Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT

BÀI BÁO CÁO MÔN LUẬT SO SÁNH

Nhóm học phần: 04

Mã học phần: KL105

SO SÁNH VỀ HÌNH THỨC VÀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA


HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỸ

Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện

TỐNG NGỌC NHƯ NHÓM 03

Cần Thơ, tháng 11 năm 2022

Cần Thơ, tháng 10 năm 2021

Cần Thơ, tháng 10 năm 2022

Cần Thơ, tháng 10 năm 2021

Cần Thơ, tháng 10 năm 2022

Cần Thơ, tháng 10 năm 2021


Cần Thơ, tháng 10 năm 2021

So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

MỤC LỤC
1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Mỹ..................................1
1.1 Khái niệm hợp đồng theo pháp luật việt nam.........................................................1
1.2 Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Mỹ.................................................................1
2. Hình thức hợp đồng theo pháp luật việt Nam và pháp luật Mỹ...................................2
2.1 khái quát chung về hình thức hợp đồng..................................................................2
2.2 Sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật Mỹ........................................2
2.3 Nội dung của hợp đồng..........................................................................................3
2.4 So sánh hình thức hợp đồng theo pháp luật việt Nam và pháp luật Mỹ............................4
3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.....................................5
3.1 Điều kiện về chủ thể...............................................................................................5
3.2 Điều kiện về sự tự nguyện của người tham gia hợp đồng.......................................6
3.3 Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng.................................................7
3.4 Điều kiện về hình thức...........................................................................................7
4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Mỹ...............................................8
4.1 Thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng (Đề nghị và chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng).......................................................................................................8
4.2 Năng lực chủ thể giao kết hợp đồng.......................................................................9
4.2.1 Tuổi chịu trách nhiệm pháp lý và vấn đề năng lực của người chưa thành niên. . .9
4.2.2 Hợp đồng giao kết với người hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự............9
4.3 Thống nhất ý chí giữa các bên................................................................................9
4.4 Nghĩa vụ đối ứng....................................................................................................9
4.5 Tính hợp pháp của hợp đồng................................................................................10
4.6 Điều kiện về hình thức.........................................................................................10
5. Điểm tương đồng và khác biệt về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam và Mỹ............................................................................................................11
6. Kiến nghị rút ra từ việc so sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
theo pháp luật Việt Nam và Mỹ.....................................................................................14

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

6.1 Kiến nghị về khái niệm hợp đồng trong BLDS 2015...........................................14
6.2 Kiến nghị về hình thức của hợp đồng của BLDS và hiệu lực của hợp đồng khi vi
phạm về hình thức......................................................................................................14
6.3 Kiến nghị về thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng dân sự......................14

STT TÊN MSSV MỨC ĐỘ ĐÓNG GÓP

1 Bùi Thị Hiếu Thảo

2 Đặng Phi Long

3 Võ Thị Ngọc Thuý

4 Danh Thị Anh Thư

5 Lê Trương Huỳnh Trân

6.4 Kiến nghị về độ tuổi tham gia giao kết hợp đồng trong một số lĩnh vực nhằm bảo
về lợi ích công cộng...................................................................................................15
Kết luận..................................................................................................................... 15

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

DANH SÁCH THÀNH VIÊN

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

SO SÁNH VỀ HÌNH THỨC VÀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỸ
1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Mỹ
1.1 Khái niệm hợp đồng theo pháp luật việt nam
Pháp luật hợp đồng Việt Nam trải qua các thời kỳ hình thành và phát triển với các
quan điểm và khái niệm khác nhau về hợp đồng. Khái niệm hợp đồng theo Bộ luật dân sự
năm 1995, được quy định tại Điều 395 theo đó: "Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Khái niệm này
vẫn được giữ nguyên theo Bộ luật đến sự năm 2005, nhưng mang một ý nghĩa khái quát
cho tất cả các loại hợp đồng trong lĩnh vực đời sống sinh hoạt kinh doanh thương mại và
lao động. Theo đó khái niệm "hợp đồng kinh tế" không còn tồn tại nữa. Đến Bộ luật Dân
sự 2015 ra đời lại tiếp tục kế thừa Khái niệm hợp đồng theo pháp luật hiện hành đã thể
hiện đầy đủ hơn bản chất của hợp đồng, để là sự thoả thuận giữa các bên mà sự thỏa thuận
đó làm phát sinh quan hệ giữa các bên trong hợp đồng.
1.2 Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Mỹ
Thuật ngữ hợp đồng (contnet) được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau theo pháp luật
Hoa Kỳ thể hiện nguồn gốc thông luật (conmom law) được du nhập từ nước Anh. Nhân
chung, hợp đồng là một hoặc nhiều lời hứa đó luật pháp quy định thừa nhận như là những
nghĩa vụ, nếu vi phạm thì pháp luật về có những chế tài nhất định. Bản chất của hợp đồng
là sự thoả thuận hay lời hứa có hiệu lực bắt buộc. Sự thoả thuận hay khi hứa có thể làm
hoặc không làm một hoặc một số hành vi nhất định. Tuy nhiên, không phải tất cả các lời
hứa và sự thỏa thuận đều là hợp đồng. Lời hứa hay mục thỏa thuận là hợp đồng chi khi
pháp luật chấp nhận có hiệu lực.
Như vậy, về bản chất khái niệm hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ về cơ bản không khác
so với khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam khi thừa nhận sự thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng và quy định chỉ khi những thoả thuận đó có hiệu lực bắt buộc thì mới
coi đó là hợp đồng. Nhưng về thuật ngữ thì pháp luật Việt Nam có dùng cụm từ "hợp
đồng dân sự", còn pháp luật Hoa Kỳ cũng như nhiều nước khác trên thế giới đồng thuật
ngữ “hợp đồng" (contract). Thêm vào đó, hợp đồng của Hoa Kỳ mang đặc điểm chung
của hệ thống luật thông lệ, trong khi quan điểm hợp đồng của luật Việt Nam mang đặc
điểm của hệ thống dân luật, nên trong một số trường hợp, theo pháp luật nước này là hợp
đồng mà pháp luật nước kia không được coi là hợp đồng.

