- Chuyện là gì?
- Thế nào gọi là văn tự sự?
- Cách xây dựng chuyện?
4. Dặn dò.
- Về học nd bài.
- Lập dàn ý cho đề bài “Chẳng may em đánh vỡ lọ hoa đẹp”
_________________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 8- tËp lµm v¨n:

§2. RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN TỰ SỰ


KÊT HỢP VỚI MIÊU TẢ VÀ BIỂU CẢM

I. Mục tiêu:
1. Kiến thức. Qua tiết học, HS nắm được:
- Vai trò, tầm quan trọng, tác động qua lại giữa các yếu tố tự sự, miêu tả và biểu cảm trong một VB hoàn
chỉnh.
2. Kỹ năng.
- Cách thức vận dụng các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong một VB tự sự.
- Biết vận dụng những hiểu biết có được ở bài học tự chọn này để viết bài văn tự sự có kết hợp với miêu tả
và biểu cảm.
3. Thái độ. Có ý thức sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự.
II. Chuẩn bị:
- GV : Tài liệu tham khảo
- HS: Ôn lại các khái niệm tự sự, miêu tả và biểu cảm.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
__________________________________
I. Ôn tập các phương thức: tự sự, miêu tả , biểu cảm.
- GV cho HS ôn lại một số VB tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm
? Hãy kể ra một số VB tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm mà em đã được học ở chương trình Ngữ văn
lớp 6, 7 và đầu năm lớp 8?
VB “ Bài học đường đời đầu tiên” ( trích “ Dế mèn phiêu lưu kí “ của Tô Hoài
VB “ Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn
VB “ Tôi đi học “ của Thanh Tịnh...
- Hãy nhắc lại đặc điểm và các thao tác chính của các phương thức tự sự, miêu tả và biểu cảm?
+ Tự sự: Trình bày chuỗi sự việc có mở đầu, diễn biến, kết thúc, thể hiện một ý nghĩa
Thao tác: Kể là chính.
+ Miêu tả: Tái hiện lại sự việc, hiện tượng.
Thao tác: Quan sát, liên tưởng, so sánh, nhận xét.
+ Biểu cảm: Thể hiện tình cảm, thái độ của mình với sự vật, hiện tượng.
Thao tác : Bộc lộ trực tiếp những cảm xúc của chính người viết hoặc thông qua ý nghĩ, cảm xúc của các nhân
vật.
II. Vai trò của các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn tự sự.
? Tại sao trong VB tự sự cần có yếu tố miêu tả?
--------------------------------------------------------------- 18 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhờ có yếu tố miêu tả mà có thể tái hiện cảnh vật, con người một cách cụ thể, sinh động trong không gian,
thời gian
- Yếu tố miêu tả trong văn tự sự :
? Qua các VB tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm đã học, em thấy yếu tố miêu tả có vai trò gì trong VB
tự sự?
Trả lời
Giúp người kể kể lại một cách sinh động cảnh vật, con người làm cho câu chuyện trở nên sinh đông, hấp dẫn
? Em thường thấy những yếu tố miêu tả nào xuất hiện trong văn tự sự?
Trả lời
+ Miêu tả nhân vật
+ Miêu tả cảnh thiên nhiên
+ Miêu tả cảnh sinh hoạt
HS lấy VD cụ thể ?
+ Miêu tả nhân vật: Đoạn văn miêu tả ngoại hình của Dế Mèn và Dế Choắt trong VB “ Bài học đường đời đầu
tiên” của Tô Hoài
+ Miêu tả cảnh thiên nhiên: Đoạn văn đầu tiên của VB “ Tôi đi học” của Thanh Tịnh.
+ Miêu tả cảnh sinh hoạt: Đoạn văn miêu tả cảnh hộ đê trong VB “Sống chết mặc bay “ của Phạm Duy Tốn.
? Yếu tố miêu tả thường được thể hiện qua những dấu hiệu nào ở VB tự sự?
2- Yếu tố biểu cảm trong văn tự sự.
? Yếu tố biểu cảm đóng vai trò gì trong văn tự sự?
Biểu cảm: Thể hiện thái độ, tình cảm của nhà văn với nhân vật, sự việc được kể
? Trong VB tự sự, em thấy yếu tố biểu cảm thường được thể hiện như thế nào?
Biểu cảm thông qua hai hình thức: trực tiếp qua cảm xúc của chính nhà văn với nhân vật hoặc gián tiếp thông
qua cảm xúc, ý nghĩ của các nhân vật
? Về hình thức, em thấy yếu tố biểu cảm thường xuất hiện qua những dấu hiệu nào trong VB tự sự?
Qua những câu cảm thán, những câu hỏi tu từ...
III. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
1. Viết đoạn văn tự sự có kết hợp miêu tả và biểu cảm bất kì.
? Để viết được đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm bất kì, ta thực hiện theo mấy bước? Là những
bước nào?
Thực hiện theo 5 bước
+ Xác định nhân vật, sự việc
+ Lựa chọn ngôi kể
+ Xác định thứ tự kể
+ Xác định các yếu tố miêu tả và biểu cảm sẽ viết
+ Viết thành đoạn với các yếu tố: Kể, tả, biểu cảm
? Bố cục một bài văn tự sự gồm mấy phần? Là những phần nào?
Gồm 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài
2. Viết đoạn văn tự sự có kết hợp miêu tả và biểu cảm trong bố cục một bài văn.
a. Đoạn mở bài.
- GV cho HS hoạt động nhóm tìm ra các cách viết đoạn mở bài
* Cách 1: Dùng phương thức tự sự kết hợp với miêu tả để giới thiệu sự việc, nhân vật và tình huống xảy ra
câu chuyện
VD: Sách “ Một số kiến thức, kĩ năng và bài tập nâng cao - Ngữ văn 8”
* Cách 2: Dùng phươngthức tự sự là chính có kết hợp với biểu cảm để nêu kết quả của sự việc hoặc kết cục
số phận của nhân vật lên trước; sau đó dùng một vài câu dẫn dắt để quay về từ đầu diễn biến cốt truyện
VD: Sách “ Một số.....”
* Cách 3: Dùng hình thức miêu tả là chính để dẫn dắt vào truyện
VD
* Cách 4: Dùng phương thức biểu cảm là chính để dẫn dắt vào truyện ( thường dành cho những câu chuyện
có tính chất hồi tưởng, hoài niệm)
VD: VB “ Tôi đi học”
b. Thân bài.
? Cách viết các đoạn thân bài như thế nào? Yếu tố nào đóng vai trò chủ đạo?
Viết các đoạn thân bài: Yếu tố tự sự đóng vai trò chủ đạo ( có sự việc, nhân vật); miêu tả và biểu cảm chỉ
được vận dụng khi cần thiết làm tăng sức hấp dẫn cho truyện.

--------------------------------------------------------------- 19 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

c. Kết bài.
- Cho HS thảo luận nhóm, tìm ra các cách viết đoạn kết bài
Cách viết đoạn kết bài
* Cách 1: Dùng phương thức tự sự kết hợp với biểu cảm để nêu kết cục và cảm nghĩ của người trong cuộc (
Người kể chuyện hay một nhân vật nào đó)
* Cách 2: Dùng phương thức biểu cảm là chính để bày tỏ thái độ, tình cảm của người trong cuộc
* Cách 3: Dùng phương thức miêu tả là chính đan xen biểu cảm để kết thúc câu chuyện
 Ở mỗi cách, GV lấy VD cụ thể để HS học tập.

3. Củng cố.
? Các phương thức tự sự , miêu tả, biểu cảm có đặc điểm gì? Các thao tác chính của các phương thức đó?
Có khi nào em thấy trong một VB chỉ xuất hiện duy nhất một phương thức biểu đạt không? Tại sao?
4. Dặn dò:
- Học bài, nắm chắc đặc điểm của các phương thức tự sự, miêu tả và biểu cảm đã được học.
- Chuẩn bị “Văn thuyết minh”
________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 9- tËp lµm v¨n:

§3. VĂN THUYẾT MINH


I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về văn bản thuyết minh, tính chất của văn thuyết minh, yêu cầu và phương pháp
thuyết minh.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng hoàn thiện bài văn thuyết minh.
3. Thái độ.
- Có ý thức khi làm văn thuyết minh.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập về văn bản thuyết minh, tính chất của văn thuyết minh, yêu cầu và phương pháp thuyết minh.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
___________________________________________
I. Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh.
1.Thuyết minh là gì?
- Thuyết minh nghĩa là nói rõ, giải thích, giới thiệu
- Thuyết minh còn có nghĩa là hướng dẫn cách dùng
2. Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp tri thức về
các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, trong xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.
VD:
- Giới thiệu về một nhân vật lịch sử.
- Giới thiệu một miền quê, một vùng địa lý.
- Giới thiệu một đặc sản, một món ăn.
- Giới thiệu một vị thuốc.
- Giới thiệu một loài hoa, loài chim, loài thú…
3. Văn bản thuyết minh có tính chất khách quan, thực dụng, là loại văn bản có khả năng cung cấp tri thức
xác thực, hữu ích cho con người.
4. Một văn bản thuyết minh hay, có giá trị là một văn bản trình bày rõ ràng hấp dẫn những đặc điểm cơ bản
của đối tượng thuyết minh.
5. Văn bản thuyết minh sử dụng ngôn ngữ chính xác, cô đọng, chặt chẽ, sinh động.
Bài tập 1: Hai văn bản sau có phải là văn bản thuyết minh không? Hãy đặt tên cho các văn bản ấy?

--------------------------------------------------------------- 20 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Văn bản 1: Ở nước ta, tiền giấy được phát hành lần đầu tiên dưới thời nhà Hồ (1400 – 1407) nhưng chỉ
tồn tại trong thời gian rất ngắn. Sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, ngân hàng Đông Dương ra đời năm 1875
và tiền giấy bắt đầu được phát hành ở Nam Kì và Hải Phòng vào khoảng những năm 1891 – 1892. Sau khi
nước VNDCCH ra đời, ngày 31-1-1946, Chính Phủ đã kí nghị định phát hành tiền giấy VN và đến ngày 30-
11-1946 tờ giấy bạc đầu tiên của nước VNDCH ra đời. Ngày 5-6-1951, Ngân hàng quốc gia VN được thành
lập và phát hành loại tiền giấy mới. Từ đó đến nay, nước ta đã trải qua hai lần đổi tiền (1959 và 1985) và một
lần thống nhất tiền tệ hai miền Nam Bắc theo loại tiền mới (1978).
Văn bản 2: Cá đuối thường sống ở vùng biển nhiệt đới. Thân hình chúng nom dẹt và mỏng, do hai vây
ngực rộng và phẳng ở hai bên, gắn liền với thân. Khi cá bơi, các vây ngực mềm này chuyển động lên xuống
trong nước trông rất đẹp. Cá đuối màu xanh sẫm, nhưng cũng có loài đuối lưng có những đốm màu trắng nom
rất nổi bật. Chiếc đuôi dài giúp cá đuối giữ thăng bằng dưới nước. Tuy nhiên, đuôi cá đuối có nọc độc, có thể
châm đốt gây nguy hiểm cho người và các động vật khác. Cá đuối thích sống thành từng đàn. Người ta có khi
nhìn thấy bầy cá đuối ba đến bốn con bơi cạnh nhau. Chúng cũng rất thích nhảy múa nữa. Lúc “cao hứng”, cá
đuối còn nhảy vọt lên trên mặt nước, cao đến vài mét. Song, cá đuối cũng biết giấu mình dưới cát để tránh kẻ
thù.
Gợi ý: Cả hai văn bản trên đều là văn bản thuyết minh.
Văn bản 1: Về tiền giấy Việt Nam.
Văn bản 2: Loài cá đuối ở vùng biển nhiệt đới.
II. Tính chất của văn thuyết minh.
- Một văn bản thuyết minh hay có giá trị là một văn bản trình bầy rõ ràng, hấp dẫn những đặc điểm cơ
bản của đối tượng thuyết minh.
- Ngôn ngữ diễn đạt trong văn bản thuyết minh phải chính xác, chặt chẽ, cô đọng và sinh động. Cách
viết màu mè, dài dòng sẽ gây cho người nghi ngờ, khó chịu, cần hết sức tránh.
VD: (xem trang 95, 96, 97 sách Cảm thụ ngữ văn THCS 8 – Tạ Đức Hiền)
III. Yêu cầu và phương pháp thuyết minh.
1. Yêu cầu.
- Trước hết phải hiểu rõ yêu cầu của bài làm là cung cấp tri thức khách quan, khoa học về đối tượng
thuyết minh
- Phải quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác đối tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản
chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa vào trình bầy các biểu hiện không phải tiêu biểu, không quan trọng.
- Phải sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.
- Cần chú ý thời gian được thuyết minh, đối tượng đọc, nghe bài thuyết minh của mình.
2. Phương pháp.
Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp thuyết minh như : nêu định nghĩa, mô tả sự vật, sự việc, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh, đối chiếu
phân tích, phân loại, dùng số liệu, nói vừa phải, tránh đại ngôn…
Tham khảo ví dụ trong sách trên (như mục III)
BÀI TẬP:
Bài 1. Đọc các đoạn văn thuyết minh sau. Cho biết người viết đã phải huy động kiến thức gì và sử dụng
những phương pháp thuyết minh nào?
1. Dơi là động vật ngủ đông. Vì thế ta thường bắt gặp chúng vào mùa hè. “Nhà” của dơi là những nơi
tối ẩm như vách đá, hang động, đặc biệt là trong những thân cây lớn đã chết. Ở nơi có dân cư, dơi thường trú
trên mái nhà, vách tường ẩm và không có ánh sáng…”
(Theo Thanh Huyền- Báo hoạ mi)
2. Hiện nay, cứ 8 người Mĩ, có một người ở độ tuổi 65 hoặc cao hơn. Tới năm 2005, con số đó là 4
người. Nhóm người ở độ tuổi 75 trở lên ngày càng đông. Điều đó, chứng tỏ: người Mĩ ngày càng sống lâu
hơn, có tuổi thọ cao hơn.
(Theo 365 lời khuyên về sức khoẻ)
3. Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của
các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao
bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi nuốt phải. Đặc biệt bao bì ni lông mầu đựng thực phẩm làm ô
nhiễm thực phẩm…. gây tác hại cho não và là nguyên nhân gây ung thư phổi.
(Theo thông tin về ngày trái đất năm 2005)
Gợi ý:
1. Kiến thức sinh học.
2. Kiến thức về sức khoẻ đời sống.

--------------------------------------------------------------- 21 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3. Kiến thức về môi trường.


Bài 2: Cho văn bản sau:
“Cách đây hai năm, chàng thanh niên Ra-pha-en-đơ Rốt-sin, người được thừa hưởng một trong những
gia tài kếch sù nhất thế giới, đã gục chết trên một vỉa hè ỏ Niu-oóc vì “chơi bạch phiến” quá liều, năm đó
chàng mới 23 tuổi.
Cái chết của chàng tỉ phú trẻ này đã làm không ít các bậc cha mẹ tỉ phú khác lo lắng: làm sao để con cái
họ đừng hư vì số tài sản khổng lồ không do chính chúng tạo dựng.”
a. Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Vì sao?
b. Văn bản trên có ích gì cho bạn đọc?
Gợi ý:
Văn bản trên là văn bản thuyết minh (có yếu tố tự sự) => một bản tin của báo.
Văn bản trên nhắc nhở việc giáo dục thế hệ trẻ- trách nhiệm của gia đình và xã hội trong việc giáo dục
thế hệ trẻ.
Bài 3: Hãy sưu tầm các kiến thức cần thiết để chuẩn bị cho đề bài : “Thuyết minh về chiếc nón lá Việt
Nam”.
(Tham khảo sách “Cảm thụ ngữ văn 8 của Tạ Đức Hiền (tr 109) và sách “Các dạng bài tập làm văn và
cảm thụ thơ văn lớp 8 (tr 168))
Bài 4: Đọc đoạn văn sau:
Cha ông ta ngày xưa- những người đã thiết kế nên chiếc áo dài- mặc dù thời tiết của nước ta rất nóng,
vẫn tạo ra dáng vẻ áo dài sao cho thanh tao, trang nhã, hợp với người thiếu nữ. Chính vì điều đó mà các cụ đã
thiết kế ra kiểu áo có cổ cao một phân, hợp với kiểu tóc búi tó của phụ nữ thời xưa, biểu lộ sự kín đáo cảu
người con gái… Từ thời xưa, các vua chúa đã để ý đến cách ăn mặc của nhân dân và có lẽ chính vì điều ấy
mà chiếc áo dài đã ra đời… Đầu thế kỉ XVII, ở Bắc Ninh, chiếc áo dài mớ ba mớ bảy đã được ra đời để phù
hợp với cách vấn khăn, bộc lộ rõ những nét đẹp của người Việt Nam. Mãi đến tận thế kỉ XX, chiếc áo dài mớ
ba mớ bảy được cải tiến thành chiếc áo năm thân..
a. Đây có phải là đoạn văn thuyết minh không ? Vì sao?
b. Muốn viết được đoạn văn trên, người viết đã phải lấy kiến thức từ đâu?
c. Nếu đúng là văn thuyết minh thì đoạn văn đã sử dụng các phương pháp thuyết minh nào?
Gợi ý:
a. Đoạn văn trên đúng là đoạn văn thuyết minh
b. Tìm kiến thức mà các nhà khoa học, nghiên cứu đã khẳng định ở trong sách, báo chí, các tài liệu tin
cậy…
c. Các phương pháp thuyết minh mà đoạn văn sử dụng: hs tự làm.

3. Củng cố.
- Tính chất của văn thuyết minh? yêu cầu và phương pháp thuyết minh?
4. Dặn dò.
- về học nd bài.
- Hoàn thiện các đề văn.
- Cbị “cách làm bài văn thuyết minh”.
_______________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 10- tËp lµm v¨n:

§3. VĂN THUYẾT MINH (Tiếp)


I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về văn bản thuyết minh, tính chất của văn thuyết minh, yêu cầu và phương pháp
thuyết minh, cách làm văn bản thuyết minh.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng hoàn thiện bài văn thuyết minh.
3. Thái độ.
- Có ý thức khi làm văn thuyết minh.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
--------------------------------------------------------------- 22 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- HS: Ôn tập về văn bản thuyết minh, tính chất của văn thuyết minh, yêu cầu và phương pháp thuyết minh,
cách làm văn bản thuyết minh.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
________________________________________
I. Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh
II. Tính chất của văn thuyết minh.
III. Yêu cầu và phương pháp thuyết minh.
IV. Cách làm bài văn thuyết minh.
1. Phải tìm hiểu đề bài, nhằm xác định đối tượng sẽ thuyết minh.
2. Tiếp theo, người làm bài phải tìm các tri thức khách quan, khoa học về đối tượng thuyết minh (có thể
đến tận nơi quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác, ghi chép lại) hoặc tìm đọc ở sách báo các kiến thức tin cậy
về đối tượng thuyết minh.
3. Tiếp theo nữa, sau khi có kiến thức rồi, cần tìm một hướng trình bày theo một trình tự thích hợp với
đối tượng cần thuyết minh, sao cho người đọc dễ hiểu.
VD: Nếu thuyết minh về chiếc xe đạp có thể đi từ bộ phận quan trọng, đến không quan trọng, đến tác
dụng của xe đạp với người sử dụng…
Nếu thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam cần đi theo trình tự từ nguồn gốc, cách làm nón, các kiểu
dáng nón, tác dụng khi con người sử dụng…
4. Khi làm văn thuyết minh, chú ý sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. Chú ý “chất
văn” phù hợp với văn thuyết minh.
BÀI TẬP:
Bài tập 1: Hãy giới thiệu một món ăn của các bé ở lứa tuổi nhi đồng.
Sau khi tìm hiểu đề, cần thực hiện tiếp những bước nào để hoàn thành bài thuyết minh trên?
- Đối tượng thuyết minh: cách làm một món ăn
- Học sinh có thể đọc sách báo, tài liệu hoặc học hỏi những người lớn hiểu biết.
- Làm theo trình tự hợp lí:
+ Nguyên liệu
+ Cách làm
+ Chất lượng sản phẩm
Bài tập 2: Hãy thuyết minh về một danh lam thắng cảnh, một di tích lịch sử của địa phương em.
Bài tập 3: Hãy thuyết minh về các loài hoa ngày tết cổ truyền Việt Nam.
Bài tập 4: Thuyết minh về bánh dẻo, bánh nướng trong dịp tết trung thu.
=> 3 BT trên tham khảo trong phần “Phụ lục” của sách “các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn
lớp 8”.
V. Luyện nói văn bản thuyết minh.
- Rèn tác phong nói nhanh nhẹn, tự nhiên, quen nói trước đông người.
- Rèn kĩ năng nói to, rõ, nhất là văn bản thuyết minh đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác, đầy đủ các kiến
thức về đối tượng cần thuyết minh.
- Tìm hiểu kĩ đề, lập dàn ý nói theo trình tự phù hợp với đối tượng thuyết minh. Dựa vào dàn ý để nói
1. Dạng bài tập luyện số 1.
Bài tập 1: Lập dàn ý cho đề văn : Hãy giới thiệu trường của em.
Cách làm:
1. Dựa vào phòng truyền thống của trường, nắm được những thành tích nổi bật của trường em.
2. Lưu ý ngắm khung cảnh của trường ở từng khu vực, từng lớp học.
3. Biết rõ những hoạt động của trường từng tuần, từng ngày.
4. Tìm các số liệu, các công việc cụ thể.
5. Nêu tên các thầy cô giáo tiêu biểu (các học sinh tiêu biểu, các lớp tiêu biểu)
* Dàn ý nói:
- Giới thiệu trường THCS Chu Văn An, quận Tây Hồ, Hà Nội.
- Trường thành lập năm 1990, nhân dân yêu mến gọi là trường Bưởi.
- Sau CMT8 năm 1945, trường được đổi tên là Chu Văn An- tên người thầy giáo lỗi lạc của dân tộc ta.
- Ngôi trường đó đã đào tạo bao thế hệ học sinh ưu tú, xuất sắc, hiện đang giữ những cương vị quan
trọng của Đảng và Nhà nước.

--------------------------------------------------------------- 23 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Toàn trường được sự lãnh đạo của thầy hiệu trưởng- Nhà giáo ưu tú Đinh Văn Bình, học sinh được sự
tận tâm dạy dỗ của các các thầy cô giáo giỏi.
- Trường đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc cấp thành phố; có nhiều giải học sinh giỏi: tốt nghiệp năm học
2001 – 2002 là 99,85%. Năm 1999, trường đón nhận Huân chương lao động hạng nhì của Nhà nước.
- Trường em còn mở rộng quan hệ, giao lưu với bạn bè trong và ngoài nước.
- Xuân Quý Mùi 2003, trường được tham gia lễ dâng hương “Nam Quốc nho tôn biểu vạn thế sự Chu
Văn An” tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám.
* Dàn ý nói: Giới thiệu trường THCS GV - Quận Ba Đình, Hà Nội
- Trường em đã tròn 15 tuổi toạ lạc trên một ngôi đất rộng, trước mặt là hồ Giảng Võ.
- Nhiều năm đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc về học tập và thể dục thể thao. Trường được đón
nhận huân chương lao động hạng nhì và hạng 3 của nhà nước.
- Trường còn mở rộng quan hệ giao lưu với bạn bè trong và ngoài nước
- Trường có đội ngũ các thầy cô giáo quản lí giỏi, dạy giỏi, học sinh khá, giỏi đạt 70%; có nhiều giải học
sinh giỏi cấp quận, cấp thành phố và cấp toàn quốc. Tỉ lệ tốt nghiệp nhiều năm đỗ 100%.
2. Dạng bài tập số 2.
Thuyết minh về một loài động vật có ích đối với con người.
Bài tập 2: Lập dàn ý nói cho đề bài sau: “Thuyết minh về một con vật nuôi mà em yêu thích (chó, mèo,
thỏ, gà...)
* Dàn ý nói thuyết minh về mèo:
1. Mèo là động vật bốn chân thuộc lớp thú, mình nó khoác một bộ lông dày mượt mà. Bộ lông ấy có thể
màu đen trắng (mèo khoang), có thể màu tro (mèo mướp) và cũng có khi là ba màu khác nhua (mèo tam
thể)
2. Mèo nhà em có bộ ria mép dài, trắng như cước, nói chính là trợ thủ giúp mèo bắt chuột trong đêm.
3. Khi mọi người đi ngủ, màn đêm buông xuống là lúc mèo bắt đầu hoạt động.
4. Ngoài bộ ria nhạy bén, tai và mũi mèo cũng góp phần quan trọng, đặc biệt là tai mèo nghe được mọi
cử động của chuột.
5. Mèo chuyển động nhẹ nhàng; sinh con, nuôi con rất khéo. Nó thể hiện rõ nét về tình mẫu tử.
6. Em thích con mèo nhà em. Tên nó chính là “Miu”
* Dàn ý thuyết minh về chó :
1. Chó là loài động vật rất có ích cho đời sống con người, còn gọi là « linh cẩu ».
2. Chó là loài động vật rất trung thành, dễ gần và là bạn của con người.
3. Chó có nhiều loại, nhiều giống khác nhau
4. Đặc điểm chung của chúng :
- Là loại động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc, nhưng khi hoạt động (đi lại) thì cụp
vào.
- Não chó rất phát triển, tai và mắt rất tinh vào ban đêm, có khả năng đánh hơi rất tài.
- Chúng thường nặng từ 15- 20 kg, tuổi thọ trung bình từ 16- 18 năm
- Hiện nay chó làm được rất nhiều việc giúp con người như trinh thám, cứu hộ…
5. Em rất yêu con chó mà nhà em đang nuôi, em gọi nó là Lu.
* Thuyết minh về con trâu
Con trâu là vật nuôi đứng đầu hàng lục súc. Hầu như em bé VN nào cũng thuộc bài ca dao :
“Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta”
Con trâu là biểu tượng cho những đức tính như hiền lành, cần cù, chịu khó… Nó là cánh tay phải, là tài
sản vô giá của người nông dân VN : “con trâu là đầu cơ nghiệp”.
Mỗi con trâu có thể nặng trên dưới ba tạ. Da trâu đen bóng, lông lưa thưa. Chiếc đuôi dài khoảng một
mét, có chùm lông dài và mượt, lúc nào cũng đập qua đập lại để đuổi muỗi, đuổi ruồi. Bốn chân trâu to
và dài, bàn chân có móng gân guốc to, dày và nhọn. Hai chiếc sừng nhọn hoắt, uốn cong rất đẹp. Ở Đồ
Sơn, Hải Phòng có lễ chọi trâu:
“Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám, chọi trâu thì về ”
Mắt trâu lồi to rất ưa nhìn. Bụng trâu khá to ; có phải vì thế mà trâu bước đi chậm chạp ? Trâu là loài
nhai lại, nó chỉ có một hàm răng (hàm dưới). Trâu rất dễ nuôi. Thức ăn chính là cỏ tươi. Trâu cũng biết
ăn rơm, ăn cám. Phân trâu màu đen, dùng để bón cây, bón lúa rất tốt.

--------------------------------------------------------------- 24 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Trâu chịu rét kém, nhưng chịu nắng giỏi. Về mùa hè, nó có thể kéo cày, kéo bừa từ mờ sáng đến non
trưa. Trâu tơ, trâu đực, trâu mờm kéo cày rất khoẻ. Trâu cái độ 2, 3 năm đẻ một lứa, mỗi lứa một con
nghé. Câu tục ngữ: “ruộng sâu, trâu nái ” nói lên chuyện làm giàu ở nhà quê ngày xưa.
Thịt trâu tuy không ngon bằng thịt bò, nhưng là nguồn thực phẩm rất dồi dào và có giá trị. Sữa trâu rất
bổ. Da trâu thuộc để xuất khẩu, để làm giầy dép.
Màu xanh mênh mông của những đồng lúa, cánh cò trắng rập rờn điểm tô, và con trâu hiền lành gặm cỏ
ven đê… là hình ảnh thân thuộc đáng yêu của quê hương. Câu hát: “ai bảo chăn trâu là khổ….” của chú
bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu, và tiếng sáo mục đồng mãi mãi là hồn quê non nước.

