Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

1.1.

Bối cảnh của quan hệ Việt - Trung cuối thập niên 80 của thế kỉ XX

Trong giai đoạn từ giữa thập niên 80 đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình
thế giới, khu vực có nhiều biến động to lớn, thêm vào đó là những điều chỉnh quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Trung Quốc đã tạo ra những
động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình đàm phán để đi đến bình thường hóa quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc.

Thứ nhất, tình hình quan hệ quốc tế chuyển từ thế đối đầu sang đối thoại, đặc biệt
đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, quan hệ Xô - Mĩ đã chấm dứt tình trạng đối
đầu, mở ra giai đoạn phát triển mới theo xu hướng hòa bình, hữu nghị và hợp tác
trong quan hệ quốc tế. Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng trở nên hòa dịu, vấn
đề Campuchia từng bước được giải quyết, mở ra cơ hội thúc đẩy hợp tác giữa các
nước trong khu vực với Việt Nam.

Thứ hai, từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, chính sách đối ngoại của Việt Nam
đã có những điều chỉnh mạnh mẽ. Những khó khăn xuất phát từ tình trạng căng
thẳng kéo dài ở tuyến biên giới trên bộ, trên biển Việt Nam - Trung Quốc và vấn đề
Campuchia, cùng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của khối
XHCN... trong thập niên 80 của thế kỷ XX đã góp phần làm cho Việt Nam lâm vào
tình trạng khủng hoảng ngày một nghiêm trọng hơn. Yêu cầu đặt ra lúc này là Việt
Nam phải tạo ra môi trường hòa bình ổn định, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.

Để tạo môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thực hiện thành công mục tiêu trên,
từ năm 1985, Việt Nam liên tiếp đưa ra những tuyên bố và hành động nhằm tìm
cách giảm căng thẳng, từng bước tiến tới nối lại đàm phán, khôi phục quan hệ với
Trung Quốc: ngày 12/8/1985, Việt Nam đưa ra tuyên bố “Việt Nam sẽ rút hết quân
khỏi Campuchia vào năm 1990, hoặc có thể sớm hơn” và đề nghị đàm phán với
Trung Quốc về những vấn đề liên quan.

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (diễn ra từ 05/12/1986 đến 18/12/1986)
đã đề ra đường lối đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Trong
đó, đường lối đối ngoại mới được xác định là: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực
hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ
chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác
nhau”
Đối với Trung Quốc, Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI đã khẳng định: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam, trước sau như một, quý
trọng và nhất định làm hết sức mình để khôi phục tình hữu nghị giữa nhân dân hai
nước, và đã đưa ra nhiều đề nghị nhằm sớm bình thường hoá quan hệ giữa nước ta
và CHND Trung Hoa”, và “một lần nữa, chúng ta chính thức tuyên bố rằng: Việt
Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở
đâu, nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai
nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”.

Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 - 1995, tập 2,
NXB CAND, Hà Nội, tr 204.

Thứ ba, trong thập niên 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc tiếp tục chiến lược cải cách
mở cửa được đề ra tại Hội nghị toàn thể trung ương 3 khóa 11 của Đảng Cộng sản
Trung Quốc (tháng 12/1978) và chính sách mở cửa đối ngoại được đề ra vào năm
1980 nhằm phục vụ phát triển kinh tế, tiến tới mục tiêu “bốn hiện đại hoá”.

Xuất phát từ mục tiêu đó, trong thập niên 80 của thế kỉ trước, Trung Quốc một mặt
thực hiện chính sách đối ngoại hướng về phương Tây, mặt khác cũng từng bước cải
thiện quan hệ với Liên Xô để giải quyết tình trạng căng thẳng trên vùng biên giới
Trung - Xô, Trung - Mông Cổ, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển.

Tuy nhiên, sau sự kiện Thiên An Môn (04/6/1989), Trung Quốc đã bị phương Tây
thi hành các chính sách trừng phạt. Trước sức ép cấm vận của các nước phương
Tây, Trung Quốc đã chuyển hướng sang tích cực phát triển quan hệ ngoại giao hữu
nghị với những nước láng giềng trong đó có Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của
các nước này, tìm cách thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập.

1.2. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc nối lại đàm phán với Trung Quốc
từ 1986 đến 1989

Thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI, Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ
trương rút quân khỏi Campuchia: ngày 11/10/1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam và
Campuchia đã ra Thông cáo chung về việc rút quân tình nguyện Việt Nam ở
Campuchia về nước đợt 6 vào tháng 11/1987. Ngày 26/5/1988, Việt Nam tiếp tục
tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh Việt Nam tại Campuchia.
Bên cạnh việc tích cực giải quyết “vấn đề Campuchia”, Việt Nam còn thực hiện
hàng loạt hành động trực tiếp thể hiện thái độ hoà hoãn, giảm căng thẳng và mong
muốn bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc: ngay sau Đại hội Đại biểu toàn
quốc của Đảng lần thứ VI (1986), cố vấn Phạm Văn Đồng đã gửi tới Chủ tịch nước
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thông điệp rằng: “Việt Nam không cho rằng việc giải
quyết vấn đề “Campuchia” có liên quan tới bình thường hóa quan hệ Việt - Trung”;
ngày 5/01/1987, Ban Bí thư đã ra Thông tri đề nghị Trung Quốc cùng với Việt
Nam giảm căng thẳng ở vùng biên giới Việt - Trung; tháng 3/1987, Việt Nam đơn
phương quyết định giảm quân chủ lực ở vùng biên giới phía Bắc; Năm 1988, Việt
Nam đã bỏ những nội dung chống đối Trung Quốc trong lời nói đầu của Hiến
pháp. Sau đó, ngày 15/7/1988, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã đề
nghị một loạt các biện pháp nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước
như chấm dứt hoạt động vũ trang ở biên giới đất liền, hải đảo, giãn quân về tuyến
sau để tránh xung đột, tạo điều kiện cho nhân dân vùng biên giới qua lại thăm
viếng lẫn nhau. Đồng thời, phía Việt Nam cũng đơn phương thực hiện những đề
nghị này mà không đòi hỏi phía Trung Quốc đáp lại.

