Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Phân cấp trong quản lý tài nguyên và hiện trạng ở Việt Nam

Lý do chọn đề tài
Việt Nam có diện tích tự nhiên hơn 331 nghìn km2, bờ biển dài hơn 3.260 km. Nước ta có sự
đa dạng về địa chất, địa hình, tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú về chủng loại, một
số loại có trữ lượng lớn. Đồng thời, Việt Nam còn có nhiều hệ sinh thái rừng, với sự đa dạng
và phong phú về các loài động vật, thực vật, với khoảng hơn 42 nghìn loài sinh vật đã được
xác định… tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tài nguyên bị suy thoái, cạn kiệt, lãng phí nguồn lực
quốc gia, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Đòi hỏi cấp bách cần đổi mới sự phân
cấp, phân quyền trong quản lý tài nguyên sao cho đất đai được sử dụng một cách hợp lý và
hiệu quả trên phạm vi toàn quốc.
Xuất phát từ thực trạng trên, nhóm đã chọn đề tài: Phân cấp trong quản lý tài nguyên và hiện
trạng ở Việt Nam
I- Khái quát

1. Khái niệm

Tài nguyên thiên nhiên (sau đây gọi là tài nguyên) có trong các thành phần môi trường,
tồn tại dưới dạng tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Tài nguyên là thành
phần không thể thiếu, được khai thác, sử dụng phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội
loài người. Vì vậy, với mỗi quốc gia, dân tộc, tài nguyên là nguồn tài sản, nguồn lực, nguồn
vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước.

Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp
chính quyền trên cơ sở đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với
năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước.

2. Yêu cầu trong công các quản lý tài nguyên


Công tác quản lý tài nguyên phải nhằm bảo đảm các yêu cầu sau:
- Hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tiềm năng, trữ lượng, giá trị của các
nguồn tài nguyên;
- Phát huy, cân đối nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội;
- Bảo đảm khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, hiệu quả và bền vững;
- Bảo vệ, phục hồi, phát triển các nguồn tài nguyên tái tạo.
3. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước

Tại khoản 2, Điều 13, Luật tổ chức chính quyền địa phương có quy định như sau: “Việc
phân cấp phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này và phải
được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó
xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà
nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân
cấp.
Theo Quyết định số 705/QĐ-BTNMT về việc Ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện
Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa
Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì việc phân cấp quản
lý nhà nước dựa trên 04 nguyên tắc cơ bản là:
- Bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường của Bộ Tài
nguyên và Môi trường; đồng thời phát huy tính chủ động, trách nhiệm của chính quyền các
cấp trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
- Phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường giữa
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục và các Cục quản lý chuyên ngành với
chính quyền địa phương bảo đảm tăng tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
- Phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong từng giai
đoạn, đặc thù của ngành, lĩnh vực, điều kiện và khả năng phát triển của từng khu vực, vùng
lãnh thổ, loại hình đô thị, nông thôn; phù hợp khả năng quản lý, điều hành của từng cấp và
điều kiện, khả năng cân đối các nguồn lực cần thiết để thực hiện; bảo đảm tính đồng bộ,
thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý các ngành, lĩnh vực.
- Tăng cường trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra của Bộ với
chính quyền địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, kịp thời phát hiện
các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý nghiêm minh; chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương
hành chính; đồng thời phát huy dân chủ, rộng rãi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
4. Yếu tố tác động tới phân cấp quản lý TNTN VN
Thứ nhất, yếu tố chính trị, là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đây chính là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động xây dựng
và thực hiện thể chế về phân cấp quản lý nhà nước, vì nó củng cố ý thức và niềm tin chính trị
của cán bộ, đảng viên, và quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
QLNN .
Thứ hai, cách thức tổ chức quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước, trong QLNN
các thức quản lý tập trung, thống nhất trong phạm vi toàn quốc, nhưng không phải là sự tập
trung, quan liêu một cách máy móc mà quản lý một cách khoa học, hợp lý, có sự phân công,
phối hợp trên cơ sở phân định thẩm quyền rõ ràng giữa các cấp chính quyền và đảm bảo cơ
chế kiểm soát quyền lực một cách chặt chẽ trong quá trình thực hiện.
Thứ ba, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong các mối quan hệ của thể chế, mối
quan hệ giữa pháp luật và kinh tế là mối quan hệ có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Pháp
luật phụ thuộc vào kinh tế, nhưng cũng có sự tác động ngược trở lại đối với kinh tế, nó có thể
thúc đẩy kinh tế phát triển (nếu phù hợp với kinh tế) hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế
(nếu phản ánh không đúng kinh tế).
Thứ tư, nhận thức của các cấp, các ngành về phân cấp quản lý,có tác động rất lớn đến
việc xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện về phân cấp QLNN.
Thứ năm, năng lực quản lý của cơ quan nhà nước được phân cấp, khả năng tiếp nhận,
thực thi nhiệm vụ của cơ quan nhà nước được phân cấp sẽ quyết định nội dung, mức độ phân
cấp. Bởi nếu nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp tương ứng với các nguồn lực và điều kiện
cần thiết thì đẩy mạnh phân cấp sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo, lĩnh hoạt của cơ
quan nhà nước được phân cấp. Ngược lại, nếu các nguồn lực và điều kiện cần thiết hiện có
của cơ quan được phân cấp không đủ để tiếp nhận nội dung phân cấp sẽ gây khó khăn, vướng
mắc cho cơ quan được phân cấp, hiệu quả phân cấp hạn chế .
II- Thực trạng phân cấp quản lý TNTN ở VN
Phân cấp, phân quyền để bộ máy hoạt động hiệu quả hơn

