Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH VỢ/CHỒNG CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN

Tóm tắt Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội.

Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội giải quyết tranh chấp di sản thừa kế giữa các đương sự bà Nguyễn Thị
Bằng, bà Nguyễn Thị Khiết, bà Nguyễn Thị Triển, bà Nguyễn Thị Tiến – nguyên đơn và
ông Nguyễn Tất Thăng – bị đơn. Cụ Thất và cụ Tần có 4 người con chung là: ông Thăng,
bà Bằng, bà Khiết, bà Triển. Cụ Thất và cụ Thứ có 1 người con là bà Tiến. Cụ Thất (chết
năm 1961), cụ Thứ (chết năm 1994) không để lại di chúc. Cụ Tần (chết năm 1995) có để
lại mấy lời dặn dò, bà Bằng chắp bút ghi lại ngày 08/06/1994 về việc cho bà Tiến một
phần nhà đất nhưng ông Thăng không công nhận. Ông Thăng khai mẹ ông chết có để lại
di chúc, nhưng ông không xuất trình được di chúc. Các nguyên đơn khẳng định chỉ có lời
trăn trối của cụ Tần về việc chia đất cho bà Tiến do bà Bằng ghi lại nhưng bị ông Thăng
xé. Ông Thăng không công nhận cụ Thứ là vợ hai cụ Thất và bà Tiến là con cụ Thất
nhưng không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cụ Thứ không phải là vợ cụ Thất.
Căn cứ vào lý lịch bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương, bà Tiến là con cụ
Thất và là em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển cũng như xác nhận của họ hàng,
hàng xóm khẳng định cụ Thứ là vợ cụ Thất và bà Tiến là con cụ Thất cụ Thứ. Về di sản
thừa kế: các đương sự đều thống nhất khẳng định nguồn gốc 5 căn nhà và 2 gian bếp trên
640m2 đất. Số tài sản trên được cụ Thất, cụ Tần và hiện tại do ông Thăng quản lý, sử
dụng. Khi còn sống cụ Tần cho các con đất ao, đất phần trăm, nay không tính là di sản
thừa kế. Di sản thừa kế ở vụ tranh chấp này là nhà đất do các cụ Thất, cụ Tần, cụ Thứ để
lại trừ đi phần công sức duy trì tôn tạo tài sản của gia đình ông Thăng bằng 1/6 khối tài
sản như án sơ thẩm là có lý. Xử: chấp nhận đơn yêu cầu chia thừa kế của bà Tiến, bà
Bằng, bà Triển đối với ông Thăng về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Thất, cụ
Tần, cụ Thứ.

1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?

CSPL: Điều 650 BLDS 2015

Điều 650 BLDS quy định về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;


c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng
di sản hoặc từ chối nhận di sản.

2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.

Theo điểm a khoản 1 Điều 650 quy định “Không có di chúc”: Người có tài sản chết mà
không lập di chúc hoặc có lập nhưng chính họ đã tiêu hủy (xé, đốt...) hoặc tuyên bố hủy
bỏ di chúc đã lập. Người chết có để lại di chúc nhưng kể thời điểm mở thừa kế di chúc đã
bị thất lạc hoặc đã bị hư hại đến mức không thể hiện đầy đủ ý chí của người lập di chúc
đó và cũng không thể chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc (Điều
6421 BLDS 2015.

Theo điểm b khoản 1 Điều 650 quy định “Di chúc không hợp pháp” có nghĩa là: những
di chúc không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo quy định của Điều 630 2. Di chúc

1
Điều 642 quy định về Di chúc bị thất lạc, hư hại
1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy
đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của
người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.
2
Điều 630 quy định về Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được
quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại,
được coi là vô hiệu toàn bộ nếu di chúc đó do người không minh mẫn, sáng suốt lập ra, di
chúc không phải là ý nguyện đích thực của người lập.

