Professional Documents
Culture Documents
Tài Chính Tiền Tệ
Tài Chính Tiền Tệ
Tài chính – Tiền tệ là môn học cung cấp những kiến thức nền tảng mở đầu về
lĩnh vực tài chính. Từ đó, người học có thể có cơ sở để đi sâu hơn vào các môn học
chuyên ngành Tài chính – Kế toán – Ngân hàng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, trên cơ sở thiết kế mục
tiêu chương trình đào tạo vừa đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và phù hợp với
yêu cầu đổi mới của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Trường Đại học Lao động –
Xã hội (CS2) tổ chức biên soạn tập giáo trình “Lý thuyết Tài chính – tiền tệ” dành cho
hệ Đại học.
Giáo trình Tài chính – Tiền tệ dành cho hệ Đại học sẽ cung cấp những phần lý
thuyết nền tảng về tài chính, tiền tệ, và những vấn đề có liên quan đến hoạt động tài
chính – tiền tệ trong nền kinh tế. Sau mỗi chương là phần tóm tắt nội dung và câu hỏi
ôn tập để người đọc khái quát hóa vấn đề một cách tốt hơn. Bên cạnh đó, giáo trình
cũng có kèm bộ câu hỏi trắc nghiệm để sinh viên có thể áp dụng nhanh chóng phần
kiến thức của từng chương.
Giáo trình này vừa sử dụng làm tài liệu chính trong giảng dạy và học tập của
giảng viên và sinh viên, vừa có thể làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực tài chính –
ngân hàng.
Mặc dù nhóm tác giả đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, song
khó tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp bổ
sung để giáo trình ngày càng được hoàn chỉnh hơn.
Tài chính và thị trường tài chính vẫn luôn là hai phạm trù gắn liền với nhau. Việc
tìm hiểu những vấn đề cơ bản về tài chính và thị trường tài chính cũng là một trong
những nền tảng để nghiên cứu sâu hơn các hoạt động về tài chính – tiền tệ. Chương
này cung cấp cho người đọc những kiến thức như:
Lịch sử ra đời, khái niệm, chức năng của tài chính.
Hệ thống tài chính.
Khái niệm và chức năng của tài chính.
Cấu trúc thị trường tài chính.
Thị trường chứng khoán.
1
Karl Marx đưa ra hai tiền đề cho sự ra đời của tài chính trong các tác phẩm nghiên cứu Kinh tế chính
trị học đó là sự ra đời và tồn tại của Nhà nước cùng sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
2
Lý thuết về tài chính, tín dụng, tiền tệ và ngân hàng của K.Marx tuy có hạn chế vì điều kiện lịch sử
(Marx nghiên cứu vấn đề này từ cuối TK 19), nhưng giá trị của nó hiện nay nhiều nhà kinh tế học
hiện đại vẫn phải thừa nhận.
Trong đó:
Bộ phận tài chính
Theo hoạt động của các chủ thể tài chính, cơ cấu hệ thống tài chính bao gồm thị
trường tài chính cùng với tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư
(cá nhân, hộ gia đình) và các tổ chức xã hội.
Tài chính nhà nước
Tài chính nhà nước là khâu tài chính quan trọng, hoạt động gắn liền với việc tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ chung của nhà nước, đó là phục vụ cho việc thực hiện
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên 7
các chức năng kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng của nhà nước. Tài chính nhà
nước tác động đến sự hoạt động và phtas triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Điều
này được thể hiện bằng quá trình phân phối và phân phối lại của ngân sách nhà nước –
khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Đây là một “tụ điểm” của các nguồn
tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước với
mục đích phục vụ cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp và thực hiện các
chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội.
Tài chính doanh nghiệp
Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện, đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại
phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính, tài
chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài
chính. Do vậy, nó có tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy
thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết đến tất cả các bộ
phận của hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn có nội dung
khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính doanh
nghiệp thể hiện ở chỗ, nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh
doanh hướng tới lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn tài chính được tăng
cường và mở rộng không ngừng đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Có thể chia tài chính doanh nghiệp thành tài chính các doanh nghiệp sản xuất –
dịch vụ và tài chính các tổ chức tài chính.
Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội
• Tài chính dân cư
Hoạt động tài chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài
chính ở nước ta những năm gần đây đã chỉ ra rằng nếu có những biện pháp
thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ
các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn
góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và
tiêu dùng của Nhà nước.