Trước những đề nghị và hành động đầy thiện chí của Việt Nam, từ năm 1986 đến
giữa năm 1988, Trung Quốc vẫn tỏ thái độ bất hợp tác, không những không có một
hành động nào đáp lại những cố gắng của Việt Nam mà còn đẩy mạnh các hoạt
động tranh chấp trên Biển Đông:

Ngày 15/4/1987, Trung Quốc đã ngang ngược ra tuyên bố cho rằng quân đội Việt
Nam “chiếm đóng” đảo đá Ba Tiêu thuộc. quần đảo Trường Sa, yêu cầu Việt Nam
rút khỏi Ba Tiêu và chín hòn đảo khác và bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào
thời điểm thích hợp?. Ngày 16/4/1987, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối và
bác bỏ tuyên bố đó của Trung Quốc và tố cáo hành động vi phạm chủ quyền của
Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đáp lại những tuyên bố của
Việt Nam, Trung Quốc đã cho thực hiện một cuộc diễn tập lớn của Hải quân tại
khu vực Trường Sa kéo dài từ ngày 15/5/1987 đến 06/6/1987 nhằm biểu dương lực
lượng và khẳng định cái mà họ gọi là “chủ quyền của Trung Quốc” trên Biển
Đông.

Năm 1988, Trung Quốc đã đẩy mạnh hoạt động lấn chiếm, tranh chấp ở quần đảo
Trường Sa lên một bước mới quyết liệt hơn: trong tháng 1 và tháng 2, Hải quân
Trung Quốc đã tiếp tục chiếm các bãi đá Chữ Thập, Châu Viên và một số đảo san
hô khác trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt nghiêm trọng hơn là
vào ngày 14/3/1988, quân đội Trung Quốc đã tấn công 3 tàu vận tải của Hải quân
Việt Nam (HQ 505, 604 và 605) tại cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao làm
chìm 2 tàu, 64 chiến sĩ hy sinh, 9 chiến sĩ bị bắt làm tù binh, sau đó Trung Quốc
chiếm giữ đảo Gạc Ma và xây dựng “đài quan sát biển” ở đấy.

Trước hành động trên của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã liên tiếp gởi 3 công
hàm phản đối (ngày 17, 23 và 26/3/1988) đến Chính phủ Trung Quốc và đề nghị
phía Trung Quốc cử đại diện đàm phán để giải quyết những bất đồng liên quan đến
quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần
đảo Hoàng Sa. Trong khi chờ giải quyết tranh chấp, hai bên không dùng vũ lực và
tránh mọi đụng độ để tình hình không phát triển xấu thêm.

Phía Trung Quốc đã không đáp lại những đề nghị của Việt Nam và tiếp tục chiếm
giữ trái phép các đảo vừa chiếm được. Ngày 13/4/1988, Quốc vụ viện nước CHND
Trung Hoa đã phê chuẩn quyết định thành lập Khu hành chính Hải Nam thuộc tỉnh
Quảng Đông, sau đó đặt lại tên bằng tiếng Hoa cho các đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam và tuyên bố sáp nhập vào địa phận của Hải Nam,
bất chấp sự phản đối của Việt Nam.

1.3. Bình thường hóa quan hệ Việt - Trung (1989-1991) 1.3.1. Nối lại đàm phán
Việt – Trung

1.3.1. Nối lại đàm phán Việt - Trung

Như đã phân tích ở trên, từ năm 1986 trở đi, Việt Nam đã kiên trì chủ trương thúc
đẩy Trung Quốc nối lại đàm phán để tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt - Trung,
nhưng Trung Quốc đã đưa ra điều kiện đòi Việt Nam phải rút quân khỏi
Campuchia hoàn toàn để trì hoãn việc nối lại đàm phán.

Trong khi Trung Quốc không đáp lại những thiện chí của Việt Nam trong việc giải
quyết “vấn đề Campuchia” thì, ngược lại, các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế
đã đón nhận một cách tích cực. Tình trạng bất ổn và căng thẳng kéo dài do “vấn đề
Campuchia” đã ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của các quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á nói riêng và trong quan hệ quốc tế nói chung. Chính vì vậy, việc
tạo ra môi trường hòa bình và ổn định để phát triển đã trở thành mối quan tâm hàng
đầu của các nước Đông Nam Á.
Năm 1987 là năm chứng kiến những thay đổi có tính bước ngoặt trong lập trường
của ASEAN đối với Việt Nam về “vấn đề Campuchia”. Ngày 29/7/1987, nhân
chuyến thăm chính thức Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Indonesia, hai bên
đã ra thông cáo chung, đánh dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa Việt Nam và
ASEAN xung quanh “vấn đề Campuchia” và mở ra thời kì của những cuộc gặp gỡ
trực tiếp giữa Hunsen và và Sihanouk.