3. Củng cố.
- Yêu cầu và phương pháp thuyết minh? Cách làm bài văn thuyết minh?
4. Dặn dò.
- về học nd bài.
- Hoàn thiện các đề văn.
- Chuẩn bị “Luyện viết các văn bản thuyết minh”.
___________________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 11- tËp lµm v¨n:
§3. VĂN THUYẾT MINH (Tiếp)

I. Mục tiêu.
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về văn bản thuyết minh, tính chất của văn thuyết minh, yêu cầu và phương pháp
thuyết minh, cách làm văn bản thuyết minh.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng hoàn thiện bài văn thuyết minh.
3. Thái độ.
- Có ý thức khi làm văn thuyết minh.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập về văn bản thuyết minh, tính chất của văn thuyết minh, yêu cầu và phương pháp thuyết minh,
cách làm văn bản thuyết minh.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
__________________________________________
V. Luyện nói văn bản thuyết minh.
1.
2.
3. Dạng bài tập luyện số 3.
Thuyết minh đặc điểm một văn bản, một thể thơ hoặc thể loại.
Bài tập 1: (Tham khảo sách Cảm thụ ngữ văn 8 – trang 125- 126)
a.Chép chính xác bài thơ “Qua Đèo Ngang ” của Bà Huyện Thanh Quan (đã học ở Ngữ văn 7).
b. Quan sát kĩ và mô tả đặc điểm của thể thơ mà bài thơ trên thể hiện. Tên gọi của thể thơ ấy là gì ?
c. Ghi lại các đặc điểm kiến thức của thể thơ lập thành dàn ý, sau đó viết thành văn bản thuyết minh
hoàn chỉnh.
Bài tập 2: (tham khảo sách cảm thụ ngữ văn 8 trang 126- 127)
Trên cơ sở các truyện ngắn đã học như : “Tôi đi học ”, “Lão Hạc ”, “Chiếc lá cuối cùng ”, hãy thuyết
minh đặc điểm chính của thể loại truyện ngắn. Hãy chỉ ra các bước chuẩn bị từ đầu cho đến tận khâu cuối để
viết văn bản.
4. Dạng bài tập luyện số 4.
Thuyết minh đặc điểm các đồ dùng trong c/s.
Bài tập: Thuyết minh về một thứ đồ dùng trong gia đình (chiếc bàn là điện kiểu thông dụng, phích nước
điện…)

--------------------------------------------------------------- 25 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

5. Dạng bài tập luyện số 5.


Thuyết minh một phương pháp, một thí nghiệm.
6. Dạng bài tập luyện số 6.
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh.
VI. Luyện viết đoạn văn trong văn bản thuyết minh.
- Khi làm văn thuyết minh, cần xác định các ý lớn, mỗi ý viết thành một đoạn văn.
- Khi viết đoạn văn, tránh lẫn ý của đoạn văn khác vào.
- Viết đoạn văn, nên tuân theo thứ tự, cấu tạo của sự vật, theo thứ tự nhận thức (từ tổng đến bộ phận, từ
ngoài vào trong, từ xa đến gần…) theo thứ tự diễn biến sự việc trong thời gian trước, sau hay thứ tự chính
phụ : cái chính nói trước, cái phụ nói sau.
VII. Ôn tập về văn bản thuyết minh.
1. Các khái niệm cần nhớ.
- VBTM là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rộng rãi trong đời sống. Văn bản thuyết minh là
văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng, cùng lí do phát sinh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật
cần thiết nhằm cung cấp hiểu biết cho con người. Ngành nghề nào cũng cần đến loại văn bản này.
Thuyết minh đã bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu.
- Văn bản thuyết minh khác với các văn bảnnghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chính, công vụ.. ở chỗ
chủ yếu nó trình bày tri thức một cách khách quan, giúp con người sử dụng tri thức ấy nhằm phục vụ thiết
thực cho cuộc sống ; nó gắn liền với tư duy khoa học ; nó đòi hỏi chính xác, rạch ròi.
- Có 6 phương pháp thuyết minh cần được chú ý: định nghĩa, so sánh, phân tích và phân loại, dùng số liệu,
dùng ví dụ cụ thể, liệt kê…
- Các cách làm các kiểu bài thuyết minh với các đối tượng khác nhau:
+ Đối tượng thuyết minh là các thể loại : thơ, truyện ngắn…
+ Đối tượng thuyết minh là các loại đồ dùng gia đình và dụng cụ học tập…
+ Đối tượng thuyết minh là về một cách làm, một phương pháp, một thí nghiệm…
+ Đối tượng thuyết minh là một di tích lịch sử, một danh lam thắng cảnh…
+ Đối tượng thuyết minh về phần tình bày một hiệu sách tự chọn, một ngôi trường của em
+ Đối tượng thuyết minh có thể là lời giới thiệu một tập sách, một tập thơ, một tác giả thơ, văn…
- Quan trọng nhất vẫn là rèn các kĩ năng để làm bài thuyết minh.
+Tìm hiểu đề, xác định đối tượng thuyết minh.
+ Đi tìm kiến thức để viết văn bản sao cho sát đối tượng cần thuyết minh. Muốn vậy phải: quan sát, mô tả khi
đến tham quan, học hỏi mọi người xung quanh, đọc sách báo có kiến thức về đối tượng, ghi chép lại.
+ Sắp xếp các kiến thức theo một trình tự hợp lí so với đối tượng cần thuyết minh theo một dàn ý.
+Sau đó dựa vào dàn ý viết thành bài thuyết minh hoàn chỉnh.

3. Củng cố.
- Yêu cầu và phương pháp thuyết minh? Cách làm bài văn thuyết minh?
4. Dặn dò.
- về học nd bài.
- Hoàn thiện các đề văn.
- Chuẩn bị “Các văn bản đã học lớp 8”.
______________________________________________

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /

PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC HAY LỚP 8

TiÕt 12- V¨n bản:


Bài 1 : TRONG LÒNG MẸ
(Nguyên Hồng)
--------------------------------------------------------------- 26 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “trong lòng mẹ”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới. ________________________________
I. Giới thiệu.
Quãng đời ấu thơ là quãng đời ngọt ngào và nhiều kỷ niệm nhất của con người. Đó là những năm tháng
tràn đầy hạnh phúc trong tình thương của cha mẹ và những người thân. Song không phải ai cũng có một thời
thơ với những kỷ niệm ngọt ngào như vậy. Nhà văn Nguyên Hồng của chúng ta đã phải nếm trải một tuổi thơ
đầy cay đắng, uất hận và buồn tủi, đói khổ, lam lũ … Quãng đời thơ ấu ấy được nhà văn ghi lại đầy cảm động
qua những trang tự truyện đầm đìa nước mắt và sự căm giận trong “Những ngày thơ ấu”. Cuốn tiểu thuyết
này được nhà văn viết năm 20 tuổi gồm 9 chương thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc đã làm rung động bao
tâm hồn bạn đọc vì “Nó là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. Chương 4 của cuốn hồi ký này
là đoạn trích “trong lòng mẹ”
II. Vài nét về tác giả, tác phẩm.
1. Tác giả. Nguyên Hồng (1918 – 1982) ở Nam định.
- Mồ côi bố vì bố bị ho lao nên mất sớm, nghà nghèo, người mẹ trẻ nghèo khổ bị khinh rẻ phải tha phương
cầu thực. NH phải thôi học khi vừa đậu xong tiểu học và bắt đầu cuộc đời đói khổ, lam lũ, lang thang đầu
đường xó chợ, chung đụng với đủ các hạng trẻ em nghèo đói, du đãng … trong xã hội cũ.
- Lớn lên lại bị đày đoạ, tù tội, lại thêm cảnh đói khổ do thất nghiệp kéo dài, NH tưởng như là sẽ chết đau
đớn ở cái tuổi 16. Nhưng anh nghĩ, dù có chết đi cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa
tinh khiết, trong sáng, vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn. Và anh bắt đầu viết – viết suốt ngày suốt
đêm, viết một cách đau khổ say mê, bất chấp “cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm mưa lạnh hoang
vắng. (Với anh, viết văn là một lẽ sống)
- Ngay từ những trang viết đầu tay, ông đã hướng ngòi bút của mình vào những người nghèo khổ, bất
hạnh. Và ông thuỷ chung với con đường văn học đó trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Với trái tim nhân
đạo dào dạt thắm thiết, NH đã nói lên thật cảm động số phận đầy đau khổ ở các thành phố lớn như Hà nội,
Hải Phòng, Nam định … Truyện ngắn của ông chứa chan tinh thần nhân đạo sâu sắc.
- Trong số những người cùng khổ đó, ông quan tâm và thể hiện thành công những nhân vật phụ nữ và nhi
đồng.
- Đó là những người phụ nữ lao động nghèo khổ, cần cù tần tảo mà cả cuộc đời chỉ là vất vả, lo nuôi
chồng con. Họ còn bị những lề thói khắc nghiệt của XH cũ vùi dập, đầy đoạ. Nhưng đó cũng là những người
phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý như yêu thương chồng con tha thiết, sống ân tình, thuỷ chung, đồng thời
có trái tim khao khát hạnh phúc và biết yêu một cách sôi nổi.. Trong đời sống văn học đương thời thì NH là
một trong ít nhà văn có quan điểm tiến bộ về vấn đề phụ nữ trong lĩnh vực tình yêu hôn nhân. Nhà văn dứt
khoát bênh vực người phụ nữ
- Từ cuộc đời của mình, giống như nhà văn nga Gorki, NH đã viết nhiều và cảm động về những trẻ em
nghèo,về những nỗi khổ nhiều mặt trong cảnh sống lầm than của chúng, và nhất là về những nỗi đau trong
trái tim nhạy cảm dễ tổn thương của tuổi thơ. Đồng thời nhà văn hầu như bao giờ cũng phát hiện và miêu tả
những nét đẹp trong sáng, cảm động trong những tâm hồn non trẻ đó.
2. Tác phẩm.
- Tác phẩm viết năm 1938 và đến năm 1940 thì được in trọn vẹn thành sách. Đó là một tập hồi ký gồm 9
chương ghi lại một cách trung thực những năm tháng tuổi thơ cay đắng của tác giả. Đó là một tuổi thơ có quá
ít những kỷ niệm êm đềm, ngọt ngào, mà chủ yếu là những kỷ niệm đau buồn, tủi cực của một “đứa bé côi
cút, cùng khổ” sinh ra trong một gia đình sa sút, bất hoà, sớm phải sống lêu lổng, bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh cay
nghiệt của họ hàng và thái độ dửng dưng một cách tàn nhẫn của xã hội.
- “Trong lòng mẹ” là chương 4 của tập hồi ký.
--------------------------------------------------------------- 27 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3. Tóm tắt.
- Gần đến ngày giỗ đầu bố, mẹ của bé Hồng ở Thanh Hoá vẫn chưa về. Một hôm người cô gọi bé Hồng
đến bên cười hỏi là bé Hồng có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ không... Biết những rắp tâm tanh bẩn của
người cô, bé Hồng đã từ chối và nói cuối năm thế nào mẹ cũng về. Cô lại cười nói. Cô hứa cho tiền tàu vào
thăm mẹ và thăm em bé. Nước mắt bé Hồng ròng ròng rớt xuống, thương me vô cùng. Người cô nói với em
các chuyệ về người mẹ ở Thanh Hoá : mặt mày xanh bủng, người gầy rạc... ngồi cho con bú bên rổ bóng đèn,
thấy người quen thì vội quay đi, lấy nón che... Bé Hồng vừa khóc vừa căm tức những cổ tục muốn vồ ngay
lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi. Cô nghiêm nghị đổi giọng bảo bé Hồng đánh giấy
cho mẹ về để rằm tháng Tám « giỗ đầu cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày »
- Bé Hồng chẳng phải viết thư cho mẹ đến ngày giỗ đầu của bố, mẹ về một mình, mua cho bé Hồng và
em Quế bao nhiêu là quà. Chiều tan học ở trường ra, thoáng thấy một người đàn bà ngồi trên xe kéo giống
mẹ, bé chạy theo và gọi : « Mợ ơi ! Mợ ơi ! Xe chạy chậm lại, mẹ cầm nón vẫy lại. Con nức nở, mẹ sụt sùi
khóc. Em thấy mẹ vẫn tươi sáng, nước da mịn, gò má màu hồng. Miệng xinh xắn nhai trầu thơm tho. Bé Hồng
ngả đầu vào cánh tay mẹ. Mẹ xoa đầu con và dỗ : « Con nín đi ! Mợ đã về với các con rồi mà ».

Chương hồi ký này là nỗi đắng cay, uất nghẹn về tình yêu thương vô bờ bến của Bé Hồng đối với người
mẹ nhân từ, tần tảo mà cuộc đời đầy bất hạnh. Có hai sự kiện đã trở thành kỷ niệm không thể phai mờ được
nhà văn ghi lại trong chương này. Đó là những sự kiện gì ?
+ Sự kiện 1: Cuộc trò chuyện giữa bé Hồng và bà cô.
+ Sự kiện 2: Mẹ bé Hồng trở về – cuộc gặp gỡ đầy nước mắt của niềm vui và hạnh phúc
III. Phân tích chương “Trong lòng mẹ”.
1. Sự kiện 1: Tình cảnh đáng thương và nỗi đau của bé Hồng
Qua đoạn 1 và qua lời tự thuật của nhân vật “tôi”, ta thấy chú bé Hồng có tình cảnh đáng thương như
thế nào?
* Tình cảnh đáng thương của Hồng:
- Hồng mồ côi cha gần 1năm.
- Mẹ Hồng do bị mọi người hắt hủi, khinh ghé, xa lánh nên phải đi vào Thanh hoá tha phương kiếm sống.
Người mẹ khốn khổ ấy một phần vì túng bấn, một phần khác vì chưa hết tang chồng mà lại có con, nên không
thể sống nổi với cái xã hội đầy những thành kiến, hủ tục độc ác, đã phải bỏ nhà đi xa.
=> Chú bé đã mất bố, lại xa mẹ, sống cuộc sống côi cút, bơ vơ đói rách giữa sự ghẻ lạnh của những người
họ hàng giầu có mà ích kỉ, cay nghiệt. Em thiếu một mái ấm gia đình, một chỗ dựa cho tuổi ấu thơ, thiếu một
tình thương yêu đích thực.
Song nỗi đau khổ sâu xa không chỉ dừng lại ở sự thiếu tình thương mà Hồng còn phải chịu những nỗi đau
khác nữa do người khác xúc xiểm một cách độc ác về mẹ chú. Nỗi đau ấy được thể hiện rõ nhất trong cuộc
đối thoại giữa bé Hồng và bà cô của bé.
Em hãy lược thuật lại cuộc đối thoại giữa bà cô với bé Hồng? Qua đoạn đối thoại, em thấy chú bé Hồng
phải chịu thêm những nỗi đau như thế nào ? Hãy phân tích tâm trạng đau đớn ấy của Hồng?
- Cuộc trò chuyện với bà cô là kỷ niệm không thể quên về một nỗi đau uất nghẹn mà tuổi thơ NH đã phải
trải qua. Đã xa mẹ, nhớ mẹ, bé Hồng lại luôn luôn phải nghe những lời nói xấu cay nghiệt về mẹ. Những lời
nói cay nghiệt của bà cô chính là những nhát dao cứa sâu vào trái tim thơ trẻ của chú bé.
+ Đầu tiên, bà cô gợi ý cho bé Hồng vào thăm mẹ. Nỗi nhớ mẹ của đứa tre từng nhiều phen “rớt nước
mắt” vì “thiếu thốn một tình thương ấp ủ” lại được khơi dậy. Chú bé “im lặng cúi đầu không đáp.” “chú bé
nhận ra ý nghĩa cay độc trong giọng nói rất kịch của bà ta.
+ Rồi bà cô lại ngọt ngào giả dối “Mẹ mày dạo này phát tài lắm” trong khi bà ta thừa biết tình cảnh khốn
khổ của mẹ nơi tha hương. => một lần nữa, bé Hồng lại “im lặng cúi đầu xuống đất”. Nỗi nhớ vừa phải giấu
kín, bé Hồng đã phải nuốt thêm vào lòng niềm thương và nỗi đau. Cho nên lần này bé không thể giả cười để
đáp lại bà cô. Cậu bé cảm thấy lòng “càng thắt lại” và “khoé mắt đã cay cay”.
+ Rồi bà cô giục bé Hồng vào Thanh hoá để đòi mẹ “may sắm và thăm em bé”. Bà ta cố ngân dài từ “em
bé” thật ngọt. Đấy là những tiếng đầy dụng ý xấu xa. Thấy mẹ bị xúc phạm, Hồng không thể tiếp tục ghìm
nén nỗi tủi cực. Chú bé từ chỗ “im lặng cúi đầu” đến “nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan
hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ. Một trạng thái tình cảm phức tạp vừa đau đớn, vừa uất nghẹn nảy sinh trong tâm
hồn thơ trẻ, khiến bé Hồng “cười dài trong tiếng khóc”. Bé Hồng cười vì hiểu thấu tâm địa độc hiểm của bà
cô, khinh bỉ thái độ lèo lá, giả dối, độc ác, nhẫn tâm của bà. Em “Khóc” vì thương nhớ mẹ, tiếng khóc uất ức,
căm ghét những hủ tục phong kiến đã chôn vùi, đày đoạ bao số phận người phụ nữ. Nỗi đau đớn tủi cực và
cả nỗi căm giận buộc phải nén lại của chú bé sâu sắc biết chừng nào.

--------------------------------------------------------------- 28 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

+ Dường như chưa cho thế là đủ, bà cô còn “tươi cười” kể cho chú bé nghe rằng “mẹ chú ăn vận rách
rưới, mặt mày xanh bủng, ngồi cho con bú ở chợ ….” => chú bé chưa nghe hết câu đã nghẹn họng “khóc
không ra tiếng”. Chú đau đớn vô cùng, tình cảm dâng trào mạnh mẽ, cuồng nhiệt đến mức bật thành giả thiết:
“Giá những cổ tục là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà
nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”. Câu văn có vẻ dồn dập, xô bồ, nhiều thành phần đồng vị ngữ quen
gặp ở Nguyên Hồng mỗi khi gặp cảm xúc trào dâng ào ạt. Hồng căm ghét cực độ những hủ tục đã đầy đoạ
mẹ mình. Lòng căm phẫn cao độ ấy được NH diễn tả bằng những hình ảnh cụ thể, gợi cảm, nhịp văn dồn
dập, gấp gáp tựa như sự uất hận của bé ngày một tăng tiến. Hồng muốn “cắn, nhai, nghiến” một cách nát vụn
những hủ tục ấy. Ba động từ ấy chỉ ba trạng thái phản ứng của Hồng ngày càng dữ dội để thể hiện nỗi căm
phẫn tới cực điểm
- Trong lòng chú bé Hồng luôn có hình ảnh người mẹ có “vẻ mặt rầu rầu và hiền từ”. Mặc dù mẹ Hồng
bỏ nhà ra đi giữa sự khinh miệt của đám họ hàng cay nghiệt, mặc dù non một năm mẹ chú không gửi cho chú
một lá thư, một lời nhắn hỏi, một đồng quà, chú bé vẫn đầy lòng yêu thương và kính mến đối với mẹ mình.
- Đúng là “rắp tâm ranh bẩn” của bà cô không thể xâm phạm đến tình thương yêu và lòng kính mến mẹ
của bé Hồng, chú không hề mảy may dao động.
- Bà cô càng cố khoét sâu vào nỗi đau thì lòng yêu thương mẹ và nỗi căm ghét những hủ tục phong kiến
vô lý tàn ác càng dâng lên dào dạt và mãnh liệt trong tâm hồn bé. Với chú, mẹ chú hoàn toàn vô tội. => Vậy
là chú bé không chịu ảnh hưởng của những thành kiến đạo đức phong kiến, do có một tình cảm tự nhiên, mạnh
mẽ đối với người mẹ mà chú vô vàn yêu thương kính mến.
Thật là hồn nhiên, thật là trẻ con, và cũng thật là mãnh liệt, lớn lao cái ý nghĩ đó của chú bé ! Sự căm ghét
dữ dội ấy chính là biểu hiện đầy đủ của lòng yêu thương dào dạt của chú bé đối với mẹ chú. Có thể nói chương
truyện là bài ca bất diện của tình mẹ con- tình cảm thiêng liêng muôn đời không một thế lực nào có thể ngăn
cản, tàn phá.
* Tóm lại: đây là những trang miêu tả hay và tinh tế của nhà văn về tâm trạng của bé Hồng. Những nét
thay đổi nhỏ nhất, sâu kín nhất trong tâm hồn bé Hồng đã được tác giả ghi lại bằng những câu văn bình dị, rất
trẻ thơ nhưng chính xác và gợi cảm. Bé Hồng đã hiện lên qua những dòng miêu tả là một em bé giầu tình cảm,
đặc biệt là lòng thương mẹ, một đứa trẻ thông minh và cũng rất quả quyết. Nguyên Hồng muốn nói to lên nỗi
bất hạnh của phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ, qua đó kết án đanh thép sự tàn nhẫn, bất công của xã hội ấy.
Qua đoạn đối thoại, ta thấy bà cô bé Hồng là người như thế nào ?
*) Bà cô:
- Bên ngoài: đóng vai người cô tốt.
+ Nói cười ngọt ngào, làm ra vẻ quan tâm.
+ Có lúc bà ta tỏ sự ngậm ngùi thương xót Hồng và người cha bất hạnh của em. Lúc nào bà ta cũng nhân
danh vì quyền lợi của Hồng “sao lại không vào ? mợ mày phát tài lắm …vào đi, tao chạy tiền tầu cho)..
- Thâm tâm: Bà ta cố ý, tìm mọi cách nói xấu mẹ Hồng, rắp tâm tanh bẩn là gieo rắc vào đầu óc chú bé
những hoài nghi để chú bé khinh miệt và ruồng rẫy người mẹ.
Đặc điểm nổi bật của người đàn bà này là sự tàn nhẫn và độc ác. Là người trong gia đình, chắc chắn bà
ta không lạ gì nỗi khổ xa mẹ, tình cảm của đứa cháu mồ côi cha đối với mẹ, và chắc chắn bà ta thừa thấu hiểu
Hồng là một chú bé dễ xúc cảm và rất mau nước mắt. Và bà ta cũng biết rõ về tình cảnh khốn khổ của chị dâu
mình. Đáng lẽ trong hoàn cảnh ấy, bà ta sẽ phải chăm sóc, an ủi đứa cháu, giúp nó dịu bớt nỗi đau mất cha và
nhất là nỗi đau xa mẹ. Nhưng bà ta hoàn toàn khác, bà ta tìm mọi cách hành hạ, giễu cợt nỗi đau xa mẹ của
Hồng, rắp tâm chia lìa tình cảm mẹ con, huỷ diệt niềm yêu thương kính trọng của chú bé Hồng đối với người
mẹ khốn khổ. đồng thời bà ta cũng lấy làm hả hê thích thú trước tình cảnh khốn khổ của chị dâu.
=> Nhân vật bà cô được thể hiện khá sắc sảo, sinh động. Chỉ cần ghi lại một cuộc trò chuyện, đối thoại
bằng mấy câu nói, có kèm theo vài chi tiết gợi tả giọng điệu, cử chỉ, nhà văn dựng lại khá sinh động chân
dung nhân vật bà cô tiêu biểu cho một hạng người. Bà ta chẳng những tiêu biểu cho cái thành kiến cổ hủ, phi
nhân đạo của xã hội khi đó, mà còn là người đàn bà có tâm địa đen tối khi cố ý khoét sâu vào nỗi đau rướm
máu trong tâm hồn nhạy cảm của đứa cháu mồ côi, cố ý gieo vào lòng nó thái độ khinh miệt, ruồng rẫy đối
với người mẹ mà nó vô vàn yêu thương.
2. Sự kiện hai: Cuộc gặp gỡ đầy nước mắt của niềm vui và hạnh phúc.
Phần cuối của chương hồi ký thuật lại cảnh bé Hồng bất ngờ được gặp mẹ. Niềm vui, niềm hạnh phúc
tuyệt vời được trở về “trong lòng mẹ” của đứa trẻ “thiếu thốn một tình thương ấp ủ “là kỷ niệm sâu sắc nhất,
ngọt ngào nhất của cuộc gặp gỡ ấy
?Niềm vui sướng cao độ của Hồng khi gặp mẹ được diễn tả bằng những chi tiết nào ? Hãy tìm và phân tích
?Tác giả đặc biệt miêu tả những cảm xúc bên trong của Hồng, đó là những cảm xúc gì ?

--------------------------------------------------------------- 29 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Không những thương mẹ, Hồng còn hiểu nỗi lòng mẹ, do đó bé tin thế nào mẹ bé cũng trở về. Có lẽ
chính vì tình thương và niềm tin mãnh liệt ấy nên bé Hồng có sự linh cảm hết sức nhạy bén chính xác.
- Hồng đã gặp lại mẹ một cách bất ngờ sau buổi học. Chỉ cần thoáng qua
+ Thoáng nhìn thấy -> cuống quýt gọi mẹ một cách thất thanh, thảng thốt, bối rối, mừng rỡ, hy vọng.
Nhưng do quá sung sướng, bất ngờ nên Hồng nghĩ “mình đã lầm” nhưng em vẫn gọi và chạy theo. Nếu người
quay lại mà là người khác thì thật là điều tủi cực, là thất vọng to lớn cho Hồng. Chính em cũng nói “thực sự
nếu em nhầm lẫn thì khác nào người bộ hành đang sắp gục ngã đi giữa sa mạc mênh mông bắt gặp ảo ảnh
của bóng râm và dòng suối”. Có đặt cái thất vọng cùng cực trước khi chết khát như vậy, mới thấy niềm vui
sướng, hạnh phúc trần gian vô hạn của đứa con đang khao khát tình mẹ được gặp mẹ, nhất là được “nằm trong
lòng mẹ”. Nỗi khắc khoải mong mẹ tới cháy ruột của Hồng đã được thể hiện thật thấm thía, xúc động bằng
hình ảnh so sánh đó.
- Nỗi sung sướng đến cuống quýt của bé Hồng được thể hiện ở những hành động: “Thở hồng hộc”, “Trán
đẫm mồ hôi”, “ríu cả chân lại”, “oà lên khóc, khóc nức nở khi mẹ kéo tay, xoa đầu em”. Biết bao hồi hộp sung
sướng, đau khổ toát lên từ những cử chỉ cuống quýt ấy.Dường như bao nhiêu sầu khổ dồn nén không được
giải toả trong chú bé suốt thời gian xa mẹ dài đằng đẵng, lúc này bỗng vỡ oà. Đó còn là tiếng khóc sung
sướng, vỡ oà. Ai biết được trong cuộc đời mình, NH đã khóc bao nhiêu lần ? Nhưng tiếng khóc của bé Hồng
chẳng lần nào giống nhau cả. Lần này là tiéng khóc của niềm vui và hạnh phúc tràn ngập. Có thể nói mỗi
dòng mỗi chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng tình xót thương, ép thẳng ra từ trái tim vô cùng
nhạy cảm của mình.
- Dưới cái nhìn vô vàn thương yêu của đứa con mong mẹ, mẹ chú hiện ra thật đẹp, thật phúc hậu, thật
hiền: “vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật mầu hồng của hai gò má”. Em đã có một
phán đoán rất người lớn và cũng rất trẻ thơ “hay tại sự sung sướng bỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình
hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Cảm xúc này là kết quả của tâm trạng
Hồng sau những cuộc đối thoại đầy cay đắng với bà cô.
- Cảm giác khi nằm trong lòng mẹ được hình dung rất tỉ mỉ, cụ thể: “tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ
tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi. Cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần
áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường”. Có thể nói,
tác giả đã mổ xẻ, tách bạch từng cảm giác sung sướng đến mê li, rạo rực cả người khi được hít thở trong bầu
không khí của tình mẹ con tuyệt vời.
- Từ những cảm giác đê mê sung sướng của chú bé khi nằm “trong lòng mẹ”, nhà văn nêu lên nhận xét
khái quát đầy cảm động về sự êm dịu vô cùng của người mẹ trên đời: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người
mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống
lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng” Dường như tất cả mọi giác quan của chú bé đều thức
dậy và mở ra để cảm nhận tận cùng những cảm giác rạo rực, sung sướng cực điểm khi nằm trong lòng mẹ, tận
hưởng cái “êm dịu vô cùng” đó của người mẹ. Chú không nhớ mẹ chú đã hỏi những gì và chú đã trả lời những
gì. Hồng lúc ấy chỉ là chú bé con trở về trong lòng người mẹ yêu dấu, rất thơ ngây và trong trắng.
=> Tóm lại, khi gặp mẹ, Hồng đã tỏ rõ những cảm xúc mãnh liệt của mình. Có lẽ chưa nhà văn nào diễn
tả tình mẹ con một cách chân thật và sâu sắc, thấm thía như dưới ngòi bút của Nguyên Hồng. Ông đã viết
những dòng miêu tả tâm lí trẻ thơ rất hay, xúc động có thể xếp vào những trang miêu tả tâm lí đặc sắc nhất
của văn chương Việt Nam. Đằng sau những dòng chữ, những câu văn trên đã là “những rung động cực điểm
của một linh hồn trẻ dại” (Thạch Lam)
IV. Tổng kết.
1. Nội dung.
- Là chương cảm động về tình cảm mẹ con, tình cảm của Hồng khi xa mẹ và niềm hạnh phúc lớn lao của
Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ. Qua đó NH thể hiện thái độ cảm thông, tôn trọng đối với phụ nữ và trẻ
em, và luôn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của họ ngay cả khi trong những tình huống khắc
nghiệt của cuộc sống.
2. Nghệ thuật.
- Nhà văn đã thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, tâm trạng nhân vật trong nhiều tình huống.
Diễn biến tâm trạng đau đớn, căm giận ngày càng tăng của chú bé Hồng…. Trong cuộc đối thoại với bà cô
…. Đến đoạn tả cảnh chú bé gặp lại, nhào vào lòng mẹ, ngòi bút phân tích cảm xúc, cảm giác của tác giả đã
đạt tới độ sâu sắc, tinh tế, hiếm có. Tâm lý, tính cách bà cô được khắc hoạ thật sinh động, sắc sảo. Từ giọng
nói ngọt ngào, tự nhiên một cách giả dối, vừa vỗ vai “tươi cười” vừa ném ra những lời thật đau đớn với chú
bé, tất cả đều rất kịch, cho thấy tâm lý một người đàn bà có tâm địa khá thâm độc.