Đặc trưng cho bộ phận này là sự tồn tại của các quỹ tiền tệ trong các hộ gia
đình và cá nhân. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ trong khu vực dân cư là: thu
nhập từ lao động (tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp, tiền làm thêm
việc khác,…); thu nhập từ góp vốn đầu tư; thu nhập từ tài sản sản thừa kế và
quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng; … Các quỹ tiền tệ này được sử dụng
chủ yếu cho tiêu dùng, phần còn lại được tiết kiệm hay tái phân phối dưới
hình thức đầu tư.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, tính chất phân tán và đa dạng là đặc
điểm nổi bậc của tài chính hộ gia đình. Nguồn lực tài chính không quy tụ
vào những tụ điểm lớn mà phân bố rải rác, không đồng đều trong hàng triệu
tế bào nhỏ của nền kinh tế, đó là các hộ gia đình. Nhưng tổng quy mô của
nguồn vốn tiềm tàng trong các hộ gia đình thì rất lớn và cần phải có các biện
pháp lưu tâm thích đáng.
Tài chính hộ gia đình có thể có quan hệ thường xuyên với tất cả các tụ điểm
vốn và các bộ phận trong hệ thống tài chính.
• Tài chính các tổ chức xã hội
Ví dụ: Năm 2010, công ty A thành lập với mức vốn điều lệ là 30 tỷ đồng,
số cổ phần đăng ký phát hành là 3.000.000. Ta có:
30 tỷ đồng
Mệnh giá cổ phiếu = = 10.000đ/ CP
mới phát hành
3.000.000
- Giá trị ghi sổ (Book value): là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị
tài sản ròng của công ty trên bảng tổng kết tài sản.
Ví dụ: Năm 2011 công ty A quyết định tăng thêm vốn bằng cách phát
hành thêm 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá mỗi cổ phiếu vẫn là 10.000đ,
3
Tác phẩm “Góp phần phê phán kinh tế chính trị”, Mac-Ăngghen, Toàn tập- tập 13, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, năm 1993.
4
Hay hình thái ngẫu nhiên của giá trị.
5
Hình tháy đầy đủ của giá trị
6
Hình thái chung của giá trị
Bơ ở Na Uy
Da ở Pháp và Ý
Gạo ở Philippines
7
Tiền tệ hàng hóa (Commodity money)
… và đến nay một số dân tộc Châu Phi vẫn dùng cá khô, thuốc lá là vật ngang giá
trong trao đổi.
Tuy vậy, trong quá trình phục vụ trao đổi, tiền tệ bằng hàng hoá có những bất tiện
nhất định như : tính chất không đồng nhất, dễ hư hỏng, khó phân chia hay gộp lại, khó
bảo quản cũng như vận chuyển, và chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa
phương, … do đó cần có vật ngang giá chung có thể khắc phục dần những nhược điểm
trên.
Hoá tệ bằng kim loại8.
Sự mở rộng phân công lao động xã hội đi kèm với sản xuất và trao đổi hàng hoá
phát triển, đồng thời với sự xuất hiện của Nhà nước và giao dịch quốc tế thường xuyên
thì kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bật trong vai trò của vật ngang giá bởi
những thuộc tính như chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác, dễ dàng hơn,
thêm vào đó, nó lại bền hơn, dễ bị chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi, … hơn so với
hóa tệ không kim loại. Tiền bằng hợp kim vàng và bạc xuất hiện đầu tiên vào những
năm 685 – 652 trước Công nguyên ở vùng Tiểu Á và Hy Lạp có đóng dấu in hình nổi
để đảm bảo giá trị. Ở Trung Quốc, tiền bằng chì xuất hiện đầu tiên dưới dạng một thỏi
dài có lỗ ở một đầu để có thể xâu thành chuỗi. Tiền kim loại đầu tiên ở Anh làm bằng
thiếc, ở Thụy Sĩ và Nga bằng đồng, …
Như vây, hóa tệ bằng kim loại là tiền xuất phát từ hàng hóa nhưng ở đây hàng
hóa là kim loại hay đây là tiền tệ dưới dạng kim loại.