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam hay pháp luật Mỹ đều thừa nhận sự thỏa thuận chính
là yếu tố cơ bản của hợp đồng qua đó thể hiện ý chí của các bên trong hợp đồng. Thoả
thuận không đồng nghĩa với hợp đồng nhưng hợp đồng thì đương nhiên là thỏa thuận vì
hợp đồng bao hàm sự thoả thuận. Sự thoả thuận chi được coi là hợp đồng nếu nó có đầy
đủ những yếu tố cơ bản của hợp đồng,
2. Hình thức hợp đồng theo pháp luật việt Nam và pháp luật Mỹ
2.1 khái quát chung về hình thức hợp đồng
Hình thức hợp đồng là sự thể hiện ra bên ngoài sự thoả thuận của các bên trong việc
làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Hình thức được thể hiện dưới
dạng lời nói (hay còn gọi là hợp đồng miệng), hình thức bằng văn bản và hình thức được
thể hiện bằng hành vi cụ thể.
2.2 Sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật Mỹ
Nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ là khi pháp luật không
quy định hợp đồng phải giao kết bằng một hình thức nhất định thì hợp đồng có thể được
giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ quy định hình thức văn bản được áp dụng với
hợp đồng liên quan đến bất động sản, hoặc do tính chất đặc thù của một số loại hợp đồng
trong dân sự, thương mại.

Điều 401, Bộ luật dân sự 2015 đã quy định:

“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng
một hình thức nhất định.2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được
thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng kí hoặc phải xin phép
thì phải tuân theo các quy định đó”.

Pháp luật Hoa Kỳ: Hợp đồng có thể tồn tại dưới hình thức văn bản, bằng lời nói hoặc
thông qua hành vi của các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, hợp đồng
phải tồn tại bằng văn bản nếu không sẽ không được Tòa án thừa nhận hiệu lực pháp lý:
(1) Hợp đồng liên quan đến đất đai; (2) Hợp đồng có thời hạn thực hiện từ một năm trở
lên kể từ thời điểm được xác lập; (3) Nghĩa vụ bảo đảm hoặc nghĩa vụ thứ cấp, là nghĩa
vụ phái sinh của nghĩa vụ cơ sở, như: nghĩa vụ trả nợ thay hoặc thực hiện nghĩa vụ thay

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

cho người khác nếu người này không trả được nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ trừ trường hợp
người bảo đảm xác lập nghĩa vụ thứ cấp để bảo đảm cho lợi ích riêng hoặc cam kết của
người quản lý di sản thừa kế của người chết trả nợ thay cho người chết; (4) Nghĩa vụ
được xác lập khi kết hôn bao gồm cả hợp đồng xác định quyền sở hữu của vợ chồng trước
khi kết hôn; (5) Hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị từ 500 USD trở lên (Điều 2-201
của UCC), hợp đồng thuê hàng hóa có tổng số tiền thanh toán trừ khoản thanh toán cho
quyền chọn gia hạn hợp đồng hoặc mua từ 1.000 USD trở lên (Điều 2A-201 của UCC).

Hậu quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức là
Tòa án không thừa nhận hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Song, Tòa án cũng đưa ra các
ngoại lệ và khi đó, hiệu lực của hợp đồng vẫn được thừa nhận, các trường hợp đó là: (1)
Khi các bên đã thực hiện một phần nghĩa vụ; (2) Nếu bên có nghĩa vụ khai nhận trong quá
trình tố tụng về việc có tồn tại nghĩa vụ thì hợp đồng bằng lời nói cũng vẫn được thừa
nhận; (3) Trong trường hợp áp dụng học thuyết cam kết không thể từ bỏ. Bên cạnh đó,
UCC quy định hợp đồng mua bán hàng hóa theo đặt hàng riêng của khách hàng và hàng
hóa này không phù hợp để bán lại cho người khác trong điều kiện thương mại bình
thường của người bán, hợp đồng giữa hai thương nhân được xác nhận trong một bản ghi
nhớ vẫn có khả năng được công nhận hiệu lực mặc dù tồn tại bằng lời nói.

Luật hợp đồng Hoa Kỳ chấp nhận hợp đồng chỉ cần có chữ ký của một bên có nghĩa vụ
thì hợp đồng đó vẫn có giá trị pháp lý. Còn pháp luật Việt Nam quy định rõ hợp đồng
bằng văn bản phải có chữ ký của hai bên mới được coi là đã giao kết.
Đối với hợp đồng điện tử, pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều thừa nhận hình
thức pháp lý của hợp đồng này có giá trị như hợp đồng bằng văn bản, do vậy, ngoài
những quy định riêng biệt do tính đặc thù của loại hợp đồng điện tử thì các quy định khác
đối với hợp đồng văn bản truyền thống cũng được áp dụng đối với hợp đồng điện tử.
Về giá trị pháp lý của hình thức hợp đồng. Pháp luật Việt Nam quy định trong các
trường hợp hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nên nếu các bên
không tuân thủ hình thức về hợp đồng thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu. Pháp luật Hoa Kỳ cũng
thừa nhận hình thức văn bản của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong
một số trường hợp nhưng cách xử lý hợp đồng vô hiệu khác với pháp luật Việt Nam.
2.3 Nội dung của hợp đồng
Tương tự như pháp luật Việt Nam, pháp luật Hoa Kỳ cũng không quy định cụ thể nội
dung bắt buộc phải có trong hợp đồng, do đó các bên được tự do thoả thuận những cũng
3