1. Thực trạng phân cấp quản lý đất đai


❖ Phân cấp
a, Về phân cấp trong quy hoạch, kế hoạch SDĐ
Theo quy định của Điều 36 Luật Đất đai năm 2013, việc lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ
được phân cấp cả theo cấp hành chính và ngành, lĩnh vực. Việc phân cấp theo nguyên tắc quy
hoạch, kế hoạch SDĐ cấp nào thì do cơ quan hành chính cấp đó tổ chức lập với sự chủ trì của
cơ quan chuyên môn.
b, Phân cấp trong hoạt động giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích SDĐ
Phân cấp quyền phân phối đất đai được quy định cụ thể tại Điều 59 (Luật Đất đai):
- UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ đối
với tổ chức, giao đất đối với cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức
nước ngoài có chức năng ngoại giao;
- UBND cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch
vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trước khi quyết định; giao đất đối với cộng đồng dân cư.
- UBND cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích
của xã, phường, thị trấn.
- UBND cấp tỉnh và cấp huyện không được ủy quyền quyết định giao đất, cho thuê đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
c, Phân cấp trong đăng ký đất đai
Thẩm quyền giải quyết đăng ký đất đai được chia thành hai trường hợp cụ thể:
Trường hợp thứ nhất - đăng ký lần đầu, thẩm quyền này được quy định tại Điều 105
Luật Đất đai do UBND cấp tỉnh (hoặc ủy quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT)
cấp Giấy chứng nhận)
Trường hợp thứ hai - đăng ký biến động, được quy định cụ thể tại Điều 37 Nghị định
43/2014/NĐ-CP gồm hai trường hợp, đối với địa phương đã thành lập Văn phòng đăng ký
đất đai một cấp thì do Sở TN&MT thực hiện (hiện nay, đa số địa phương đã hoàn tất việc
thành lập Văn phòng đăng ký đất đai), địa phương chưa thành lập Văn phòng đăng ký thì các
đối tượng do UBND cấp tỉnh cấp lần đầu thì Sở TN&MT đăng ký biến động, do UBND cấp
huyện cấp lần đầu thì UBND cấp huyện đăng ký biến động.