Theo điểm c khoản 1 Điều 650 quy định “Những người thừa kế theo di chúc chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế
theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”

 Một người có thể vừa được hưởng di sản thừa kế theo di chúc, vừa được hưởng thừa
kế theo pháp luật nếu họ tồn tại vào thời điểm mở thừa kế và toàn bộ di sản của người lập
di chúc sẽ được dịch chuyển cho những người thừa kế theo pháp luật. Nếu toàn bộ những
người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc, các cơ
quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc đều không còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế, thì toàn bộ di sản của người lập di chúc được dịch chuyển toàn bộ cho những
người thừa kế theo pháp luật của người đó. Nếu chỉ một hoặc một trong số người thừa kế
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng
di sản theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên
quan đến họ mới áp dụng thừa kế theo pháp luật.

Theo điểm d khoản 1 Điều 650 quy định “Những người được chỉ định làm người thừa kế
theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”. Những người
được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản là những
người đáng lẽ được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng lại thực hiện các hành vi quy định
tại Khoản 1 Điều 621 3BLDS 2015. Nếu toàn bộ những người thừa kế theo di chúc đều
không có quyền hưởng di sản thì áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ di sản
mà người lập di chúc để lại. Nếu chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc
không có quyền hưởng di sản thì chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản
liên quan đến những người thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản đó.

cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm
chỉ của người làm chứng.
3
Điều 621 quy định về Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa
chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để
lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của
những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Theo điểm a khoản 2 Điều 650 quy định “Phần di sản không được định đoạt trong di
chúc”. Đối với di sản không được định đoạt trong di chúc được giải quyết theo pháp luật
tương tự như trường hợp không có di chúc (điểm a khoản 1 Điều 650), trừ những người
bị người lập di chúc chỉ rõ chỉ được hưởng phần di sản theo di chúc hoặc bị truất quyền
thừa kế theo di chúc.

Theo điểm c khoản 2 Điều 650 quy định “Phần di sản có liên quan đến người được thừa
kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được
hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.

 Người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối hưởng di sản của người chết để lại. Phần di
sản liên quan đến người đã từ chối sẽ được áp dụng chia theo pháp luật cho những người
thừa kế khác. Người từ chối hưởng di sản theo di chúc vẫn có thể thưởng thừa kế theo
pháp luật nhưng trong trường hợp họ từ chối toàn bộ thì toàn bộ phần di sản này sẽ được
chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác. Nếu toàn bộ những người thừa kế theo
di chúc đều từ chối quyền hưởng di sản thì toàn bộ di sản của người chết để lại sẽ được
áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác. Nếu chỉ một hoặc một số
người thừa kế từ chối quyền hưởng di sản thừa kế thì chia phần di sản liên quan đến
người này được áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác.

Theo điểm b khoản 2 Điều 650 quy định “Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc
không có hiệu lực pháp luật”

 Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế.

3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời
điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc
về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.

4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần
còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.4

 Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà di chúc không có hiệu
lực theo pháp luật thì những người được chỉ định không được nhận tài sản theo di chúc.
4
 Điều 643 BLDS 2015
2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong
Bản án số 20.

Theo em, Toà án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong bản án số 20 là hợp lí.

Vì căn cứ theo phần Xét thấy, theo nguyên đơn trình bày thì trước khi cụ Thát, cụ Thứ
chết thì không để lại di chúc. Cụ Tần có để lại mấy lời dặn dò, bà Bằng chắp bút ghi lại
ngày 08/06/1994 về việc cho bà Tiến một phần nhà đất của bố mẹ các bà để lại nhưng
ông Thăng đã xé đi và không công nhận nên coi như cụ không để lại di chúc. Mà ông
Thăng khai bố mẹ ông chết có để lại di chúc nhưng không xuất trình được.

Vì không có di chúc nào để lại nên di sản phải được chia theo pháp luật.

3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

CSPL: Điều 651 BLDS 2015

Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất

Điều 651 quy định về Người thừa kế theo pháp luậ

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc
từ chối nhận di sản”.