Những thuận lợi này đã mở ra cho Việt Nam một hướng mới trong việc giải quyết
“vấn đề Campuchia”: nếu chưa nối lạiđược đàm phán với Trung Quốc, thì Việt
Nam có thể chuyển sang hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế để
tìm giải pháp cho “vấn đề Campuchia”.

Nghị quyết 13 “về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” ngày
20/5/1988 của Bộ Chính trị đã xác định: “Vấn đề Campuchia” phải được giải quyết
với Trung Quốc, nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa muốn trực tiếp giải
quyết với ta về “vấn đề Campuchia”. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên trì mở ra nhiều
hướng khác (Hunsen - Sihanouk, Việt Nam - Indonesia, Việt Nam - Thái Lan,
ASEAN - Đông Dương, Việt Nam - Mĩ),... để thúc đẩy và kéo Trung Quốc vào giải
quyết. Dù giải quyết trực tiếp với Trung Quốc hay với các đối tác khác, thì việc
giải quyết “vấn đề Campuchia” cũng phục vụ cho mục tiêu bình thường hóa với
Trung Quốc, không nhằm chống lại Trung Quốc”7

Chủ trương của Nghị quyết 13 đã được các nước ASEAN đón nhận. Trong cuộc
họp hàng năm của ASEAN diễn ra từ ngày 03/7/1988 đến ngày 05/7/1988 tại
Bangkok (Thái Lan), các đại biểu đã bày tỏ niềm tin tưởng vững chắc rằng Việt
Nam đã từ bỏ các mục tiêu quân sự của mình ở Campuchia và đang hướng toàn bộ
nỗ lực vào con đường ngoại giao.

Nếu như trước đó, ASEAN và các nước phương Tây cho rằng Việt Nam là mối đe
dọa đối với hòa bình và an ninh khu vực, thì giờ đây họ đã nhận ra được rằng, mối
đe dọa đó chính là Khmer đỏ, là những hành động mà Trung Quốc đang tiến hành
trên Biển Đông chứ không phải là Việt Nam. Nhằm giải quyết viễn cảnh Khmer đỏ
có thể giành được thế thượng phong quân sự sau khi quân Việt Nam rút toàn bộ,
“ASEAN với sự ủng hộ của Mĩ đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc nhất thiết phải có
mặt trong việc đề ra các bảo đảm quốc tế cho những thỏa thuận đạt được giữa các
nước trong vùng quanh “vấn đề Campuchia”. Đồng thời cũng cần thành lập một
lực lượng quốc tế gìn giữ hòa bình đông đảo ở nước này”.

Chính trong tinh thần của lập trường này, tại Hội nghị không chính thức về vấn đề
Campuchia lần 1 tại Jakarta (Jakarta Informal Meeting 1) - JIM 1 từ 25 đến
28/7/1988, các nước ASEAN đã đưa ra đề nghị giải giáp tất cả các phe Khmer
đang xung đột ở Campuchia và sự cần thiết phải có một lực lượng vũ trang quốc tế
ở nước này để thực hiện quyết định vừa kể. Đề nghị này phản ánh rõ ràng ý đồ của
ASEAN là không muốn để bên nào chiếm được thế thượng phong ở Campuchia
sau khi quân đội Việt Nam rút đi và trong lúc chờ tổng tuyển cử.

Trong bầu không khí ngày càng trở nên hòa dịu của quan hệ Việt Nam - ASEAN,
tháng 8/1988, Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan đã tuyên bố rằng cần
xem các nước Đông Dương không phải như là những chiến trường mà là những thị
trường có thể trong tương lai. Theo ý ông, “cần giải quyết càng nhanh càng tốt
“vấn đề Campuchia” và đã có tất cả các dấu hiệu cần thiết để mau chóng đạt được
những thỏa hiệp tương xứng”. Sau đó, ngày 08/8/1988, Thủ tướng Thái Lan đã
tuyên bố rằng Chính phủ sẽ khuyến khích các nhà doanh thương Thái Lan tăng các
hoạt động thương mại với Lào và Việt Nam, điều này theo ông sẽ góp phần làm dịu
tình hình trong vùng và nhấn mạnh rằng Thái Lan sẽ thúc đẩy buôn bán với Việt
Nam và Lào mà không cần xem xét đến việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.

Như vậy, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN có lập trường cứng rắn nhất
đã được cải thiện nhiều. Sự hợp tác giữa Việt Nam với ASEAN đã mở ra một
hướng giải quyết mới cho “vấn đề Campuchia” mà không nhất thiết phải phụ thuộc
vào việc Trung Quốc có chấp nhận đàm phán với Việt Nam hay không.

Mặt khác, chủ trương của Mĩ và Liên Xô lúc này cũng muốn nhanh chóng giải
quyết “vấn đề Campuchia” và Afghanistan nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ
quốc tế. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc phải chuyển từ chỗ kéo dài đàm phán với
Liên Xô sang đẩy nhanh quá trình bình thường hoá toàn diện quan hệ với Liên Xô.
Trong chuyến thăm Liên Xô của Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kì Tham (từ ngày
01 đến 02/12/1988), hai bên đã thống nhất chấm dứt căng thẳng ở biên giới Xô -
Trung, Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan từ tháng 6/1988 (sẽ hoàn thành
việc rút quân trong tháng 02/1989). Riêng “vấn đề Campuchia”, theo Tiền Kì
Tham thì phía Liên Xô đã trả lời rằng: “Liên Xô không thể ra lệnh cho Việt Nam”
và “hi vọng Trung - Việt trực tiếp đối thoại để tăng nhanh tiến trình giải quyết
chính trị”. Điều đó cũng có nghĩa là “ba trở ngại lớn”" đối với việc bình thường
hoá quan hệ Xô - Trung mà Trung Quốc đưa ra đã cơ bản được xoá bỏ và con bài
dùng Liên Xô để buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia đã hết giá trị.