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

phải đảm bảo tính hợp pháp. Nhưng hệ thống luật thông lệ cũng như pháp luật Hoa Kỳ vì
ít những điều khoản tuỳ nghi, nên nội dung của hợp đồng phụ thuộc vào sự thoả thuận của
các bên khi giao kết hợp đồng. Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam, nếu các bên không
thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ ràng thì những điều khoản tương ứng được quy định
trong luật thực định được áp dụng. Quy định về hợp đồng mẫu, pháp luật hai nước có một
số điểm quy định tương đối giống nhau nhằm hạn chế quyền củan bên chủ động đưa ra
điều khoản giao kết bất lợi cho bên kia do vị thế bất bình đẳng giữa các bên. Trong việc
giải thích, xác định nội dung các điều khoản của hợp đồng, về nguyên tắc chung, pháp
luật hai nước dựa vào ý chí chung của hai bên để giải thích hợp đồng
2.4 So sánh hình thức hợp đồng theo pháp luật việt Nam và pháp luật Mỹ
Ở Hoa Kỳ, pháp luật không có quy định chung về hình thức của hợp đồng. Có nghĩa là
hoàn toàn không có yêu cầu hợp đồng phải được lập thành văn bản và có chữ kí của các
bên để hợp đồng đó có hiệu lực pháp lí. Về nguyên tắc, kể cả những hợp đồng phức tạp
hoặc có giá trị lớn đều có thể được kí bằng lời nói và đều phát sinh hiệu lực ràng buộc các
bên, nếu có bằng chứng về sự tồn tại của thoả thuận và những điều khoản của hợp đồng
này. Tuy nhiên, một số bang ban hành luật thành văn, trong đó yêu cầu một số loại hợp
đồng bắt buộc phải lập thành văn bản. Các đạo luật này đều theo khuôn mẫu của một đạo
luật ra đời từ thế kỉ XVII ở nước Anh mang tên Đạo luật chống gian lận.(11) Khi áp dụng
đạo luật này, một thoả thuận nếu không kí bằng văn bản thì không có hiệu lực thi hành,
cho dù nó đáp ứng đầy đủ những điều kiện của một hợp đồng như có đề nghị giao kết hợp
đồng, chấp nhận đề nghị, nghĩa vụ đối ứng… và có đến hàng tá nhân chứng sẵn sàng xác
nhận là các bên đã đạt được thoả thuận. Nhìn chung, các loại thoả thuận sau đây thuộc
phạm vi điều chỉnh của đạo luật này, tức là bắt buộc phải lập thành văn bản: 1) Thoả
thuận mua bán hàng hoá có giá trị từ 500 USD trở lên hoặc tài sản vô hình có giá trị trên
5.000 USD; 2) Thoả thuận mua bán đất đai; 3) Thoả thuận không được thực hiện đầy đủ
trong vòng 01 năm kể từ ngày xác lập; 4) Thoả thuận bảo lãnh nợ thay cho người khác; 5)
Thoả thuận về của hồi môn hoặc cấp dưỡng cho con; 6) Thoả thuận cho thuê tài sản với
giá trị hợp đồng từ 1.000 USD trở lên... Như vậy, theo pháp luật Hoa Kỳ, hình thức hợp
đồng do các bên tự định đoạt. Các quy định về hình thức văn bản của hợp đồng chỉ bảo vệ
những lợi ích công cần thiết, tránh các hiện tượng gian dối, lừa đảo.(12) Tòa án chỉ can
thiệp buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện cam kết của mình, nếu các quy định về hình
thức đã được tuân thủ. Pháp luật Hoa Kỳ còn quy định những trường hợp ngoại lệ khi hợp
đồng không tuân thủ hình thức văn bản nhưng vẫn có hiệu lực pháp lí.
Ở Việt Nam, tại Điều 119, BDS 2015 hình thức của hợp đồng cũng là hình thức của
giao dịch dân sự:
4

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo
quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công
chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”
Như vậy, về cơ bản, cả pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam đều cho phép giao kết hợp đồng
dưới bất cứ hình thức nào, nếu không có yêu cầu luật định về hình thức văn bản. Sự khác
biệt là ở chỗ: Thứ nhất, Hoa Kỳ khái quát hoá các trường hợp bắt buộc phải lập văn bản
hợp đồng, còn Việt Nam chỉ quy định chung chung là pháp luật sẽ quy định loại hợp đồng
phải được giao kết bằng hình thức nhất định. Thứ hai, nếu như ở Hoa Kỳ, các loại hợp
đồng bắt buộc phải kí bằng văn bản được liệt kê cụ thể ở một văn bản pháp luật của bang
nhằm chống các hành vi gian dối thì ở Việt Nam, hình thức văn bản của hợp đồng là do
các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định trong từng lĩnh vực cụ thể. Vì thế, ở Việt
Nam khó có thể xác định một cách tổng quát những loại hợp đồng nào phải kí bằng văn
bản, với mỗi loại hợp đồng cần phải tìm quy định trong văn bản pháp luật chuyên ngành.
Thứ ba, ở Hoa Kỳ, vi phạm về hình thức khiến hợp đồng không thể thực thi được
(unenforceable), tức là toà án sẽ không can thiệp buộc thực thi hợp đồng; còn ở Việt Nam,
vi phạm hình thức có thể dẫn đến hậu quả làm hợp đồng vô hiệu nếu pháp luật có quy
định. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng thời gian qua cho thấy toà án đã tuyên
bố nhiều hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm về hình thức (ví dụ: hợp đồng mua bán nhà
không có công chứng, chứng thực hợp lệ).
3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
3.1 Điều kiện về chủ thể
Chủ thể của giao dịch dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Dù là cá nhân hay pháp
nhân đều cần có năng lực hành vi dân sự. Đối với cá nhân thì năng lực hành vi là năng lực
thể hiện ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ. Cá nhân có thể tự mình xác lập
giao dịch, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Đồng thời cá nhân có thể hoàn toàn tự
chịu trách nhiệm trong giao dịch dân sự đó. Đối với năng lực hành vi dân sự của cá nhân
được quy định từ Điều 16 đến Điều 24 bộ luật dân sự năm 2015. Đối với chủ thể là Pháp
nhân thì khi pháp nhân tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ
(đại diện theo pháp luật, theo uỷ quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân. Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch
dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Người đại diện xác lập giao dịch dân
5