--------------------------------------------------------------- 30 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Bút pháp giầu chất trữ tình. Cả chương truyện đều tràn đầy cảm xúc. Đặc biệt là đoạn sau – cảnh chú
bé gặp mẹ và nhào vào lòng mẹ, cảm xúc dâng trào như thác lũ….NH đã lắng nghe được những âm vang sâu
lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế ở bên trong
- Nguyên Hồng gần gũi với Thạch Lam ở lối phân tích tâm lý tinh tế, lối viết đi sâu vào cảm giác, có khả
năng làm thức dậy mọi giác quan ở người đọc. (Cảm giác của cậu bé cô đơn, tủi cực sau bao ngày đằng đẵng
xa mẹ bỗng được lăn vào lòng mẹ: “tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi …….vô cùng”
- Lối viết văn tự truyện tạo nên ở người đọc một sự đồng cảm, gần gũi và tin cậy, một sự xúc động sâu
lắng với những ấn tượng mạnh mẽ thắm thiết. Nhà văn đem phần trong sáng nhất của tâm hồn ra giãi bầy
trước công chúng. Qua sự chọn lọc và đào thải của thời gian, những kỷ niệm, những cảm giác từ tuổi ấu thơ
phải là những gì thật sự lắng đọng, mạnh mẽ và sâu sắc đến mức có thể đi mãi với ta trong suốt cuộc đời.
- Ngoài những nghệ thuật trên, chúng ta trân trọng tài năng bẩm sinh của người nghệ sỹ. Chương truyện
này thực sự hấp dẫn gây xúc động đối với người đọc có lẽ bởi sau từng câu, từng chữ đều thẫm đẫm tình cảm
chân thành, tâm huyết của nhà văn.
*Dàn ý phân tích nhân vật bé Hồng trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”
Đặc điểm nổi bật nhất của bé Hồng : Là một chú bé có lòng yêu thương mẹ sâu sắc, mãnh liệt
1. Hoàn cảnh của bé Hồng.
- Bố chết, mẹ phải tha phương, bản thân phải sống nhờ vả những người họ hàng giầu có mà ích kỉ, tàn
nhẫn.
- Bé Hồng phải chịu nhiều nỗi ấm ức, khổ sở, thiếu thốn.
- Nỗi khổ lớn nhất của Hồng là phải xa mẹ, em luôn thèm khát tình mẹ.
2. Hồng luôn dành cho mẹ những tình cảm yêu thương vô bờ bến.
a. Tình mẫu từ thiêng liêng: Dù bà cô có cố tình bôi nhọ, xúc xiểm cũng không làm tình thương đối với
mẹ thay đổi.
Dẫn chứng : « Đời nào.... xúc phạm đến tình mẫu tử thiêng liêng »
b. Yêu mẹ, muốn gặp mẹ mà phải kìm nén và giấu kín tình cảm vì không muốn nghe những lời xúc
phạm mẹ.
Dẫn chứng : Khi nói chuyện đi thăm mẹ, Hồng không muốn đi...
c, Khi bà cô tiếp tục dùng những lời cay độc để nói về mẹ thì Hồng đau đớn, uất nghẹn tột độ.
Dẫn chứng : Nước mắt chan hoà,....ròng ròng.... cười dài trong tiếng khóc
3. Hồng sớm hiểu nguyên nhân làm mẹ khổ.
- Căm tức những thành kiến nặng nề... « Giá những cổ tục.....nghiến.... nát vụn mới thôi »
4. Hồng khao khát gặp lại mẹ và hạnh phúc khi ở trong lòng mẹ.
a. Khao khát gặp lại mẹ: chạy ríu cả chân, lo sợ không phải là mẹ...
b. Hạnh phúc khi ở bên mẹ: Nhận ra mẹ vẫn đẹp, không còn nghe thấy gì nữa.

3. Củng cố.
- Nêu nội dung và nhgệ thuật của văn bản?
- Tóm tắt văn bản?
4. Dặn dò.
- Về kể tóm tắt văn bản.
- Học nd bài.
- Xem lại văn bản “tức nước vỡ bờ -Ngô Tất Tố”
______________________________________

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 13- V¨n bản:

BÀI 2. TỨC NƯỚC VỠ BỜ


(Trích “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố)
--------------------------------------------------------------- 31 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “tức nước vỡ bờ”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
______________________________________
I. Tác giả.
- Ngô Tất Tố (1893- 1954) sinh tại Lộc Hà, huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh- Hà Nội)
- Thuở nhỏ học chữ Nho nổi tiếng thông minh, đỗ đầu kì thi khảo hạch vùng kinh Bắc, được ái mộ, gọi
là “đầu xứ Tố”. Khi nền Hán học suy tàn : “ông nghè, ông cống cũng nằm co”(Tú Xương), Ngô Tất Tố tự học
chữ Quốc ngữ và học tiếng Pháp. Ông trở thành một nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật và khảo cứu nổi tiếng.
+ Về hoạt động báo chí, ông được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” (lời Vũ Trọng
Phụng), có mặt trên nhiều tờ báo trong cả nước với hàng chục bút danh, với một khối lượng bài báo đồ sộ, đề
cập nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị, văn hoá, nghệ thuật. Đó là một nhà báo có lập trường dân chủ tiến
bộ, có lối viết sắc sảo, điêu luyện giàu tính chiến đấu, nhiều bài là những tiểu phẩm châm biếm có giá trị văn
học cao.
+ Về sáng tác văn học, ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực
trước cách mạng. Là cây bút phóng sự, là nhà tiểu thuyết nổi tiếng. Gọi NTT là “nhà văn của nông dân” bởi
ông chuyên viết về nông thôn và đặc biệt rất thành công ở đề tài này.
VD: Các phóng sự: Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940) là các tập hồ sơ lên án những hủ tục “quái
gở”, “man rợ” đang đè nặng lên cuộc sống người nông dân ở nhiều vùng nông thôn khi đó. Tiểu thuyết “Tắt
đèn” là “thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác,
tòng lai chưa từng thấy (Lời Vũ Trọng Phụng trong bài “báo thời vụ”). Tiểu thuyết “Lều chõng” (1939) tái
hiện tỉ mỉ sinh động cảnh hà trường và thi cử thời phong kiến. Nhưng khác với những tác phẩm đương thời
cùng đề tài, “lều chõng” đã vạch trần tính chất nhồi sọ và sự trói buộc khắc nghiệt bóp chết óc sáng tạo của
chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến. Tác phẩm ít nhiều có ý nghĩa chống lại phong trào phục cổ do thực
dân đề xướng lúc bấy giờ.
- Sau cách mạng tháng Tám, NTT sống và hoạt động văn hóa văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc, ông qua
đời trước mấy ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
II. Tóm tắt tác phẩm “Tắt đèn”.
- Câu chuyện trong “Tắt đèn” diễn ra trong một vụ đốc sưu, đốc thuế ở một làng quê- láng Đông xá dưới
thời Pháp thuộc. Cổng làng bị đóng chặt. Bọn hào lý và lũ tay chân với roi song, dây thừng, tay thước nghênh
ngang đi lại ngoài đường thét trói kẻ thiếu sư. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và nổi lên suốt đêm ngày.
- Sau hai cái tang liên tiếp(tang mẹ chồng và tang chú Hợi), gia đình chị Dậu tuy vợ chồng đầu tắt mặt
tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn, áo không đủ mặc, đến nay đã lên đến “bậc nhất nhì trong hạng cùng đinh”.
Anh Dậu lại bị trận ốm kéo dài mấy tháng trời không có tiến nộp sưu, anh Dậu đã bị bọn cường hào “bắt trói”
như trói chó để giết thịt. Chị Dậu tất tả chạy ngược chạy xuôi, phải dứt ruột bán đứa con gái đầu lòng và ổ
chó cho vợ chồng Nghị Quế để trang trải “món nợ nhà nước”. Lí trưởng làng Đông Xá bắt anh Dậu phải nộp
suất sưu cho chú Hợi đã chết từ năm ngoái vì “chết cũng không trốn được nợ nhà nước”. Bị ốm, bị trói, bị
đánh …. Anh Dậu bị ngất đi, rũ như xác chết được khiêng trả về nhà. Sáng sớm hôm sau anh Dậu còn đang
ốm rất nặng chưa kịp húp tí cháo thì tay chân bọn hào lí lại ập đến. Chúng lồng lên chửi mắng, bịch vào ngực
và tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Chị Dậu van lạy chúng tha trói chồng mình. Nhưng tên Cai Lệ đã gầm lên,
rồi nhảy thốc vào trói anh Dậu khi anh Dậu đã bị lăn ra chết ngất. Chị Dậu nghiến hai hàm răng thách thức,
rồi xông vào đánh ngã nhào tên Cai Lệ và tên hầu cận lý trưởng, những kẻ đã “hút nhiều xái cũ”.
- Chị Dậu bị bắt giải lên huyện. Tri Phủ Tư Ân thấy Thị Đào có nước da đen dòn, đôi mắt sắc sảo đã giở
trò bỉ ổi. Chị Dậu đã “ném tọt” cả nắm giấy bạc vào mặt con quỷ dâm ô, rồi vùng chạy. Món nợ nhà nước vẫn

--------------------------------------------------------------- 32 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

còn đó, chị Dậu phải lên tỉnh đi ở vú. Một đêm tối trời, cụ cố thượng đã ngoài 80 tuổi mò vào buồng chị Dậu.
Chị Dậu vùng chạy thoát ra ngoài trong khi “trời tối đen như mực”
III. Giới thiệu “Tắt đèn”.
1. Về nội dung tư tưởng.
a. “Tắt đèn” là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực: Tố cáo và lên án chế độ sưu thuế dã man của thực
dân Pháp đã bần cùng hóa nhân dân. “Tắt đèn” là một bức tranh xã hội chân thực, một bản án đanh thép kết
tội chế độ thực dân nửa phong kiến.
b. “Tắt đèn” giầu giá trị nhân đạo:
- Tình vợ chồng, tình mẹ con, tình xóm nghĩa làng giữa những con người cùng khổ, số phận những người
phụ nữ, những em bé, những người cùng đinh được tác giả nêu lên với bao xót thương, nhức nhối và đau lòng.
- “Tắt đèn” đã xây dựng nhân vật chị Dậu, một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân
Việt Nam. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp : cần cù, tần tảo, giầu tình thương, nhẫn nhục và dũng cảm chống
cường hào, áp bức. Chị Dậu là hiện thân của người vợ, người mẹ vừa sắc sảo, vừa đôn hậu, vừa trong sạch.
2. Về nghệ thuật.
- Kết cấu chặt chẽ, tập trung. Cái tình tiết, chi tiết đan cài chặt chẽ, đầy ấn tượng làm nổi bật chủ đề.
Nhân vật chị Dậu xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm.
- Tính xung đột, tính bi kịch cuốn hút, hấp dẫn.
- Khắc hoạ thành công nhân vật: các hạng người từ người dân cày nghèo khổ đến dịa chủ, từ bọn cường
hào đến quan lại đều có nét riêng rất chân thực, sống động.
- Ngôn ngữ từ miêu tả đến tự sự, rồi đến ngôn ngữ nhân vật đều nhuần nhuyễn đậm đà.
=> Tóm lại, đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét : “Tắt đèn” là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội
hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác.
IV. Tìm hiểu đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”.
1. Giới thiệu đoạn trích.
Trong tiểu thuyết “Tắt đèn”, chí ít người đọc cũng nhớ chị Dậu, người phụ nữ rất mực dịu dàng và biết
chịu đựng nhẫn nhục, đã ba lần vùng lên chống trả quyết liệt sự áp bức của bọn thống trị để bảo vệ nhân phẩm
của mình và bảo vệ chồng con. Trong đó thì tiểu biểu nhất là cảnh “tức nước vỡ bờ” mà nhà văn viết thành
một chương truyện đầy ấn tượng khó phai, chương thứ 18 của tiểu thuyết “Tắt đèn” nổi tiếng của văn học hiện
thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930- 1945.
2. Tiêu đề “Tức nước vỡ bờ” thâu tóm được.
- Các phần nội dung liên quan trong văn bản: chị Dậu bị áp bức cũng quẫn, buộc phải phản ứng chống
lại Cai lệ và người nhà lí trưởng.
- Thể hiện đúng tư tưởng của văn bản: có áp bức, có đấu tranh
- Từ tên gọi của văn bản, có thể xác định nhân vật trung tâm của đoạn trích này là chị Dậu.
3. Bố cục. Chuyện tức nước vỡ bờ của chị Dậu diễn ra ở hai sự việc chính:
- Phần 1: Từ đầu đến chỗ “ngon miệng hay không”: Chị Dậu ân cần chăm sóc người chồng ốm yếu giữa
vụ sưu thuế.
- Phần 2: Từ “anh Dậu uốn vai đến hết”: Chị Dậu khôn ngoan và can đảm đương đầu với bọn tay sai
phong kiến như Cai Lệ và người nhà Lý trưởng.
Câu hỏi: Theo em, hình ảnh chị Dậu được khắc hoạ rõ nét nhất ở sự việc nào? vì sao em khẳng định
như thế?
- Sự việc chị Dậu đương đầu với Cai Lệ và người nhà lí trưởng. Vì khi đó tính cách ngoan cường của
chị Dậu được bộc lộ. Trong hoàn cảnh bị áp bức cùng cực, tinh thần phản kháng của chị Dậu mới có dịp bộc
lộ rõ ràng.
4. Phân tích.
a. Tình huống truyện hấp dẫn thể hiện mối xung đột cao độ giữa kẻ áp bức và người bị áp bức.
- Giữa vụ sưu thuế căng thẳng, gia đình chị Dậu bị dồn đến bước đường cùng trong cơn khốn quẫn nhất:
phải bán con, bán đàn chó mới đẻ mới đủ suất tiền sưu cho anh Dậu để cứu chồng đang ốm yếu bị đánh đập
ngoài đình. Nhưng nguy cơ anh Dậu lại bị bắt nữa vì chưa có tiền nộp sưu cho người em ruột đã chết từ năm
ngoái.
- Nhờ hàng xóm giúp, chị Dậu ra sức cứu sống chồng nhưng trời vừa sáng, cai lệ và người nhà lí trưởng
đã sầm sập tiến vào với những roi song tay thước và dây thừng, tính mạng của anh Dậu bị đe doạ nghiêm
trọng. Anh chưa kịp húp ít cháo cho đỡ xót ruột như mong muốn của người vợ thương chồng thì bọn đầu trâu
mặt ngựa đã ào vào như một cơn lốc dữ khiến anh lăn đùng ra không nói được câu gì.
=> Như vậy, tình huống vừa mới mở ra mà xung đột đã nổi lên ngay, báo trước kịch tính rất cao đề dẫn
đến cảnh “tức nước vỡ bờ” như là một quy luật không thể nào tránh khỏi.

--------------------------------------------------------------- 33 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

b. Bộ mặt tàn ác bất nhân của bọn cai lệ và người nhà lí trưởng.
Trong phần hai của văn bản này xuất hiện các nhân vật đối lập với chị Dậu. Trong đó nổi bật là tên cai
lệ. Cai lệ là viên cai chỉ huy một tốp lính lệ. Hắn cùng với người nhà lí trưởng kéo đến nhà chị Dậu để tróc
thuế sưu, thứ thuế nộp bằng tiền mà người đàn ông là dân thường từ 18 đến 60 tuổi (gọi là dân đinh) hằng
năm phải nộp cho nhà nước phong kiến thực dân; sưu là công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm
cho nhà nước đó. Gia đình chị Dậu phải đóng suất thuế sưu cho người em chồng đã mất từ năm ngoái cho
thấy thực trạng xã hội thời đó thật bất công, tàn nhẫn và không có luật lệ.
- Theo dõi nhân vật cai lệ, ta thấy ngòi bút hiện thực NTT đã khắc họa hình ảnh tên cai lệ bằng những
chi tiết điển hình thật sắc sảo.
+ Vừa vào nhà, cai lệ đã lập tức ra oai “gõ đầu roi xuống đất”, hách dịch gọi anh Dậu là “thằng kia”,
“mày” và xưng “ông”, “cha mày”. “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu
mau!”
+ Cai Lệ trợn ngược hai mắt, hắn quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà
dám mở mồm xin khất!”
+ Vẫn giọng hầm hè: “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi
mắng thôi à!....”
+ Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu : “tha này!
tha này!.. Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.”
=> Ngòi bút của NTT thật sắc sảo, tinh tế khi ông không dùng một chi tiết nào để miêu tả suy nghĩ tên
cai lệ trong cảnh này. Bởi vì lũ đầu trâu mặt ngựa xem việc đánh người, trói người như là việc tự nhiên hàng
ngày, chẳng bao giờ thấy động lòng trắc ẩn thì làm gì chúng còn biết suy nghĩ? Nhà văn đã kết hợp các chi
tiết điển hình về bộ dạng, lời nói, hành động để khắc hoạ nhân vật. Từ đó ta thấy tên cai lệ đã bộc lộ tính cách
hống hách, thô bạo, không còn nhân tính. Từ hình ảnh tên cai lệ này, ta thấy bản chất xã hội thực dân phong
kiến là một xã hội đầy rẫy bất công tàn ác, một xã hội có thể gieo hoạ xuống người dân lương thiện bất kì lúc
nào, một xã hội tồn tại trên cơ sỏ của các lí lẽ và hành động bạo ngược.
c. Hình ảnh đẹp đẽ của người nông dân lao động nghèo khổ.
Truyện “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã tạo dựng được hình ảnh chân thực về người phụ nữ nông dân bị áp
bức cùng quẫn trong xã hội phong kiến nhưng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của người lao đông, đó là chị
Dậu.
* Trước hết là tấm lòng của người vợ đối với người chồng đang đau ốm được diễn tả chân thật và xúc
động từ lời nói đến hành động.
- Chị Dậu chăm sóc anh Dậu trong hoàn cảnh : Giữa vụ sưu thuế căng thẳng, nhà nghèo, phải bán chó,
bán con mà vẫn không lo đủ tiền sưu. Còn anh Dậu thì bị tra tấn, đánh đập và bị ném về nhà như một cái xác
rũ rượi…
=> Trước hoàn cảnh khốn khó, chị Dậu đã chịu đựng rất dẻo dai, không gục ngã trước hoàn cảnh.
- Trong cơn nguy biến chị đã tìm mọi cách cứu chữa cho chồng: Cháo chín, chị Dậu mang ra giữa nhà,
ngả mâm bát múc la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội. Chị rón rén bưng một bát đến chỗ chồng
nằm: Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có
ý chờ xem chồng ăn có ngon miệng không.
=> Đó là những cử chỉ yêu thương đằm thắm, dịu dàng của một người vợ yêu chồng. Tình cảm ấy như
hơi ấm dịu dàng thức tỉnh sự sống cho anh Dậu. Tác giả miêu tả thật tỉ mỉ, kĩ lưỡng từng hành động cử chỉ,
từng dấu hiệu chuyển biến của anh Dậu : “anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng”… Dường như mỗi cử chỉ,
hành động của anh Dạu đều có ánh mắt thấp thỏm, lo lắng của chị Dậu dõi theo da diết. Cứ tưởng rằng đây là
một phút giây ngắn ngủi trong cả cuộc đời đau khổ của chị Dậu để chị có thể vui sướng tràn trề khi anh Dậu
hoàn toàn sống lại. Nhưng dường như chị Dậu sinh ra là để khổ đau và bất hạnh nên dù chị có khao khát một
giây phút hạnh phúc ngắn ngủi nhưng nào có được. Bọn Cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào như
cơn lốc dữ dập tắt ngọn lửa sống đang nhen nhóm trong anh Dậu. Nỗi cay đắng trong chị Dậu không biết lớn
đến mức nào. Nhưng giờ đây chị sẽ phải xử sự ra sao để cứu được chồng thoát khỏi đòn roi.
* Theo dõi nhân vật chị Dậu trong phần thứ hai của văn bản “tức nước vỡ bờ”, ta thấy chị Dậu là một
người phụ nữ cứng cỏi đã dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng.
- Ban đầu chị nhẫn nhục chịu đựng:
+ Chị Dậu cố van xin thiết tha bằng giọng run run cầu khẩn: “Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu
khất”
=> Cách cư xử và xưng hô của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục chịu đựng. Chị có thái độ như vậy là vì
chị biết thân phận bé mọn của mình, người nông dân thấp cổ bé họng, biết cái tình thế khó khăn, ngặt nghèo

--------------------------------------------------------------- 34 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

của gia đình mình (anh Dậu là kẻ có tội thiếu suất sưu của người em đã chết, lại đang ốm nặng). Trong hoàn
cảnh này, chị chỉ mong chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói hành hạ anh.
- Khi tên cai lệ chạy sầm sập đến trói anh Dậu, tính mạng người chồng bị đe doạ, chị Dậu “xám mặt”
vội vàng chạy đến đỡ lấy tay hắn, nhưng vẫn cố van xin thảm thiết: “Cháu van ông ! Nhà cháu vừa mới tỉnh
được mọt lúc, ông tha cho”. (“Xám mặt”tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay
sai. Mặc dù vậy, lời nói của chị vẫn rất nhũn nhặn, chị đã nhẫn nhục hạ mình xuống- chứng tỏ sức chịu đựng
của chị rất lớn. Tất cả chỉ là để cứu chồng qua cơn hoạn nạn.
- Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả
năng phản kháng mãnh liệt.
+ Khi tên cai lệ mỗi lúc lại lồng lên như một con chó điên “bịch vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát đánh
bốp vò mặt chị thậm chí nhảy vào chỗ anh Dậu”…. tức là hắn hành động một cách dã man thì mọi sự nhẫn
nhục đều có giới hạn. Chị Dậu đã kiên quyết cự lại. Sự cự lại của chị Dậu cũng có một quá trình gồm hai
bước.. Thoạt đầu, chị cự lại bằng lí lẽ: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. → Lời nói đanh
thép như một lời cảnh cáo. Thực ra chị không viện đến pháp luật mà chỉ nói cái lí đương nhiên, cái đạo lí tối
thiểu của con người. Lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô ngang hàng nhìn vào mặt đối thủ. Với thái độ quyết
liệt ấy, một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để đến khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời
còn tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm
giận ngùn ngụt: Chị Dậu nghiến hai hàm răng “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Một cách xưng hô
hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân thể hiện tư thế “đứng trên đầu thù” sẵn sàng đè bẹp đối phương. Rồi chị
“túm cổ cai lệ ấn dúi ra cửa, lẳng người nhà lí trưởng ngã nhào ra thềm”. Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận. Với
chị, nhà tù thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ nên trước sự can ngăn của chồng, chị trả lời: “thà
ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.
? Em thích nhất chi tiết nào ? Vì sao?
=> Chi tiết chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ.
Vừa ra tay chị đã nhanh chóng biến tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi
tả. Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức không thể chịu
đựng được nữa. Đó còn là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến. Hành động dã man của tên
cai lệ là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên quá mức. Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên
hả hê. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh chị Dậu hiện lên khoẻ khoắn, quyết liệt bao nhiêu thì hình ảnh bọn tay
sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười bấy nhiêu. Và chúng ta khi đọc đến những dòng này cũng sung
sướng, hả hê như Ngô Tất Tố. Ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội “có áp bức có đấu tranh”, “con
giun xéo mãi cũng quằn”, chị Dậu bị áp bức dã man đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm.
? Nhận xét về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật chị Dậu trong đoạn này.
?Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó?
- Kết hợp các chi tiết điển hình về cử chỉ với lời nói và hành động.
- Tư sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
- Từ nhũn nhặn, tha thiết van xin đến cứng cỏi thách thức, quyết liệt
- Dùng phép tương phản tính cách chị Dậu với bọn cai lệ và người nhà lí trưởng.
=> Tác dụng: tạo được nhân vật chị Dậu giống thật, chân thực, sinh động, có sức truyền cảm. Tính cách
chị Dậu hiện lên nhất quán với diễn biến tâm lí thật sinh động. Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, đầy vị tha, giầu
tình yêu thương, sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng nhưng hoàn toàn không yếu đuối, chỉ biết sợ
hãi mà trái lại vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tinh thần phản kháng tiềm tàng.
- Từ hình ảnh của chị Dậu ta liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng tháng Tám: tự ti, nhẫn
nhục, an phận do bị áp bức lâu đời. Nhưng họ sẽ đứng lên phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ.
- Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc chưa có kết quả (chỉ một lúc sau, cả nhà chị bị trói
giải ra đình trình quan) tức là chị vẫn bế tắc nhưng có thể tin rằng khi có ánh sáng cách mạng rọi tới, chị sẽ là
người đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh. Chính với ý nghĩa ấy mà Nguyễn Tuân viết: “tôi nhớ như có lần nào,
tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông phá kho thóc Nhật ở một cuộc cướp chính quyền huyện kì tổng khởi nghĩa.
=> Như vậy, từ hình ảnh “cái cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” và từ hình ảnh
người phụ nữ trong thơ xưa đến hình ảnh chị Dậu trong “Tắt đèn”, ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam
trong văn học đã có một bước phát triển mới cả về tâm hồn lẫn chí khí.