❖ Bất cập
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, tiến độ quy hoạch, kế hoạch SDĐ còn rất chậm, chất
lượng quy hoạch, kế hoạch SDĐ còn rất thấp. Quy hoạch của một số địa phương có nơi chưa
phù hợp thực tiễn, tính khả thi thấp, độ dự báo còn chênh lệch rất lớn.
Bên cạnh đó, việc chậm triển khai các quy hoạch, kế hoạch SDĐ dẫn đến tình trạng
quy hoạch “treo” cũng khá phổ biến, điều này ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân và
tác động tiêu cực đến việc SDĐ, tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
Một số thẩm quyền còn thuộc cá nhân chủ tịch UBND như chủ tịch UBND cấp tỉnh
thành lập hội đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện; chủ tịch UBND
cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế;
chủ tịch UBND cấp tỉnh và cấp huyện có thẩm quyền quyết định trưng dụng đất, quyết định
gia hạn trưng dụng đất; quyết định mức bồi thường…
Việc phân công quản lý nhà nước về đất đai cũng có sự chồng chéo tạo ra những mâu
thuẫn không cần thiết giữa các cơ quan, tạo kẽ hở để tham nhũng, ví dụ như ngành Tài
nguyên – môi trường thì được giao quản lý đất đai nhưng việc xác định thuế đất, giá đất, bồi
thường giải phóng mặt bằng lại do ngành Tài chính chủ trì xác định; ngoài ra còn có sự chồng
chéo khác về sự quản lý tiêu biểu như là Khoản 1 Điều 105 Luật đất đai năm 2013 với Điểm
a, Khoản 2, Điều 37 Nghị định số 43/2014/NĐ - CP;...
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của
nhiều cơ quan khác nhau: Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý đất đai,
Bộ Tài chính quản lý chính sách tài chính về đất đai, Bộ Xây dựng quản lý về nhà ở. Tình
trạng này đã gây khó khăn cho công dân và lúng túng trong việc xác định thẩm quyền tham
mưu giải quyết.

2. Thực trạng phân cấp quản lý địa chất và khoáng sản


❖ Phân cấp
Nghị định 158/2016/NĐ-CP ngày 26/11/2016 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật khoáng sản và Nghị định 21/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2013 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và
Môi trường.
Trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản được quy định tại các Điều 80, 81 Luật
Khoáng sản năm 2010. Điểm nổi bật trong việc phân cấp mà ta cần lưu ý đó là: phân cấp về
quản lý quy hoạch; cấp giấy phép hoạt động khoáng sản.
a, Phân cấp về quản lý quy hoạch:
- Việc lấy ý kiến về quy hoạch khoáng sản được thực hiện như sau:

+ Cơ quan tổ chức lập quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản. Thăm dò, khai
thác khoáng sản chung cả nước. Khai thác, sử dụng từng loại, nhóm khoáng sản làm vật liệu
xây dựng cả nước. Quy hoạch khai thác, sử dụng từng loại, nhóm khoáng sản khác cả nước .
Tổ chức lấy ý kiến các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có liên quan về quy hoạch
khoáng sản trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
+ Cơ quan tổ chức lập quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
Tổ chức lấy ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên
quan về quy hoạch khoáng sản trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
- Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày quy hoạch khoáng sản được phê duyệt hoặc được
điều chỉnh, cơ quan tổ chức lập quy hoạch khoáng sản có trách nhiệm công bố công khai quy
hoạch khoáng sản.

b, Phân cấp quản lý về giấy phép:


Điều 82, luật khoáng sản 2010

- Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai
thác khoáng sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có
khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định và công bố;
Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản.
- Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy
phép khai thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản nào thì có quyền gia hạn,
thu hồi, chấp thuận trả lại loại giấy phép đó; chấp thuận trả lại một phần diện tích khu vực
thăm dò, khai thác khoáng sản; chấp thuận chuyển nhượng quyền thăm dò khoáng sản, quyền
khai thác khoáng sản.