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó
được điều lệ hoặc pháp luật quy định.
3.2 Điều kiện về sự tự nguyện của người tham gia hợp đồng
Người tham gia giao dịch hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện là hành vi
chủ thể tham gia giao dịch nắm được hành vi của mình và tự chủ về hành vi đấy, không
có sự cưỡng ép hay ép buộc. Một số trường hợp giao dịch dân sự xác lập không có sự tự
nguyện sẽ không được pháp luật công nhận và bị coi là vô hiệu. Đó là các trường hợp vô
hiệu do giả tạo; do nhầm lẫn; do bị lừa dối, bị đe doạ, cưỡng ép; do xác lập tại thời điểm
mà không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu
tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm trường hợp sau đây:
Hợp đồng giả tạo (Điều 124):
Là hợp đồng được lập ra nhưng không phản ánh đúng bản chất của quan hệ đích thực
giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác lập hợp đồng để che đậy một giao dịch khác hay
một hành vi trái pháp luật của một hoặc các bên.
Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn (Điều 126):
Đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối tượng hoặc các nội
dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý nguyện đích thực của mình. Ví dụ:
người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi
trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một
số loại rủi ro sẽ không được bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô
hiệu do nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng.
Hợp đồng xác lập do bị lừa dối (Điều 127):
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm
cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch
dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất
lợi cho họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ.
Hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa (Điều 127):
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia
buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy
6

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình. Sự đe dọa
thường được hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực
vật chất hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng
kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
Xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình (Điều
128):
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Một người bình thường, vào thời điểm giao kết hợp đồng,
đã ở trong tình trạng bị bệnh tâm thần, bệnh thần kinh tới mức không nhận thức, điều
khiển được hành vi của mình hoặc đang sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích
khác dẫn đến việc mất khả năng nhận thức tạm thời… thì được xem là không tự nguyện
xác lập, giao kết hợp đồng.
Tự nguyện giao kết hợp đồng là điều kiện cơ bản để các bên xác lập quan hệ hợp đồng
vì bản chất của hợp đồng vốn là sự thống nhất ý chí của các bên thông qua sự thỏa thuận
tự do và tự nguyện. Do vậy, hợp đồng xác lập thiếu yếu tố tự nguyện thì đương nhiên vô
hiệu (nếu được xác lập do giả tạo) hoặc có thể bị vô hiệu (trong các trường hợp còn lại).
3.3 Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng
Mục đích là điều các bên đều mong muốn khi ký kết hợp đồng với nhau. Tuy nhiên
mục đích cần đảm bảo tuân thủ pháp luật, không trái luân thường đạo lý của xã hội. Hợp
đồng có thể có các nội dung như đối tượng của hợp đồng; Số lượng, chất lượng; Giá,
phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền,
nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải quyết tranh
chấp. Các bên hoàn toàn có thể tự thỏa thuận với nhau về các nội dung trên hoặc thêm 1
số nội dung khác. Tuy nhiên dù hai bên có thể tự thỏa thuận với nhau nhưng đều cần dựa
trên quy định của pháp luật và không làm trái với đạo đức xã hội.
3.4 Điều kiện về hình thức
Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật. Hình thức của giao dịch dân
sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch dân sự. Hình thức của hợp đồng được
hiểu là cách thức thể hiện hợp đồng để ghi nhận sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng. Các bên có thể thỏa thuận về hình thức của hợp đồng bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể. Khi các bên thỏa thuận giao kết bằng một trong ba hình thức
trên thì hợp đồng được xem xét là đã giao kết và phải tuân theo quy định về nội dung của
7

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

hình thức đó. Trong một số trường hợp cụ thể, pháp luật có quy định về việc hợp đồng
phải được thể hiện bằng văn bản và phải được công chứng, chứng thực thì khi đó hình
thức của hợp đồng bắt buộc phải tuân theo các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên hình thức của hợp đồng chỉ được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
trong trường hợp pháp luật có quy định. Nhưng với các quy định hiện hành về hình thức
của hợp đồng còn có nhiều cách hiểu khác nhau về điều kiện hình thức của hợp đồng.
Theo một số quan điểm về quy định tại đoạn cuối khoản 2, Điều 401, Bộ luật dân sự
hợp đồng vi phạm về hình thức mà hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng sẽ
chưa có giá trị pháp lý nhưng không thể bị coi vô hiệu ngay, việc hợp đồng chưa có giá trị
pháp lý không có nghĩa là hợp đồng vô hiệu. . Hợp đồng vi phạm về hình thức chỉ vô hiệu
nếu sau đó khi một hoặc các bên không thực hiện đúng quy định về hình thức của hợp
đồng trong một thời hạn theo quyết định của toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Như
vậy, các bên có thể khắc phục lỗi hình thức của hợp đồng để làm cho hợp đồng có giá trị
pháp lý nếu yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp.
Mặt khác, theo một quan điểm khác khi lý giải về khoản 2, Điều 410 đó là việc một
hợp đồng khi vi phạm quy định về hình thức mà pháp luật quy định, hợp đồng này không
bị vô hiệu, nó vẫn có giá trị đối với các bên trong hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có
quy định hợp đồng này vô hiệu. Nhưng, vấn đề để ngỏ là chưa xác định những trường hợp
pháp luật có quy định khác là những trường hợp nào.
4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Mỹ
4.1 Thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng (Đề nghị và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng).
Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng là yếu tố không thể thiếu
của hợp đồng và được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Mỹ. Như
vậy, cần sự tồn tại của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
với những điều kiện của nó mới đảm bảo có sự tồn tại của hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng là “là một thông báo dành cho người được đề nghị quyền
năng xác lập một hợp đồng bằng việc đưa ra một chấp nhận”150 UCC. Theo pháp luật
của Hoa Kỳ, một đề nghị giao kết hợp đồng phải có đầy đủ 03 yếu tố sau: (1) Phải thể
hiện ý chí muốn bị ràng buộc bởi một quan hệ hợp đồng; (2) Phải có tính đầy đủ; (3) Phải
được thông tin đến người được đề nghị.