Như vậy, đến cuối năm 1988, quan hệ Xô - Mĩ, Xô - Trung bước sang thời kì hòa
dịu, quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN đã chuyển từ đối đầu
sang đối thoại và hợp tác, “vấn đề Campuchia” từng bước được quốc tế hóa, việc
tiếp tục trì hoãn việc nối lại đàm phán với Việt Nam để giải quyết “vấn đề
Campuchia” và bình thường hóa quan hệ Việt – Trung không còn phù hợp với tình
hình quan hệ quốc tế và lợi ích của Trung Quốc nữa. Ngày 01/7/1988, phía Trung
Quốc phát biểu một tuyên bố đề xuất chủ trương bốn điểm giải quyết chính trị vấn
đề Campuchia, thể hiện rõ lập trường của Trung Quốc: “nhanh chóng giải quyết
vấn đề Việt Nam rút quân; sau khi Việt Nam rút quân, Campuchia thành lập chính
phủ liên hiệp lâm thời bốn bên do hoàng thân Sihanouk đứng đầu; sau khi thành
lập chính phủ lâm thời sẽ tiến hành tự do bầu cử ở Campuchia; tiến hành giám sát
quốc tế có hiệu quả đối với tiến trình nói trên” 12

Trước những thuận lợi trên, ngày 15/12/1988, Việt Nam đã chính thức đề nghị
Trung Quốc tổ chức cuộc gặp cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao để bàn về bình thường
hóa quan hệ hai nước. Đáp lại lời đề nghị của Việt Nam, ngày 24/12/1988, Bộ
Ngoại giao Trung Quốc đã thông báo mời một Thứ trưởng ngoại giao của Việt
Nam đi Bắc Kinh vào giữa tháng 01/1989 để trao đổi với Trung Quốc về “vấn đề
Campuchia” và bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, chuẩn bị cho cuộc gặp Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao hai nước.

Sau 10 năm đối đầu gay gắt, trong đó có 8 năm nhất định từ chối đàm phán, cuối
cùng Trung Quốc đã chấp nhận đối thoại với Việt Nam để giải quyết “vấn đề
Campuchia” và bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Đây là sự kiện mở đầu cho
tiến trình đàm phán để bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.

1.3.2. Quá trình đàm phán và tuyên bố bình thường hóa quan hệ Việt – Trung

Mặc dù Trung Quốc đã chấp nhận lời đề nghị nối lại đàm phán của Việt Nam,
nhưng khi tiến hành đàm phán, điều kiện mới mà Trung Quốc đưa ra cho Việt Nam
để đổi lấy việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước không chỉ là rút quân khỏi
Campuchia mà còn phải ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong việc giải quyết
vấn đề này.

Trong cuộc gặp cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt – Trung đầu tiên đã diễn ra tại
Bắc Kinh từ ngày 16 đến 19/01/1989, hai bên thoả thuận tương đối nhanh mấy vấn
đề về mặt quốc tế của giải pháp Campuchia (rút quân Việt Nam vào tháng 9/1989,
giám sát quốc tế, chấm dứt viện trợ quân sự, tổng tuyển cử), đồng ý thúc đẩy các
bên Campuchia thương lượng để sớm đạt giải pháp. Trung Quốc muốn Việt Nam
thỏa thuận về hướng giải quyết mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, chủ yếu là
vấn đề chính quyền và vấn đề quân đội của các bên Campuchia trong thời kỳ quá
độ (thời gian ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử), đồng thời khẳng định rằng nếu có
thảo luận và đạt kết quả này thì mới có giải pháp, nếu không thì mặt quốc tế có
thỏa thuận cũng không giải quyết được và khó bàn về quan hệ hai nước. Lập
trường của Việt Nam là vấn đề nội bộ Campuchia phải do các bên Campuchia giải
quyết. Quá trình đàm phán vừa được mở ra lại rơi vào tình trạng bế tắc.

Cuối cùng, hai bên đã đi đến thống nhất tiếp tục đàm phán cấp Thứ trưởng vòng
hai và Trung Quốc cũng cho Việt Nam biết rằng: “nếu cuộc gặp vòng hai có kết
quả và “vấn đề Campuchia” có tiến triển thì Trung Quốc mới khẳng định việc tổ
chức cuộc gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của hai nước”3 để đi đến bình thường hoá
quan hệ giữa hai nước.