❖ Bất cập
Hiện nay, Luật Khoáng sản năm 2010 quy định, việc cấp phép thuộc chính quyền địa
phương và quản lý của ngành TN-MT, nhưng việc kiểm soát hoạt động kinh doanh, mua bán
tại các bãi, bến thủy nội địa lại giao cho ngành GT-VT thực hiện. Lợi dụng quy định này, đã
có đối tượng “núp bóng” bến thủy nội địa để chứa chấp, tiêu thụ khoáng sản trái phép và hợp
thức hóa “hàng hóa” bằng cách mua hóa đơn khống từ các tỉnh khác để đối phó. Trong khi,
để xác minh, xử lý hành vi vi phạm này không phải dễ vì vừa mất nhiều thời gian vừa cần sự
phối hợp của nhiều ngành, địa phương. Rõ ràng, “khoảng trống” trách nhiệm lộ rõ khi có sự
chồng chéo giữa các bên trong quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản.

3. Thực trạng phân cấp quản lý tài nguyên nước


❖ Phân cấp
Việc phân cấp quản lý về tài nguyên nước được quy định tại điều 70,71 Luật Tài
nguyên nước 2012
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về tài nguyên nước, quản lý lưu vực sông trong phạm vi cả nước.
- Bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong quản lý nhà nước về tài nguyên
nước.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm như: Ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
tài nguyên nước; Xây dựng cơ sở dữ liệu; quản lý, lưu trữ thông tin, dữ liệu về tài nguyên
nước;....
- Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm như: Tổ chức ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước;
theo dõi, phát hiện và tham gia giải quyết sự cố ô nhiễm nguồn nước liên quốc gia theo thẩm
quyền;...
❖ Bất cập
Cho đến nay hầu hết tổ chức bộ máy quản lý TNN ở cấp Sở cũng như cấp huyện chưa
đáp ứng yêu cầu để thực hiện các nhiệm vụ quản lý TNN theo quy định của Luật TNN năm
2012 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Thiếu cán bộ có chuyên môn về TNN là tình trạng phổ biến, đặc biệt là ở cấp Phòng
TN&MT các quận, huyện, thị xã, thành phố của hầu hết các tỉnh không có cán bộ chuyên
môn về TNN.

4. Thực trạng phân cấp quản lý rừng


❖ Phân cấp
Việc phân cấp quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng quy định tại Luật Lâm nghiệp
2017. Về nguyên tắc:
- Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, tổ chức quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm các diện
tích rừng có chủ.
- Chủ rừng phải thực hiện quản lý rừng bền vững; có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát
triển, sử dụng rừng theo quy chế quản lý rừng.
- Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp được tổ chức thống nhất, phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
- Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý
nhà nước về lâm nghiệp, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu
mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
- Kiểm lâm là tổ chức có chức năng quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật
về lâm nghiệp; là lực lượng chuyên ngành về phòng cháy và chữa cháy rừng.

Trách nhiệm quản lý của từng cơ quan đã được quy định rõ tại Điều 101, Điều 102, Điều 104
của Luật Lâm nghiệp năm 2017.

❖ Bất cập
Sự phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương chưa thường xuyên, thiếu
chặt chẽ; tinh thần trách nhiệm, năng lực, trình độ của lực lượng kiểm lâm, lực lượng bảo vệ
rừng chuyên trách còn yếu, tình trạng buông lỏng quản lý, tiếp tay cho đối tượng vi phạm còn
xảy ra.
III- Hạn chế, bất cập chung trong thực hiện phân cấp quản lý về TN

Thứ nhất, việc thực hiện nguyên tắc phân cấp rõ trách nhiệm bảo đảm tính công khai
minh bạch và trách nhiệm giải trình còn nhiều hạn chế, chưa được thực hiện đồng bộ, triệt để
theo yêu cầu đặt ra. Thực tiễn ở Việt Nam, một số cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương còn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của phân cấp quản lý về TN nên chưa
thực sự đẩy mạnh phân cấp hoặc phân cấp một cách hình thức biểu hiện như: Một số nội
dung nếu phân cấp cho cấp dưới sẽ thực hiện hiệu quả hơn nhưng cấp trên còn ôm đồn,
không chuyển giao hoặc chuyển giao thẩm quyền không hoàn toàn.