4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao?
Cụ Thát và cụ Thứ không đăng kí kết hôn mà chỉ chung sống như vợ chồng.

“Năm 1956 cải cách ruộng đất vì nhiều đất nên bị quy thành phần địa chủ. Bố mẹ các bà
nói với cụ Thứ tố khổ để được chia 1/2 nhà. Sau đó Nhà nước sửa sai gia đình các bà
được trả lại nhà đất, bố mẹ các bà vẫn chung sống cùng nhau. Sau khi bố các bà mất, hai
mẹ vẫn cùng nhau nuôi dạy các con”.

5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.

CSPL: Điều 1 Mục II Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP, Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP

1. Thừa kế trong trường hợp chưa có đăng ký kết hôn

a. Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, nếu có một bên
chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo
quy định của pháp luật về thừa kế.

b. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001
đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc
chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại
theo quy định của pháp luật về thừa kế”.

Theo khoản a Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP:

“4. Về những người thừa kế theo pháp luật

a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 -ngày công bố
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 -đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 -
ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả
nước -đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập
kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu
lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của
người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả
các người vợ”.
6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong
Bản án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần

Trong Bản sán số 20/2009/DS-PT ngày 11 và 12-02-2009 đoạn cho thấy câu trả lời là
“Bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm 1961) có 2 vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị
Tần (chết năm 1995), vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (chết năm 1994). Cụ Thát và cụ Tần có
4 người con chung là: Nguyễn Tất Thăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn
Thị Triển.”

7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

CSPL:

+ Điều 1, Điều 5 luật Hôn nhân và gia đình 1959

+ Khoản a, Điều 4 của Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990

Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì
cụ Thứ không là người thừa kế của cụ Thát.

Căn cứ theo Khoản a, Điều 4 của Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định về
người thừa kế theo pháp luật “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-
01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước
ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất
trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập
kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp
luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và
ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”

Căn cứ theo quy định tại Điều 1 luật Hôn nhân gia đình 1959 “Nhà nước bảo đảm việc
thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng,
bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân
chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ.”
Điều 5 luật Hôn nhân và gia đình 1959 “Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với
người khác”
Theo đó, vì mốc thời gian áp dụng luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đối với miền
Bắc sau ngày 13/01/1060 nên nếu cụ Thứ và cụ Thát chỉ sống với nhau như vợ chồng vào
cuối năm 1960 thì cụ Thứ không được xem là người thừa kế của cụ Thát.

8. Câu trả lời cho câu trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: Khoản a, Điều 4 của Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990

Nếu cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam, câu trả lời sẽ khác. Cụ Thứ sẽ là người thừa
kế của cụ Thát

Căn cứ theo khoản a Điều 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định về
người thừa kế theo pháp luật đối với người có nhiều vợ thì ở miền Nam hôn nhân thực tế
được chấp nhận trước ngày 25/3/1977, lúc này tất cả các người vợ đều là người thừa kế
hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại.

Theo đó, cụ Thát và cụ Thứ sống chung như vợ chồng từ cuối năm 1960 ở miền Nam
thì lúc này cụ Thứ được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp và là người thừa kế hàng thứ
nhất của cụ Thát.

9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của
cụ Thát trong Bản án số 20.

CSPL: Khoản a, Điều 4 của Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990

Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp lý.

Theo khoản a Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990: “a) Trong trường hợp một
người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 – ngày công bố danh mục văn bản
pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ,
bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy them vợ mà việc kết hôn sau không bị
huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế
hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ
nhất của tất cả các người vợ.”

Xét thấy, hai cụ đã chung sống với nhau như vợ chồng, từ năm 1956 trước khi có Luật
hôn nhân gia đình 1959 và đã có sự xác nhận từ các nhân chứng là cụ Nguyễn Xuân Chi,
ông Nguyễn Văn Chung, ông Nguyễn Hoàng Đăm. Các nhân chứng đều khẳng định cụ
Thứ là vợ thứ hai của cụ Thát, bà Tiến là con của cụ Thát và cụ Thứ. Bà Tiến còn xuất
trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến
có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ.