Từ giữa năm 1989 trở đi, tình hình thế giới, khu vực và Trung Quốc có nhiều biến
động to lớn, tạo ra những động lực mạnh mẽ thúc đẩy Trung Quốc sớm đi đến đẩy
mạnh đàm phán để bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Thứ nhất, “vấn đề Campuchia” từng bước được giải quyết: Sau những thỏa
thuận đạt được ở Hội nghị không chính thức về vấn đề Campuchia lần 1 tại Jakarta
vào tháng 7/1988 - JM 1, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh rút quân khỏi Campuchia
nhằm thúc đẩy xu thế đối thoại và tiến đến quốc tế hóa “vấn đề Campuchia” để
tranh thủ các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế, kiềm chế những đòi hỏi của
Trung Quốc. Những nỗ lực của Việt Nam đã giành được sự ủng hộ của các nước
ASEAN ở Hội nghị JIM-2 (02/1989). Tuy nhiên, các nước ASEAN vẫn trước sau
như một, không chấp nhận thế thượng phong của Chính phủ Hunsen do Việt Nam
ủng hộ.
Các nước ASEAN đã chọn giải pháp Sihanouk. Để đi đến giải pháp này, họ đòi hỏi
giải giáp tất cả lực lượng các bên Campuchia xung đột, để thay vào đó là lực
lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Giải pháp trên của các nước ASEAN đã
nhận được sự ủng hộ của Mĩ, Trung Quốc, Liên hợp quốc và cả Liên Xô, đồng thời
phù hợp với chủ trương của Việt Nam và được các bên Campuchia đồng thuận.

Những thỏa thuận về giải pháp chính trị cho “vấn đề Campuchia” đạt được trong
Hội nghị JIM-2 đã cho phép Việt Nam có thể quyết định dứt khoát hơn trong việc
rút quân khỏi Campuchia, để thúc đẩy xu thế đối thoại giữa các bên dưới sự tham
gia của Liên hợp quốc. Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khóa VI) đã thể hiện quyết tâm đó: “góp phần tích cực giải
quyết vấn đề Campuchia bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị tốt việc rút hết quân
sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về Campuchia”; ngày 05/4/1989, Tuyên
bố chung của CHND Campuchia, CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam về việc
rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước đã khẳng định mạnh
mẽ hơn rằng: “Việt Nam rút hết quân đội của mình về nước trước tháng 9/1989, dù
có giải pháp hay không”16

Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam đã tham gia tích cực trong Hội nghị quốc tế
lần thứ nhất về “vấn đề Campuchia” tại Paris (vòng 1: từ 30/7 đến 01/8, vòng 2: từ
28/8 đến 30/8/1989). Tuy nhiên, Hội nghị kết thúc mà các bên vẫn chưa đưa ra
được một giải pháp cuối cùng cho vấn đề Campuchia.

Thực hiện đúng cam kết, từ ngày 21 đến 26/9/1989, Việt Nam đã rút quân tình
nguyện còn lại ở Campuchia cùng toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh dưới
sự quan sát của cộng đồng quốc tế. Đồng thời, ngày 18/7/1990, Mĩ tuyên bố không
còn ủng hộ lực lượng Khmer đỏ và đến ngày 28/8/1990, một văn kiện khung để
giải quyết “vấn đề Campuchia” và việc lập một Hội đồng tối cao bao gồm các phái
Khmer và đại diện của Campuchia đã được 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc thống nhất thông qua".

Ngày 31/8/1990, Việt Nam ra tuyên bố ủng hộ văn kiện trên. Như vậy, tuy chưa
chính thức, nhưng giải pháp chính trị cho “vấn đề Campuchia” về mặt quốc tế đã
ngã ngũ, việc giải quyết vấn đề này đến đây đã được chuyển sang cho các nước
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, vai trò của Việt Nam
không còn quan trọng như trước. Đây cũng là mốc đánh dấu những thay đổi của
Trung Quốc trong việc bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.

Ngày 23/10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia được kí kết, “vấn đề Campuchia”
- “vật cản” lớn nhất của quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung do Trung
Quốc tạo ra - đã được dỡ bỏ.

Thứ hai, xu thế hòa bình, hữu nghị trong quan hệ quốc tế và khu vực: Kể từ
năm 1987 trở đi, quan hệ Xô - Mỹ đã được cải thiện nhiều, Trung Quốc không còn
lợi dụng được mâu thuẫn Xô - Mỹ như trước. Đồng thời, quan hệ Trung - Xô cải
thiện chậm hơn so với quan hệ Xô - Mỹ làm cho vị trí của Trung Quốc bị yếu đi
trong quan hệ giữa ba nước lớn (Xô - Trung - Mĩ). Đến tháng 12/1989, lãnh đạo
Xô - Mĩ chính thức tuyên bố chấm dứt tình trạng đối đầu giữa hai nước, sự ngờ
vực của các nước Đông Nam Á đối với Việt Nam cũng tan biến khi Việt Nam đã
rút quân khỏi Campuchia (9/1989), tích cực hợp tác với ASEAN và cộng đồng
quốc tế để giải quyết dứt điểm “vấn đề Campuchia”, quan hệ giữa Việt Nam với
các nước ASEAN và các nước trên thế giới cũng dần hồi phục. Liên minh Trung -
Mĩ, Trung Quốc - ASEAN chống lại Việt Nam và Liên Xô, vì thế, không còn lí do
để tồn tại.

Chính sách kéo dài đàm phán, trì hoãn việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam
của Trung Quốc giờ đây không những bị lạc lõng trong bối cảnh mới của tình hình
quan hệ quốc tế, mà còn đi ngược lại mong muốn hòa bình, hữu nghị và hợp tác
của các nước láng giềng trong khu vực, làm cho Trung Quốc càng bị đẩy sâu vào
thế bị cô lập về mặt ngoại giao.