Thứ hai, phân cấp trong QL về TN chưa phù hợp với tình hình thực tế và nguồn lực của
địa phương. Có những vấn đề mang tính cụ thể của địa phương lại chưa được giải quyết triệt
để vì không thuộc kế hoạch đã được phê duyệt và do vậy không có kinh phí để thực hiện.
Trong nhiều trường hợp, nhiều vấn đề bất cập có thể giải quyết ngay tại cấp xã hoặc cấp
huyện, nhưng do các cấp chính quyền này thiếu nguồn lực, hoặc nguồn lực do cấp chính
quyền cao hơn quyết định, dẫn đến sự chậm trễ, kéo dài.

Thứ ba, phân cấp trong QL về TN chưa tuân thủ nguyên tắc đến yếu tố đặc thù ngành,
lĩnh vực, của đối tượng quản lý đặc biệt là chưa tính đến yếu tố đặc thù của TN , quy hoạch
được lập quá nhiều nhưng chất lượng quy hoạch thấp, quy hoạch không gắn với nhu cầu sử
dụng cũng như nguồn lực thực hiện và thiếu tính khả thi gây lãng phí nguồn lực. Quy hoạch
chủ yếu đưa ra các chỉ tiêu phát triển một cách chung chung không phù hợp với thực tiễn, dẫn
đến quy hoạch thường xuyên bị phá vỡ, phải điều chỉnh trong thời gian ngắn sau khi ban
hành.

Thứ tư, mặc dù đã có sự thay đổi, nhưng trong nhiều trường hợp, phân cấp, phân quyền
vẫn “từ trên xuống”, chưa phải “từ dưới lên”, vì vậy chưa tạo sự chủ động cần thiết cho các
cấp địa phương, đồng thời làm cho cấp trung ương quá tải, khó kiểm soát, dễ xảy ra tham
nhũng, thất thoát. Có nhiệm vụ được phân cấp sau một thời gian mặc dù hiệu quả không cao,
có bất cập phát sinh, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, thậm chí cơ quan QL không
kiểm soát được nhiệm vụ được phân cấp.

Thứ năm, nguyên tắc tăng cường trách nhiệm, theo dõi, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra
của các bộ và chính quyền trong việc thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp. Nhiều lúc,
nhiều nơi, phân cấp trong QL về TN thiếu sự giám sát, kiểm soát, trách nhiệm giải trình chưa
rõ ràng. Việc phân cấp giữa Chính phủ và chính quyền địa phương ở một số lĩnh vực chưa có
cơ chế hiệu quả để kiểm soát quyền lực; thiếu kiểm tra, thanh tra, giám sát, điều này dẫn đến
khả năng thực thi chính sách từ trung ương tới các địa phương kém hiệu quả.

IV- Giải pháp khắc phục

- Cần quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ với các bộ,
ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương cấp tỉnh và giữa các cấp
chính quyền địa phương. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ,
đồng thời thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý.
- Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan việc quản lý trong lĩnh vực tài nguyên
phải bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, việc nào cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời các
yêu cầu đặt ra.
- Khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp không
phù hợp; hình thành cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ
ràng và hợp lý giữa các bộ, ngành trong hoạt động điều tra cơ bản, quản lý, sử dụng tài
nguyên. Điều đó phải được cụ thể như sau:
+ Phân cấp, phân quyền phải rõ địa chỉ, rõ việc, rõ trách nhiệm gắn với chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp.
+ Phân cấp, phân quyền phải bảo đảm tính đồng bộ giữa các yếu tố thẩm quyền,
trách nhiệm và các nguồn lực bảo đảm.
+ Phân cấp, phân quyền cần phải phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi loại hình
chính quyền địa phương
+ Phân cấp, phân quyền phải đi đôi với kiểm soát thực thi quyền lực.
- Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, tăng cường công tác quản lý thông tin, dữ liệu về tài nguyên
đáp ứng yêu cầu phục vụ hoạch định chính sách quản lý tài nguyên, phát triển kinh tế - xã
hội.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhà nước về quản lý tài nguyên ở Trung ương
và địa phương.
- Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và người dân trong giám sát việc quản lý khai
thác, sử dụng tài nguyên, lập ra đường dây nóng xử lý thông tin tố giác vi phạm.

You might also like