Nếu so với các loại tiền tệ trước đó, tiền bằng kim loại, bên cạnh những ưu điểm
nhất định cũng đưa đến những bất tiện trong quá trình phát triển trao đổi như: cồng
kềnh, khó cất giữ, khó chuyên chở… Dần dần trong các kim loại quý9 như vàng, bạc,..
có giá trị nội tại lớn trở nên thông dụng trong một khoảng thời gian khá lâu, và cho
đến cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, vàng dần chiếm vị thế trong vai trò vật
ngang giá, được sử dụng phổ biến và lâu dài nhất. Bạc, rồi đến đồng chỉ được sử dụng
thay thế khi thiếu vàng. Chính vì quá trình tồn tại lâu dài và khả năng bảo tồn giá trị
mà ngày nay, mặc dù tiền vàng không còn tồn tại trong lưu thông, nhưng các quốc gia
cũng như nhiều người vẫn coi vàng là một tài sản cất trữ có giá trị.
Lý do để vàng được chấp nhận rộng rãi trở thành tiền tệ:
Dễ chia nhỏ, dễ mang theo
Không bị tác động bởi sự thay đổi năng suất lao động xã hội
Có độ bền vật lý tốt và dễ nhận biết
Thuận tiện trong chức năng dự trữ giá trị.
Những đặc điểm trên của vàng rất thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ, nhưng tiền
vàng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi của xã hội khi nền sản xuất và trao
đổi hàng hóa phát triển đến mức cao. Một loạt lý do sau đây đã khiến cho việc sử dụng
tiền vàng ngày càng trở nên bất tiện, không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa:
8
Còn gọi là kim tệ
9
Hay quý kim
10
Tiền dấu hiệu
11
Còn gọi là tiền ghi sổ hay tiền tín dụng
12
Học thuyết K.Mars (nảy sinh trong thời kỳ vàng được xem là tiền tệ) cho rằng tiền có năm chức năng, đó là:
thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới.
Nhưng ngày nay, với sự đa dạng của các hình thái tiền tệ, các nhà kinh tế học hiện đại nêu ra ba chức năng đó là
thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện cất trữ.
Điều kiện để đơn vị tiền tệ của một quốc gia thực hiện tốt chức năng thước đo giá trị là:
Đơn vị tiền tệ đó phải có giá trị nội tại.
Sức mua của đồng tiền đó phải ổn định hoặc có thay đổi thì vẫn không thay đổi
nhiều qua thời gian.
13
Theo công thức tổng quát tính số cặp khi có N phân tử = N(N-1)/2
Tiêu chuẩn để tiền thực hiện chức năng phương tiện trao đổi:
- Được chấp nhận rộng rãi. - Dễ nhận biết.
- Có thể chia nhỏ. - Dễ vận chuyển.
- Được tạo ra một cách dễ dàng. - Có tính đồng nhất.
Đối với từng chủ thể trong nền kinh tế, tiền tệ có giá trị vì nó mang giá trị trao
đổi, nhưng xét trên phương tiện toàn bộ nền kinh tế thì tiền tệ không có giá trị gì cả.
Sự giàu có của một quốc gia được đo lường bằng tổng số sản phẩm mà nó sản xuất ra
chứ không phải là số tiền tệ mà nó nắm giữ. Vì xét trên phương diện đó, tiền tệ chỉ
xuất hiện trong nền kinh tế để thực hiện chức năng môi giới, giúp cho trao đổi dễ dàng
hơn chứ không tạo thêm một giá trị vật chất nào cho xã hội, tiền đóng vai trò bôi trơn
cho guồng máy kinh tế chứ không phải là yếu tố đầu vào của guồng máy đó.
14
Tính lỏng hay tính thanh khoản của tiền là khả năng chuyển đổi những loại tài sản khác thành tiền.
15
Money Supply
MS = MB × m
16
Tiền pháp định
Với C/D: Tỷ lệ tiền mặt trong lưu hành so với tiền gửi không kỳ hạn
rD: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
rE: Tỷ lệ dự trữ dư thừa của các ngân hàng thương mại
Mô hình đơn giản để mô tả sự thay đổi của tiền cơ sở xuất phát từ khái niệm về
tiền cơ sở với đẳng thức:
MB = C + R
Trong đó C là lượng tiền mặt trong lưu thông và R là dự trữ bắt buộc. Những
nhân tố làm thay đổi lượng tiền mặt trong lưu thông hoặc, và thay đổi dự trữ bắt buộc
của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương đều có thể làm thay đổi lượng
tiền cơ sở. Vì mức dự trữ bắt buộc bằng lượng tiền gửi trong các ngân hàng thương
mại nhân với tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nên ta có tiếp đẳng thức:
MB = C + D×r
Với D là lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thương mại, còn r là tỷ lệ dự
trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương kiểm soát.