Có thể nói, xu thế hòa bình, hữu nghị trong quan hệ quốc tế và khu vực đã thúc đẩy
Trung Quốc (lúc này đang trong thế bị cô lập) phải thay đổi chính sách đối ngoại
nói chung và chính sách đối với các quốc gia láng giềng Đông Nam Á nói riêng,
trong đó có việc tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Thứ ba, những thay đổi trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc: Sau sự
kiện Thiên An Môn (04/6/1989), Trung Quốc bị các nước phương Tây thi hành
chính sách cấm vận. Trung Quốc bị đẩy vào thế bị bao vây, cô lập, đe dọa trực tiếp
đến quá trình thực hiện mục tiêu “bốn hiện đại hóa” của nước này.
Việc đưa sự nghiệp “bốn hiện đại hóa”, vốn đang hướng về các nước phương Tây,
tiếp tục phát triển trong hoàn cảnh bị chính các nước phương Tây bao vây, cấm vận
và sự lo ngại của các nước láng giềng quả là một thách thức quá lớn. Trung Quốc
đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cải thiện và thắt chặt quan hệ với
các nước láng giềng, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, để tạo môi trường hòa
bình, ổn định, tìm cơ hội thu hút đầu tư, thương mại, từng bước đưa đất nước thoát
khỏi thế bị cô lập, tiến tới giải tỏa sự bế tắc trong quan hệ với Mĩ và phương Tây.

Trong lúc “vấn đề Campuchia” đã tìm được giải pháp chính trị, Việt Nam trở thành
một nhân tố tích cực trong việc xây dựng một Đông Nam Á hoà bình và ổn định,
thì Trung Quốc lại tăng cường xung đột, gây căng thẳng ở biển Đông, trì hoãn bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam. Những lo ngại về sự bất ổn trong khu vực và
nguy cơ bành trướng từ Trung Quốc như đã từng diễn ra trong quá khứ của các
nước Đông Nam Á đã làm cho chủ trương tăng cường quan hệ với các nước láng
giềng Đông Nam Á gặp phải những trở ngại lớn.

Tháng 8/1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã thực hiện chuyến thăm đến các
nước trong khối ASEAN. Nhằm trấn an những lo ngại của các nước này, ông Lí
Bằng đã tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề
Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam - TG) và sẽ đàm phán để bình thường hóa quan
hệ với Việt Nam nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định cho khu vực.

Như vậy, việc tiếp tục kéo dài đàm phán, trì hoãn việc bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam và đẩy mạnh xung đột ở biển Đông giờ đây không còn có lợi cho chính
sách Đông Nam Á của Trung Quốc nữa.

Thứ tư, sự sụp đổ của các nước XHCN Đông u và Liên Xô: Trong những năm từ
1989 đến 1991, các nước XHCN ở Đông u và Liên Xô rơi vào khủng hoảng và
từng bước sụp đổ. Trung Quốc trở thành nước XHCN lớn nhất trong số các nước
XHCN còn lại. Mặc dù đang theo đuổi mục tiêu tranh thủ Mĩ và các nước tư bản
phương Tây, nhưng Trung Quốc cũng phải đối mặt với cuộc đấu tranh trong lĩnh
vực ý thức hệ tư tưởng giữa CNXH và CNTB. Thực tế này đòi hỏi Trung Quốc và
các nước XHCN còn lại khác phải xích lại gần nhau hơn.

Thứ năm, những lợi ích và mong muốn của nhân dân hai nước: Mặc dù quan hệ
Việt - Trung chưa chính thức được bình thường hóa trở lại, nhưng những hoạt động
giao lưu buôn bán giữa nhân dân vùng biên giới hai nước đã diễn ra mạnh mẽ: Sau
khi Việt Nam ra văn bản số 118 (01/1989) chính thức cho nhân dân hai bên biên
giới được xuất nhập cảnh và việc Trung Quốc lần lượt mở cửa một số điểm buôn
bán công khai ở biên giới từ năm 1988, đã hình thành nên “khoảng 300 điểm buôn
bán trên đường biên giới dài hơn 1300 km ở Quảng Tây và Vân Nam 18. Về những
hoạt động buôn bán trên vùng biên giới Việt - Trung, Reuters đưa tin (17/9/1991):
“Mặc dù công khai nhưng việc buôn bán vẫn là không chính thức. Hàng hoá của
Trung Quốc từ các nhà máy Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân đổi lấy cao su,
mây, và các nông sản của Việt Nam được chuyên chở dọc theo những con đường
mòn quá rậm rạp trên núi vì những con đường lát phẳng giữa hai bên vẫn bị đóng
cửa”. Việc giao thương tấp nập qua biên giới cho thấy nhu cầu trao đổi, hợp tác
kinh tế giữa nhân dân hai nước là rất lớn.

Theo phân tích của BBC tối 01/8/1991 thì “buôn bán với Việt Nam thực tế sẽ mang
lại lợi ích cho những tỉnh ở sâu trong nội địa Hoa lục”20. Tuy nhiên, Việt Nam
không phải là thị trường dành riêng để chờ Trung Quốc mà theo như phát biểu của
đại diện Bộ Kinh tế đối ngoại Trung Quốc thì “từ khi Việt Nam thực hiện chính
sách mở cửa, các nước Nhật, ASEAN, Mĩ đang tìm kiếm chỗ bán hàng của họ ở thị
trường Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia có sản lượng gạo, các mặt hàng nông, thủy hải sản xuất khẩu
phù hợp với thị trường Trung Quốc. Ngược lại hàng hoá Trung Quốc có giá cả rẻ,
thích hợp với khả năng kinh tế của một bộ phận lớn người tiêu dùng, đáp ứng được
nhu cầu của thị trường Việt Nam trong giai đoạn nền công nghiệp chưa mấy phát
triển sau 5 năm đầu đổi mới. Theo thống kê của Brantly Womark, mặc dù trước
11/1991, quan hệ kinh tế chính thức giữa hai nước chưa được thiết lập, nhưng kim
ngạch mậu dịch Việt Nam - Trung Quốc cũng đã tăng với một tốc độ khá nhanh:
1988: 5 triệu USD, 1989: 50,85 triệu USD, 1990: 152 triệu USD, 1991: 290,84
triệu USD”. Đó là chưa kể đến những con số không thể thống kê được do hoạt
động buôn lậu ở vùng biên giới Việt - Trung.

