Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 50

🥦CẢM NHẬN HAI KHỔ THƠ ĐẦU BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC - VIỄN PHƯƠNG🥦

(Tài liệu ôn thi vào 10)


----------------
“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!”
(Bác ơi – Tố Hữu)
Khi Bác mất, có không ít nhà thơ đã bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn của mình đối với vị
cha già, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Viễn Phương cũng không ngoại lệ, ông đã góp vào
kho tàng thơ văn Việt Nam một bài thơ khiến người đọc cứ lưu luyến mãi: là bài “Viếng
lăng Bác”. Đặc biệt, hai khổ đầu của bài thơ để lại cho ta những cảm xúc bồi hồi lạ
thường:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bạc

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Bài thơ mở đầu với lời giới thiệu đậm chất ngôn ngữ Nam Bộ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Cách xưng hô của tác giả trong câu thơ đầu tiên này thật đặc biệt. Đó là cách xưng hô
“Con” – “Bác” rất gần gũi, thân thương của người dân Nam Bộ. Dường như nó đã xoá tan
đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi vì trong thâm tâm mọi
người, Bác là người cha kính yêu:
“Người là Cha, là Bác, là Anh.
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ ”
(Sáng tháng năm – Tố Hữu)
Cụm từ “ở miền Nam” như thông báo cho Bác biết rằng người con ấy đến từ một nơi rất
xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chỉ
mong có ngày giành được độc lập, thống nhất, đón Bác vào thăm.
Cụm từ ấy như thông báo cho Bác biết rằng: miền Nam máu mủ ruột thịt giờ đây đã được
giải phóng rồi Bác ơi! Khi còn sống Bác vẫn nhớ miền Nam da diết, mong ngày được vào
thăm miền Nam thân thương:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Miền Trung nhớ Bác – Tố Hữu)
Động từ “thăm” cũng như một sự nói giảm nói tránh hay mặt khác còn là sự đấu tranh,
đối lập giữa lí trí và thể xác. Dù nhà thơ không muốn tin Bác đã mất rồi nhưng sự thật
hiện tại vẫn là thể. Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương
sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Từ cảm thán “Ôi” biểu thị bao niềm xúc động tự hào về hàng tre trước lăng Bác. Với biện
pháp ẩn dụ hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh
giữ cho giấc ngủ của Bác. “Hàng tre xanh xanh” mộc mạc như muốn nhấn mạnh sức
sống bền bỉ của tre hay dân tộc Việt Nam. Cái “xanh” ấy cũng đã được tác giả Nguyễn
Duy nhắc đến trong thơ của mình:
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Từ ngày xưa đã có bờ tre xanh"
Quả thật, đi suốt chiều dài lịch sử, đâu đâu ta cũng thấy bóng tre thấp thoáng. Tre của
Thép Mới “giữ nhà, giữ cửa, giữ túp lều tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre anh hùng chống
giặc ngoại xâm, luỹ tre làng còn là nơi tâm tình, hò hẹn của những đôi trai gái. Khi dần
tiến tới lăng Bác, cảnh vật xung quanh Viễn Phương lại thay đổi:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ ”
Ai đã từng vào thăm lăng Bác mới cảm nhận được vẻ đẹp của câu thơ này. “Mặt trời
trong lăng” vừa là bút pháp tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ. Mặt trời là nguồn sáng của vạn
vật khi nó mang ánh sáng đến khắp hành tinh. Bác Hồ là người đem lại ánh sáng khắp
dân tộc, soi sáng bầu trời đêm của những cuộc đời tăm tối, nô lệ. Thật ra, việc so sánh
Bác với hình ảnh mặt trời không chỉ là phát hiện của Viễn Phương mà chúng ta đã từng
bắt gặp điều này ở trong ca dao kháng chiến:
“Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương’’
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
“Người là hoa của đất trời” – Dòng người đi thăm lăng Bác được ví như những bông hoa
tươi đẹp, rạng rỡ, “kết thành tràng hoa” dâng lên Bác.
Bài thơ là hình ảnh ẩn dụ đẹp, từ ngữ giản dị mà cô đúc, nhà thơ đã bộc lộ hết tình cảm
của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc – Bác Hồ. Còn riêng bản thân, em luôn
khắc sâu trong tim mình hình ảnh của Bác. Em hứa với lòng mình sẽ cố gắng học giỏi,
thực hiện tốt năm điều Bác đã dạy để xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ thân thương.