Giả dụ các nhân tố còn lại không đổi, mỗi thay đổi của một trong ba nhân tố trên
đều làm cơ số tiền thay đổi cùng chiều. Vì vậy, để tăng lượng tiền cơ sở, ngân hàng
trung ương có thể:
• Tăng lượng tiền mặt trong lưu thông, chẳng hạn bằng nghiệp vụ thị trường mở
mua vào (ngân hàng trung ương mua công trái vào để bơm tiền mặt ra lưu
thông), hay đơn giản là in thêm tiền giấy, đúc thêm tiền kim loại và đưa vào
lưu thông.
• Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
• Can thiệp để điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi của các ngân hàng thương
mại bằng cách như điều chỉnh lãi suất chiết khấu.
Mặc dù có rất nhiều chủ thể có tác động tới mức cung ứng tiền nhưng NHTW
vẫn có thể sử dụng các công cụ của mình để điều chỉnh mức cung tiền theo ý muốn
chủ quan để thực hiện chính sách tiền tệ.
Quá trình đưa tiền ra lưu thông được NHTW thực hiện thông qua các cơ chế:
• Cung ứng tiền đối với Ngân sách nhà nước.
• Cho vay đối với các tổ chức tín dụng.
• Mua chứng khoán trong nghiệp vụ thị trường mở.
• Mua vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Những nghiệp vụ nêu trên thuộc nhóm ‘nghiệp vụ chi’ của NHTW và làm tăng
thêm khối lượng tiền trong lưu thông, còn ‘nghiệp vụ thu’ thì ngược lại. Tuy nhiên, về
tổng thể thì khối lượng tiền trong lưu thông luôn có xu hướng gia tăng.
17
Còn gọi là tiền cơ sở.
18
Thường gọi là tình trạng đô la hóa.
2
i2
1
i1
3
i3
Khối lượng tiền
Theo mô hình tổng cung - tổng cầu (AS-AD); sự thay đổi của thực
ADtế,dẫn
M1/P
đến sự
Q Q Q
thay đổi của sản lượng và giá cả. Khi tổng cầu tăng sẽ làm tăng sản lượng và mức giá
2 1 3
cả, ngược lại việc giảm AD có thể dẫn tới sự sụt giảm sản lượng và làm lạm phát
giảm. Phân tích của trường phái Keynes chỉ rõ tổng cầu bao gồm 4 bộ phận cấu thành:
chi tiêu tiêu dùng (C), tức tổng cầu về hàng tiêu dùng và dịch vụ, chi tiêu đầu tư có kế
hoạch (I), tức tổng chi tiêu theo kế hoạch của các hãng kinh doanh về nhà xưởng, máy
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên 39
móc và những đầu vào khác của sản xuất; chi tiêu của Chính phủ (G) và xuất khẩu
ròng (NX) tức chi tiêu của nước ngoài ròng về hàng hoá dịch vụ trong nước.
AD = C + I + G + NX
Sự tác động của tiền tệ tới hoạt động kinh tế được thể hiện thông qua sự tác động
tới các bộ phận của tổng cầu bao gồm những tác động tới chi tiêu đầu tư, chi tiêu tiêu
dùng và buôn bán quốc tế.
2.1.3.4.1 Chi tiêu đầu tư
Sự thay đổi của MS tác động tới I thông qua:
- Chi phí đầu tư. Việc thu hẹp mức cung tiền tệ của NHTW sẽ đẩy lãi suất tăng
lên, chi phí tài trợ cho các hoạt động đầu tư có thể tăng lên dẫn tới giảm lượng đầu tư,
AD suy giảm làm giảm sản lượng và giá cả. Ngược lại khi NHTW mở rộng tiền tệ, lãi
suất cân bằng của thị trường giảm đi, chi phí đầu tư rẻ hơn có thể mở rộng đầu tư, tổng
cầu tăng làm tăng sản lượng và giá cả. Tuy nhiên lãi suất không thể đại diện đầy đủ
cho chi phí đầu tư nên những tác động này có thể không rõ ràng.