Như vậy, xét ở góc độ kinh tế, việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung không
chỉ là mong muốn của nhân dân hai nước nói chung và ở vùng biên giới nói riêng,
mà còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho cả hai quốc gia.

Trước bối cảnh biến động mạnh mẽ của tình hình quốc tế và khu vực, nhu cầu và
lợi ích của nhân dân hai nước Việt - Trung như trên, Trung Quốc đã điều chỉnh
chính sách trong quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á trong đó có việc
thúc đẩy vấn đề bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Ngày 12/8/1990, trong lúc đang ở thăm Singapore, Thủ tướng Trung Quốc Lý
Bằng đã đưa ra lời tuyên bố: “Trung Quốc hy vọng cuối cùng sẽ bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam3923 . Đáp lại tuyên bố trên của ông Lí Bằng, ngày
13/8/1990, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười đã ra tuyên bố hoan nghênh và khẳng định:
“Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và giải quyết những
vấn đề giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình”24

Ngày 29/8/1990, Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội đã chuyển thông điệp của Tổng Bí
thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng của Trung Quốc mời Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang đàm
phán với Trung Quốc tại Thành Đô (thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) trong
tháng 9/1990 để thoả thuận về việc giải quyết “vấn đề Campuchia” và bình thường
hoá quan hệ Việt - Trung.

Từ ngày 03 đến 04/9/1990, cuộc đàm phán Việt - Trung đã diễn ra tại Thành Đô
giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn Phạm
Văn Đồng của Việt Nam với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lí Bằng
của Trung Quốc. Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của lãnh đạo cấp cao hai nước kể từ
khi mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc xấu đi.

Tuy Hội nghị Thành Đô không bàn nhiều đến việc bình thường hóa quan hệ Việt -
Trung, nhưng Trung Quốc đã có sự chuyển hướng tích cực trong vấn đề này. Từ
chỗ khăng khăng đòi Việt Nam phải ủng hộ họ giải quyết xong vấn đề Campuchia
rồi mới nói đến bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, nay Trung Quốc đã chấp
nhận “đồng ý đồng thời với việc giải quyết toàn diện công bằng và hợp lí “vấn đề
Campuchia”, từng bước cải thiện quan hệ giữa hai nước, tiến tới thực hiện bình
thường hóa”25.

Từ sau cuộc đàm phán ở Thành Đô, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt -
Trung bắt đầu có những chuyển biến mạnh mẽ:

Trước hết là chuyến thăm Trung Quốc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tư cách
là khách mời đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc nhân lễ khai mạc Á vận hội lần
thứ 14 (ASIAD 90 diễn ra từ 18 đến 28/9/1990 tại Trung Quốc). Đồng thời trước
đó, đoàn thể thao Việt Nam trên đường đến Bắc Kinh tham dự ASIAD 90 cũng
được phía Trung Quốc tổ chức đón tiếp thân mật tại cửa khẩu Hữu Nghị.

Báo cáo tại kì họp thứ tư, Quốc hội Trung Quốc khoá VII ngày 25/3/1991, Thủ
tướng Trung Quốc Lý Bằng đã tuyên bố: “Chúng ta hy vọng phía Việt Nam và
Phnompenh xuất phát từ cục diện lớn hoà bình ổn định trong khu vực này và lợi
ích căn bản của nhân dân Campuchia, thuận theo trào lưu lịch sử, có thái độ hiện
thực làm cho “vấn đề Campuchia” sớm được giải quyết. Trung Quốc mong muốn
cùng với cộng đồng quốc tế, trong khuôn khổ các văn kiện có liên quan của Liên
hợp quốc, thông qua cố gắng sớm giải quyết toàn diện, công bằng hợp lí “vấn đề
Campuchia”. Cùng với sự tiến triển của việc giải quyết chính trị “vấn đề
Campuchia”, quan hệ Việt - Trung đã bắt đầu tan băng cũng sẽ được phục hồi từng
bước”26.

Về phía Việt Nam, chủ trương thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam xem là một nhiệm vụ đối
ngoại trọng tâm. Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá VI về các văn kiện
trình Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
đọc sáng ngày 24/6/1991 xác định: “Phấn đấu góp phần sớm đạt một giải pháp
chính trị toàn bộ về “vấn đề Campuchia”, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của
Campuchia và Hiến chương Liên hợp quốc. Thúc đẩy quá trình bình thường hoá
quan hệ Việt - Trung, từng bước mở rộng hợp tác Việt - Trung, giải quyết những
vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng”.

Thực hiện chủ trương trên của lãnh đạo hai nước, những hoạt động ngoại giao cấp
Thứ trưởng và Bộ trưởng và các cấp cao hơn giữa hai bên đã liên tiếp diễn ra để
chuẩn bị cho việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung khi “vấn đề Campuchia”
được giải quyết.