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi của người đề nghị giao kết hợp đồng
thể hiện sự đồng ý với đề nghị giao kết hợp đồng. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
có thể được thể hiện bằng ngôn ngữ (nói, viết) hoặc bằng hành vi. Chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng phải được thông tin đến người đề nghị.
4.2 Năng lực chủ thể giao kết hợp đồng
4.2.1 Tuổi chịu trách nhiệm pháp lý và vấn đề năng lực của người chưa thành niên
Để phù hợp với Hiến pháp liên bang Mỹ, các bang đều ban hành các luật mới quy
định độ tuổi của người thành niên là dưới mười tám tuổi. Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự khác
nhau giữa các bang về yêu cầu độ tuổi của người thành niên để tham gia các giao dịch
thuộc một số lĩnh vực như liên quan tới việc sử dụng đồ uống có cồn và hoạt động điều
khiển phương tiện mô tô phải từ đủ hai mươi mốt tuổi.
4.2.2 Hợp đồng giao kết với người hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự
Hợp đồng do người bị mất khả năng nhận thức tùy thuộc vào tính chất, mức độ mất
khả năng nhận thức hoặc hoặc có bị tuyên bố là mất trí hay không mà tòa án tuyên bố vô
hiệu. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng một bên đã lợi dụng tình trạng say xỉn hay tình
trạng hạn chế khả năng nhận thức của người khác thì sẽ bị từ chối trả lại lợi ích đối ứng.
Đối với người bị tuyên bố là mất hoàn toàn khả năng nhận thức thì họ không có năng lực
giao kết hợp đồng. Do đó, bất kỳ một hợp đồng nào do họ giao kết đều vô hiệu.
4.3 Thống nhất ý chí giữa các bên
Theo pháp luật Mỹ, những trường hợp hợp đồng được giao kết thể hiện sự vi phạm
nguyên tắc thống nhất ý chí như hợp đồng giao kết do có sự lừa dối, gian lận, do nhầm
lẫn, hiểu lầm, do có sự ép buộc hoặc lạm dụng ảnh hưởng. Những hợp đồng này có thể bị
coi là hợp đồng vô hiệu.
4.4 Nghĩa vụ đối ứng
Nghĩa vụ đối ứng hay còn gọi là nghĩa vụ đền bù hoặc cân nhắc lợi ích (consideration)
là một khái niệm đóng vai trò quan trọng trong luật hợp đồng thể hiện đặt trưng của
truyền thống luật thông lệ để nói tới một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, là sự trả giá
của bên được hứa để đổi lấy lời hứa của bên đưa ra lời hứa mà sự trả giá đó có thể là sự
có lợi cho bên đưa ra lời hứa hoặc bất lợi cho bên được hứa. Quan điểm này gắn liền với
thuyết mặc cả (bargain theory). Yêu cầu của nghĩa vụ đối ứng là phải được đưa ra trong
quá trình mặc cả, phụ thuộc vào lời hứa được nhận, liên quan đến một cái gì đó có giá trị

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

nhưng không đòi hỏi phải tương đương với giá trị có được từ lời hứa, nghĩa vụ đối ứng
phải hợp pháp.
Sự tồn tại cái nghĩa vụ đối ứng đã phủ nhận quan hệ tặng cho tài sản không phải
là quan hệ hợp đồng heo hệ thống thông luật trong khi ở các nước theo hệ thống dân luật
đây lại là quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, nguyên tắc nghĩa vụ đối ứng không có giá trị áp
dụng một cách tuyệt đối trong mọi trường hợp. Pháp luật Mỹ cũng có những ngoại lệ cho
những thỏa thuận không có nghĩa vụ đối ứng nhưng thỏa thuận vẫn có hiệu lực.
4.5 Tính hợp pháp của hợp đồng
Theo pháp luật Mỹ, tính hợp pháp của hợp đồng được xác định dựa trên nội dung, mục
đích của hợp đồng và được coi là điều kiện cơ bản để hợp đồng có hiệu lực. Những hợp
đồng được xác lập với mục đích và nội dung bất hợp pháp sẽ không đảm bảo hiệu lực của
hợp đồng. Những hợp đồng bất hợp pháp được xác định bao gồm:
- Hợp đồng tham gia các hoạt động bất hợp pháp như hoạt động tội phạm hoặc gây
thiệt hại cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
- Hợp đồng bất hợp pháp khác theo quy định của pháp luật: Hợp đồng trả giá cao, hợp
đồng cá cược, hợp đồng liên quan đến hoạt động không có giấy phép, hợp đồng trái đạo
đức và hợp đồng ngày chủ nhật (thực hiện vào ngày chủ nhật).
Nguyên tắc công bằng là một nguyên tắc quan trọng nhất vì khi tham gia giao
kết hợp đồng, các bên đều mong muốn cùng có lợi. Nguyên tắc công bằng có ý nghĩa đảm
bảo sự bền vững trong các mối quan hệ hợp đồng trong đời sống kinh tế-xã hội. Vì vậy
trong trường hợp hợp đồng không công bằng được coi là hợp đồng trái với trật tự công
cộng và vô hiệu. Một hợp đồng không công bằng là hợp đồng không công bằng về thủ tục
và nội dung.
- Những thỏa thuận trái với chính sách công cộng bao gồm thỏa thuận gây cản trở sự
công bằng (Obstruct justice), thỏa thuận cản trợ dịch vụ công cộng, thỏa thuận lừa dối
trong hoạt động tín dụng, thỏa thuận trốn tránh nghĩa vụ pháp lý, thỏa thuận kiềm chế
thương mại,…
4.6 Điều kiện về hình thức
Hợp đồng có thể tồn tại dưới hình thức văn bản, bằng lời nói hoặc thông qua hành vi
của các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, hợp đồng phải tồn tại bằng
văn bản nếu không sẽ không được Tòa án thừa nhận hiệu lực pháp lý: (1) Hợp đồng liên
quan đến đất đai; (2) Hợp đồng có thời hạn thực hiện từ một năm trở lên kể từ thời điểm
10