5. Nội dung và nghệ thuật đặc sắc của văn bản “tức nước vỡ bờ”.
- Với ngòi bút hiện thực sinh động, Ngô Tất Tố đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân
phong kiến đương thời đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ. Nhà văn còn ca ngợi một phẩm
chất tốt đẹp của người phụ nữ nông dân nghèo khổ: giàu tình thương yêu và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

--------------------------------------------------------------- 35 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Đây là một văn bản tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. Tình huống truyện hấp dẫn thể hiện nổi bật
xung đột. Khắc hoạ nhân vật bằng kết hợp các chi tiết điển hình về cử chỉ, lời nói và hành động. Thể hiện
chính xác quá trình tâm lí nhân vật. Có thái độ rõ ràng đối với nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác
giả và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật rất đặc sắc.

3. Củng cố.
- Nêu nội dung và nhgệ thuật của văn bản?
- Tóm tắt văn bản?
4. Dặn dò.
- Về kể tóm tắt văn bản.
- Học nd bài.
- Tìm hiểu tiếp văn bản “tức nước vỡ bờ -Ngô Tất Tố”

________________________________________________

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 14- V¨n bản:

BÀI 2. TỨC NƯỚC VỠ BỜ (Tiếp)


(Trích “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố)
I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “tức nước vỡ bờ”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_________________________________________
IV.
6. Câu hỏi luyện tập.
1. Em hiểu về như thế nào về nhan đề “Tức nước vỡ bờ” đặt cho đoạn trích? Theo em đặt tên như vậy
có thoả đáng không?
- Kinh nghiệm của dân gian được đúc kết trong câu tục ngữ đó đã bắt gặp sự khám phá chân lí đời sống
của cây bút hiện thực NTT, được ông thể hiện thật sinh động, đầy sức thuyết phục.
- Đoạn trích chẳng những làm toát lên cái lô gic hiện thực “tức nước vỡ bờ”, “có áp bức, có đấu tranh”
mà còn toát lên cái chân lí: con đường sống của quần chúng bị áp bức chỉ có thể là con đường đấu tranh để tự
giải phóng, không có con đường nào khác. Vì vậy mà tuy tác giả “Tắt đèn” khi đó chưa giác ngộ cách mạng,
tác phẩm kết thúc rất bế tắc, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nói rằng: Ngô TẤt Tố với “tắt đèn” đã xui người
nông dân nổi loạn. NTT chưa nhận thức được chân lí cách mạng nên chưa chỉ ra được con đường đấu tranh
tất yếu của quần chúng bị áp bức, nhưng với cảm quan hiện thực mạnh mẽ, nhà văn đã cảm nhận được xu thế
“tức nước vỡ bờ” và sức mạnh to lớn khôn lường của sự “vỡ bờ” đó. Và không quá lời nếu nói rằng cảnh “tức
nước vỡ bờ” trong đoạn trích đã dự báo cơn bão táp quần chúng nông dân nổi dậy sau này.
2. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: “Với tác phẩm Tắt đèn, NTT đã xui người nông dân nổi loạn. Nên
hiểu như thế nào về nhận định này?
Gợi ý:
- Chế độ phong kiến còn áp bức, bóc lột tàn bạo không còn chỗ cho người lương thiện như chị Dậu được
sống.

--------------------------------------------------------------- 36 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Những người nông dân như chị Dậu muốn sống được, không có cách nào khác phải vùng lên đấu tranh
chống áp bức bóc lột.
- Đó là một nhận xét chính xác.
3. Từ đó, có thể nhận ra thái độ nào của nhà văn NTT đối với thực trạng xã hội và đối với phẩm chất
của người nông dân trong xã hội cũ?
- Lên án xã hội thống trị áp bức vô nhân đạo
- Cảm thông với cuộc sống cùng khổ của người nông dân nghèo
- Cổ vũ tinh thần phản kháng của họ
- Lòng tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ.
4. Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu để làm rõ câu chủ đề sau:
- Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả
năng phản kháng mãnh liệt. Thật vậy, khi bị đẩy tới đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt, thể
hiện một thái độ thật bất khuất. Khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời, còn “tát vào mặt chị một cái
đánh bốp” rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt: “chị Dậu
nghiến hai hàm răng: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” Chị chẳng những không còn xưng hô
“cháu - ông”, mà cũng không phải “tôi – ông” như kẻ ngang hàng, mà lần này, chị xưng “bà”, gọi tên cai lệ
bằng “mày”! Đó là cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân, thể hiện sự căm giận và khinh bỉ cao
độ, đồng thời khẳng định tư thế “đứng trên đầu thù”, sẵn sàng đè bẹp đối phương. Lần này chị Dậu đã không
đấu lí mà quyết ra tay đấu lực với chúng. Cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai đã cho ta thấy sức mạnh
ghê gớm và tư thế ngang hàng của chị Dậu, đối lập với hình ảnh, bộ dạng thảm hại hết sức hài hước của hai
tên tay sai bị chị “ra đòn”. Với tên cai lệ “lẻo khoẻo” vì nghiện ngập, chị chỉ cần một động tác “túm lấy cổ
hắn, ấn dúi ra cửa”, hắn đã “ngã chỏng quèo trên mặt đất! Đến tên người nhà lí trưởng, cuộc đọ sức có dai
dẳng hơn một chút (hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đền buông gậy ra, áp vào vật nhau),
nhưng cũng không lâu, kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm
tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm! Vừa ra tay, chị Dậu đã nhanh chóng biến hai tên tay sai hung hãn vũ
khí đầy mình thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi tả. Lúc mới xông vào, chúng hùng hổ, dữ tợn bao nhiêu thì
giờ đây, chúng hài hước, thảm hại bấy nhiêu. Đoạn văn đặc biệt sống động và toát lên một không khí hào
hứng rất thú vị “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang rất buồn thảm.
5. Hãy viết một số đoạn văn chứng minh ý kiến của nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan : “Cái đoạn
chị Dậu đánh nhau với tên Cai Lệ là một đoạn “tuyệt khéo”. Sau đó hãy phân tích các phương tiện chuyển
đoạn văn được sử dụng.
Gợi ý:
Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn “tuyệt khéo”, đó là lời bình luận của nhà văn Vũ
Ngọc Phan về tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
“ Tắt đèn” có nhiều điểm rất hay, rất khéo; có nhiều trang làm xúc động lòng người. Trong đó có cảnh
“tức nước vỡ bờ”, một trang văn “tuyệt khéo”, giàu kịch tính như một màn bi hài kịch. Có tiếng khóc, tiếng
rên. Có tiếng chửi, có tiếng van xin, có lời thách thức. Có cảnh đánh nhau giữa người đàn bà lực điền và tên
cai lệ.
Anh Dậu vừa mới tỉnh được một lát thì tên cai lệ, tên hầu cận lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng
“sầm sập” kéo tới. Lũ sai nha sát khí đằng đằng. Chỉ một tiếng thét “thằng kia”! thế mà tên cai lệ đã làm cho
anh Dậu vừa kề miệng vào bát cháo đã “lăn đùng ra chết ngất!” Hắn chửi chị Dậu thậm tệ, khi chị thiết tha
xin khất sưu. Hắn “trợn ngược hai mắt” quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà
dám mở mồm xin khất! Hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để trói kẻ thiếu sưu. Hắn dã man “bịch” vào ngực
chị Dậu, tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Hắn lồng lên như một con thú dữ. Ngôn ngữ, điệu bộ, hành động của
tên cai lệ được đặc tả “tuyệt khéo” đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của một tên sai nha mất hết cả tính người.
Còn có gì tuyệt khéo nữa? Cảnh đánh nhau giữa chị Dậu và tên cai lệ diễn ra dữ dội và hết sức bất ngờ.
Người đàn bà con mọn chỉ có hai bàn tay không. Trong lúc đó, tên cai lệ, tên hầu cận lý trưởng nào roi song,
nào dây thừng tay thước. Bị “bịch” vào ngực, bị tát đánh “bốp” vào mặt, người chồng ốm đau sắp bị trói, chị
Dậu đã phản ứng lại dữ dội. Sau cái “nghiến hai hàm răng” thách thức, chị Dậu đã “túm lấy cổ” và ấn dúi tên
cai lệ, làm cho hắn “ngã chỏng quèo” trên mặt đất. Thật hài hước, kẻ “hút nhiều xái cũ” tuy đã bị đánh ngã
nhào, nhưng miệng hắn “vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Sau đó, chị Dậu còn “vật nhau”
với tên hầu cận lí trưởng. Chị đã “túm tóc” và “lẳng cho một cái”, làm cho hắn “ngã nhào ra thềm”. Người
đọc vô cùng hả hê trước sức mạnh phản kháng của chị Dậu. Người đàn bà con mọn đã hạ nhục, đã đánh ngã
nhào bọn đầu trâu mặt ngựa, tay chân lũ cường hào gian ác, tanh hôi.
Cảnh “tức nước vỡ bờ” còn có gì “tuyệt khéo”nữa? Những lời đối thoại thật khéo. Ngòi bút của Ngô
Tất Tố “tuyệt khéo” khi nói về cách đối đáp, ứng xử, tinh thần, thái độ, hành động của chị Dậu. Lúc đầu chị

--------------------------------------------------------------- 37 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nín nhịn nhẫn nhục van xin: “nhà cháu đã túng lại phải… Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…”;
không nạn ! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!” “Cháu van ông,
nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”
Sau đó, chị Dậu đã hoàn toàn thay đổi. Chị trở nên táo bạo và quyết liệt. Chồng sắp bị trói, chị bị tên
cai lệ chửi và bịch vào ngực mấy cái. Chị cự lại: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Cai lệ
“tát đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Như lửa đổ thêm dầu, chị đã “nghiến hai hàm răng” thách thức: “mày trói
ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”Và chị đã đã đánh ngã nhào hai tên chó má! Dưới ngòi bút “tuyệt khéo”
của ông Đầu xứ Tố, ta thấy “trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc
quan của chị Dậu (Nguyễn Tuân).
Thật vậy, Ngô Tất Tố viết “tuyệt khéo”. Sự việc ở nông thôn ngày xưa rất thực, rất sống. Trang văn
thấm đầy tình nhân đạo. Ông đã chỉ ra cái hiện tượng “con giun xéo mãi cũng quằn”. Ông đã nêu lên một quy
luật hiển nhiên: “có áp bức, có đấu tranh”. Chị Dậu là một người vợ, người mẹ đảm đang, giàu tình thương
và rất cứng cỏi. Cái “tuyệt khéo” của Ngô Tất Tố là đã dựng nên bức chân dung chị Dậu.
=> Các chữ in đậm là phương tiện chuyển đoạn. Người viết đã chứng minh cái “tuyệt khéo” trong cảnh
“tức nước vỡ bờ”. Các đoạn văn được nối kết khá chặt chẽ.
6. Đề tập làm văn: Hãy tưởng tượng: em nhập vai chị Dậu kể lại chuyện đánh tên Cai lệ.
Xế trưa hôm ấy, lí trưởng làng Đông Xá bắt tôi giải ra đình. Chúng bắt tôi khai về chuyện chống đối
chính quyền, để lập cung giải huyện. Có đủ mặt quan viên. có cả lí cựu nữa. Nhiều người dân kéo đến, đứng
lố nhố phía ngoài đình.
- Thị Đào, sao mày dám đánh người nhà của quan! Tội mày to lắm. Tù mọt gông! Mày hãy kể lại việc
làm ngỗ ngược của mày, để làng lập cung.
- Lí đương vừa nói vừa đập tay xuống chiếu. Mấy tên tay chân chạy lăng xăng. Tôi chẳng sợ.
- Các ông nên hỏi hai thằng khốn nạn ấy chứ! Nhưng các ông muốn lập cung chứ gì? Ừ thì tôi nói.
Chồng tôi bị ông lí đánh trói thập tử nhất sinh. Sợ xảy ra án mạng, ông lí đã sai tay chân gánh chồng tôi về
nhà trả cho mẹ con tôi. Mẹ con tôi, bà con hàng xóm chạy chữa mãi, chồng tôi mới hoàn hồn.
- Thị Đào, mày dài dòng lắm! Nói ngay vào sự việc! – Lí đương ngắt lời tôi và nạt bằng giọng lè nhè.
- “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, có phải không nào? Chồng tôi vừa kề miệng vào bát cháo thì tên cai
lệ xồng xộc kéo tới, hắn thét trói. Chồng tôi chết ngất lăn đùng ra! Tôi van xin. Tôi đâu phải là kẻ quá quắt.
Nhưng hắn lá đứa bất nhân đã chửi tôi thậm tệ. Hắn gào lên: “Tha này! Tha này!”. Hắn bịch vào ngực tôi mấy
bịch. Hắn sấn đến trói chồng tôi. Phải cứu chồng tôi chứ. Tôi nghiêm sắc mặt, nói với hắn: “chồng tôi đau
ốm, ông không được phép hành hạ!” Sự đời mềm nắn, rắn buông! Ai ngờ, hắn lấn tới áp chế. Hắn tát đánh
bốp vào mặt tôi. Hắn như con chó dại lồng lên, hắn nhảy vào trói chồng tôi. Máu trong người tôi sôi lên. Tôi
nghiến hai hàm răng. Tôi chỉ tay vào mặt hắn: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”Tôi còn sợ gì
nữa. Cái đồ nghiện oặt ấy, tôi coi như rơm như rác. Tôi túm lấy cổ hắn, tôi ấn dúi hắn ngã chỏng quèo trên
mặt đất. Còn cái thằng hầu cận ông lí, không tự biết thân lại còn giơ gậy đánh tôi. Hắn bị tôi túm tóc, lẳng cho
một cái ngã nhào ra thềm. Hai thằng khốn nạn ấy lồm ngồm bò dậy, chạy thục mạng về đình. Chúng đã bỏ lại
ở nhà tôi roi song, tay thước, dây thừng… Đáng lẽ tôi phải đánh cho hai tên ấy một trận nhừ tử. Nhưng đánh
chó còn ngó đến chúa nhà. Tôi nể ông Lí đấy!..
Xung quanh đình có tiếng cười rúc rích.
Lí Cựu ngồi trên chiếu, xoay mình vuốt râu, tủm tỉm cười.
Lí đương cất tiếng: “con thị Đào này ghê gớm lắm! Bướng bỉnh lắm! Phải giải ngay lên quan phủ để
trừng trị!..
7. Phân tích đặc điểm nhân vật chị Dậu trong đoạn trích « Tức nước vỡ bờ » của Ngô Tất Tố.
I. Mở bài.
- Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực, xuất sắc viết rất thành công và chân thực về hình tượng người nông
dân trước CMT8.
- Với một nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và trái tim yêu thương con người tha thiết, Đoạn trích
« tức nước vỡ bờ » đã cho ta thấy thêm một vẻ đẹp bất ngờ trong tính cách của chị Dậu, đó là sự vùng lên
chống trả quyết liệt ách áp bức của giai cấp thống trị mà sức mạnh chính là lòng căm hờn, uất hận và tình yêu
thương chồng con vô bờ bến.
II. Thân bài.
1. Chị Dậu - một người nhẫn nhục, chịu đựng.
a. Thái độ của chị Dậu khi bọn tay sai ập vào.
- Mọi cố gắng chăm sóc chồng của chị Dậu đều uổng phí ( Anh Dậu vừa kề bát cháo đến miệng, nghe
tiếng thét của Cai Lệ thì sợ quá lăn đùng ra phản)
- Thái độ của bọn tay sai: hách dịch, hành động thì hung hãn, lời nói thì thô lỗ

--------------------------------------------------------------- 38 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Trong hoàn cảnh ấy, thái độ của chị Dậu


+ Run run ( chị sợ thì ít mà lo cho chồng thì nhiều)
+ Chị cầu khẩn bằng giọng thiết tha « nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi.
Xin ông trông lại »
+ Cách xưng hô: gọi « ông » và xưng « cháu »
b. Nhận xét: Cách cư xử của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục, chịu đựng của chị. Chị có thái độ như vậy
là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, biết cái khó khăn ngặt nghèo của gia đình mình. Trong hoàn cảnh
này, chị chỉ mong cho chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói, hành hạ anh)
2. Chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản
kháng mãnh liệt.
a. Phân tích lời nói bộc lộ tính cách của nhân vật chị Dậu.
- Khi tên Cai Lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu thì:
+ Chị xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống, đỡ lấy tay hắn và tiếp tục van xin : « ông tha cho nhà cháu »
« Xám mặt »- > Tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay sai. Thái độ của chị
thì bất bình nhưng lời nói của chị vẫn nhũn nhặn => Chứng tỏ sức chịu đựng của chị
- Khi tên Cai Lệ bịch vào ngực chị và đánh trói anh Dậu:
+ Chị cự lại bằng lời nói: « chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ » -> Lời nói đanh thép như
một lời cảnh cáo
+ Cách xưng hô: ngang hàng « ông- tôi »=> thể hiện sự uất ức củ chị.
+ Thái độ: quyết liệt: một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để.
- Khi Cai Lệ tát chị Dậu và tiếp tục nhẩy vào cạnh anh Dậu
+ Chị nghiến hai hàm răng=> Thể hiện sự uất ức cao độ không thể kìm nén..
+ Ngang nhiên thách thức: « mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem ! »
+ Túm cổ Cai Lệ, ấn dúi ra cửa.
+ Lẳng người nhà Lý trưởng ra thềm.
=> Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ.
b. Nhận xét, đánh giá, bình luận.
* Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn.
- Uất hận vì bị dồn nén đến mức không thể chịu nổi nữa.
- Là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến.
- Hành dộng dã man của tên Cai Lệ là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên đến quá
mức...
* Từ hình ảnh chị Dậu liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng.
- Tự ti, nhẫn nhục, an phận do bị áp bức lâu đời.
- Họ sẽ phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ.
- Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc nên chưa có kết quả.
* Liên hệ quy luật xã hội: Ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh.
* Thái độ của nhà văn: Những trang viết với sự hả hê, nhà văn đứng về phía những người cùng khổ
đồng tình với họ, lên án, tố cáo sự dã man của bọn tay sai, phong kiến.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế.
- Tính cách nhân vật chị Dậu hiện lên thật nhất quán.
III. Kết luận.
Tóm lại chưa mấy nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố thấy được sức sống tiềm tàng, tinh thần kiên
cường bất khuất của những người nông dân bị chà đạp tưởng đâu chỉ biết an phận, nhát sợ, nhịn nhục một
cách đáng thương. Đoạn trích đã cho thấy sự tìm tòi khám phá và tiến bộ trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Vì
thế Ngô Tất Tố đã thành công đặc biệt trong việc thể hiện chân thực vẻ đẹp và sức mạnh tâm hồn của người
phụ nữ nông dân. Với hình tượng chị Dậu, lần đầu tiên trong VHVN có một điển hình chân thực, toàn vẹn,
đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân lao động.

3. Củng cố.
- Nêu nội dung và nhgệ thuật của văn bản?
- Tóm tắt văn bản?
4. Dặn dò.
- Về kể tóm tắt văn bản.
- Học nd bài.

--------------------------------------------------------------- 39 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Tìm hiểu văn bản “Lão Hạc –Nam Cao”

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 15- V¨n bản:

BÀI 3: LÃO HẠC


(Nam Cao)
I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “Lão Hạc”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_________________________________________

Hãy viết bài văn thuyết minh ngắn, giới thiệu về nhà văn Nam Cao và giá trị truyện ngắn “Lão Hạc”.
Gợi ý phần tự luận
Yêu cầu cần đạt: Học sinh cần nắm được cách viết một bài văn thuyết minh, các phương pháp thuyết
minh, đồng thời cần có những hiểu biết cơ bản, chính xác về nhà văn Nam Cao và truyện ngắn “Lão Hạc” đã
học. Dù viết ngắn hay dài bài viết cũng cần có 3 phần đầy đủ: mở bài, thân bài, kết bài. Văn phong sáng sủa,
không dùng từ sai, câu đúng ngữ pháp, chữ viết rõ ràng. Bài viết cần nêu được các ý chính sau:
1. Giới thiệu khái quát Nam Cao và truyện ngắn “Lão Hạc”: Nam Cao được coi là một nhà văn hiện
thực xuất sắc trước cách mạng tháng Tám; truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn hay và tiêu
biểu nhất của ông.
2. Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Cao (dựa vào phần chú thích sao ở cuối văn bản Lão
Hạc trong SGK ngữ văn 8)
3. Giới thiệu vắn tắt giá trị của truyện ngắn Lão Hạc. Dựa vào phần ghi nhớ của tác phẩm này trong sgk
Ngữ văn 8 để nêu lên một số ý chính về nội dung và nghệ thuật
4. Nêu cảm nghĩ của người viết đối với tác giả Nam Cao và truyện ngắn “LH”
I. Mở bài.
- Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại những trang viết tâm
huyết về người người nông dân trước cách mạng tháng Tám với cách nhìn đúng đắn, sâu sắc và nhất là với
tình thương tha thiết và niềm tin mãnh liệt vào họ.
- « Lão Hạc » là một trong những truyện ngắn hay và tiêu biểu nhất của ông.
II.Thân bài.
1. Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao.
- Nam Cao là bút danh của Trần Hữu Trí. Ông sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam.

--------------------------------------------------------------- 40 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Trước năm 1945, ông dạy học tư và viết văn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện
ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn
mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.
- Sau cách mạng tháng Tám, ông chân thành, tận tuỵ sáng tác phục vụ kháng chiến: làm phóng viên mặt
trận, rồi làm công tác văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc. Cuối năm 1951, ông đi công tác vào vùng sau lưng
địch, hi sinh trong tư thế một nhà văn- chiến sĩ.
- Nam Cao được nhà nước truy tặng « Giải thưởng Hồ Chí Minh » về văn học nghệ thuật (năm 1996).
- Nam Cao là tác giả của cuốn tiểu thuyết « Sống mòn » và khoảng 60 truyện ngắn tiêu biểu nhất là các
truyện « Chí Phèo », « Lão Hạc », « Mua nhà », « Đời thừa », « Đôi mắt »....
- Nam Cao có tài kể chuyện, khắc họa nhân vật bằng độc thoại với bao trang đời éo le, đầy bi kịch.
Người nông dân nghèo, người trí thức nghèo là hai đề tài in đậm trong truyện của Nam Cao. Tác phẩm của
Nam Cao biểu hiện « một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết » (Nguyễn Đăng Mạnh).
2. Giới thiệu vắn tắt giá trị của truyện ngắn « Lão Hạc ».
Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, « Lão Hạc » là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn
Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương
của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy
tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao,
đặc biệt trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và cách kể truyện.
A. Giá trị nội dung.
1- Tình cảnh cùng khổ và số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
- Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị vây bủa trong sự nghèo đói. Đã nghèo, lại
góa vợ, lão Hạc lầm vào cảnh một thân gà trống nuôi con.
- Không có ruộng cầy, toàn bộ gia tài của lão chỉ là một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có
được là do vợ lão cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu ». Đó là mảnh
vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão « bòn mót ». Cho nên lão phải làm thuê làm mướn, đem
sức mình đổi lấy miếng ăn.
=> Đó là tất cả cuộc đời lão đã khiến lão thấm thía cái kiếp nghèo tủi nhục của mình, mà có lần lão đã
chua xót thốt lên rằng : « nó chỉ nhỉnh hơn cái kiếp của một con chó »
- Mất con: Chính cái nghèo đã kiến cho lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc không
thành của người con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn cái đạo làm cha. Anh
con trai vì không đủ tiền cưới vợ đã phẫn chỉ bỏ đi đồn điền cao su tận Nam Kì biền biệt 5,6 năm chưa về.
Thế là cái nghèo lại cướp nốt đứa con trai của lão. Lão vô cùng đau xót về điều này, kể lại chuyện với ông
giáo mà nước mắt rân rấn: « Thẻ của nó người ta giữ. Hình của nó người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của
người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Câu nói của lão nhói lên một nỗi đau, bởi nó
đã khái quát cả một cảnh đời cùng khổ một số phận thảm thương của người nông dân trong chế độ cũ.
- Bán chó:
+ Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi, trơ trợ một mình trong nỗi bất hạnh ngày thêm chồng
chất. Chỉ có con chó là bầu bạn sớm tối, con chó thành « cậu Vàng », thành một người trong nhà lão. « Con
chó là của cháu nó mua đấy chứ ». Lão vẫn không quên con chó là kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con
trai. Có một mối dây liên lạc rất lạ lùng giữa lão Hạc, con chó và đứa con trai vắng mặt. Cho nên, có bao nhiêu
niềm thương, nỗi nhớ chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão yêu quý «cậu vàng » như con, như
cháu tưởng như không thể nào có thể rời xa nó, tưởng như cuộc đời lão không thể thiếu nó.
+ Vậy mà, tình cảnh đói nghèo khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó. Lão bị ốm một trận kéo dài
2 tháng 18 ngày, không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, hay một chén thuốc ! Tình
cảnh ấy thật đáng thương ! Tiếp theo một trận bão to, cây cối, hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh.
Làng mất nghề sợi. Đàn bà congái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc
yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Lão Hạc thành ra thất nghiêp.Thóc cao, gạo kém, sức cùng, lực kiệt,
lão Hạc đành phải bán con chó mà lão rất yêu quý. Bán con chó là bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của
lão. Lão đã đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán con chó.
+ Và khi buộc lòng phải bán nó lão vô cùng đau đớn. Bán nó xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực
bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ « tệ lắm », đã già mà còn đánh lừa một con chó ». Kể lại chuyện bán
chó với ông giáo mà « Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước ». Lão tự
nhận là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Có lẽ đây là giây phút đau đớn
nhất trong cuộc đời lão, khiến cho « mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoeo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu
khóc.. »

--------------------------------------------------------------- 41 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

=> Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão khi thì
« rân rấn », lúc « ầng ậng », cả khi « cười cũng như mếu ». Nước mắt ấy dường như đã cạn kiệt trong cuộc
đời khổ đau, tủi cực của lão. Cho nên khi khóc, « mặt lão đột nhiên co rúm lại ». Những vết nhăn xô lại với
nhau ép cho nước mắt chảy ra ». Nhiều người cho rằng đây là cái tài miêu tả cuả Nam Cao, nhưng trước hết
đó là cái tình của nhà văn đối với kiếp người tủi cực trong chế độ cũ. Không có một sự cảm thông sâu sắc,
không có một tình xót thương chân thành, không thể vẽ lên một nỗi đau hằn sâu trên khuôn mặt lão Hạc như
vậy. Một nét vẽ mà như cô đúc cả một cảnh đời, một kiếp người trong xã hội cũ.
- Cái chết:
+ Nhưng thê thảm nhất vẫn là cái chết của lão Hạc sau những ngày ăn khoai, ăn củ chuối, sung luộc, rau
má, củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc... để rồi cuối cùng lão đã ăn bả chó mà chết. Dĩ nhiên, lão lựa chọn cái chết
ấy là vì đứa con trai nhưng suy cho cùng thì chính tình cảnh khốn quẫn, sự đói khổ đã đẩy lão đến bước đường
cùng phải chết.
+ Đó là một cái chết thật là dữ dội và cũng vô cùng bi thảm: « Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu
tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại
bị giật mạnh một cái, nảy lên... Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.
=> Như vậy, nghèo khổ đã đẻ nặng lên cuộc đời làm thuê làm mướn khiến cho lão sức cùng lực kiệt;
nghèo khổ lại cướp nốt đứa con trai của lão; cướp nốt cả « cậu vàng » thân yêu, niềm an ủi cuối cùng của lão;
và nghèo khổ lại đẩy lão đến cái chết đau đớn và thảm khốc như chưa từng thấy. Cái chết ấy đã kết thúc một
cảnh đời tủi cực và một số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Cuộc sống cùng khốn
và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân lao động trong
xã hội tăm tối đương thời. Không chỉ là nỗi đau, cái chết ấy còn là một lời tố cáo sâu sắc và mạnh mẽ cái chế
độ tàn ác, bất nhân đã gây nên những cảnh đời thê thảm như lão Hạc. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết,
Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê
thảm. Chí Phèo tự sát bằng một mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết.... và lão Hạc đã quyên sinh bằng bả chó. Lão
Hạc đã từng hỏi ông giáo: « Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ? Câu hỏi ấy
đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
* Số phận anh con trai lão- nhân vật không xuất hiện, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ của lão Hạc- cũng thật
đáng thương: chỉ vì quá nghèo mà cô gái anh yêu thương trở thành vợ kẻ khác ; anh phẫn chí ra đi nuôi mộng
« cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm mới về », không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm ».
Nhưng, thật tội nghiệp, cái nơi mà anh ta tìm đến với hi vọng làm giầu lại là đồn điền cao su Nam Kì, một địa
ngục trần gian, thân phận phu cao su chỉ là thân phận nô lệ. Còn lão Hạc thì cứ mong con mỏi mắt suốt tận
ngày cuối đời...
2. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc.
Chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta lại thấy bừng sáng lên một vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả
của lão Hạc. Lão Hạc sống lủi thủi, thầm lặng, bề ngoài lão có vẻ như lẩm cẩm, gàn dở; vợ ông giáo cũng
chẳng ưa gì lão: « cho lão chết ! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ ? Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ ! »
Chính ông giáo cũng có lúc từng nghĩ là lão « quá nhiều tự ái », còn Binh Từ thì « bĩu môi nhận xét: Lão làm
bộ đấy ! thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu ! » Nhưng kì thực lão Hạc có
một nhân cách hết sức cao quý mà bề ngoài không dễ thấy. Đằng sau « manh áo rách » là một tấm lòng vàng ».
Nó được thể hiện qua tấm lòng của lão đối với con trai, đối với « cậu Vàng », qua việc gửi gắm vườn tược,
tiền bạc cho ông giáo và nhất là qua cái chết thảm khốc mà lão đã lựa chọn cho chính mình.
a. Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành và nhân hậu vô cùng.
* Cái tình của lão đối với « cậu Vàng » thật là hiếm có, đặc biệt và Nam Cao đã ghi lại tỏng những dòng chữ
xúc động.
+ Bởi không còn là con chó thường, cậu “vàng” đã trở thành người thân, niềm vui, niềm an ủi đối với cuộc
sống cô đơn, lủi thủi một mình của lão. + Lão “gọi nó là cậu Vàng như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự.
Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm, cho nó ăn cơm trong một cái
bát như một nhà giầu (…) Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho
con trẻ.
+ Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Đoạn lão nói chuyện với cậu
Vàng về việc « định giết cậu để cưới vợ cho con trai rồi lại không giết nữa, để nuôi » đã bộc lộ sâu sắc tình
cảm của lão Hạc đối với con chó thân yêu.
=> Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu. Nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh
thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần
cuộc đời lão Hạc. Nó đã toả sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của lão nông đau khổ, bất hạnh này.