Ngày 18/7/1991, sau khi cuộc họp của Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia
(SNC) tại Bắc Kinh đã đạt được thỏa thuận cử ông Sihanouk làm chủ tịch Hội
đồng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã dẫn đầu đoàn Việt Nam sang Trung Quốc thảo
luận về “vấn đề Campuchia” và những vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm
nhằm tiến đến chấm dứt tình trạng không bình thường giữa hai nước.

Từ ngày 28/7 đến 02/8/1991, Đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước Việt Nam do
Thường trực Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh và Trưởng ban
đối ngoại Trung ương Hồng Hà dẫn đầu sang thăm và làm việc với Trung Quốc
đàm phán về việc bình thường hóa quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Việt -
Trung. Chuyến thăm và làm việc của Đoàn đại diện đã nhận được sự đồng tình,
ủng hộ và tiếp đón trọng thị từ phía lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước Trung
Quốc.

Trong buổi làm việc với đoàn đại diện đặc biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam bàn
về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung
Quốc Giang Trạch Dân đã phát biểu: “Chúng ta là hai nước láng giềng, hai Đảng
Cộng sản cầm quyền, không có lí do gì không xây dựng quan hệ láng giềng, hữu
hảo với nhau” và thông qua đoàn đại diện đặc 28 biệt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đại diện Đảng và
Nhà nước Trung Quốc mời đoàn cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung
Quốc trong năm 1991.

Trong bối cảnh Hiệp định Paris về “vấn đề Campuchia” đã được kí kết
(23/10/1991) và sự chuẩn bị của Bộ Ngoại giao hai nước cho việc chính thức bình
thường hóa quan hệ đã hoàn tất, từ ngày 05/11/1991 đến 10/11/1991, Tổng Bí thư
Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã dẫn đầu đoàn đại biểu
cấp cao Việt Nam sang thăm chính thức nước CHND Trung Hoa theo lời mời của
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân. Kết thúc chuyến thăm,
Việt Nam và Trung Quốc đã kí thông cáo chung, tuyên bố bình thường hoá quan hệ
giữa hai nước, bản thông cáo nêu rõ: “Hai bên tuyên bố hai nước Việt Nam - Trung
Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện trên cơ sở năm
nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm
lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi và
cùng tồn tại hoà bình. Hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc sẽ khôi phục
quan hệ bình thường trên các nguyên tắc độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”2.

Ngoài ra, lãnh đạo hai nước cũng đã kí Hiệp định thương mại và Hiệp định tạm
thời về việc giải quyết công việc vùng biên giới giữa hai nước, tạo cơ sở pháp lí
đầu tiên cho việc khôi phục quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên lĩnh vực thương
mại và giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ. Chuyến thăm này đã đánh dấu sự
bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, mở ra một triển vọng tốt đẹp cho
quan hệ hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước, mở ra một trang mới trong
lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sau 13 năm băng giá.

Kết luận chương 1

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng và Nhà nước Việt
Nam tiếp tục chủ động đơn phương giảm bớt những căng thẳng trong quan hệ với
Trung Quốc và liên tiếp đưa ra tuyên bố “sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất
cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ đâu”. Tuy nhiên, chính sách của Trung Quốc
lúc này là chưa muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, vì muốn lấy việc rút
quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia làm điều kiện mặc cả với Liên Xô nhằm
kéo dài đàm phán Xô - Trung. Tình trạng đó đã làm cho những nỗ lực của Việt
Nam không đạt được kết quả và trình trạng băng giá của quan hệ Việt - Trung tiếp
tục kéo dài.

Sang năm 1989, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn: quan hệ Xô - Mĩ chấm
dứt tình trạng đối đầu căng thẳng, quá trình bình thường hóa quan hệ Trung - Xô
cũng đã đi đến hồi kết, vấn đề Campuchia đã đạt được những thỏa thuận cơ bản, xu
thế quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Nam Á chuyển từ đối đầu sang đối thoại và
hợp tác, chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam đã được các nước trong khu
vực và cộng đồng quốc tế ủng hộ.

Sự căng thẳng trong quan hệ Việt - Trung lúc này không còn phù hợp với xu thế
hòa bình và hợp tác trong quan hệ quốc tế và khu vực, đi ngược lại với lợi ích và
mong muốn của nhân dân hai nước. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục kéo dài căng
thẳng với Việt Nam không còn phù hợp nữa và Trung Quốc đã đồng ý nối lại đàm
phán với Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình đàm phán trong thời gian đầu diễn ra
chậm chạp và kém hiệu quả.

Sau sự kiện Thiên An Môn (04/6/1989), để thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập
của Mĩ và các nước phương Tây khác, Trung Quốc đã đẩy mạnh tiến trình bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam và cải thiện quan hệ với các nước láng giềng
Đông Nam Á để từng bước đưa đất nước thoát khỏi khó khăn. Những thay đổi đó
đã thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung diễn ra nhanh chóng.
Tháng 11/1991, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chính thức bình thường hóa.
Có thể nói, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bình thường hóa là kết quả tất yếu xuất
phát từ nhu cầu phát triển của hai nước, từ yêu cầu hoà bình và ổn định của khu
vực Đông Nam Á và sự vận động của tình hình quan hệ quốc tế sau chiến tranh
lạnh. Đối với Việt Nam, đây là một thành công lớn trong quá trình đấu tranh ngoại
giao với Trung Quốc nói riêng và đối với việc thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam
nói chung.

You might also like