- Sự sẵn có của các nguồn vốn
Khi chính sách tiền tệ là thắt chặt, mức cung tiền giảm, mặc dù lãi suất có thể
thay đổi rất ít nhưng khả năng cho vay của các ngân hàng có thể giảm (rD tăng). Việc
hạn chế tín dụng của các ngân hàng thương mại làm cho chi tiêu đầu tư giảm xuống
dẫn tới AD giảm. Khi NHTW mở rộng tiền tệ có thể làm tăng khả năng cho vay của
các ngân hàng thương mại, làm cho chi tiêu đầu tư tăng lên. Sự tác động này được thể
hiện theo quy trình:
MS khả năng cho vay I AD thu nhập và giá cả
Tuy nhiên khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại được mở rộng không
đồng nghĩa với việc nguồn vốn này sẽ được tận dụng ngay, nó còn tuỳ thuộc vào khả
năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Việc hạn chế khả năng cho vay của hệ thống ngân
hàng có tác dụng tốt hay không còn tuỳ thuộc giới hạn của việc kiểm soát vốn quốc tế.
Ngoài ra, sự thay đổi của cung tiền tệ có tác dụng đến giá cổ phiếu, khi dân chúng giữ
nhiều tiền hơn họ muốn chẳng hạn, chi tiêu vào thị trường cổ phiếu có thể tăng lên làm
tăng giá cổ phiếu; giá trị ròng của các hãng tăng lên có nghĩa là những người cho vay
sẽ được đảm bảo nhiều hơn cho các khoản vay của mình, như vậy khuyến khích cho
vay để tài trợ cho chi tiêu đầu tư, tổng cầu tăng thúc đẩy sự gia tăng sản lượng và giá
cả.
2.1.3.4.2 Chi tiêu tiêu dùng
- Ảnh hưởng đối với lãi suất
Do chi tiêu tiêu dùng hàng lâu bền thường được tài trợ một phần bằng đi vay, do
vậy lãi suất thấp hơn sẽ khuyến khích người tiêu dùng tăng chi tiêu tiêu dùng lâu bền.
Sự ảnh hưởng của tiền tệ tới tổng cầu như sau:
MS i chi tiêu tiêu dùng lâu bền AD thu nhập và giá cả
Cũng tương tự như đối với ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư, sự ảnh hưởng của lãi
suất đến chi tiêu tiêu dùng lâu bền có thể là nhỏ.
- Ảnh hưởng đến thị trường cổ phiếu
Chi tiêu tiêu dùng cho hàng hoá lâu bền và dịch vụ của dân cư phụ thuộc rất lớn
vào thu nhập cả đời của họ chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại. Khi giá cổ phiếu
tăng lên, giá trị tài sản tài chính tăng lên làm thu nhập cả đời của người tiêu dùng và
tiêu dùng sẽ tăng. Cơ chế tác động này như sau:
Trong trường hợp kỳ khoản đầu tiên phát sinh cuối kỳ và số tiền phát sinh ở mỗi
kỳ bằng nhau ( CF1 = CF 2 = ... = CF t = A ) thì dòng tiền được gọi là dòng tiền đều phát
sinh cuối kỳ và giá trị tương lai của dòng tiền đều phát sinh đầu kỳ là:
(1 + k)t − 1
FVt = A. (1 + k) (2.10)
1
k
Ví dụ: Đầu mỗi năm chị B gửi vào tài khoản ngân hàng số tiền 100.000.000 trong
4 năm với lãi suất 10%/năm, biết tiền lãi được nhập vào vốn gốc hàng năm. Hãy tính
tổng số tiền tích lũy sau 4 năm?
2.4.3.2.2 Giá trị hiện tại của một dòng tiền
Giá trị hiện tại của một dòng tiền được tính bằng tổng giá trị hiện tại của các
khoản tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau trong tương lai với lãi suất tương ứng.