--------------------------------------------------------------- 42 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quấn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng
thảm thương.
+ Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán “cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau
khổ. Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu, đôi mắt
ầng ậc nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc”. Khi nhắc đến việc
cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nổi nỗi đau đớn cứ dội lên : “mặt lão đột nhiên co dúm lại.
Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm
mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con
chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương
thiện” ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt của con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách
móc… Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó. Phải
có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi
với một con chó như vậy.
b. Tấm lòng người cha ở lão Hạc đối với anh con trai mới thực cảm động, làm nên tâm sự chính của
nhân vật và mạch truyện chủ yếu của tác phẩm. Nó liên quan đến cái tình của lão đối với cậu vàng, đến việc
lão gửi gắm nhờ gửi ông giáo, và giải thích rõ cái chết thảm khốc của lão ở cuối truyện. Đó là tấm lòng của
người cha thương con, suốt cả cuộc đời lo lắng cho con và sẵn sàng hi sinh tất cả- kể cả tính mạng – cho đứa
con thân yêu của mình. Nam Cao đã thấu hiểu cái tình cha con, thiêng liêng, sâu sắc đó ở người lão nông
nghèo khổ này và đã diễn tả thật cảm động trên từng trang viết của tác phẩm.
+ Đầu tiên là việc anh con trai tính chuyện bán vườn để lo cưới vợ nhưng nghe lời bố, lại thôi. Thấy con
buồn, lão Hạc « thương con lắm, nhưng biết làm sao được ?... » Đó là tình thương đầy bất lực của một người
cha nghèo.
+ Sau đó, anh con trai « sinh phẫn chí », bỏ làng, lìa cha, kí giấy đi làm dồn điền cao su. Đứa con trai
độc nhất của lão đã bị cái nghèo cướp nốt, lão vô cùng đau đớn. Nỗi đau mất con khiến lão « chỉ còn biết khóc
chứ biết làm thế nào nữa ? Bởi « nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Lão Hạc kể lại chuyện
khóc con, giống như lão đang khóc, đang đau nỗi đau xé ruột của người cha hoàn toàn bất lực khi thấy con
trai tuột ra khỏi tay mình để trở thành người của người ta.
+ Trong nỗi đau ấy, khi chỉ còn sống cô đơn, thủi thủi một mình thì lão Hạc đã biết chọn một cách sống
cho con, vì con. Đó là cách sống không tính đến bản thân mình, khiến cho tình yêu thương và lòng nhân hậu
của lão đã hoá thành một nhân cách làm người, nhân cách làm cha. Ta thấy trong từng nếp nghĩ của lão bao
giờ cũng thấm đẫm đức hy sinh cao cả. Trước khi đi phu, anh con trai dặn bố: « bòn vườn đất với làm thuê
làm mướn cho người ta thế nào cũng đủ ăn ». Nhưng lão đã tự xóa đi cái quyền sở hữu của mình đối với mảnh
vườn ấy: « cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước ta không bán là ta có ý giữ cho
nó chứ có phải giữ để ta ăn đâu ! ». Cho nên, lão làm thuê làm mướn để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được
bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm, thế nào đến lúc con lão trở về cũng có được một trăm đồng bạc.
Lão tính tiền ấy lão sẽ thêm vào cho con cưới vợ, nếu con đã đủ tiền cưới vợ thì cho nó để có chút vốn mà
làm ăn. Thương con mà vị tha, hi sinh như thế thì đó chính là lòng thương con mộc mạc, cụ thể mà cao cả biết
bao của những người lao động nghèo, ngay cả khi họ phải sống khốn quẫn nhất trong xã hội cũ. Đến cả
chuyện buộc phải bán chó, thì không phải chỉ vì không nuôi nổi nó, mà cái chính vẫn là vì con: « bây giờ tiêu
một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó ».
+ Nhưng cái chết mới là đỉnh cao của đức hy sinh, lòng vị tha-mà ở đây chính là tình thương yêu sâu
sắc của lão Hạc đối với đứa con trai.
- Hoàn cảnh ngày càng cùng cực đã đẩy lão tới một sự lựa chọn đầy nghiệt ngã, bi đát: tiếp tục kéo dài
sự sống tàn để trở thành kẻ báo hại cho con hay là chết đi để trọn đạo làm người, trọn đạo làm cha. Và lão đã
chọn cái chết, không phải cho xong đời mình, mà chết cho con, vì con.
+Lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết từ lúc quyết định bán con chó, bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối
cùng của đời mình; từ khi gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo; và cả những lúc ăn sung luộc, ăn củ
ráy... để cuối cùng lão quyết định xin Binh Tư bả chó !... Có nỗi đau bán chó, có sự chu đáo và cẩn trọng trong
việc gửi gắm nhờ vả ông gia,s có sự nhịn ăn mấy ngày liền thì mới có việc xin bả chó để tự kết liễu đời mình.
Có nghĩa là lão đã chuẩn bị chu đáo mọi việc cho con (và cả cho mình nữa) để sắn sàng đi vào một cái chết
thật dữ dội và bi thảm. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn !
=> Lão Hạc là một nông dân không được học hành, không có chữ nghĩa, càng không biết nhiều lí luận
về tình phụ tử. Nhưng cái chết dữ dội của lão là bằng chứng cảm động về cái tình phụ tử nguyên sơ, mộc mạc,
nhưng thăm thẳm, thiêng liêng biết chừng nào.
c. Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giầu lòng tự trọng.

--------------------------------------------------------------- 43 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Lão Hạc đã tìm đến cái chết mặc dù trong tay vẫn còn mấy chục bạc (không kể vẫn còn mảnh vườn
đáng giá mà không ít kẻ nhòm ngó)
- Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt « thì ra tôi già bằng này tuổi
đầu rồi còn đánh lừa một con chó ».
- Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai như một lời nguyền đinh ninh : « Cái vườn là của con ta
(...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng ». Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng
hàng xóm. Lão thà nhịn đói chứ không tiêu xu nào vào món tiền mà lão cậy ông giáo cầm giúp đó.
- Với lòng tự trọng cao độ và nhân cách hết sức trong sạch, lão Hạc không muốn hàng xóm nghèo phải
phiền luỵ về cái xác già của mình, đã gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành dụm bằng nhịn ăn, nhịn tiêu của
lão, để nhờ ông giáo đưa ra nói với bà con hàng xóm lo giúp cho lão khi lão chết. Khi đã đem gửi hết đồng
tiền cuối cùng, lão chỉ còn ăn uống đói khát qua bữa, bằng khoai ráy, củ chuối, rau má..., nhưng lại kiên quyết
từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo mà chắc lão hiểu là rất thân tình.
- Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ « làm nghề ăn trộm » ở phần cuối truyện, tạo nên
một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng
trọng. Lão Hạc dù nghèo đói vẫn quyết sống bằng bàn tay lao động của mình trong khi ở xã hội đó có nhiều
người đã bị ngã quỵ trước bản năng (cái đói và miếng ăn) như Chí Phèo, Binh Tư... Lang Rận... Với cái chết
đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, ra đi vẫn giữ được tâm hồn thanh thản, nhân cách trong sạch, lão Hạc đã
trở thành một vị thánh. Là một ông già nông dân cùng khổ, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có thức
thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người của câu tục ngữ: « đói cho sạch, rách cho thơm », « thà thác
trong còn hơn sống đục ». Đó cũng là một nét nhân cách đáng trọng của người lao động nghèo.
=> Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo
đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất
phác, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội
cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống
thiết.

3. Củng cố.
- Kể tóm tắt văn bản ?
- Nêu nd nghệ thuật của bài ?
4. Dặn dò.
- Về học nd bài.
- Chuẩn bị tiếp « Lão Hạc – Nam Cao»
_______________________________________
------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 16- V¨n bản:
BÀI 3: LÃO HẠC (Tiếp)
(Nam Cao)

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “Lão Hạc”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_____________________________________

A. Giá trị nội dung.


--------------------------------------------------------------- 44 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

1.
2.
3. Nhân vật «Tôi »- người kể chuyện. (cũng chính là tác giả, tuy vậy không nên đồng nhất hoàn toàn với
nhân vật về nguyên mẫu).
- Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lai bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta về người
trí thức nghèo trong xã hội cũ.
- Không rõ họ tên là gì. Hai tiếng « ông giáo » đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê
trước năm 1945 « nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể ». Hai tiếng « ông giáo » từ miệng lão Hạc
nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng: « cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ !... « Vâng,
ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng »... « Tôi cắn rơm, cắn cổ lạy ông giáo »....
- Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống
vì một lý tưởng đẹp, với bao mộng tưởng. Ông đã từng lặn lội vào tận Sài Gòn, « hòn ngọc Viễn Đông » thời
ấy để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va li « đựng toàn những sách » được người thanh niên
ấy rất nâng niu », cái kỉ niệm « đầy những say mê đẹp và cao vọng » ấy, hơn sáu chục năm còn làm cho ta
xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.
- Con người « nhiều chữ nghĩa » ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết,
về quê chỉ có một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo lại quý những quyển sách của
mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bứng lên trong lòng ông « như một rạng đông » thời trai
trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, « trong trẻo, biết yêu và biết ghét »
- Cái nghèo vẫn đeo đẳng ông giáo mãi, « ông giáo khổ trường tư ». Vận hạn xẩy ra luôn như ông nghĩ:
« Đời người ta không chỉ khổ một lần ». Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền: « dù
có phải chết cũng không bán ». Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt
sức, ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. « Lão
Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu ? » Lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân
cách đẹp trước sự khốn cùng: biết sống, và dám hi sinh vì cuộc sống !
- Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin
cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ
một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và và chuyện đứa con trai « phẫn cí »
không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên... Có lúc là một
điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang « lúc tắt lửa tối đèn có nhau ». Ông giáo đã đồng
cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ
không bao giờ quên mẩu đối thoại này:
- Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng ?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phải này chơi,
tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc: ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút
thuốc lào... Thế là sướng.
- Vâng ! Ông giáo dậy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng ».
- Ông giáo đã thương lão Hạc « như thể thương thân ». Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi
cách để « ngấm ngầm giúp » khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn khoai, ăn rau, ăn củ ráy... trong lúc đàn con
của ông giáo cũng đang đói ; cái nghĩa cử « lá lành đùm lá rách » ấy mới thật cao đẹp biết bao !
- Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để phòng khi
chết « gọi là của lão có tí chút.. », gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai. Tình tiết ấy nói lên lão Hạc
rất tin ông giáo. Ông giáo là người để lão Hạc « chọn mặt gửi vàng ». Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà
cô dành cho đứa cháu nội một bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ
bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ
mẫu ăn bẩn đồng hào đôi của chị nhà quê (Đồng hào có ma)... ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn
cùng đối với ông giáo thật là thánh thiện.
- Trước cái chết dữ dội của Lão Hạc, cái chết « đau đớn và bất lình lình », chỉ có ông giáo và Binh Tư
hiểu... Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những
lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng: « Lão Hạc ơi ! Lão Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt !
Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn
và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không
chịu bán đi một sào... »

--------------------------------------------------------------- 45 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Cùng chung với ông giáo Thứ trong « sống mòn », Điền trong « Trăng sáng », nhân vật « tôi » trong
« mua nhà », hình ảnh ông giáo trong truyện « lão Hạc » đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong
nghệ thuật xây dựng nân vật- nhà văn nghèo, ông giáo khổ trường tư- trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu,
vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến
ấy rất lí thú.
- Trong truyện « Lão Hạc », ông giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật
trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho « bức tranh quê » ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân
vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn
đặc sắc này.
4. Cách nhìn người của nhà văn Nam Cao.
Nam Cao đã phát biểu suy nghĩ về cách nhìn người: «Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu
không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho
ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương (...) Cái bản
tính tốt củ người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích kỉ che lấp mất »
- Suy nghĩ của nhân vật «tôi» trên đây chính là một điểm quan trọng trong ý thức sáng tác của nhà văn
Nam Cao. Đó chính là vấn đề mà sau này Nam Cao gọi là « Đôi mắt »; phải xác định « đôi mắt » đúng đắn
trong cách nhìn về quần chúng nghèo khổ. Trong « Lão Hạc », nhà văn cho rằng đối với người nông dân lao
động thì phải « cố mà tìm hiểu họ » thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi « gàn dở, ngu
ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi » ấy chỉ là « những người đáng thương » và có « bản tính tốt », có điều, « cái bản
tính tốt » ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực, những lo lắng trong cuộc sống « che lấp mất ». Tức là, nhà
văn đặt ra vấn đề phải có tình thương, có sự cảm thông, và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt,
phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. Có thể nói, chẳng những trong « Lão
Hạc » mà trong cả « Chí Phèo », « Lang Rận », « một bữa no », « Tư cách mõ »... và hầu hết truyện dài của
Nam Cao, nhà văn đều đặt ra vấn đề « đôi mắt ». Ông chính là luật sư đứng ra bênh vực cho một Chí Phèo,
một anh Cu Lộ, một Lang Rận, một bà cái Tí, khẳng định rằng họ đều có tình cản rất « đáng thương » và đều
« bản tính tốt », nhưng chính cuộc đời quá khắc nghiệt đã đẩy họ vào con đường lưu manh hoặc làm những
việc xấu xa... Sau cách mạng, trong truyện ngắn « Đôi mắt » (1948), Nam Cao đã trực diện đặt ra vấn đề cần
xác định « đôi mắt » đúng đắn để thấy được bản chất cách mạng của quần chúng nông dân đang là chủ lực
của cuộc kháng chiến chống Pháp khi đó.
Cho nên, có thể nói, vấn đề « đôi mắt » là một đặc điểm quan trọng trong quan điểm sáng tác của Nam
Cao, trở thành ý thức nghệ thuật thường trực trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn có tấm lòng gắn bó sâu
nặng với nhân dân.
B. Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện.
« Lão Hạc » là một trong những truyện ngắn hay nhất của cây bút truyện ngắn bậc thầy Nam Cao. Tài
nghệ bậc thầy đó thể hiện ở nhiều khía cạnh và có những điểm nổi bật sau:
- Xây dựng nhân vật:
+ Không được miêu tả thật kĩ về ngoại hình, cũng không có nhiều hành động, song được tập trung soi
sáng từ bên trong.
+ Tác giả đã đi sâu vào những tâm tư, những lo tính của lão Hạc chung quanh việc bán « cậu Vàng » và
việc lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết, chính từ đó mà số phận đau thương, tính cách độc đáo của nhân vật hiện ra
thật rõ nét. Nhân vật lão Hạc chân thực, sinh động, có bề dầy xã hội và đồng thời có cá tính độc đáo, chủ yếu
được nhà văn khắc hoạ bằng miêu tả tâm lý. Chẳng hạn, qua cản lão Hạc trò chuyện với « cậu Vàng », có thể
thấy rõ cảnh sống cô đơn của lão, chất người trung hậu ( thể hiện qua thái độ âu yếm, chiều chuộng đối với
cậu Vàng) và tình thương sâu nặng đối với đứa con trai đang ở xa. Hoặc những chi tiết thể hiện phản ứng tâm
lí của lão Hạc xung quanh việc mà lão cho rằng đã « lừa cậu Vàng »: đau đớn, chua xót, hối hận, đã cho thấy
rất rõ tâm hồn, tính cách ông lão nông dân nhân hậu, đáng thương ấy.
- Cách dựng truyện, bút pháp trần thuật linh hoạt, mới mẻ. Tác giả đi thằng vào giữa truyện ( cảnh lão
Hạc nói chuyện với « tôi » về việc sẽ phải bán « cậu Vàng ») rồi mới nhẩn nhà đi ngược thời gian, kể về cảnh
ngộ nhân vật, từ chuyện « con chó là của cháu nó mua đấy » chuyển sang chuyện anh con trai đã bỏ đi phu,
để lại lão Hạc sống cô đơn và giờ đây đang lâm cảnh cùng đường... Cách dẫn chuyện rất thoải mái, tự nhiên,
có vẻ lỏng lẻo song kì thật thật chặt chẽ, tập trung, khắc hoạ nhân vật và thể hiện chủ đề.
- Truyện rất mực chân thực, đồng thời thấm đượm cảm xúc trữ tình. Qua nhân vật « Tôi », người kể
chuyện, tác giả đã biểu lộ tự nhiên những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Chất trữ tình thể hiện ở giọng kể, ở
những câu cảm thán nhiều khi không nén được cảm xúc, tác giả đã gọi tên nhân vật lên để trò chuyện, than
thở: ( Lão Hạc ơi ! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão khong muốn bán con chó vàng của lão ! Hỡi ơi lão Hạc !

--------------------------------------------------------------- 46 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều hơn ai hết.. ! », « Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng nhắm mắt...) Chất
trữ tình còn thể hiện ở những lời mang giọng tâm sự riêng của « tôi », như chung quanh việc « Tôi » phải bán
mấy quyển sách: « ôi những quyển sách rất nâng niu(...) kỷ niệm một thời hăng hái và tin tưởng đầy những
say mê đẹp và cao vọng » Và thể hiện rõ nhất là ở những đoạn văn trữ tình ngoại đề đậm màu sắc triết lý:
« Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta.... » Những câu văn triết lý đó không hề có giọng sách vở, trìu
tượng mà là những suy nghĩ gan ruột nên có sức thuyết phục đặc biệt.
=> Vừa tỉnh táo, chân thực, vừa trữ tình thắm thiết và đậm đà ý vị triết lí, đó chính là đặc điểm bút pháp
văn xuôi Nam Cao được thể hiện rõ nét trong « Lão Hạc »
III. Kết bài.
Tác phẩm « Lão Hạc » đã làm cho em vô cùng xúc động. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay
động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông
nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người
nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Có biết bao nhiêu người nông dân đã sống nghèo khổ, cơ cực và cùng
quẫn như lão Hạc. Xin cảm ơn nhà văn Nam Cao, ông đã giúp ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao
cả của họ, đem đến cho ta một niềm tin sâu sắc vào con người.

DÀN Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LÃO HẠC


I. Mở bài.
- Nam Cao là nhà văn nhân đạo. Ông đã để lại những trang viết tâm huyết về người nông dân trước cách
mạng tháng Tám.
- Truyện ngắn « Lão Hạc » không chỉ miêu tả xúc động tình cảnh khốn cùng và số phận bi đát của người
nông dân mà còn là một câu chuyện xúc động về một nhân cách cao quý.
- Cũng như bao cố nông cùng khổ khác, Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ bất hạnh nhưng lại một
con người có trái tim nhân hậu, lương thiện và có một tâm hồn, nhân cách cao cả.
II. Thân bài.
1. Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh.
- Vợ mất sớm, một thân một mình gà trống nuôi con.
- Sống bằng nghề cầy thuê, cuốc mướn.
- Đứa con trai duy nhất vì nghèo mà phẫn chí bỏ đi.
- Sống cô đơn, tội nghiệp, già cả, ốm đau.
- Nghèo đói, sức cùng, lực kiệt→ Tìm đến cái chết để giải thoát.
- Cái chết dữ dội, đau đớn, khổ sở, vật vã.
=> Cuộc đời lão Hạc là số phận người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng không lối thoát. Cái chết
của lão Hạc là lời tố cáo, lên án xã hội thối nát => Giá trị hiện thực sâu sắc.
2. Là người sống rất nhân hậu.
- Đối với mọi người: Sống tốt, chân thành
- Đối với con chó
+ Quý nó quá mức
+ Chăm sóc nó tỉ mỉ
+ Đau xót khi phải bán nó
- Đối với con trai
+ Nỗi đau bất lực của người cha vì nghèo mà không lo được hạnh phúc cho con
+ Khi con đi, tuyệt vọng, đau khổ như mất con, luôn mong con về
+ Chọn cách sống cho con, vì con, luôn để dành tiền cho con.
+ Tìm đến cái chết để giữ tài sản cho con.
3. Là người lương thiện và giầu lòng tự trọng.
- Thà nhịn đói chứ không tiêu vào tiền của con
- Kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo, người rất thân tình
với ông
- Không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình ( gửi ông giáo tiền lo ma chay
cho mình)
- Chọn cái chết để giữ trọn phẩm giá
III. Kết luận.
- Hình ảnh lão Hạc gây ấn tượng đậm nét và cứ ám ảnh vương vấn không dứt trong lòng người đọc.
- Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau triền miên, bất tận.
- Bên trong cái vẻ bề ngoài gần như lẩm cẩm, gàn dở là một nhân cách vô cùng cao quý.

--------------------------------------------------------------- 47 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Người đọc xót xa trước cái chết của lão Hạc bao nhiêu thì càng trân trọng và vững tin ở nhân cách bấy
nhiêu.

3. Củng cố.
- Kể tóm tắt văn bản ?
- Nêu nd nghệ thuật của bài ?
4. Dặn dò.
- Về học nd bài.
- Chuẩn bị « Chiếc lá cuối cùng – O.hen-ry»
_________________________________________

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 17- Văn bản:

Bài 4: CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG


(O.Hen – ry)

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “Chiếc lá cuối cùng”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
__________________________________
I. Tác giả.
O Hen ri là nhà văn Mĩ (1862 -1910), tên thật của ông là Po-tơ. Cha ông là thầy thuốc, mẹ ông qua đời khi
ông mới lên ba.
- Thuở nhỏ, ở với bố, ông không được học hành nhiều mà vừa đi học vừa đi lao động. Năm 15 tuổi đã
phải thôi học đến làm công kiếm sống tại một hiệu thuốc, ở trại chăn nuôi. Sau đó còn phải làm nhiều nghề
khác để kiếm ăn như : nhân viên kế toán, vẽ tranh, thủ quỹ ngân hàng. Nhưng rồi một chuyện không đâu, anh
bị cầm tù với mức án 5 năm. Nhưng mới chỉ thụ án 3 năm 3 tháng, anh đã được tự do. Ra tù, anh lấy bút danh
là Ô.hen ri từ đó (Ohenri là tên của một người cai ngục nhân hậu mà Po- tơ vô cùng cảm mến, được dùng
làm bút danh để nhớ mãi hình ảnh một ân nhân của mình)
- Mười năm cuối đời, ông sống ở New ước, tài năng phát triển một cách kì lạ, và trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp về sở trường truyện ngắn. Ông sáng tác rất nhiều, lao động sáng tạo miệt mài bèn bỉ. Hầu như
tuần nào ông cũng có truyện in trên các báo và tạp chí. Có tháng, ông đăng báo đến 10 truyện ngắn. Có năm
như 1904, 1905, ông đã viết 65 truyện ngắn in ở nhiều bào. Danh tiếng nổi lên như cồn
--------------------------------------------------------------- 48 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Có thể kể các tập : Bắp cải và vua chúa (1904), Bốn triệu (1906), Trung tâm miều Tây (1907), Tiếng
nói của thành phố (1908), Những sự lựa chọn (1909).
- Truyện của ông phong phú, đa dạng về đề tài, nhưng phần lớn hướng vào cuộc sống nghèo khổ, bất
hạnh của người dân Mĩ. Một số truyện mang ý nghĩa phê phán xã hội rõ rệt.
- Về nghệ thuật, truyện ngắn của ông có lối viết nhẹ nhàng, đầy tình huống hấp dẫn, kết cấu chặt chẽ...
đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong những tác phẩm của O.Hen ri và rất lôi cuốn sự hứng thú của
bạn đọc.
- Năm 1910, Ô.Hen ri qua đời, để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ: khoảng 600 truyện ngắn. Nổi
tiếng nhất là những truyện ngắn kiệt tác như: Căn gác xép, Cái cửa xanh, Chiếc lá cuối cùng, Quà tặng của
những nhà hiền triết, Tên cảnh sát và gã lang thang, Sương mù ở Xen-tôn, Khi người ta yêu.
- Vinh dự lớn nhất của O.Henri là gần 10 năm sau khi ông qua đời, hội nghệ thuật và khoa học Mĩ đã
lấy tên ông làm giải thưởng cho 3 truyện ngắn hay nhất hàng năm.
II. Tóm tắt tác phẩm.
- Tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh tơn là cái làng Gri-nig cổ kính. Các nghệ sĩ nghèo thường
lui tới tìm thuê những căn phòng có cửa sổ hướng bắc, những buồng xép sát nóc kiểu Hà Lan với giá tiền rẻ.
- Phòng hoạ của hai nữ hoạ sĩ trẻ đặt ở tầng thượng ngôi nhà cổ gạch ba tầng thấp lè tè; tầng cuối cùng
là phòng của cụ Bơ men đã ngoài 60 tuổi, nghiện rượu nặng. Đã hơn bốn mươi năm mà ngòi bút màu của cụ
chưa với tới được gấu áo vị nữ thần nghệ thuật. Cụ luôn luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác, nhưng chưa
bao giờ bắt đầu cả. Hai nữ hoạ sĩ trẻ, một người tên Giôn xi, một người tên là Xiu. Một cô từ bang Men tới,
một cô từ Ca-li-pho-ni-a. Họ kết nghĩa, gắn bó trong tình chị em thân thiết.
- Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã đánh ngã hàng chục nạn nhân bên khu phía đông....
Thế rồi Giôn xi bị cảm lạnh nằm bất động trên chiếc giường sắt. Viên bác sĩ cho Xiu biết, bệnh tình của Giôn-
xi mười phần chỉ còn hi vọng được một thôi. Xiu tranh thủ vẽ để kiếm thêm tiền mua rượu Boóc đô pha sữa,
mua thuốc để săn sóc, chạy chữa cho đứa em tội nghiệp. Ngày đêm trôi qua, Giôn xi nằm yên bất động và
trắng bệch như pho tượng đổ. Cô chỉ biết nhìn ra phía cửa sổ, nhẩm đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường
xuân, mệt mỏi buông xuôi nghĩ sẽ ra đi khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống.
- Cụ Bơ men lại lên gác 3 ngồi làm người mẫu cho Xiu vẽ. Xiu đã nói với cụ về nỗi niềm tuyệt vọng của
Giôn xi. Một đêm mưa tuyết lạnh lẽo nữa lại ào tới. Nhưng chiếc lá dũng cảm màu vàng úa vẫn bám vào cành.
Chiếc lá thường xuân, chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó. Giôn xi bình phục dần.
- Cụ Bơ men đã chết vì sưng phổi sau 2 ngày nằm viện. Giầy và quần áo cụ ướt sũng và lạnh buốt còn
để lại trong phòng. Chiếc than, chiếc đèn bão, và chiếc bút lông rơi vung vãi.... ở ngoài cửa sổ. Xiu khẽ nhắc
em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn chiếc lá cuối cùng trên cây rồi bảo: « ồ, em thân yêu, đó chính là tác phẩm
kiệt xuất của cụ Bơ men đấy. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng... »
III. Bố cục. 3 phần.
- Phần 1: Giôn xi đợi cái chết (từ đầu đến « kiểu Hà lan »)
- Phần 2: Giôn xi vượt qua cái chết ( tiếp đến « vịnh Na-plơ »)
- Phần 3: Bí mật của chiếc lá cuối cùng (còn lại)
IV. Phương thức biểu đạt của văn bản này là. Tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm.
V. Phân tích.
« Chiếc lá cuối cùng » là một trong những truyện tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của O.Henri. Số
lượng nhân vật không nhiều, chỉ có 3 nhân vật: Giôn xi- cô hoạ sĩ bị ốm và xiu- cô bạn cùng chung phòng trọ,
người bác sĩ đến chữa bệnh cho Giôn xi và cụ già Bơ-men- hoạ sĩ già sống cùng ngôi nhà trọ đó.
Với « Chiếc lá cuối cùng », chúng ta bước vào thế giới của những nghệ sĩ nghèo. Họ tìm đến quảng
trường Gri-niz gần công viên Oa sinh tơn không phải vì cái vẻ cổ kính, kì quặc, cũng không phải vì cái phong
cảnh tuyệt vời của nó mà vì « tiền thuê rẻ ». Trong cái xã hội mà thước đo là đồng tiền thì « tiền thuê rẻ »
cũng nói lên khá nhiều điều và tác giả cũng mỉa mai nhận xét: « Phố này có một khả năng rất quý. Hãy tưởng
tượng xem một tay thu ngân nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột
nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không thu được một xu nhỏ ». Và cái không gian đó cho
dù nó được gọi là quảng trường thì nó vẫn bị chia nhỏ thành những quảng trường « chằng chịt » khiến cho
phạm vi không gian bị thu hẹp lại. Sự « chật hẹp » hiện ra như « mọc rêu » khiến cho khu nhà càng thêm vẻ
cô quạnh, hoang tàn. Cái không gian nghèo nàn ngay từ vẻ bên ngoài ấy chỉ tiếp nhận những con người ngụ
cư.
A. « Chiếc lá cuối cùng » Là bức thông điệp màu xanh về tình thương và sự sống con người .
1.Tình bạn cảm động.
- Hai nữ hoạ sĩ trẻ ở hai miền quê khác nhau: một cô từ bang Men tới, cô kia quê ở Ca-li-pho-ni-a và họ
cùng thuê chung một phòng trọ nơi phố nghèo.