Với các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở để khẳng định là cụ Phạm Thị Thứ là vợ hai cụ
Thát.

* Tóm tắt nguồn Án lệ số 41/2021/AL

Nguồn án lệ: Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 3, 4 phần “Nhận định của Tòa án” trong Bản
án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế và chia tài sản chung”
tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Trọng P1 khởi kiện bị đơn là anh Trần
Trọng P2 và anh Trần Trọng P3 yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của ông T1 để lại.
Năm 1969,ông Trần Thế T1 chung sống với bà Tô Thị T2 sinh được 02 người con là
Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3. Do mâu thuẫn vợ chồng nên bà T2đã bỏ đi vào Vũng
Tàu sinh sống và kết hôn với người khác. Năm 1985, ông T1 chung sống với bà Trần Thị
S có con chung là Trần Thị Trọng P1. Ngày 26/3/2003 (AL) ông T1 chết không để lại di
chúc, toàn bộ tài sản do anh P2 và anh P3 quản lý sử dụng. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số
04/2009/DSST ngày 29/10/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum tuyên xử: Quan hệ hôn
nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với
nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại. Hôn nhân giữa bà S với ông
T1 được công nhận là hôn nhân thực tế nên bà S được chia tài sản chung và được hưởng
di sản thừa kế của ông T1. Trong quá trình tranh chấp Tòa án cấp sơ thẩm không tiến
hành mời địa chính đo đạc lại để xác định chính xác diện tích thực tế của lô đất đang
tranh chấp hiện tại còn bao nhiêu m2 là chưa đảm bảo tính chính xác sẽ dễ dẫn đến khó
khăn ách tắc trong khi thi hành án. Những vấn đề này cấp phúc thẩm không thể khắc
phục được do đó Bản án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 quyết định:
Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2009/DSST ngày 29/10/2009 của Toà án nhân dân tỉnh
Kon Tum. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum để giải quyết lại vụ án
theo thủ tục chung.

10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1 để


lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời.

Bà T2 không được hưởng di sản do ông T1 để lại; bà S được hưởng di sản do ông T1 để
lại.

Trong Án lệ số 41/2021/AL, đoạn cho thấy câu trả lời là: “[3] Xét bà Tô Thị T2 chung
sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy
ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã
chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản
của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng. [4] Xét sau khi bà T2 không còn sống
chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1
con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên
được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ”.

Nhận thấy : Bà Tô Thị T2 chung sống với ông Trần Thế T1 từ năm 1969 có 2 con
chung là Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3, đến năm 1982 bà T2 vào Bà Rịa -Vũng Tàu
chung sống với ông Trần Sinh D từ đó đến nay. Bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1
không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D, từ đó đến
nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn
nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại.

Xét thấy sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì từ năm 1985 ông Trần
Thế T1 và bà Trần Thị S chung sống với nhau có con chung là Trần Thị Trọng P1 cho
đến năm 2003 thì ông T1 chết. Ông T1 và bá S có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm
công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế
của ông T1 là hợp lý và có căn cứ.

11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hướng di sản của ông T1
với bà T2 và bà S.

CSPL: Điều 16, Điều 29 luật Hôn nhân và gia đình 1959.

Giải pháp pháp lý mà Tòa án có thẩm quyền đã đưa ra để giải quyết vụ việc tranh chấp
nêu trên là chưa hợp lý.

Khi giải quyết vụ việc, Tòa án có thẩm quyền đã áp dụng các quy định về hôn nhân
thực tế để giải quyết những tranh chấp phát sinh từ việc chung sống như vợ chồng.

Trong phần nội dung vụ án, bà Tô Thị T2 trình bày: “Bà và ông T1 kết hôn năm 1969
(có giấy đăng ký nhưng bị mất). Bà và ông T1 có 02 con chung là anh P2 và anh P3.
Năm 1982, bà bỏ vào Vũng Tàu và sinh sống với ông Trần Sinh D có 03 con chung. Năm
1985, ông T1 và bà S chung sống với nhau đến năm 2003 thì ông T1 chết, hai người cũng
có một số tài sản chung.”