Giá trị hiện tại của một dòng tiền phát sinh cuối kỳ:
Gọi CFj là số tiền phát sinh ở kỳ thứ j và kỳ khoản đầu tiền phát sinh cuối kỳ
. Công thức tổng quát tính giá trị hiện tại của một dòng tiền không đều phát
sinh cuối kỳ:
t CF j
PV = ∑ j
(2.11)
j=1 (1 + k)
Trong trường hợp kỳ khoản đầu tiên phát sinh cuối kỳ và số tiền phát sinh ở mỗi
kỳ bằng nhau ( CF1 = CF 2 = ... = CF t = A ) thì dòng tiền được gọi là dòng tiền đều phát
sinh cuối kỳ và giá trị hiện tại của dòng tiền đều phát sinh cuối kỳ là:
1 − (1 + k)− t
PV = A. (2.12)
k
Giá trị hiện tại của một dòng tiền phát sinh đầu kỳ:
Gọi CFj là số tiền phát sinh ở kỳ thứ j và kỳ khoản đầu tiền phát sinh đầu
kỳ . Công thức tổng quát tính giá trị hiện tại của một dòng tiền không đều phát
sinh đầu kỳ:
k
Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, hay nói cách khác chỉ khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển
đến một bước nhất định thì mới dẫn đến sự ra đời của tiền tệ.
Đã có nhiều hình thái tiền tệ xuất hiện để đáp ứng nhu cầu trao đổi và lưu
thông hàng hóa như: hóa tệ, tín tệ, bút tệ, tiền điện tử.
Về bản chất, tiền tệ là bất cứ vật gì được chấp nhận chung để đổi lấy hàng
hoá, dịch vụ hoặc để thanh toán các khoản nợ.
Các chức năng của tiền tệ, theo kinh tế học hiện đại, gồm có chức năng
phương tiện trao đổi, thước đo giá trị, phương tiện cất trữ.
Cung, cầu tiền tệ; vấn đề cân đối cung, cầu tiền tệ và tác động của cung, cầu
tiền tệ đến hoạt động kinh tế.
Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả lãi và vốn vay sau
một thời gian nhất định.
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và khoản vốn vay ban đầu
trong một khoản thời gian xác định
Phân biệt phương pháp cơ bản để áp dụng cho các vấn đề về tính lãi, đó là
phương pháp lãi đơn và phương pháp lãi kép.
Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi của một đơn vị tiền tệ nước này thành
những đơn vị tiền tệ nước khác
4.1 KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
4.1.1 Khái niệm Ngân hàng Trung ương
Tất cả các quốc gia trên thế giới mỗi quốc gia đều có một Ngân hàng Trung
ương. Mô hình tổ chức và hoạt động của mỗi ngân hàng trung ương có thể khác nhau.
Ngân hàng Trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng, được độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, thực hiện
việc tổ chức, điều hòa lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước với mục tiêu cơ bản là
ổn định giá trị đồng tiền.
Bằng việc ban hành các văn bản pháp lý để hướng dẫn và giám sát hoạt động của
các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung ương đóng vai
trò như một chủ thể dẫn dắt nhằm bình ổn nền kinh tế theo những mục tiêu đã đề ra.
4.1.2 Các chức năng của Ngân hàng Trung ương
Dù có khác nhau về tên gọi, tổ chức và hoạt động nhưng để đảm bảo cho lưu
thông tiền tệ ổn định, hệ thống Ngân hàng Trung ương ở mỗi nước đều hoạt động theo
những chức năng như:
4.1.2.1 Chức năng phát hành tiền và điều tiết lượng tiền trong lưu thông
Nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc
gia, toàn bộ việc phát hành tiền được Nhà nước cho phép tập trung độc quyền
vào Ngân hàng Trung ương. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương trở thành trung
tâm phát hành tiền vào lưu thông,
Giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại do Ngân hàng Trung ương phát hành là
phương tiện thanh toán hợp pháp trong quá trình lưu thông, trao đổi hàng hóa,
dịch vụ. Cho nên, việc phát hành tiền tệ của Ngân hàng Trung ương có tác
động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước và bình ổn giá trị
đồng tiền, đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc
nghiêm ngặt.
Việc phát hành tiền của Ngân hàng Trung ương được thực hiện qua 4 kênh:
cho vay đối với chính phủ, phát hành qua thị trường mở, cho vay đối với nền
kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, phát hành tiền để tăng dự
trữ ngoại tệ.
• Tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước:
Ngân hàng Trung ương tạm ứng cho nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời
từ quỹ ngân sách Nhà nước.
• Phát hành thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Tùy theo điều kiện từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều quy định về việc
xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Có thể chung cho tất cả các ngân
hàng thương mại hoặc có thể quy định riêng cho từng ngân hàng.