--------------------------------------------------------------- 49 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

a. Điều gì đã gắn kết Xiu và Giôn xi lại với nhau?


+ Cùng sở thích về món rau diếp xoăn trộn dầu dấm và kiểu ống tay rộng
+ Cùng lựa chọn nghề hội hoạ: « hàng ngày làm việc lát con đường dẫn tới nghệ thuật bằng những bức
tranh minh hoạ cho những truyện ngắn của các tạp chí, do các nhà văn trẻ viết để lát con đường của họ dẫn
tới văn học »
+ Cùng cảnh nghèo. Họ vẽ tranh để kiếm cái lèn chặt dạ dầy thường hay trống rỗng của họ và cao hơn
nữa là để duy trì sự sống của chính họ mỗi khi mùa đông băng giá đến.
b Sụ kiện nào cho ta thấy sự gắn bó giữa hai cô hoạ sĩ này không đơn thuần chỉ là mối quan hệ của những
người trọ cùng một nhà mà thân thiết như chị em ruột thịt?
- Sự việc Giôn xi bị ốm. Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã « đánh ngã hàng chục nạn
nhân ». Đối với những người nghèo, cho dù họ là hoạ sĩ, thì đói rét và bệnh tật thường xuyên là khách không
mời, thường xuyên gõ cửa rình rập và đe doạ họ. Trong mùa đông, điều đó càng trở nên ác liệt hơn.
=> Đây là nghệ thuật tạo dựng tình huống. Tác giả chọn bệnh tật làm đối tượng miêu tả trực tiếp để đặc
tả những phương diện khác. Chọn một nhân vật trong trạng thái ốm đau bệnh tật làm tiêu điểm cho hành vi
hoạt động của các nhân vật khác là đòn bẩy để từ đó làm nổi lên các tình cảm nhân đạo, tạo ra thước đo phẩm
chất nhân vật (chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách). Đây là một cách tạo dựng tình huống
có vấn đề để dẫn dắt tới cách giải quyết đột biến bất ngờ khi kết thúc truyện.
? Theo dõi phần thứ nhất của văn bản cho biết: bệnh tật của Giôn Xi có gì đặc biệt ?
- Giôn xi bị viêm phổi, nằm liệt giường. Bác sĩ nói: « Bệnh tình của cô ấy có thể nói là mười phần chỉ
còn hy vọng được một thôi ».
- Bản thân Giôn xi là một cô gái ốm yếu và thiếu máu.
- Nghèo , không có tiền.
- Chưa từng thành công trong sự nghiệp.
=> Giôn xi không có một sợi dây ràng buộc nào đáng kể với cuộc sống.
? Cảnh ngộ ấy ảnh hưởng đến tâm trạng của Giôn xi như thế nào ?
Tại sao Giôn xi « mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành và thều thào ra lệnh « kéo nó
lên ».Hình dung như thế nào về nhân vật Giôn xi từ chi tiết miêu tả dáng vẻ « thẫn thờ » và giọng nói « thều
thào » của cô ?
- Cô muốn nhìn xem chiếc lá thường xuân cuối cùng bên cửa sổ đã rụng chưa.
- Một cô gái trong tình trạng sức khoẻ yếu ớt, gần như cạn kiệt sức sống.
Em hiểu gì về trạng thái tinh thần của Giôn xi từ câu nói của cô: « Đó là chiếc lá cuối cùng.... Em cứ
tưởng là nhất định trong đêm vừa qua nó đã rụng.... Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết ».
- Giôn xi cảm thấy mình bất hạnh, bất lực trước bệnh tật, không tha thiết với cuộc sống, đó là tâm trạng
chán nản của kẻ chờ đợi phút chia tay với cuộc đời.
? Chi tiết Giôn xi đã không đáp lại những lời lẽ yêu thương của bạn, tâm hồn đang chuẩn bị sẵn sàng cho
chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình cho ta biết thêm điều gì về Giôn xi?
- Cô vô cùng yếu đuối và tuyệt vọng. Giôn xi có những dự cảm mình sẽ chết, đáng sợ hơn là Giôn xi
không cảm thấy luyến tiếc cuộc sống. Tâm hồn cô đã chuẩn bị sẵn sàng cho một chuyến đi xa, chỉ chờ cho
chiếc lá thường xuân bé nhỏ đang quằn quại trong gió lạnh kia rụng xuống.
? Con người yếu đuối và tuyệt vọng như Giôn xi gợi cho em những cảm xúc gì ?
- Sự sụp đổ về tinh thần của cô hoạ sĩ trẻ bất hạnh làm cho bệnh tình ngày thêm trầm trọng. Cuộc sống
của Giôn xi giờ đây được ví như chiếc lá nhỏ nhoi, yếu ớt, mảnh mai kia. Và cuộc đấu tranh để bảo vệ cái
cuộc sống nhỏ nhoi, yêu ớt ấy là một cuộc đấu tranh với sự chiến thắng tuyệt vời của tình người.
(Cô bệnh nhân ấy « yên trí là mình không thể khỏi được » đã bình thản lạnh lùng làm vái việc nhìn qua
cửa sổ trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiếc lá thường xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đối
với Giôn Xi: chiếc lá là biểu tượng của thước đo thời gian, thước đo cuộc đời. Cuộc đời của cô, cô đã xây
dựng cho mình một niềm tin bất hạnh: cô sẽ ra đi khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Một niềm
tin định mệnh đớn đau. « Trong khắp thế gian, cái cô đơn nhất là một tâm hồn đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến
đi xa xôi bí ẩn của mình. Những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này cứ lơi lỏng dần từng cái
một thì ý nghĩ kì quặc kia hình như lại càng choán lấy tâm trí cô mạnh mẽ hơn ». Sự so sánh cuộc đời con
người với chiếc lá mong manh trước làn gió mạnh trong giá rét phũ phàng của mùa đông là một sự so sánh
tuyệt vời sâu sắc. Đồng thời nó cũng nói lên sự đồng cảm xót xa của nhà văn trước đồng loại. Nghèo thường
đi đôi với hèn, nhưng ở đây không phải là hèn trong phẩm cách mà là yếu đuối trong niềm tin, trong bản lĩnh.
Trong cuộc sống tựa vai vào người khác như vậy, Giôn xi tự cảm thấy mình là gánh nặng cho người khác, cô
đau khổ tự giầy vò vì thấy người khác phải chăm sóc mình, phải bận tâm vì mình. Niềm hi vọng ở đây duy
nhất cô đặt cả vào chiếc lá thường xuân vàng úa, mỏng manh, nhỏ nhoi đang quằn quại trong gió lạnh. Cuộc

--------------------------------------------------------------- 50 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đời của cô sẽ chấm dứt khi chiếc lá cuối cùng đó lìa cành. Đây quả là một sự so sánh tuyệt vời rất phù hợp
với kiểu tư duy hình tượng Đông phương. Cuộc đời được ví với những cái mảnh mai yếu ớt, để đổ, dễ vỡ, là
ngọn đèn cạn dầu leo lét trước gió. Và cuộc đấu tranh để bảo tồn cái nhỏ nhoi ấy, để bảo vệ cái yếu ớt ấy là
phẩm chất tuyệt vời của tình người)
c. Xiu đã làm gì để bảo vệ Giôn xi ?
Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách, Xiu thương bạn vô cùng, cô đã khóc « đến
ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản ». Xiu lo âu và đã làm tất cả để cứu Giôn xi.
- Cô vẽ nhiều hơn để có tiền mua thuốc và mua thức ăn cho bạn.
- Cô chăm sóc động viên bạn, nén nỗi xót thương lo lắng để nâng đỡ tinh thần cho bạn. khi đứa em tội
nghiệp « nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ » thì Xiu vẫn kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua
làn nước mắt : « Em thân yêu, em yêu dấu !... Em hãy hứa với chị là hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài
cửa sổ nữa... Em hãy cố ngủ đi »
- Xiu đã tận tình chăm sóc em, lúc thì quấy nước súp gà, lúc thì pha sữa với rượu Boóc đô, lúc thì đặt
thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ men. Xiu đã giành giật với tử thần để chạy chữa cho đứa
em nuôi bé bỏng tội nghiệp.
=>Xiu là hiện thân của lòng trắc ẩn, vị tha, là một con người giầu đức hy sinh thầm lặng, có một trái tim
nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc động và ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị
em thuỷ chung, cao quý. Nhân vật Xiu toả sáng « bức thông điệp màu xanh » của « chiếc lá cuối cùng »

3. Củng cố.
- Kể tóm tắt văn bản ?
- Nêu nd nghệ thuật của bài ?
4. Dặn dò.
- Về học nd bài.
- Chuẩn bị tiếp « Chiếc lá cuối cùng – O.hen-ry»

------------
Ngµy so¹n: / /.
Ngµy d¹y: / /
TiÕt 18- Văn bản:

Bài 4 : CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG (Tiếp)


(O.Hen – ry)

I. Mục tiêu
1. Kiến thức.
- Củng cố kiến thức cho HS về tác giả, nội dung và nhgệ thuật của văn bản.
2. Kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích văn bản.
- Kĩ năng tóm tắt văn bản.
3. Thái độ.
- Hiểu rõ hơn giá trị của kho tàng văn học VN.
II. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài, tài liệu tham khảo.
- HS: Ôn tập văn bản “Chiếc lá cuối cùng”.
III. Tiến trình bài dạy.
1. Kiểm tra.
2. Bài mới.
_______________________________
1.Tình bạn cảm động.
d. Bí mật chiếc lá cuối cùng.
Theo dõi phần cuối văn bản « chiếc lá cuối cùng » cho biết sự thật về chiếc lá vẫn còn đó liên quan
đến nhân vật nào ? (cụ Bơ men)
Bơ men được tác giả giới thiệu như thế nào ?
- Bác Bơ men là một hoạ sĩ nghèo đã 60 tuổi, không thành đạt trong nghệ thuật: « cụ múa cây bút vẽ đã
bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của mình » nhưng sống rất lương thiện và luôn
khát vọng sáng tạo một kiệt tác. Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác Bơ men vẫn sống cô độc « trong một gian
--------------------------------------------------------------- 51 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

buồng tối om om ở tầng dưới » Chỉ có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế. Trong
một gian buồng như thế thì vẽ thế nào được tranh, cho nên trên giá vẽ ở góc buồng của bác vẫn là một tấm
vải trống trơn chưa có một nét vẽ. Không có tranh để bán, hàng ngày bác « kiếm được chút ít bằng cách ngồi
làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ không đủ tiền thuê người làm mẫu chuyên nghiệp ». Cuộc sống của Bác thật khổ
và thật bấp bênh.
- Tuy sống trong nghèo khổ, suốt đời chỉ uống loại rượu nặng rẻ tiền, nhưng ước mơ sáng tạo lúc nào
cũng cháy bỏng trong lòng bác. Bác luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác. Ước mơ, khát vọng của bác thật
đẹp, thật chân chính.
Ở đây, cụ Bơ men đã vẽ bức tranh chiếc lá cuối cùng với mục đích gì?
Để cứu người khỏi tai hoạ, kéo dài sự sống cho một tâm hồn yếu đuối đáng đếm lá rụng chờ chết, có những
con người đứng trước cái chết không hề sợ chết. Cụ già Bơ-men, một hoạ sĩ già là một con người giầu đức
hi sinh như vậy.
Hoạ sĩ già Bơ men đã vẽ bức tranh chiếc lá cuối cùng như thế nào?
- Vẽ âm thầm, bí mật trong đêm mưa gió lạnh buốt ngoài trời, chứng cớ là « người ta tìm thấy một chiếc
đèn bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó, và vài chiếc bút lông rơi vung
vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn ».
Người hoạ sĩ già ấy đã phải trả giá như thế nào cho bức vẽ chiếc lá cuối cùng của mình?
- Bị viêm phổi nặng và đã chết vì sưng phổi
Nêu cảm nhận của em về cái chết của cụ Bơ men ?
Cái chết của Bơ men thật là cao cả. Ông không chỉ thương xót, mà đã tìm ra cách để chữa căn bệnh nguy
hiểm trong trí não giôn-xi, dù ông có phải xông pha trong bão tuyết. Bơ Men trở về và làm việc thầm lặng
dưới ngọn đèn bão tuyết tù mù. Trong đêm mưa rét ấy, một kiệt tác đã hoàn thành, kịp thời thay thế cho chiếc
lá vừa rung. Và cũng trong đêm mưa gió bão bùng ấy, sau khi vẽ bức kiệt tác trong tình thương của mình lên
bức tường cáo tới sáu thước, bước xuống khỏi cái thang chông chênh, ông già đã bị viêm phổi nặng, rồi hai
ngày sau ông đã lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Cái chết lặng lẽ, sự hi sinh thầm lặng của ông ít ai biết đến,
nhưng chính nó đã cứu sống được một mạng người- một con người còn rất trẻ và biết đâu, đó lại là một tài
năng vĩ đại sau này sẽ tiếp tục con đường nghệ thuật chân chính mà Bơ men đã theo đuổi suốt đời. Cái chết
là rất đáng ghét nhưng trong trường hợp của Bơ men, nó vô cùng đang kính trọng, bởi nó càng khẳng định
lòng yêu thương con người, sự hi sinh cao cả vì con người của người nghệ sĩ già. Bác Bơ men đã chết nhưng
tác phẩm kiệt xuất của bác vẫn sống mãi với hai cô gái nghèo, vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc.
Bởi vì tác phẩm đó đã biểu hiện tất cả phẩm chất cao đẹp của bác : nghèo nhưng vô cùng nhân hậu, giàu lòng
yêu thương và đức hi sinh. Bác là biểu tượng của nghệ thuật vị nhân sinh cao cả.
B. Kiệt tác « chiếc lá cuối cùng »
? Vì sao có thể nói : « chiếc lá cuối cùng » là một hình tượng quan trọng, linh hồn của truyện ngắn
này ?
Không phải ngẫu nhiên hình ảnh chiếc lá trường xuân cuối cùng đã trở thành nhan đề một truyện ngắn
bất tử của nhà văn Mĩ lừng danh O.Hen ri. Đó là một chi tiết cảm động, biểu tượng nghệ thuật bất ngờ, độc
đáo mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
a. Chiếc lá trường xuân nhỏ bé tầm thường, do bàn tay một hoạ sĩ « thường thường bậc trung » tạo ra rất
giống chiếc lá thật. Bức tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt chuyên môn tinh trẻ của Giôn xi nhìn
ngắm hoài mà sao không thể phân biệt nổi lá thật hay lá vẽ ? « Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ
phàng kéo dài cả một đêm, tưởng chừng không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức
tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Tuy ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình
răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, tuy vậy chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành cách mặt đất chừng sáu thước.
Và « ngày hôm đó trôi qua và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc
bám lấy cái cuống của nó trên tường và rồi, cùng với màn đêm buông xuống, gió bấc lại lồng lộn, trong khi
mưa vẫn đập mạnh vào cửa sổ và mái hiên thấp kiểu Hà Lan mưa rơi lộp độp xuống mặt đất ». Chiếc màn
xanh lại được kéo lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó ».
b. Chiếc lá dũng cảm đó đã cứu sống một con người.
- Nhờ chiếc lá giả- lá vẽ (nhưng có thật) vào mặt bức tường trước khuôn cửa sổ mà cô hoạ sĩ trẻ Giôn
Xi dần khỏi bệnh. Hoạ sĩ già Bơ men đã cứu được cô gái đáng thương bằng kiệt tác đầu tiên- và cũng là cuối
cùng của mình, hay chính cô đã tự cứu cô bởi niềm hi vọng lớn dần, mạnh ấm dần khởi nguồn từ chiếc lá lạ
lùng, gan lì bám trụ, quyết không chịu lìa khỏi ngọn dây leo loằng ngoằng.
- Chiếc lá cuối cùng xuất hiện kịp thời đúng lúc đó đã đem lại niềm tin vào sự sống cho Giôn xi, đã thăng
hoa nội lực cho Giôn xi, giúp cô chiến thắng gã « viêm phổi » dai dẳng hiểm ác. Cô chợt hiểu ra: « có một cái
gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào » và hi vọng « một ngày

--------------------------------------------------------------- 52 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nào đó sẽ được vẽ vịnh Na Plơ » lại trỗi dậy trong cô; cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị
lực và mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: « được năm phần mười rồi. Chăm sóc chu đáo thì chị
sẽ thắng và « cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng ». Không hẳn chiếc lá của cụ Bơ men đã cứu Giôn xi
khỏi tắt lịm đi như ngọn đèn mờ con con trước gió đông lạnh buốt mà chính bàn tay già nua của người hoạ sĩ
láng giềng nghèo, cô đơn trong đêm gió tuyết ấy chỉ cố tạo nên niềm hi vọng, khơi bùng lên ngọn lửa tình đời
sắp lụi tàn nơi trái tim người đồng nghiệp trẻ không may.
c. Chiếc lá ấy được vẽ bằng trái tim của tình yêu thương con người.
- Bác Bơ men vẽ chiếc lá ấy trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống. Do
đắm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ men đã nhiễm bệnh sưng phổi và đã qua đời sau đó hai ngày.
Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá, bác không phải không cảm thấy giá buốt, không phải
không cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng mình. Nhưng lòng thương yêu Giôn xi, ý muốn dùng cây bút và
bảng màu để cứu sống cô đã thúc đẩy bác vượt lên trên giá buốt, hiểm nguy để vẽ chiếc lá cuối cùng.
- Thực ra chiếc lá cuối cùng đã rụng, còn lại mãi trên tường không phải là thần dược, nó là tác phẩm nghệ
thuật được tạo nên bởi tình yêu thương con người, của sự hi sinh cao cả, quên mình tuyệt đối, vô tư tuyệt đối,
là lòng yêu mến cuộc sống bỏng cháy của người hoạ sĩ già. Chiếc lá cuối cùng,, sáng tạo một đêm kết quả của
tình yêu thương trĩu nặng dồn qua ngòi bút xuất thần của cụ Bơ men. « Chiếc lá » nối dài một cuộc đời, cướp
đi một cuộc sống, để lại trong bao thế hệ người đọc niềm xót xa, thương kính người hoạ sĩ nghèo không may
mắn, đồng thời lại vô cùng kinh ngạc về sức mạnh diệu kì của nghệ thuật- đem lại cuộc sống và hi vọng cho
con người. Dù phải đổi giá cực đắt, nhưng nghệ có nghệ sĩ chân chính nào không vui lòng đánh đổi tất cả để
lấy một « chiếc lá cuối cùng ».
Từ kiệt tác « chiếc lá cuối cùng, em hiểu thêm ý nghĩa nào của truyện « chiếc lá cuối cùng »?
- Nghệ thuật chân chính được tạo ra từ tình yêu thương con người.
- Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật của tình yêu thương, vì sự sống của con người.
Bức tranh của hoạ sĩ Bơ men là nghệ thuật chân chính vì nó hướng tới con người, vì con người. Nghệ
thuật chân chính mang trong lòng nó chức năng sinh thành và tái tạo để phục vụ con người.Tình yêu thương
là nguồn sức mạnh của ông già và tài năng nghệ thuật hướng ngòi bút của ông vào việc hoàn thành một tác
phẩm mang thiên chức vĩ đại của nghệ thuật: nghệ thuật vị nhân sinh. Và người nghệ sĩ đã đem cả sinh mệnh
của mình để trả lại màu xanh cho chiếc lá đã úa vàng, trả lại màu hồng cho đôi má của người thiếu nữ xanh
xao trả lại niềm tin nghị lực cho những người yếu đuối. Chiếc lá cuối cùng trở thành niềm hi vọng của sự hồi
sinh được xây dựng bằng tình người.
C. Nghệ thuật đặc sắc.
- Nét độc đáo của nghệ thuật truyện này là hiện tượng đảo ngược tình huống hai lần khắc sâu trong một
câu chuyện đã tạo nên một kết thúc bất ngờ hấp dẫn người đọc. Đọc truyện, lúc đầu người đọc cứ đinh ninh
là cô Giôn xi nhất định sẽ chết vì bệnh viêm phổi. Nhưng tình huống đã đảo ngược, giàu kịch tính và kết thúc
bất ngờ : Sau một đêm bão tuyết, chiếc lá cuối cùng đã rụng mà chẳng ai hay, bức vẽ « chiếc lá cuối cùng »
vẫn bám chắc cây thường xuân, chính chiếc lá ấy, bức vẽ kì diệu ấy đã cứu sống Giôn xi. Cụ Bơ men, tác giả
bức vẽ ấy đã chết ở tuổi 60, sau hai ngày bị viêm phổi nặng.
Kết thúc này càng khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của nghệ sĩ già Bơ men và tô đậm giá trị tư tưởng và nghệ
thuật của truyện.
Câu hỏi
Cụ Bơ men qua đời tại bệnh viện vì tuổi già, sức yếu, cảm lạnh nặng do phải đứng vẽ trên bậc thang
cao khấp khểnh giữa trời tuyết cóng cũng là một cách kết thúc một cuộc đời nghệ sĩ không mấy niềm vui. Tại
sao O.Hen ri lại chọn cách kết thúc truyện đau đớn ấy mà không viết những dòng cuối nhẹ nhàng, êm ái hơn ?
Chẳng hạn, cụ Bơ men cảm nặng phải vào viện, Giôn xi khỏi bệnh biết rõ sự thật, vô cùng cảm động, ân hận.
Cô ngày đêm chăm sóc cụ Bơ men như chăm sóc người cha thân yêu. Và sức khoẻ của hoạ sĩ cũng dần dần
bình phục. Một buổi sáng mùa xuân nắng ấm, hai người cùng nhau ra viện, trở về noi cũ ở. Họ cùng nhìn lên
bức tường xám nham nhở : chiếc lá trường xuân vẫn xanh ngắt giữa đám dây leo loằng ngoằng.
Không dễ dãi và nhạt nhẽo như ta nghĩ, nhà văn Mĩ đã gia tăng chất muối, cho gắt mặn hơn ấn tượng
đậm chát trong lòng người đọc, cho độ căng của nghịch cảnh càng tăng, cho giọt nước mắt ân hận, biết ơn,
nhớ tiếc càng chảy dài trên má Giôn xi, Xiu, và cả mỗi chúng ta.
Người đọc cứ bị ám ảnh mãi về tính hai mặt của biểu tượng « chiếc lá cuối cùng ». Chiếc lá cứu người-
đó là mặt phải. Chiếc lá lại giết người- đó là mặt trái. Làm sao không nghĩ, không chiêm nghiệm về triết lí
nhân sinh cao cả mà nghiệt ngã do nhà văn gợi ra từ một chiếc lá trường xuân nhỏ bé tầm thường, do bàn tay
một hoạ sĩ « thường thường bậc trung ». Cụ Bơ men đáng thương, đáng kính và cũng nhiều khi đáng ngại, khi
uống rượu say- đã để trọn cuộc đời dài trong nghèo túng và thất bại bằng thành công loé sáng cuối cùng. Bức
tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt chuyên môn tinh trẻ của Giôn xi nhìn ngắm hoài mà sao không thể

--------------------------------------------------------------- 53 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phân biệt nổi là lá thật hay lá vẽ ? Hoạ sĩ già « tử vì nghệ », đã vui lòng đổi kiệt tác của mình bằng cả xác,
hồn và tình thương người nồng nhiệt, nỗi đam mê nghề nghiệp đến quên cả tuổi tác, nỗi cay cú vì cả đời lao
động nghệ thuật kiệt lực mà thành công chưa một lần mỉm cười.
Một điều hết sức cảm động là khi đứng giữa trời đêm gió lạnh, tay miệt mài đưa bút vẽ lên tường, cụ Bơ
men chắc không hề nghĩ đến việc mình đang làm nghệ thuật, đang thực hiện công trình có thể lưu danh hậu
thế. Đơn giản, cụ chỉ nghĩ đây là cách tốt nhất cụ có thể làm, để cứu Giôn xi. Bức tranh vẽ hoàn thành, hoạ sĩ
già vào viện và thanh thản sang thế giới bên kia trong niềm vui Giôn xi khỏi bệnh, chẳng hề bận tâm đến
« chiếc lá » kia có thành kiệt tác hay không ?