Trong phần nhận định của Tòa án, “[3] Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không
đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó
đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không
còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án
sơ thẩm xử là đúng.” Tòa án nhận định rằng bà T2 không được hưởng di sản của ông T1
là đúng đã không đảm bảo được quyền và lợi ích của bà T2.

Nhận thấy hôn nhân giữa ông T1 và bà T2 được thừa nhận là hôn nhân thực tế và đã
đáp ứng đủ các điều kiện tiên quyết theo quy định của pháp luật là họ thực sự chung sống
với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Trong trường hợp quan
hệ hôn nhân thực tế được thừa nhận thì giữa các bên có quyền và nghĩa vụ với nhau như
vợ chồng hợp pháp, cụ thể là được chia tài sản chung và được hưởng thừa kế di sản của
nhau.

Theo quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 1959 “Khi một bên chết trước,
nếu tài sản của vợ chồng cần chia, thì chia như quy định ở Điều 29. Vợ và chồng đều có
quyền thừa kế tài sản của nhau.” Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đinh “Khi ly hôn, việc
chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và
tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất.
Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất.”

Trong trường hợp trên, trong quá trình kết hôn và chung sống từ năm 1969, bà T2 và
ông T1 đã có 02 con chung và một số tài sản chung. Do đó, để bảo vệ được quyền và lợi
ích chính đáng của các bên, bà T2 nên được hưởng thừa kế di sản của ông T1.
CON RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG

1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?

Bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào về định nghĩa của con
riêng, nhưng theo nghĩa thông thường có thể hiểu “Con riêng là con không phải do một
cặp vợ chồng cùng sinh ra, mà là con của chồng với người vợ khác hoặc là con của vợ
với người chồng khác”. Bà Tiến là con giữa cụ Thát và cụ Thứ, tức là không có bất kỳ
quan hệ huyết thống nào với cụ Tần.

2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: Điều 620, Điều 621, Điều 630, Điều 654 BLDS 2015 (Điều 679 BLDS 2005)

Điều kiện để con riêng của chồng được hưởng thừa kế di sản của vợ được quy
định tại Điều 654 BLDS 2015 về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con,
mẹ con thì được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
Ngoài ra, con riêng không được thuộc vào các trường hợp người không được
quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 5 hoặc từ chối nhận di sản theo quy định
tại Điều 6206 của Bộ luật này.

Trong trường hợp người vợ có để lại di chúc, thì di chúc phải có tên con riêng của
chồng và di chúc phải hợp pháp theo quy định tại Điều 630 7 BLDS 2015 thì lúc đó con
riêng của chồng sẽ hiển nhiên được thừa kế di sản của vợ trừ trường hợp được quy định
tại Điều 620 và Điều 621 của Bộ luật này.

5
Điều 621 BLDS 2015 quy định về Người không được quyền hưởng di sản

1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc,
sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người
để lại di sản.

2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành
vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

6
Điều 620 BLDS 2015 quy định về Từ chối nhận di sản

1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người
thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.

3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

7
Điều 630 BLDS 2015 quy định về Di chúc hợp pháp

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?

CSPL: Điều 654 BLDS 2015 (Điều 679 BLDS 2005)

Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế của cụ Tần.

Theo Điều 654 BLDS 2015 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều
653 của Bộ luật này”, trong bản án có đoạn đề cập rằng: “...Sau đó Nhà nước sửa sai gia
đình các bà được trả lại nhà đất, bố mẹ các bà vẫn chung sống cùng nhau. Sau khi bố
các bà mất, hai mẹ vẫn cùng nhau nuôi dạy các con”. Như vậy, có thể xác định rằng cụ
Tần và cụ Thứ cùng nhau chăm sóc, nuôi dạy các con, trong đó có cả bà Tiến.