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

được xác lập; (3) Nghĩa vụ bảo đảm hoặc nghĩa vụ thứ cấp, là nghĩa vụ phái sinh của
nghĩa vụ cơ sở như: nghĩa vụ trả nợ thay hoặc thực hiện nghĩa vụ thay cho người khác nếu
người này không trả được nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ trừ trường hợp người bảo đảm xác
lập nghĩa vụ thứ cấp để bảo đảm cho lợi ích riêng hoặc cam kết của người quản lý di sản
thừa kế của người chết trả nợ thay cho người chết; (4) Nghĩa vụ được xác lập khi kết hôn
bao gồm cả hợp đồng xác định quyền sở hữu của vợ chồng trước khi kết hôn; (5) Hợp
đồng mua bán hàng hóa có giá trị từ 500 USD trở lên (Điều 2-201 của UCC), hợp đồng
thuê hàng hóa có tổng số tiền thanh toán trừ khoản thanh toán cho quyền chọn gia hạn
hợp đồng hoặc mua từ 1.000 USD trở lên (Điều 2A-201 của UCC).
Hậu quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không tuân thủ quy định về hình
thức là Tòa án không thừa nhận hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Song, Tòa án cũng đưa ra
các ngoại lệ và khi đó, hiệu lực của hợp đồng vẫn được thừa nhận, các trường hợp đó là:
(1) Khi các bên đã thực hiện một phần nghĩa vụ; (2) Nếu bên có nghĩa vụ khai nhận trong
quá trình tố tụng về việc có tồn tại nghĩa vụ thì hợp đồng bằng lời nói cũng vẫn được thừa
nhận; (3) Trong trường hợp áp dụng học thuyết cam kết không thể từ bỏ. Bên cạnh đó,
UCC quy định hợp đồng mua bán hàng hóa theo đặt hàng riêng của khách hàng và hàng
hóa này không phù hợp để bán lại cho người khác trong điều kiện thương mại bình
thường của người bán, hợp đồng giữa hai thương nhân được xác nhận trong một bản ghi
nhớ vẫn có khả năng được công nhận hiệu lực mặc dù tồn tại bằng lời nói.
5. Điểm tương đồng và khác biệt về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam và Mỹ
Về điểm tương đồng
Về cơ bản, trừ điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, các điều kiện hợp đồng có hiệu lực của
Hoa Kỳ và Việt Nam khá tương đồng với nhau.
Đối với điều kiện về chủ thể:
Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ đều có quy định để có năng lực chủ thể giao kết hợp
đồng thì cá nhân phải từ 18 tuổi trở lên và đều cho phép người dưới mười tám tuổi được
giao kết những hợp đồng mà nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cần thiết hàng ngày phù
hợp với lứa tuổi.
Pháp luật hai nước cũng thống nhất quy định mọi giao dịch do người mất năng lực
hành vi dân sự tham gia đều không có hiệu lực pháp lý.
Đối với điều kiện về nội dung và mục đích của hợp đồng:
11

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều yêu cầu mục đích và nội dung của hợp
đồng phải hợp pháp, không trái với đạo đức xã hội mặc dù quan niệm cụ thể về tính hợp
pháp và đạo đức mỗi nước không giống nhau
Đối với điều kiện về sự tự nguyện theo pháp luật Việt Nam và sự thống nhất ý chí theo
pháp luật Hoa Kì:
Pháp luật hai quốc gia đều coi sự lừa dối, gian lận, sự nhầm lẫn, hiểu lầm, sự ép buộc,
đe doạ là sự vi phạm thống nhất ý chí giữa các bên trong hợp đồng. Hậu quả pháp lý do vi
phạm điều kiện trên giữa hai nước quy định về cơ bản là không thừa nhận giá trị pháp lý
của hợp đồng.
Đối với điều kiện về hình thức:
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều quy định một số loại hợp đồng phải được
lập bằng một hình thức nhất định để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực.
Về điểm khác biệt:
Đối với điều kiện về chủ thể:
Theo pháp luật Hoa Kỳ trong một số trường hợp thuộc một số lĩnh vực nhất định độ
tuổi có sự quy định khác như sử dụng đồ rượu hay chất kích thích có cồn hoặc điều khiển
phương tiện mô phải từ hai mươi mốt tuổi là một điểm khác biệt so với pháp luật Việt
Nam.
Mặc dù pháp luật cả hai nước đều cho phép cá nhân dưới 18 tuổi được tự mình giao kết
các hợp đồngnhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cần thiết hàng ngày phù hợp với lứa
tuổi. Nhưng điểm khác biệt là trong một số trường hợp hợp đồng người chưa thành niên
theo pháp luật Hoa Kỳ giao kết vẫn có hiệu lực trong khi pháp luật Việt Nam không có
quy định này, ví dụ như giao kết hợp đồng vì lợi ích công cộng.
Đối với điều kiện về nội dung và mục đích của hợp đồng:
Ngoài yêu cầu mục đích và nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, không trái với đạo
đức xã hội,pháp luật Hoa Kỳ còn xác định cụ thể nhiều loại hợp đồng vô hiệu do xâm
phạm lợi ích công cộng hoặc do yêu cầu thực hiện vào ngày chủ nhật trong khi pháp luật
Việt Nam không có quy định này.
Đối với điều kiện về sự tự nguyện theo pháp luật Việt Nam và sự thống nhất ý chí theo
pháp luật Hoa Kì:

12

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

Pháp luật hai nước đều quy định việc giao kết hợp đồng giữa các bên cần đảm bảo sự
tự nguyện và thống nhất ý chí. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có quy định
khác nhau, như trường hợp hai bên giao kết mà trong đó có ít nhất một bên nhầm lẫn thì
theo pháp luật Việt Nam hợp đồng đó sẽ vô hiệu. Với pháp luật Hoa Kỳ không phải lúc
nào có sự nhầm lẫn đều dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Do có sự phân biệt giữa sự nhầm lần
của một bên và nhầm lẫn hai bên, nên theo pháp luật Hoa Kỳ, hợp đồng có sự nhầm lẫn
của một bên ít khi bị tuyên vô hiệu, còn hợp đồng hai bên nhầm lẫn thường bị tuyên vô
hiệu do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Pháp luật Hoa Kỳ còn quy định
trong trường hợp lạm dụng ảnh hưởng là sự vi phạm điều kiện thống nhất ý chí giữa các
bên trong giao kết hợp đồng. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam chưa đề cập đến trường
hợp này
Đối với điều kiện về hình thức:
Tư duy pháp lý về hình thức hợp đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kì có
điểm khác nhau như quy định về yêu cầu chữ ký của các bên trong hợp đồng, pháp luật
Hoa Kỳ không yêu cầu bắt buộc phải có chữ ký của hai bên mới coi là hợp đồng được
giao kết trong khi pháp luật Việt Nam lại quy định rõ hợp đồng bằng văn bản phải có chữ
ký của bên mới được coi là đã giao kết. Về hậu quả pháp lý của hợp đồng do vi phạm về
hình thức theo pháp luật Việt Nam, sự vi phạm hình thức dẫn đến hợp đồng vô hiệu và do
vậy coi như hợp đồng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
của các bên kể từ thời điểm xác lập, nhưng theo pháp luật Hoa Kỳ, ngoại trừ một số
trường hợp đặc biệt, hợp đồng bằng văn bản mang ý nghĩa là chứng cứ hơn là điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng.
Đối với điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, đề nghị và chấp nhận đề nghị theo pháp luật
Hoa Kỳ:
Theo pháp luật Hoa Kỳ, nghĩa vụ đối ứng là điều kiện đặc trưng để có hiệu lực của hợp
đồng trong khi pháp luật Việt Nam cũng như các nước theo hệ thống dân luật không tồn
tại khái niệm này. Điều này xuất phát từ quan điểm, tư tưởng rất khác nhau giữa hai hệ
thống pháp luật. Cũng chính vì vậy mà trong nhiều trường hợp theo pháp luật Việt Nam
được ghi nhận là hợp đồng nhưng theo pháp luật Hoa Kỳ thì không coi là hợp đồng, ví dụ
như hợp đồng tặng cho.
Bên cạnh đó, quy định về điều kiện nghĩa vụ đối ứng cũng tạo ra một số hợp đồng mà
ở Việt Nam không thừa nhận là hợp đồng, ví dụ như hợp đồng tiền hôn nhân. Đó là thoả

13

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

thuận trước khi hai bên nam nữ kết hôn về những nghĩa vụ đền bù trong thời kỳ hôn nhân
mà luật về hôn nhân không quy định.
Trong khoa học pháp lý về hợp đồng của Việt Nam không đặt ra vấn đề điều kiện về đề
nghị và chấp nhận đề nghị để hợp đồng có hiệu lực mà vấn đề này được nhìn nhận dưới
góc độ của quá trình giao kết hợp đồng hình thành sự thoả thuận giữa các bên. Còn đối
với pháp luật Hoa Kỳ, đề nghị và chấp nhận đề nghị vừa là yếu tố của hợp đồng vừa là
điều kiện của hợp đồng.
6. Kiến nghị rút ra từ việc so sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam và Mỹ
6.1 Kiến nghị về khái niệm hợp đồng trong BLDS 2015
Quan điểm của các nhà làm luật khi sửa đổi thuật nghi "hợp đồng dân sự” ở Điều 388
Bộ luật Dân sự 2005 thành “hợp đồng" trong Bộ luật dân sự 2015. Về bản chất pháp lý
của thuật ngữ “hợp đồng dân sự" theo Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 là hợp đồng bao
quát các loại hợp đồng mang tính chất “dân sự". Hơn nữa, thực tế do quan niệm truyền
thống về sự phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, nên trong từ duy nhận thức
của nhiều người vẫn chưa thể hình dung hết được ý nghĩa thực sự của một khái niệm “hợp
đồng" nói chung trong dân sự nếu nó được diễn đạt bằng thuật ngữ “hợp đồng dân sự”.
Tham khảo luật hợp đồng các nước trên thế giới, trong đó có pháp luậtMỹ cho thấy thuật
ngữ "hợp đồng" được dùng để ám chỉ hợp đồng trong các lĩnh vực dân sự. Chính vì vậy,
việc dùng cụm từ “dân sự" đi kèm theo hợp đồng nói chung là không cần thiết. Do đó,
quy định thuật ngữ “hợp đồng” trong Bộ luật Dân sự 2015 là phù hợp với pháp luật tiến
bộ trên thế giới.
6.2 Kiến nghị về hình thức của hợp đồng của BLDS và hiệu lực của hợp đồng khi vi
phạm về hình thức
Kiến nghị hoàn thiện quy định về hình thức hợp đồng theo hình, một mặt thừa nhận
quyền tự do hình thức của các bên trong giao dịch, một khác nhằm siết chặt trật tự pháp
lý, đảm bảo an toàn trong giao dịch giữa các bên cũng như đảm bảo lợi ích của nhà nước,
lợi ích công cộng trong mối quan hệ hài hoà với lợi ích của cá nhân, tổ chức. Theo đó, cần
quy định rõ trong luật thực định những quy định về hình thức của hợp đồng liên quan đến
bất động sản cần phải là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
6.3 Kiến nghị về thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng dân sự
Theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam hiện hành để cho phù hợp và tránh xảy ra
những bất cấp trong thực tiễn về việc xác định thời điểm giao kết của hợp đồng. Theo
14