3. Củng cố.
- Kể tóm tắt văn bản ?
- Nêu nd nghệ thuật của bài ?
4. Dặn dò.
- Về học nd bài.
- Hoàn thiện các đề văn.
- Tìm đọc sách tham khảo.
________________________________________

THƠ HỒ CHÍ MINH VÀ NHẬT KÝ TRONG TÙ

I. Hoàn cảnh và lý do sáng tác Nhật ký trong tù


1. Hoàn cảnh
- Tháng 2/1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, lúc này tình hình trong
nước và thế giới đã có những biến động dữ dội, hết sức khẩn trương, Nhật đã đi vào Đông Dương, phát xít
Đức và Nhật đang làm mưa làm gió, trên thế giới, Liên Xô và các nước đồng minh đang có nhiều khó khăn
- Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 thành lập mặt trân Việt Minh ( Việt minh
cần sự thừa nhận và viện trợ của các nước đồng mình, trước hết là của Trung Quốc)
- Vì vậy ngày 13/8/1942, lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc bắt đầu lấy tên mới là Hồ Chí Minh, từ địa điểm
cơ quan bí mật đóng ở vùng Pắc Bó tỉnh Cao Bằng đã lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ
quốc tề và liên hệ với các lực lượng chống Nhật của người Việt Nam ở Trung Quốc.Sau nửa tháng đi bộ, tới
ngày 29/8, khi vừa tới Túc Vinh (Quảng Tây, Trung Quốc) thì HCM chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ.
Người đã bị giam cầm, bị đầy đoạ vô cùng khổ cực, thường bị giải tới, giải lui gần 30 nhà tù khắp tỉnh Quảng
Tây hơn một năm trời.
- Trong chuỗi ngày tù đầy gian khổ đó, HCM đã viết tập thơ « Nhật kí trong tù » bằng chữ Hán bao gồm 133
bài, đa số theo thể thơ tứ tuyệt.
2. Lý do :
Trang mở đầu của tập thơ, Người đã nói rõ lý do sáng tác tập thơ :
« Ngâm thơ ta vốn không ham

--------------------------------------------------------------- 54 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây


Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do »
- Suốt thời gian bị cầm tù, Bác bị cách biệt với thế giới bên ngoài, không thể làm chính trị được trong khi công
việc cách mạng đang khẩn trương bề bộn. Bác đành phải làm thơ để tiêu thì giờ và vơi nỗi buồn, nỗi đau khổ
của người tù cách mạng đang mong đợi tự do cháy ruột.
- Tuy nhiên cần phải hiểu Bác là người rất yêu thơ và văn chương nghệ thuật nói chung. Bác là người có tâm
hồn nghệ sĩ và năng khiếu thơ ca bẩm sinh. Nếu không yêu thích thơ thì vì sao để giải trí « cho khuây » trong
những ngày tù đày, Bác lại làm thơ ?
- Nhưng vì Bác phải dành toàn bộ cuộc đời, toàn bộ tâm trí, thời gian cho cách mạng nên Người không thể
« ham » ngâm thơ và làm thơ. Người chỉ làm thơ cho mình khi điều kiện thời gian cho phép, thường là rất ít.
Song lúc này ở trong tù, thời gian quá dư thừa mà người lại không làm được cách mạng nên đành phải làm
thơ để « đợi ngày tự do », trở về với phong trào cách mạng mà thôi.
- Song nhờ có năng khiếu làm thơ và tâm hồn thơ, Bác đã sáng tác rất nhiều và có nhiều bài hay, có ý nghĩa
sâu sắc.
3. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua những bài thơ trong « NKTT » đã học
- Lòng yêu nước cháy bỏng, đêm ngày khắc khoải, trằn trọc băn khoăn lo cho vận mệnh đất nước (Không ngủ
được), Ốm nặng)
- Chất thép phi thường của người chiến sĩ vĩ đại HCM, phong thái ung dung, tự chủ, luôn làm chủ hoàn cảnh
với tinh thần lạc quan chiến thắng (Ngắm trăng, đi đường, đáp thuyền đi Ung Ninh)
- Tâm hồn nghệ sĩ luôn nhạy cảm với vẻ đẹp bình dị mà thi vị củ thiên nhiên (ngẳm trăng, đáp thuyền...)
* Viết đoạn văn dùng phép nối và phép thế
Qua năm bài thơ đã học và đọc thêm trong « NKTT », ta thấy HCM là một nhà yêu nước vĩ đại. Trong
suốt thời gian bị tù đầy, nỗi khổ lớn nhất của HCM không phải là gồm cùm, đói rét, những đày đoạ về thể
chất- mà là bị mất tự do, xa rời chiến đấu. Người chiến sĩ cách mạng ấy đêm ngày khao khát tự do tới cháy
ruột, mong mỏi từng ngày, từng giờ sớm trở về với phong trào cách mạng trong nước.Nhiều đêm Người không
ngủ, trằn trọc, băn khoăn lo cho vận mệnh đất nước. Đến khi vừa chợp mắt, Bác đã thấy lá cờ cách mạng, lá
cờ Tổ Quốc theo cả vào trong giấc mơ : « Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ». Một lần, vị cha già dân tộc
lâm bệnh nặng trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, phần vì thời tiết Trung hoa nóng lạnh thất thường, phần chính
vẫn là nỗi đau đất nước « nội thương đất việt cảnh lầm than ». Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta còn là một
tấm gương về nghị lực và bản lĩnh cách mạng phi thường. Chẳng những người tù cách mạng ấy đã dũng cảm
chịu đựng hoàn cảnh sống khác loài người « vô vàn cực khổ » trong nhà tù tàn bạo mà còn vượt hẳn lên hoàn
cảnh ấy với một thái độ ung dung tàn bạo mà còn vượt hẳn lên hoàn cảnh ấy với một thái độ ung dung tự chủ,
thể hiện một tinh thần lạc quan chiến thắng. Chẳng thế mà trong cuộc giải lao trên đường núi đầy gian lao,
nhọc nhằn trắc trở : « núi cao rồi lại núi cao trập trùng », Bác hiện lên như một chiến sĩ cách mạng trong cốt
cách của một nhà hiền triết phương Đông, với nét tiên cốt xuất thần của một con người đã ung dung chiếm
lĩnh được những « đỉnh cao của cuộc sống ». Đó là cái « được » tuyệt vời của người chiến sĩ trên con đường
CM gian nan mà không phải ai cũng có được. « Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non » là tầm vóc, ý chí,
bản lĩnh, trí tuệ lớn của người anh hùng CM trong chốn tù đầy gian khổ. Một lần, bị giải đi bằng thuyền chân
treo ngược lên mui thuyền, đau đớn như treo cổ, BH vẫn ung dung ngắm cảnh làng xóm ven sông và thuyền
câu thênh thênh rẽ sóng trên sông nước. Người chiến sĩ gang thép ấy còn là một tâm hồn thi sĩ luôn nhạy cảm,
tinh tế, luôn biết yêu và rung động với mọi cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời. Chẳng thế mà ngay
trong chốn ngục tù, người tù thi sĩ vẫn ung dung ngắm trăng qua song sắt nhà tù, giao cảm mênh mông với
vầng trăng bè bạn len lỏi tìm đến thăm Người.
- Phép thế : HCM- Bác Hồ- Bác- Người chiến sĩ cách mạng ấy- Vị cha già dân tộc- ........
=============================

BÀI 1 : NGẮM TRĂNG

I. Phân tích tác phẩm


Bác Hồ là người rất mực yêu thiên nhiên, khát khao hoà hợp với thiên nhiên, trong đó trăng chiếm một
địa vị xứng đáng trong tâm hồn Bác và thơ Bác. Có cả một chuỗi ngọc thơ trăng Hồ Chí Minh mà bài nào
cũng long lanh sáng đẹp : Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Đối trăng... Trong lòng thi nhân luôn
toả sáng một vầng trăng rực rỡ, một nàng thơ trăng tri âm tri kỉ :
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

--------------------------------------------------------------- 55 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Tin thắng trận)


- Gió khuya ngon giấc, bên song trăng nhòm
(Đối trăng)
- Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Chính vì thế, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, khi Bác là người tự do đang chèo lái con
thuyền kháng chiến của dân tộc đi đến bến bờ vinh quang, trăng mới tràn đầy thơ Người ; mà ngay cả khi bị
giam cầm đầy đoạ cực khổ trong nhà tù, trăng vẫn lấp lánh toả sáng trong những vần thơ của Bác, như ánh
sáng chiếu rọi từ tâm hồn lớn của người tù cách mạng. Trong nhiều bài thơ như thế, « Ngắm trăng » được xem
như là một bài thơ hay nói về cuộc ngắm trăng thật đặc biệt của Bác- ngắm trăng trong nhà tù.
Vọng nguyệt
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
1. Về đề tài ngắm trăng và phân tích hai câu đầu
- Vọng nguyệt (hay « khán minh nguyệt, đối nguyệt »), tức là « ngắm trăng », là một thi đề phổ biến trong
thơ xưa. Thi nhân xưa gặp cảnh trăng đẹp thường đem rượu ra uống trước hoa để thưởng trăng ; như thế cuộc
thưởng trăng mới mười phần mĩ mãn, thú vị.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên
(Nguyễn Du – TK)
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
(Nguyễn Trãi)
Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng trong hoàn cảnh thảnh thơi, tâm hồn thoải mái, thư thái. Ở đây,
Hồ Chí Minh ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt : trong nhà tù ! Người ngắm trăng ở đây đang trong
cảnh ngục tù. Bậc tao nhân mặc khách thưởng trăng đó đang là một tù nhân bị đầy đoạ vô cùng cực khổ. Điều
kiện sinh hoạt của nhà tù tàn bạo dã man mà tù nhân phải sống cuộc sống « khác loài người ». Cuộc sống đó
làm sao phù hợp với việc « thưởng nguyêt", lấy đâu ra rượu và hoa để thưởng trăng. Nhưng câu thơ không
mang ý nghĩa phê phán chế độ nhà tù mà chủ yếu để nói về tâm trạng của Bác. Trước cảnh đêm trăng đẹp,
Người khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn và lấy làm tiếc không có rượu và hoa. Việc nhớ đến
rượu và hoa trong cảnh ngục tù khắc nghiệt đã cho thấy người tù ấy không hề vướng bận bởi gánh nặng về
vật chất, tâm hồn vẫn tự do ung dung, vẫn thèm được tận hưởng cảnh trăng đẹp.
Nhưng vì sao câu thơ thứ hai lại có một chút bối rối đọng lại trong ba chữ « nại nhược hà » của nguyên
tác ? « Nại nhược hà » là biết làm thế nào ?Cả câu thơ « đối thử lương tiêu nại nhược hà ?» có nghĩa là trước
cảnh đẹp đẽ, trong lành đêm nay biết làm thế nào ? Tác giả dịch thành « cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ » là
đã bỏ đi cái xốn xang bối rối rất nghệ sĩ của Bác được thể hiện ở lời tự hỏi « nại nhược hà » ( biết làm thế
nào). Dịch là « khó hững hờ » thì thấy nhân vật trữ tình có vẻ bình thản, hững hờ chứ không rung cảm mạnh
mẽ như trong thơ chữ Hán. Đây là một tâm hồn nghệ sĩ đích thực nên mới bối rối vì « trong tù không rượu
cũng không hoa » để đón trăng bởi Người rất yêu trăng, và hơn thế nữa, còn coi trăng như người bạn tri âm
tri kỉ ? Đón một người bạn như thế mà không có rưọu và hoa theo phong cách tao nhã của thi nhân muôn đời
Phương Đông thì coi sao tiện ? Trong tù, thiếu thốn mọi bề, làm sao có rưọu, có hoa được ? Người thừa biết
điều ấy nhưng vẫn nhắc đến trong câu thơ với hai lần nhấn mạnh chữ « không » như một lời tạ lỗi với trăng,
với người bạn tâm tình mà Người rất yêu quý và trân trọng. Đó là cái bối rối, băn khoăn rất nghệ sĩ của nhà
thơ Hồ Chí Minh mà không phải ai cũng có được như Bác- nhất là trong hoàn cảnh thưởng trăng đặc biệt ở
chốn ngục tù. Bởi chỉ có tâm hồn nghệ sĩ, biết yêu thương, biết xúc cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên thì trước
« cảnh đẹp đêm trăng trong tù mới có niềm xúc động ấy, mới có nỗi băn khoăn ấy. Và ta hiểu, người nghệ sĩ
ấy, sau này trong hoàn cảnh tự do, lại thả hồn trong ánh « trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa » hay đắm mình
vào cảnh « khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền » Ở bài thơ này, bên cạnh cái hiện thực trơ trụi của nhà
tù thì niềm băn khoăn nghệ sĩ ấy càng bộc lộ một bản lĩnh vững vàng của con người, bất chấp cái gian khổ
của đời sống ngục tù để giữ nguyên vẹn một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, luôn biết yêu và rung động với mọi
cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời.
2. Sau cái phút băn khoăn bối rối ban đầu là một mối giao hoà tuyệt đẹp giữa người với trăng, giữa thi
nhân với bạn tâm tình :
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

--------------------------------------------------------------- 56 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Đây là một mối giao hoà thầm lặng mà thiết tha sâu lắng biết bao giữa Người và trăng. Rượu, hoa
không có, chỉ có tấm lòng của đôi bạn tâm giao thu vào một chữ « ngắm » : họ nhìn nhau đăm đắm qua chấn
song sắt nhà tù. Và chính tấm lòng của họ đã chiến thắng cái song sắt nhà tù thô bạo và ghê tởm kia. Tấm
lòng ấy, sự chiến thắng ấy được thể hiện tài tình trong nghệ thuật đối rất sáng tạo của câu thơ chữ Hán :
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
Ở đây có đối giữa hai câu trên, dưới theo luật thơ Đường (nhân hướng>< nguyệt tòng ; minh nguyệt><
thi gia) ; lại đối ở chữ đầu và cuối của mỗi câu thơ ( nhân- nguyệt , nguyệt - thi gia) khiến cho trăng và người
quấn quýt với nhau trong một mối tâm giao tri kỉ. Kết cấu đó tạo một hiệu quả nghệ thuật riêng. Hai câu thơ
dịch làm mất đi cấu trúc đó, giảm đi phần nào sức truyền cảm. Ngoài ra 2 từ « nhân », « ngắm » chưa cô đúc
và nhất là chữ « nhòm » e chưa được nhã.
Hình thức và cấu trúc câu thơ chữ Hán đã thể hiện mối giao hoà đặc biệt giữa người và trăng. Hình
thức và cấu trúc câu thơ đã hiện rõ cảnh ngắm trăng trong tù ; hai đầu là Người và Trăng, giữa là song sắt nhà
tù nổi lên thô bạo như chướng ngại vật ngăn cách. Song người đã thả hồn ra ngoài cửa sắt để ngắm trăng sáng,
giao hoà với vầng trăng tự do đang toả mộng giữa trời và vầng trăng cũng vượt qua song sắt nhà tù để tìm đến
ngắm nhà thơ trong tù. Cả trăng và người đều chủ động tìm đến, giao hoà cùng nhau, ngắm nhau say đắm.
Cấu trúc đối của hai câu thơ chữ Hán làm nổi bật tình cảm song phương giữa người và trăng. Nghệ thuật nhân
hoá đã khiến trăng trở nên như con người, có gương mặt, có linh hồn, có ánh mắt. Trăng trở thành người bạn
tri âm tri kỉ của người tù khiến cho phút giao hoà thầm lặng ấy thêm thấm thía. Hai câu thơ của Bác cho thấy
trăng yêu người cũng ngang với người yêu trăng. Không chỉ Người hướng tới cái đẹp của trăng mà mà trăng
cũng phát hiện ra cái đẹp ở cõi Người, thấy ở người tù một nhà thơ. Phút giao cảm ấy khiến mọi đau thương,
gian khổ, tăm tối của cuộc sống ngục tù, cả cái song sắt nhà tù kia như biến mất, tâm hồn con người trở nên
thanh thản, nhẹ nhõm, thăng hoa :tù nhân thoắt biến thi nhân. Không còn tù ngục, không còn tù nhân, chỉ có
nhà thơ và vầng trăng tri kỉ. Hoàn cảnh là trói buộc, giam cầm, nhưng sức sống của con người là vô hạn. Bởi
thế, « ngắm trăng » không chỉ là bài thơ nói lên lòng yêu thiên nhiên, yêu trăng của Bác, mà còn cho thấy một
cuộc vượt ngục về tinh thần của người tù cách mạng HCM. Và trong chốn ngục tù, Người hướng đến ánh
trăng sáng phải chăng cũng là hướng tới tự do như nỗi khát khao cháy bỏng của Người :
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu
Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên đặc biệt sâu sắc mạnh mẽ, một biểu hiện nổi bật của tâm hồn
nghệ sĩ ở Bác Hồ, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ vĩ đại đó. Đằng sau những câu
thơ rất thơ đó lại là một tinh thần thép mà biểu hiện ở đây là sự tự do nội tại, phong thái ung dung vượt lên
ngục tù tàn bạo. Người tù cách mạng ấy dường như không chút bận tâm về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp,
ghẻ lở.... của chế độ nhà tù khủng khiếp, bất chấp song sắt thô bạo của nhà tù để tâm hồn bay bổng, để tìm
đến đối diện đàm tâm với vầng trăng tri kỉ, hướng tới cái đẹp, khát khao tự do. Bài thơ là sự minh hoạ sinh
động cho hình tượng HCM- người khách tiên trong ngục, là một minh chứng sinh động cho câu thơ Bác viết
ở ngoài bìa tập NNKTTT:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
* Tóm lại : chỉ là một bài thơ tứ tuyệt giản dị nhưng « Ngắm trăng » đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, một
nhân cách lớn vừa rất nghệ sĩ, vừa có đủ bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ vĩ đại. Bài thơ đã cho thấy
nét đặc sắc của thơ trữ tình HCM, vừa có màu sắc cổ điển (thể hiện ở đề tài « vọng nguyệt », ở thi liệu « rượu,
hoa, trăng », cấu trúc đăng đối trong hai câu thơ sau ; đặc biệt nhất là hình ảnh của chủ thể trữ tình ung dung
giao cảm đặc biệt với thiên nhiên) vừa mang hồn của thời đại (một hồn thơ lạc quan, luôn hướng về phía cuộc
sống, vừa mang tinh thần thép vừa giản dị, hồn nhiên, vừa hàm súc.

* Viết đoạn : Nhận xét về ánh trăng trong thơ Bác Hồ

Trong thơ Bác, ánh trăng luôn luôn tràn đầy. Trăng đã đi vào thơ Bác ở nhiều bài thơ thuộc những giai
đoạn khác nhau, từ những bài thơ viết trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, trăng đã luôn là bạn, người
bạn tri âm tri kỉ của Bác :
« Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ »
Ở những bài thơ viết trong nước, ánh trăng càng thân thiết, gắn bó với Bác. Trăng thân mật với Người
và « trăng vào cửa sổ đòi thơ. Việc quân đang bận xin chờ hôm sau » (Tin thắng trận). Trăng ôm trùm cảnh
vật khiến cảnh rừng trở nên lung linh, huyền ảo, ấm áp, hoà hợp, quấn quýt :

--------------------------------------------------------------- 57 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

« Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa » (Cảnh khuya).


Thuyền đi, trăng cũng như đi cùng : « Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo ». Trăng đầy ắp khoang
thuyền theo Bác trở về sau khi đã bàn bạc việc quân :
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
................trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Trăng đã là cuộc sống, là thanh bình, là hạnh phúc, là ước mơ, là niềm an ủi, là người bạn tâm tình của
Bác. Ánh trăng làm cho cái đẹp của cảnh vật trở nên êm đềm sâu sắc, làm cho cảm nghĩ của con người thêm
thâm trầm, trong sáng. Có thể nói trong thơ Bác, ánh trăng luôn được trìu mến và trăng cũng góp phần làm
nên vẻ đẹp của thơ Người.
=============================

Bài 2 : TỨC CẢNH PÁC BÓ

1. Hoàn cảnh sáng tác


Bài thơ được viết ra trong một hoàn cảnh đặc biệt : tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động cách
mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng trong nước. Người sống và làm việc trong những điều kiện hết sức gian khổ ở hang Pắc Bó
Cao Bằng sát biên giới Việt Trung. Nhưng với một tinh thần lạc quan cách mạng, một nụ cười hóm hỉnh, tươi
vui, Bác đã làm thơ về những ngày gian khổ đó.
2. Cảm nhận chung về bài thơ
Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Đằng sau
niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ
3. Phân tích bài thơ
Theo cấu trúc, có thể thấy bài tứ tuyệt này gồm hai phần :
- Ba câu đầu là phần tả cảnh và kể sự việc ở Pắc Bó
- Câu cuối nói lên cảm nghĩ về cuộc sống ở Pắc Bó đồng thời cũng là quan niệm sống của người chiến
sĩ cách mạng trong những ngày đầu hết sức gian khổ ?
- Thực ra, ở ba câu đầu, qua phần kể và tả cũng đã phần nào bộc lộ quan niệm sông của tác giả, để nhà
thơ có thể tổng kết lại như một lời khẳng định đầy tự hào : Cuộc đời cách mạng thật là sang. Tình thần của
bài thơ, khí chất của người viết, dấu ấn của tác giả được cô đúc và toả sáng trong câu thơ này.
a. Thú lâm tuyền :
- Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên ta có cảm tưởng như Bác Hồ sống
thật ung dung, hoà hợp nhịp nhàng với điệu sống của núi rừng :
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi, toát lên cảm giác nhip nhàng, nề nếp : sáng ra, tối
vào...
- Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, ở hang ấy thật đầy đủ,
đầy đủ đến dư thừa :
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Có người hiểu là : dù chỉ có cháo bẹ rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy
không sai về mặt ngữ pháp nhưng e không thích hợp lắm với giọng thơ đùa vui, thoải mái của cả bài thơ. Có
lẽ nên hiểu là : Thức ăn ( cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn.
- Câu thơ thứ nhất nói về ở,câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thơ thứ ba nói về làm việc, cả 3 câu đều là
thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ.

--------------------------------------------------------------- 58 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hiểu như vậy, sx phù hợp với mạch thơ, với kết cấu chặt chẽ của bài thơ hơn. Hai câu thơ này còn làm
gợi nhớ cảm xúc thơ của bài « Cảnh rừng Việt Bắc » (1947) của Bác cũng diễn tả niềm vui thích tới sảng
khoái trong cảnh sống của Người ở núi rừng :
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt chè tươi mặc sức say
Với Bác Hồ, ở Việt Bắc, « non xanh nước biết » , « rượu ngọt chè tươi » cũng « vẫn sẵn sàng » muồn
gì có nấy, cứ « tha hồ », « mặc sức » hưởng thụ, giống như « cháo bẹ rau măng » ở Pắc Bó vậy.
- Nhưng sự thực, những câu thơ trên đây kể về cảnh sống của Bác Hồ ở PBó là hoàn toàn nói đúng sự
thật, cái sự thật đầy gian khổ, song lại trở thành cái thực giàu có, sang trọng. Như vậy, câu thơ như một nụ
cười hồn nhiên vượt lên trên gian khổ khó khăn. Mà không phải ai cũng có được nụ cười ấy trong hoàn cảnh
ấy. Nụ cười của Bác Hồ dường như đã xua tan tất cả những gì là gian khỏ của cuộc sống cách mạng, không
những thế còn bộc lộ niềm vui sâu kín : được hoà mình với thiên nhiên phóng khoáng trong một phong thái
ung dung, nhàn nhã, tự chù. Đó là thú lâm tuyền của Bác, in đậm bản sắc HCM như Bác đã trả lời các nhà báo
tháng 1 năm 1946 : « Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột độ là làm sao cho nước ta được độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì
làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già
hái củi, trẻ em chăn trâu không dính líu gì với vòng danh lợi », như Bác đã tự bộc lộ và khẳng định trong
nhiều bài thơ khác của Người.
Sự hoà hợp gần gũi với thiên nhiên trong một cuộc sống giản dị, thanh đạm là một nét đặc thù làm nên
thế giới tâm hồn phong phú của Bác, khiến cho Người mang phong thái một nhà hiền triết phương Đông, như
một ẩn sĩ, một đạo sĩ. Thì ra trong con người chiến sĩ cách mạng vĩ đại ấy vẫn có một « khách lâm tuyền ».
Thú lâm tuyền là một tình cảm cao khiết, có truyền thống từ xa xưa. Những bậc hiền nhân quân tử, khi gặp
cuộc đời nhiễu nhương lầm bụi đã từ bỏ công danh, tìm về cuộc sống ẩn dật chốn núi rừng, bạn với cây cỏ
chim muông, với quạt gió đèn trăng :
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Vui thú lâm tuyền cũng là vui với cái nghèo. Cảm hứng vui với cái nghèo cũng để lại cả một mạch
sáng tác trong văn thơ truyền thống :
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết : Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Cuộc sống của Bác chẳng khác gì với cuộc sống đạm bạc mà thanh cao giữa thiên nhiên cùa người
xưa đó.
Nguyễn Trãi viết trong « Côn Sơn ca » :
Nửa đời vùi mãi trong lâm đục
Muôn chung chín vạc để làm gì ?
Nước lã cơm rau hãy tri túc
Nghèo mà lại cảm thấy là « hào », là « phong lưu rất mực », là « tri túc ». Vì chính cái vị đạm bạc của
cảnh nghèo ấy lại là biểu hiện cúa giàu sang về đạo lý, về tinh thần, là một thái độ sống thanh cao. Do đó mà
có cảm giác rất thoả mãn, tự hào với cái nghèo, cảm thấy « nghèo mà sang ».
Và cái bàn đá thiên tạo của Bác gợi nhớ đến phiến đá Côn Sơn của Nguyễn Trãi :
Côn Sơn có đá rêu phong
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Nhưng giống mà lại khác các bậc tiền nhân xưa thì đó mới là Bác Hồ. Giống ở phong thái ung dung,
ở tư cacsh tiên phong đạo cốt, ở niềm vui thú sống hòa hợp giữa thiên nhiên, ở sự vượt lên coi thường gian
khổ. Khác ở chỗ người xưa lui về chốn lâm tuyền là để xa lánh cõi đời nhơ bẩn, là sự quay lưng với hiện thực,
dù sao cũng mang ít nhiều khí vị thoát li ; còn Bác là người cách mạng, không phải là ẩn sĩ mà là một chiến
sĩ, cho nên dù có ở núi rừng nhưng vẫn là đang dấn thân vào hiện thực xã hội, dù có sống trong thú lâm tuyền
thì vẫn làm việc cho cách mạng, cho đất nước, cho nhân dân. Cho nên giữa chốn non xanh nước biếc ấy, người
lại dịch sử Đảng, dịch cuốn «Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô » làm tài liệu huấn luyện cán bộ cách mạng Việt
Nam. Đây là câu thơ nói rõ sự khác nhau cơ bản giữa nhà cách mạng HCM với người xưa : « Bàn đá chông
chênh dịch sử Đảng »
Cứ ngỡ cái bàn đá thiên tạo bên bờ suối ấy phải là nơi các tao nhân mặc khách ngồi đánh cờ, uống
rượu làm tho nhưng ở đây nhà thơ hiền triết HCM lại ngồi dịch sử Đảng, bởi nhà hiền triết ấy là một chiến sĩ
cách mạng đang lo toan, nhen nhóm cho phong trào cách mạng bùng lên từ cái hang đầu nguồn Pắc Bó này.