Thêm vào đó, Hội đồng xét xử xét thấy: “Ông Nguyễn Tất Thăng khai mẹ ông chết
có để lại di chúc, nhưng ông không xuất trình được di chúc. Các nguyên đơn khẳng định
chỉ có lời trăng trối của bà Tần nói với các con về việc chia đất cho bà Tiến do bà Bằng
ghi lại nhưng bị ông Thăng xé đi”. Do đó, theo nguyện vọng trước khi mất của cụ Tần thì
bà Tiến được hưởng thừa kế theo pháp luật.

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều
kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước
mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi
chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc
điểm chỉ của người làm chứng.
4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

CSPL: Điều 651, Điều 653, Điều 654 BLDS 2015 (Điều 676, Điều 678, Điều 679 BLDS
2005)

Nếu đủ điều kiện thì bà Tiến sẽ được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của
cụ Tần.

Theo Điều 654 BLDS 2015 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”. Như vậy, có thể công nhận bà
Tiến như con nuôi của cụ Tần.

Viện dẫn Điều 653 BLDS 2015 về Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ
nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và
còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.”

Do đó, nếu xét bà Tiến như con nuôi của cụ Tần thì bà Tiến sẽ hiển nhiên được
hưởng thừa kế theo pháp luật, cụ thể được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS
2015 về Người thừa kế theo pháp luật:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;

5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần.

CSPL: Điều 654 BLDS 2015 (Điều 679 BLDS 2005)

Việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối với di sản của cụ
Tần là không hợp lý.
Căn cứ vào Điều 654 BLDS 2015: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”. Trong
phần Nhận thấy của Bản án trên cho thấy cụ Tần có chăm sóc, nuôi dưỡng bà Tiến như
mẹ con, kể cả sau khi cụ Thát mất. Ngoài ra, Bản án có đề cập việc cụ Tần để lại lời trăng
trối chia đất cho bà Tiến được bà Bằng ghi lại. Từ đó cho thấy bà Tiến có tư cách thừa kế
đối với di sản của cụ Tần.

6. Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh
của con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.

Mặc dù tại Điều 654 BLDS 2015 đã có quy định về Quan hệ thừa kế giữa con
riêng và bố dượng, mẹ kế, pháp luật đã đảm bảo sự công bằng cho con riêng khi khẳng
định họ đều có quyền thừa kế như con chung. Tuy nhiên, vẫn còn những nhiều chưa rõ
như sau:

Tại Điều 651 BLDS 2015 chưa xác định rõ trường hợp con riêng của vợ/chồng
thuộc hàng thừa kế thứ mấy trong ba hàng thừa kế mà chỉ viện dẫn từ các Điều khác
trong Bộ luật này. Khi có tranh chấp xảy ra, nếu không có căn cứ xác thực từ các Điều
luật khác viện dẫn tới thì không thể giải quyết được vấn đề về quan hệ thừa kế ngoài
luồng.

Hơn nữa, về việc xác định quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như thế nào là như
cha con, mẹ con. Quy định này rất chung chung khi BLDS 2015 vẫn chưa đưa ra được
mức độ, cơ chế cụ thể để làm rõ khi có những hành vi nào thì sẽ được thừa nhận có quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế. Điều này rất quan
trọng vì nó có tính ảnh hưởng pháp lý đến việc công nhận việc thừa hưởng di sản giữa
con riêng và bố dượng, mẹ kế. Vì vậy, Luật cần quy định rõ về căn cứ, mức độ đánh giá
như:

Phải nuôi dưỡng từ bao nhiêu năm hoặc từ năm con riêng của vợ/chồng bao nhiêu
tuổi đến bao nhiêu tuổi thì mới được xem là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng?

Nếu quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng chỉ có một chiều (chỉ có con riêng chăm sóc
cha dượng, mẹ kế hoặc chỉ có cha dượng, mẹ kế nuôi dưỡng con riêng) thì có được
hưởng thừa kế hay không?

You might also like