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

hướng đó, chỉ cần áp dụng quy định chung về thời điểm giao khi hợp đồng theo quy định
tại khoản 1, Điều 401 Bộ luật Dân sự hiện hành.
6.4 Kiến nghị về độ tuổi tham gia giao kết hợp đồng trong một số lĩnh vực nhằm bảo
về lợi ích công cộng.
Nghiên cứu pháp luật giao kết hợp đồng của Mỹ cho thấy nhiều trường hợp vì bảo vệ
lợi ích công cộng mặc dù điều kiện giao kết không đảm bảo hiệu lực của hợp đồng nhưng
vẫn được thừa nhận. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam thiếu vắng các quy định này mà
thường chỉ mang tính nguyên tắc chung. Chính vì vậy, kiến nghị các quy định về giao kết
hợp đồng đối với hợp đồng và lợi ích công cộng, thừa nhận hợp đồng mặc dù vi phạm
một số điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nhưng xem xét vì lợi ích xã hội nhiều hơn thì
vẫn có thể thừa nhận cho thi hành. Ngoài ra, cần xem xét một số lĩnh vực giao dịch có
tính chất đặc biệt thể có thể quy định độ tuổi cao hơn mức quy định chung của pháp luật
để được coi là đủ tư cách chủ thể để tham gia giao kết hợp đồng.
Kết luận
Cùng đối tượng điều chỉnh là quan hệ giao kết hợp đồng, pháp lại Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ đều có cách tiếp cận và điều chỉnh có điểm chung với nhau cũng tương tự
nhưng pháp luật các nước khác. Nhưng đều đáng nói ở đây là điểm chung của hai nền
pháp luật xuất phát từ hai luồng tư tưởng pháp luật khác nhau, thuộc hai hệ thống pháp
luật khác nhau tồn tại độc lập cùng các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Nếu như
pháp luật Mỹ thuộc hệ thống luật thông lệ thì pháp luật Việt Nam thuộc hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa nhưng riêng lĩnh vực dân sự nói chung, hợp đồng nói riêng chịu sự
ảnh hưởng của hệ thống dân luật. Chỉ nhìn nhận riêng đến dân luật và thông luật đã cho
thấy nhiều mâu thuẫn và xung đột khác biệt giữa hai hệ thống này. Mặc dù luật hợp đồng
của Việt Nam đã lựa chọn con đường là dân luật của châu âu lục địa thì điều đó không có
nghĩa là con đường đó là luôn luôn đúng và chỉ biết theo con đường đó mà không tham
khảo các hệ thống pháp luật khác. Biết đâu đó việc nghiên cứu các ưu điểm của luật án lệ
lại có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật của Việt Nam về luật hợp đồng. Qua toàn bộ nội dung trên đã trình bày so
sánh pháp luật hai nước Việt nam và Mỹ về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, có thể rút ra những kết luận sau đây:
Từ việc nêu bật những quy định cơ bản về gạo kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và pháp luật Mỹ, cho thấy pháp luật hai nước có nhiều điểm tương đồng ở một vài tiêu chỉ
chung khi quy định về các điều kiện của hợp đồng, của các thành tố thỏa thuận, chỉ có
một số khác biệt về một số nội dung cụ thể của điều kiện hợp đồng cũng như các thành tố
15

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

của thoả thuận. Những điểm quy định khác phản ảnh đặc trưng nên pháp luật mỗi nước
gắn liền với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội rất riêng của từng
quốc gia.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề cơ bản về giao kết hợp đồng theo pháp luật hai
nước, nhận thấy những điểm khác biệt của pháp luật Mỹ so với pháp luật Việt Nam về
giao kết hợp đồng và từ đó kiến nghị vận dụng vào pháp luật về giao kết hợp đồng ở Việt
Nam. Tuy nhiên, không phải pháp luật Mỹ có quy định nào khác pháp luật Việt Nam là
cũng kiến nghị áp dụng xây dựng pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam theo những điểm
khác đó mà phải dựa trên kết quả sự đánh giá những ưu điểm theo pháp luật Mỹ và sự phù
hợp khi vận dụng vào điều kiện pháp luật Việt Nam.
Việc nghiên cứu pháp luật Mỹ về giao kết hợp đồng một lần nữa khẳng định vai trò của
án lệ trong thực tiễn xét xử và có thể xem xét thêm một nguồn luật đặc biệt này được vận
dụng ở Việt Nam. Nếu áp dụng án lệ như là một nguồn luật cơ bản ở Mỹ thì ở Việt Nam
chưa bao giờ được thừa nhận một cách chính thức. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử ở
Việt Nam thì việc sử dụng án lệ không phải là ngoại lệ, chính vì vậy, còn nhiều vấn đề
tranh cãi về việc coi sử dụng án lệ như một nguồn luật trong pháp luật Việt Nam nói
chung, luật hợp đồng nói riêng. Bất luận có thừa nhận là nguồn luật hay không và bất luận
có nhiều chuyên gia đề xuất coi án lệ như một nguồn luật bổ sung cho luật thực định thì
rõ ràng trong thực tiễn xét xử không thể phủ nhận vai trò của án lệ.

16

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03


So sánh về hình thức và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và Mỹ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17

GVHD: Tống Ngọc Như SVTH: Nhóm 03

You might also like