--------------------------------------------------------------- 59 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhiều người đã bình cái hay của câu thơ trong sự tương phản ý giữa « bàn đá chông chênh » và « dịch sử
Đảng ». Nếu hình ảnh « bàn đá chông chênh » của thiên nhiên gợi lên cái thế chưa ổn định, vững vàng cảu
cách mạng trong những ngày đầu trứng nước thì cụm từ « dịch sử Đảng » rắn đúc lại đã làm cho cái bàn đá
kia không còn chông chênh nữa. Con người đã vượt lên hoàn cảnh, thể hiện bản lĩnh tự chủ, tin tưởng vào
mình. Đó không phải là một ẩn sĩ. Và ba chữ « dịch sử Đảng » đã ngời sáng một hồn thơ chiến sĩ của người
cộng sản HCM gợi nhớ đến 3 chữ « đàm quân sự » trong câu « yên ba thâm sứ đàm quân sự » Người viết 7
năm sau trong một đêm « nguyên tiêu » trăng sáng đầy trời giữa nơi khói súng.
b. Cuộc đời cách mạng thật là sang
Câu kết như một lời tổng kết hóm hỉnh, đồng thời lại là một lời khẳng định đầy tự hào về cuộc sống
cách mạng của mình. Thật là kì diệu bởi nó đem đến một quan niệm sống thật mới mẻ và cao đẹp của người
cộng sản HM. Người ta có thể nói cuộc đời cách mạng thật là vẻ vang, thật là vinh quang, thật là cao đẹp...
nhưng chưa ai tự nhận « cuộc đời cách mạng thật là sang » như Bác. Ba câu trên đã đã được tổng kết lại và
nâng cao lên thành một nhân sinh quan mới in đậm bản sắc HCM : cuộc đời CM, một cuộc đời phải sống
trong bí mật, chịu đựng gian khổ thiếu thốn vô ngần, nhưng khi con người đã sống vì một lý tưởng cao đẹp
thì cuộc đời ấy vẫn mang một phong vị đặc biệt, một cái thú riêng, một giá trị mà những cuộc đời khác không
thể có được : Thật là Sang ! Từ Sang vừa có nghĩa là sang trọng, giàu có, lại diễn tả một phong thái vượt lên
trên vật chất tầm thường vươn tới một đời sống tinh thần cao cả, đậm phong vị truyền thống. Tự nhận như
vậy là phải yêu cuộc sống ấy lắm, phải đánh giá rất cao cuộc sống ấy, phải tự hào mãnh liệt về cuộc sống ấy.
Điều này không phải ai cũng cảm nhận và ý thức được như Bác. Viết ra được một câu thơ như vậy phải là của
một cách nhìn mới mẻ, một tầm tư tưởng cao, một nhân cách đáng trọng. Nhưng cái sâu sắc, lớn lao của câu
thơ lại được viết ra một cách vui tươi, hóm hỉnh thì đó mới là BHồ của chúng ta. Câu thơ như một tiếng cười
vui hồn nhiên của người chiến sĩ trước cuộc sống gian truân, vất vả mà không cần phải suy nghĩ gì cả. Bởi đó
chính là bản chất con người Bác, máu thịt và tâm hồn Bác mà hoá thành thơ. Câu thơ đã nâng bài thơ dậy,
từng câu trên đã đẹp, đến câu cuối này thì bài thơ toả sáng. VÀ chữ SANG kết thúc bài thơ như một nhãn tự,
ngân vang mãi một lạc quan cách mạng trong một quan niệm sống cao cả tuyệt vời của Bác.
Bởi lẽ, Bác là người hơn ai hết hiểu gian khổ, thiếu thốn, nghèo nàn là hiện tại, còn sang giầu là tương
lai ; hay nói đúng hơn, nghèo là điều kiện vật chất hôm nay, còn sang chính là xu thế tất thắng của cách mạng
ngày mai.

* Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa ; vừa đậm đà màu
sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài « tức cảnh Pắc Bó » là điển hình của hồn thơ, phong
cách thơ đó.
==========================

Bài 3 :
TẬP VIẾT LỜI BÌNH CHO CÂU THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ :
« KHÔNG NGỦ ĐƯỢC »

Nhớ nước mà không ngủ được cũng là điều thường thấy ở các bậc vĩ nhân trong lịch sử. Trần Hưng
Đạo cũng đã từng « tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa »...( Hịch tướng
sĩ), còn Lê Lợi và Nguyễn Trãi thì :
Những trằn trọc trong cơn mộng mị
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi...
(Bình Ngô đại cáo)
Tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông, Bác Hồ cũng có nhiều đêm không ngủ như thế. Nhưng
có phải những đêm không ngủ của nhà cách mạng HM vẫn có những nét mới, những điểm toả sáng hơn ?
Điều này được thể hiện ở sự vận động của mạch thơ từ « thức » sang « ngủ » đến « mơ » để có một hình ảnh
lung linh rực rỡ khép lại bài thơ trong một giấc mơ kì diệu của người tù- thi sĩ - chiến sĩ
« Cánh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh »
Giấc mơ là mộng nhưng cũng là thực của nỗi lòng Bác lúc bấy giờ. Bởi theo tâm lý những hình ảnh
hiện lên trong giấc mơ của con người bao giờ cũng là những điều mà họ quan tâm, chú ý nhất, những điều ám
ảnh nhất đối với họ trong lúc tỉnh. Cái gì đã hiện lên trong giấc mơ ở chốn ngục tù của Bác ? Đó là « sao vàng
năm cánh », biểu tượng cho lá cớ tổ quốc và cách mạng. Và hình ảnh « sao vàng năm cánh » đã đến ngay
trong giấc mơ khi Người vừa chợp mắt. Có nghĩa là hình ảnh Tổ Quốc luôn da diết và thường trực trong máu
thịt và tâm hồn Người, trong cuộc đời cách mạng gian truân, vất vả của Người, dù là ở bão tuyết Luân Đôn

--------------------------------------------------------------- 60 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hay tù ngục phương Đông. Có phải vì thế mà Chế Lan Viên đã thấu hiểu nỗi niềm thiết tha, đau đớn nhớ Nước
của Bác trong những ngày « Người đi tìm hình của nước » :

Đêm mơ nước ngày thấy hình của Nước


Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
An một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ Quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Và ta hiểu ý thơ này của ông đã được khơi nguồn từ hình ảnh « sao vàng năm cánh mộng hồn quanh »
trong bài « không ngủ được » của Bác, cũng như Hoàng Trung Thông khi đọc thơ Bác đã cảm nhận lòng yêu
nước cao đẹp, tuyệt vời của lãnh tụ :
Thân ở trong tù hồn ở nước
Bay quanh hồn mộng ánh vàng sao
Bởi đấy không chỉ là nỗi nhớ nước da diết và thường trực của người con yêu nước số một của dân tộc
mà còn là « nối nhớ nước trong một niềm tin phơi phới » của người chiến sĩ cách mạng lão thành đã nhìn thấy
tương lai tươi sáng của nước nhà ngay trong bóng tối của chốn ngục tù. Cho nên hình ảnh Tổ Quốc hiện lên
trong giấc mơ mới thật lung linh, rực rỡ : « Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ». Niềm tin ấy phải mạnh
mẽ đến thế nào thì mới có một giấc mộng về Tổ quốc đẹp đến thế, mới sáng tạo ra một hình ảnh đầy chất thơ
như vậy. Đó là chất lãng mạn vươn lên trên hiện thực đen tối của nhà tù- nó chính là sự vượt ngục tinh thần
của nhà thơ để vươn ra ánh sáng, đến với tương lai tươi đẹp của Tổ quốc, của dân tộc trong một dự cảm đầy
niềm tin của mình. Thơ tứ tuyệt thường kết tinh và toả sáng ở câu cuối. Cả bài thơ là một cuộc đối thoại nội
tâm sâu lắng vận động qua các cung bậc cảm xúc, từ dồn nén, tích tục, nặng nề ở trạng thái thao thức trong
hai câu đầu, đến sự chuyển đổi có gì như đột ngột ở trang thái « vừa chợp mắt » trong câu thứ ba, để rồi bột
phát và toả sáng mạnh mẽ ở trạng thái mộng trong câu cuối. Câu thơ nâng cả bài thơ dậy trong một vầng sáng
rực rỡ như một niềm tin mãnh liệt, một chí khí lạc quan bay bổng khi hồn thi nhân vượt khỏi nhà tù bay về
quê hương, lượn quanh ánh sao vàng, biểu tượng cho lá cờ Tổ Quốc và cách mạng. Nỗi nhớ nước canh cánh
trong một niềm tin phơi phới ở chốn ngục tù đã bộc lộ nét vĩ đại của một tâm hồn lớn.

THƠ TỐ HỮU
BÀI 1 : TỪ ẤY

I. Giới thiệu
Đời CM và đời thơ của Tố Hữu được đánh dấu bằng bài thơ « Từ ấy » viết vào tháng 7 năm 1938,Tố
Hữu đã trở thành một chiến sĩ cách mạng và bước vào đời thơ cách mạng. Đó là cái thời điểm nhà thơ tiếp
nhận một lý tưởng sống, một quan niệm sống, cái lí tưởng đã thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhà thơ, để có lời
tâm nguyện chân thành sống theo lí tưởng mới- lí tưởng cách mạng.
- Bài thơ là niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn tác giả khi bắt gặp lí tưởng cộng sản và lời tâm niệm
chân thành của người thanh niên mới giác ngộ lí tưởng cộng sản nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ.
- Bài thơ tiêu biểu cho bút pháp thơ giầu chất lãng mạn thuở ban đầu của Tố Hữu.
II. Phân tích
1. Khổ 1 : Niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản

--------------------------------------------------------------- 61 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Trong đời mỗi người đều có thể có những phút giây bừng sáng, những sự đổi thay kì diệu để lại dấu ấn
suốt đời. Đó là phút giây tình yêu chợt đến, là lúc chân lí khoa học loé sáng, là thời điểm giác ngộ một lí tưởng
nhân sinh, một lẽ sống. Đó là lúc người ta đổi thay toàn bộ cách cảm nhận về cuộc đời. Với Tố Hữu, đó là lúc
ông tiếp nhận lí tưởng cộng sản và lí tưởng ấy đã bừng sáng trong ông, rọi sáng cho ông suốt đời :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
.....
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Đọc bốn câu thơ mà tưởng như tâm hồn Tố Hữu đang bừng sáng lên mạnh mẽ trong cái giây phút
thiêng liêng giác ngộ lí tưởng cách mạng, Mặt trời chói chang, nắng hạ bừng sáng, vườn cây ngát hương và
tiếng chim rộn rã... Có đủ âm thanh, sắc màu, hương vị.... mà cái gì cũng đẹp, cũng ngây ngất say mê, bởi tất
cả đều bừng sáng trong tâm hồn thi sĩ. Đây là sự bừng sáng của chân lí cách mạng đối với một con người, một
đời người. Sự bừng sáng ấy vừa đột ngột vừa chói chang, lại tươi vui, đằm thắm và dạt dào sức sống. Nó được
biểu thị bằng hai hình ảnh « mặt trời chân lí », « vườn hoa lá » hài hoà thống nhất với nhau và kết tụ lại trong
bốn từ làm bừng sáng cả khổ thơ : « bừng », « chói », « đậm », « rộn ». Có « mặt trời chân lí » chói chang
nhưng lại có « vườn hoa lá » xanh mát ; có « bừng », « chói » của ánh sáng lí tưởng thì lại có « đậm » mùi
hương và « rộn » tiếng chim của cuộc sống cách mạng. Lí tưởng đã hoà vào cuộc sống, đã thành cuộc sống
cách mạng trong tâm hồn thi sĩ.
Câu thơ hay nhất, bừng sáng nhất là : Mặt trời chân lí chói qua tim
Nhà thơ đã dùng cách nói mới du nhập từ phương tây : «Mặt trời chân lí » là một ẩn dụ có cấu tạo mới khiến
cho lí tưởng cách mạng giống như mặt trời toả sáng rực rỡ. Dùng hình ảnh mặt trời để biểu trưng cho cách
mạng thật không gì đúng và đẹp bằng. Chính Bác Hồ đã nói : « những sai lầm đều như bóng mây qua, còn
chân lí của chủ nghĩa Mác Lê Nin thì như mặt trời, sáng mãi ». Tố Hữu, Lê Anh Xuân, Viễn Phương.... đều
dùng mặt trời để biểu trưng cho cách mạng trong những bài thơ sau này. Nhưng « mặt trời chân lí » là hình
ảnh đầu tiên Tố Hữu đã dùng trong bài thơ « Từ ấy » để ghi lại cái giây phút bừng sáng của lí tưởng trong tâm
hồn ông. « Mặt trời chân lí » ấy đã « chói qua tim » (chứ không phải chói trong tim) bởi mặt trời như chiếu
xuyên qua tim làm tâm hồn nhà thơ bừng sáng.
Nếu hai câu thơ trên chói chang rực rỡ ánh sáng của lí tưởng thì hai câu dưới lại xanh mát tươi vui hương sắc
của cuộc sống. Hoa lá, hương thơm, tiếng chim là trạng thái đầy sinh khí của thiên nhiên trong một khu vườn,
nó thể hiện tâm trạng say sưa, náo nức, rộn ràng của một tâm hồn đang vui sướng tràn ngập khi bắt gặp lí
tưởng cách mạng :
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Nhà thơ đã cảm nhận lí tưởng với trái tim ngây ngất của tình yêu, đây cũng là một đặc điểm của hồn
thơ Tố Hữu, đặc biệt trong thuở ban đầu với bút pháp thơ giàu chất lãng mạn.
2. Hai khổ cuối : Lời tâm nguyện chân thành của người thanh niên mới giác ngộ lí tưởng.
Lí tưởng như ngọn lửa thắp sáng tâm hồn nhà thơ, khiến tâm hồn ông thêm rộng mở. Tố Hữu tự nguyện
đến với cuộc sống cách mạng, với quần chúng lao khổ như một lẽ tự nhiên :
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
....
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Nhà thơ đến với « mọi người », với « trăm nơi », « với bao hồn khổ », tạo thành một khối đời liên kết
với nhau mạnh mẽ. Ông không còn cảm thấy cô đơn, riêng lẻ, yếu đuối nữa. Đó là điểm khác biệt với các thi
nhân trong « thơ mới » lúc bấy giờ, chưa tìm được hướng đi cho mình, nên họ thường bơ vơ, lạc lõng, bi quan
giữa cuộc đời. Bốn câu thơ tuôn chảy từ một trái tim tự nguyện chân thành, ngỡ như không hề có chút vướng
bận, băn khoăn. Bởi lòng nhà thơ đã thuộc về lòng quần chúng cách mạng, hồn nhà thơ đã nằm trong hồn
những người lao khổ để « gần gũi nhau thêm mạnh khối đời ». Câu thơ giống như lời nói thường ngày, mộc
mạc biết bao, mà cũng đằm thắm tính giai cấp biết mấy.
Khi đã « buộc lòng tôi với mọi người » thì cũng là lúc nhà thơ đã thực sự gắn bó với quần chúng lao khổ. Và
ông đã tự hào nói lên điều đó với tình cảm thiết tha của mình :
Tôi đã là con của vạn nhà
....
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Vẫn là gắn bó với gia đình nhân loại rộng lớn : « vạn nhà », « vạn kiếp », « vạn đầu em nhỏ »... nhưng
nhà thơ nghiêng về những kiếp người bất hạnh : những « kiếp phôi pha », những trẻ em « không áo cơm cù
bất cù bơ ». Ông mở lòng đón nhận những kiếp người đau khổ vào trong gia đình bao la của mình. « Tôi đã
là » nghĩa là dứt khoát rồi, đã thực sự hoà mình vào quần chúng rồi, đã trở thành ruoot thịt của họ rồi. Nhưng

--------------------------------------------------------------- 62 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nếu để ý thì sẽ thấy trong khổ thơ 4 câu này, nhà thơ đã dành hai câu cho các em nhỏ ( các đối tượng khác chỉ
1 câu). Phải chăng đó là những con người mà ông quan tâm, yêu thương nhất ? Như ta đã thấy trong phần đầu
« máu lửa » của tập « Từ ấy »,ông đã viết liền một mạch đến 5 bài thơ rất thương tâm về những em bé bất
hạnh đang sống bơ vơ, trôi nổi giữa cuộc đời ? Và 3 chấm lửng kết thúc câu thơ cuối gợi nhiều liên tưởng về
những em bé bất hạnh đó, khi nhà thơ đã mở rộng cánh tay thương yêu đón các em vào lòng mình.
- Nghệ thuật: Hai khổ thơ có 8 câu thơ, nhưng chỉ có hai kiểu câu và tập trung nói thiết tha một ý chính. Việc
lặp đi lặp lại một kiểu câu, một loạt từ ngữ như vậy đã có một hiệu quả nghệ thuật mạnh mẽ. Nó cho thấy đó
là lời tâm niệm thiết tha, sự khẳng định dứt khoát, là nhiệt tình hăm hở của người chiến sĩ trẻ nguyện tìm về
chỗ đứng của mình ở phía những người khốn khổ », tha thiết được trở thành thành viên ruột thịt của cái đại
gia đình to lớn ấy.
Chưa thể nói ở hai khổ thơ này, ngòi bút thơ của Tố Hữu đã đạt tới độ tinh luyện. Lời thơ còn dàn trải,
có những từ ngữ còn sách vở, khuôn sáo (hồn khổ, khối đời, kiếp phôi pha) ; song với cảm xúc chân thành,
giọng thơ sôi nổi, thiết tha, liền mạch, những câu thơ ấy vẫn đầy sức truyền cảm.
« Từ ấy » có thể xem như một cột mốc trong đời thơ và đời cách mạng của Tố Hữu. Bài thơ « không
chỉ » là kỉ niệm về một thời điểm mở đầu, là tâm nguyện gắn bó với nhân dân lao khổ, mà còn là khởi đầu của
thế giới thơ Tố Hữu. Ở đây đã xuất hiện những hình ảnh thơ quen thuộc sau này của ông : tâm hồn, là mảnh
vườn đầy nhành non lá mới, nắng chói, hoa thơm, chim hót, những hình ảnh ấy sẽ còn xuất hiện sau này trong
nhiều bài khác nữa của nhà thơ. Và phải chăng những hình ảnh đầy sức sống này, cùng với ngọn lửa lí tưởng
cháy sáng tỏng tim, đã làm nên chất lãng mạn say người của bài thơ : đó là lãng mạn cách mạng trong thơ Tố
Hữu.
==============================

BÀI 2 : KHI CON TU HÚ

I. Giới thiệu
Bài thơ « khi con tu hú » được Tố Hữu sáng tác tháng 7/1939, sau bài thơ «Từ ấy » vừa đúng một
năm. Khoảng cách thời gian giữa hai bài thơ chưa dài, nhưng hoàn cảnh sáng tác thì đã đổi khác. « Từ ấy »
được viết khi Tố Hữu còn tự do, sống giữa cuộc sống cách mạng, say mê với lí tưởng Đảng ; còn « khi con tu
hú » lại được viết ra khi nhà thơ đã bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế) giữa bốn bức tường ngột ngạt của
nhà tù đế quốc. Cảm hứng của thi nhân là niềm khao khát tự do cùng với khát vọng hành động, tháo cũi, sổ
lồng.
Nhưng tất cả đều được bắt đầu từ một tiếng chim tu hú vọng vào nhà lao như nhan đề bài thơ đã ghi :
« Khi con tu hú ». Người đọc hiểu đây là khi con tu hú kêu... và tiếng kêu ấy đã gọi dậy trong lòng người
chiến sĩ trẻ bị giam trong tù niềm khao khát tự do cháy bỏng, giục giã anh hành động. Cho nên, cả bài thơ, chỉ
có hai câu nói về tu hú kêu (câu đầu và câu cuối) mà sao tiếng kêu ấy vang suốt cả bài thơ, ra ngoài bài thơ,
vang mãi đến tận hồm nay, khi ta đọc những dòng này của ông. Người chiến sĩ trẻ bị giam trong tù, bưng bít
giữa bốn bức tường kín mít, chỉ còn có âm thanh là mối dây liên hệ với bên ngoài : khi là tiếng chim kêu,
tiếng dơi chiều đập cánh, khi là tiếng guốc đi về dưới đường xa hay tiếng rao đêm lảnh lót... Những âm thanh
đó chinh là cuộc sống bên ngoài đã ùa vào thơ Tố Hữu trong những ngày bị xiềng xích. Tự nhiên, âm thanh
bên ngoài trở thành biểu tượng của thế giới tự do. Và ở bài thơ này là tiếng chim tu hú kêu báo hiệu mùa hè.
Cả bài thơ được xây dựng trên hình ảnh âm thanh đó. Tiếng chim tu hú là điểm khởi đầu, điểm kết thúc, nó
chính là « cái tứ » của bài thơ trong tù của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi.
II. Phân tích :
1. Cảnh thiên nhiên tươi vui, rộn ràng đầy quyến rũ đối với người chiến sĩ trong tù
Bài thơ mở đầu bằng tiếng kêu chim tu hú gọi hè :
Khi con tu hú gọi bầy...
Câu thơ không nhằm mô tả tiếng chim kêu mà nhấn mạnh cái thời điểm tu hú gọi bầy : khi tu hú gọi
bầy thì sẽ ra sao, sẽ xuất hiện những điều gi ?... Âm thanh không chỉ là tiếng kêu. Trong âm thanh thường có
cả một thế giới hoài niệm gắn liền với âm thanh ấy. Một tiếng trống trường ngày khai giảng, một khúc nhạc
ve ran khi vào hè đủ cho ta nhớ lại những ngày mực tím, áo trắng một thuở học trò náo nức đến trường.... Âm
thanh ấy lại càng cồn cào, da diết biết bao khi nó đến với những người bị cách biệt với cuộc sống đồng loại :
những chiến sĩ cách mạng bị giam trong tù. Ta hiểu vì sao, chỉ một tiếng chim tu hú gọi bầy cất lên đã làm
hiện ra trong tâm trí Tố Hữu một thế giới đồng nội thân thuộc và quyến rũ đến thế :
Khi con tu hú gọi bầy
.....
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không

--------------------------------------------------------------- 63 ------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Một bức tranh đồng nội tuyệt đẹp vào vụ tháng năm, tháng sáu :lúa chín, trái ngọt, ngô vàng, ve ngân
dậy vườn, nắng đào đầy sân, trời xanh cao rộng và sáo diều bay lượn... Có đủ âm thanh, sắc màu, cái gì cũng
đẹp, cũng tươi vui, đầy sức sống, và tất cả đều hài hoà với nhau trong một không gian cao rộng mà êm ả của
làng quê. Nếu « thi trung hữu hoạ » (trong thơ có vẽ) thì đây chính là một bức hoạ bằng thơ. Nhưng khó có
thể hình dung đây là cảnh tượng có thật được nhìn bằng mắt, bởi tác giả đang ở trong tù. Càng cảm thấy ngột
ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia mới tưng bừng rộng rãi,
mới quyến rũ biết bao ! Với niềm khao khát tự do, thèm khát sự sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy
động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín hiệu của thế giới sự sống bên ngoài. Vì vậy đây chỉ có thể là
bức tranh của hoài niệm được gọi dậy trong lòng nhà thơ từ một tiếng chim tu hú gọi bầy. Hoài niệm sống
dậy bao giờ cũng lung linh đẹp đẽ. Đó là nhờ sức mạnh của liên tưởng và tưởng tượng. Điều này chỉ có thể
có được khi tâm hồn nhà thơ đầy ắp ấn tượng về thôn dã. Tố Hữu là một người như thế nên trong đoạn thơ
này, ông đã đem đến cho ta một điều kì diệu : sự liên tưởng tạo thành một phản ứng dây chuyền trong các câu
thơ. Đầu tiên là tiếng chim tu hú gọi mùa hè. Tiếng chim ấy đánh thức cả một mùa hè thôn dã sống dậy trong
kí ức ông và chảy ra theo ngòi bút thơ, để cho câu chữ vẫy gọi nhau, hình ảnh nối tiếp nhau mà đan dệt thành
bức tranh đồng nội đầy quyến rũ. Thực ra, không phải câu chữ, hình ảnh, mà chính là kí ức, hoài niệm gọi
nhau theo một phản ứng dây chuyền trong các câu thơ : tiếng chim gọi bầy gợi lúa đang chín, trái cây chín
dần- biết bao là hương vị của đồng quê. Trái cây ngọt dần lại gợi đến những khu vườn râm mà ở đấy dậy lên
tiếng ve ngân- khúc nhạc xao xuyến của mùa hè. Cái tiếng ve ngân ấy báo hiệu mùa hè đã đến, ấy là lúc bắp
rây vàng hạt đang phơi đầy sân nắng đào- cái sắc mầu quê kiểng sao mà rực rỡ chói chang ! Nắng đào là nắng
hồng rực rỡ lại gợi nhớ đến bầu trời xanh trong cao rộng, và một bầu trời êm ả như thế ở làng quê thì không
thể vắng bóng sáo diều bay lượn trên không. Từ một tiếng chim mà gợi nhớ đến bao điều, đến bao âm thanh
vui tươi, bao sắc màu đẹp đẽ của làng quê, của cuộc sống bên ngoài nhà tù như đang lên hương ngây ngất
trong lòng nhà thơ. Cuộc sống ấy được hồi tưởng lại đẹp bao nhiêu thì cũng có nghĩa là ông đang khao khát
nó bấy nhiêu- và ta hiểu đây là niềm khao khát tự do của người ciến sĩ trẻ đang bị giam trong tù. Có phải vì
thế mà đoạn thơ đã chốt lại, nhưng chính là để mở ra một không gian cao rộng, tự do :
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Hình ảnh « đôi con diều sáo lộn nhào từng không » thật thoải mái, tự do và tâm hồn nhà thơ như cùng
đang bay lượn trong cái không gian cao rộng, tự do ấy.
2. Tâm trạng bực bội, u uất của người chiến sĩ trẻ trong phong giam ngột ngạt.
Nếu 6 câu trên là cảnh tưởng tượng qua hoài niệm về cuộc sống tươi vui, rộn ràng ngoài nhà tù, thì
bốn câu dưới là tình, là lời phát biểu trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong cảnh thực
ngột ngạt trong phòng giam của người chiến sĩ trẻ. Cảnh có sự đối lập nhưng tâm trạng thì vẫn là sự nối tiếp
của một con người thống nhất. Và tất cả đều hiện ra trên nền âm thanh củ tiếng tu hú kêu. Tu hú kêu báo hiệu
mùa hè đã đến. Nhưng mùa hè đến đã gọi dậy trong lòng người chiến sĩ những đièu gì khi ông đang đối diện
với cảnh sống ngột ngạt ấy ?
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Tố Hữu thì thầm với mùa hè, đây cũng là một hình ảnh mới trong thơ, bởi một mình giữa bốn bức
tường ngột ngạt, ông còn biết tâm sự với ai ? Thì thầm với mùa hè cũng như thì thầm với chính mình, và đây
là tiếng lòng của nhà thơ cách mạng trong nhà tù đế quốc. Mùa hè, như nhà thơ đã hồi tưởng ở đoạn trên là
mùa của tự do, của nồng nàn, của đam mê, của sự sống. Nhưng trong nhà tù thì làm gì có được mùa hè ấy ?
Câu thơ thể hiện khát vọng hành động tháo cũi, xổ lồng của người chiến sĩ. « Mà chân muốn đạp tan phòng
hè ôi ! »
Cùng với ý nghĩ thật táo tợn, dữ dội là cách ngắt nhịp ở hai câu 8,9 (nhịp 6/2 và nhịp 3/3, gợi cảm giác
nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường như cảm xúc bực bội không nén được cứ trào
ra : « Hè ôi ! », « ngột làm sao, chết uất thôi ». Tất cả đều thể hiện tâm trạng ngột ngạt cao độ không thể nào
chịu được của nhà tù. Chính vì thế mà cái tiếng chim tu hú trong câu dưới mới thật da diết, nhức nhối. Trong
này, nhà tù ngột ngat, ngoài kia, tiếng chim cứ dóng dả, thiết tha như nhắn gửi, như giục giã người chiến sĩ.
Sự tương phản ấy bộc lộ niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, đễn mãnh liệt, đến đỉnh điểm. Con chim cứ kêu
có nghĩa là tiếng gọi tự do không bao giờ thôi, ý chí vượt ngục luôn thường trực.
Bài thơ đã kết thúc trong một tâm trạng nhức nhối, bồn chồn, không thể khoanh tay, ngồi yên để nung
nấu ý chí hành động. Và tháng 3/1942, Tố Hữu đã vượt ngục về với cách mạng, với nhân dân. Con chim cách
mạng ấy đã cất cánh tung bay trên bầu trời tự do, nhưng thực ra nó đã được giục giã từ tiếng chim tu hú kêu
gần ba năm về trước.
=======================

--------------------------------------------------------------- 64 ------------------------------------------------------

You might also like