🫒CẢM NHẬN KHỔ THƠ SAU - VIẾNG LĂNG BÁC🫒


(Tài liệu ôn thi vào 10)
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
---------------------
Vào ngày mùng 2/9/1969, người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam – Hồ Chí Minh đã ra
đi cùng với thế giới người hiền, nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt đồng bào nhân dân cả nước
và bạn bè quốc tế viết lên những vần thơ thể hiện niềm kính yêu, tiếc thương vô hạn
trước sự kiện lịch sử trọng đại này. Bảy năm sau ngày mất của Bác, cảm xúc ấy vẫn còn
vẹn nguyên trong lòng Viễn Phương – người con của miền Nam trong một dịp ra thăm
miền Bắc vào lăng viếng Bác. Điều đó đã được nhà thơ ghi lại trong bài thơ “Viếng lăng
Bác” (1976) với một ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tinh tế, giàu cảm xúc thể hiện niềm kính
yêu, sự xót thương và lòng biết ơn đối với vị lãnh tụ của dân tộc.
Với lòng kính yêu vô hạn đối với Bác Hồ, đã từ rất lâu, Viễn Phương mong ước được ra
Bắc viếng thăm làng Bác. Thế nhưng, quân Mĩ ngang ngược, cuộc chiến kéo dài, mãi
đến khi đất nước được giải phóng, hai miền Nam – Bắc hợp nhất, Viễn Phương mới có
cơ hội cùng đoàn đại biểu miền Nam thăm lăng Bác. Cảm xúc vừa hân hoan, mừng rỡ,
vừa ngậm ngùi, xót xa hòa quyện trong lời thơ tha thiết nghẹn ngào. Đứng trước lăng
Người, nhà thơ nghĩ về tấm lòng của bác đối với dân tộc, nghĩ về cuộc đời gian lao, vĩ đại
mà Bác đã dành trọn cho nhân dân, đất nước:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hình ảnh “mặt trời” ở câu thơ trên là mặt trời thực, chỉ mặt trời trong tự nhiên, rực rỡ, chói
lọi, vĩnh hằng, ngày ngày vẫn đi qua trên lăng. Hình ảnh “mặt trời” ở câu thơ dưới là phép
ẩn dụ về Bác, nguồn sáng vĩnh hằng soi đường chỉ lối cho dân tộc ta đi. Màu sắc “rất đỏ”
làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp, ấn tượng sâu xa, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng
yêu nước nồng nàn của Bác
Ví Bác như “mặt trời” là để nói lên sự vĩ đại của Bác, người đã đem lại cuộc sống tự do
cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm dài nô lệ. Nhận thấy, Bác là một “mặt trời trong lăng
rất đỏ” thể hiện sức liên tưởng sâu sắc của nhà thơ. Đây chính là sáng tạo riêng của Viễn
Phương, nó thể hiện được sự tôn kính của tác giả, của nhân dân đối với Bác.
Tiếp đến, khi nhìn những dòng người dài tăm tắp, nghiêm trang xếp hàng vào lăng viếng
thăm Bác, nhà thơ bùi ngùi, ấm áp:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” gợi lên sự bồi hồi, xúc động trong lòng tiếc
niềm thương kính cẩn, trong lòng nặng trĩu nỗi nhớ nhung. Đó là sự hình dung về dòng
người đang nối tiếp dài vô tận hàng ngày đến Viếng lăng Bác bằng tất cả tấm lòng thành
kính và thương nhớ, hình ảnh đó như những tràng hoa kết lại dâng người. Hai từ ngày
ngày được lặp lại trong câu thơ như tạo nên một cảm xúc về cõi trường sinh vĩnh cửu.
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như “tràng hoa”, dâng lên Bác.
Cách so sánh này vừa thích hợp và mới lạ, diễn ra được sự thương nhớ, tôn kính của
nhân dân đối với Bác. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ những người con từ khắp miền đất
nước về đây viếng Bác giống như những bông hoa trong vườn Bác được Bác ươm trồng,
chăm sóc nảy nở rộ ngát hương về đây tụ hội kính dâng lên Bác. “Bảy mươi chín mùa
xuân” chỉ sự tận hiến của Người dành cho sự nghiệp cách mạng để làm nên mùa xuân tự
do, độc lập cho đất nước, con người.
Sự sống của Bác đã kết thúc nhưng tình yêu của Bác dành cho dân tộc là vĩnh hằng.
Muôn người Việt Nam, dù già hay trẻ, lớn hay nhỏ đều giữ ở trong tim hình ảnh Bác Hồ vĩ
đại, dịu hiền với nụ cười rạng rỡ, đôi mắt sáng trong, lúc nào cũng trìu mến. Nhà thơ tuy
không nói ghét nhưng qua những hinh ảnh giản dị, giàu sức gợi cũng đủ khiến cho người
đọc mở rộng liên tưởng mình.
Từ cảm xúc thành kính, ngưỡng mộ ở khổ thơ 2, tiếp sang khổ thơ thứ ba, khi bước vào
trong lăng, đứng trước linh cữu của Người, Viễn Phương ngậm ngùi xúc động:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Hình ảnh Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” trong giấc ngủ bình yên là một hình ảnh
tượng trưng cho vẻ đẹp thanh thản, phong thái ung dung và thanh cao của Bác. Người
vẫn đang sống cùng với nhân dân đất nước Việt Nam thanh bình tươi đẹp. Mạch cảm
xúc của nhà thơ như trầm lắng xuống để nhường chỗ cho nỗi xót xa. Niềm biết ơn thành
kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác.
Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian trong
lăng. Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng thú vị: ánh trăng (hình ảnh ẩn
dụ). Hình ảnh vầng trăng “dịu hiền” gợi lên tâm hồn cao đẹp, nhân cách thanh cao của
Người.
Những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng. Trăng gắn két với Người trong những đêm
trầm miên suy nghĩ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)
Trang đến khi Bác hội đàm việc quân:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
(Rằm tháng giêng – Hồ Chí Minh)
Trăng đến gõ cửa khi lâu mà không thấy thi nhân vì mải lo việc nước mà quên ngắm
nhìn:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau,
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về”.
(Tin thắng trận – Hồ Chí Minh)
Trăng còn vào nhà lao, hỏi thăm người tù cộng sản:
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Trăng theo tới khe cửa ngắm nhà thơ”.
(Ngắm trăng – Hồ Chí Minh)
Có thể nói, trăng với Người là hai mà là một, là người đồng chí, đồng đội của Bác, lúc
nào cũng đồng hành, kề vai sát cánh trong từng nhiệm vụ, trong từng khoảnh khắc. Giờ
đây lại xuất hiện soi sáng giấc ngủ cho Người. Sức liên tưởng của Viễn Phương thật kì
diệu, trong một câu thơ đã có thể nhìn rõ tâm tình của Bác.
Cả cuộc đời Bác ăn không ngon, ngủ không yên khi đồng bào miền Nam còn đang bị
quân thù giày xéo. Nay miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất mà Bác đã đi
xa. Nhà thơ muốn quên đi sự thực đau lòng đó và mong sao nó chỉ là một giấc ngủ thật
bình yên:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Hình ảnh “trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ nói lên sự trường tồn bất tử của Bác. Trời xanh thì
còn mãi mãi trên đầu, cũng giống như Bác vẫn còn sống mãi mãi với non sông đất nước.
Đó là một thực tế. Thế nhưng, nhìn linh cữu của Bác trong lăng, cảm thấy Bác đang trong
giấc ngủ ngon lành, bình yên mà vẫn thấy đau đớn xót xa mà sao nghe nhói ở trong tim!
Dù rằng Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, nhưng sự ra đi của Bác vẫn không
sao xoá đi được nỗi đau xót vô hạn của cả dân tộc, ý thơ này diễn tả rất điển hình cho
tâm trạng và cảm xúc của bất kì ai đã từng đến Viếng lăng Bác.
Bác dù đã ra đi nhưng hóa thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi với sự
nghiệp giải phóng dân tộc lớn lao, vĩ đại. Tư tưởng của Bác mãi mãi là nguồn sáng soi
đường cho dân tộc ta bước tới tương lai. Trái tim của Bác dành cho dân tộc mãi mãi là
nguồn yêu thương sưởi ấm tâm hồn dân tộc, là nguồn động viên, lời nhắc nhở dân tộc
kiên trì, nhẫn nại đạp bằng gian lao tiến tới.
Với lời thơ cô đọng, giọng thơ trang nghiêm thành kính, tha thiết và rất giàu cảm xúc, bài
thơ đã để lại ấn tượng rất sâu đậm trong lòng người đọc. Khổ 2 và 3 của bài thơ không
những chỉ bộc lộ tình cảm sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ mà còn nói lên tình cảm
chân thành tha thiết của hàng triệu con người Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu của
dân tộc.
🥑Cảm Nhận Khổ Cuối Bài Thơ Viếng Lăng Bác 🥑
(Tài liệu ôn thi vào lớp 10)
------------------
Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời vào năm 1976, đây là thời điểm đất nước hòa bình, hai
miền thống nhất, nhà thơ có dịp ra thăm lăng Bác. Bài thơ thể hiện niềm kÍnh trọng và
tình yêu thương và tiếc nuối của tác giả cũng như đồng bào miền Nam khi ra thăm Bác.
Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và thành công nhất là Hoàng Hiệp có cùng nhan
đề.
Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng
Bác và trở về miền Nam để tiếp tục dựng xây, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên
cường, máu lửa của tổ quốc.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác nhà thơ đã không thể nào kìm được lòng mình nữa,
tuôn trào nước mắt. Những khổ thơ ở trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ
vẫn cố kìm giữ trong đến khổ thơ cuối thì cảm xúc của nhà thơ đã tuôn theo dòng nước
mắt tuôn rơi. Từ ngữ biểu cảm đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên tới đỉnh điểm.
Từ cái nỗi xúc động đó tác giả thể hiện ước nguyện của mình:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Điệp ngữ “muốn làm” khiến cho nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện được khát
vọng mãnh liệt của mình. Khát vọng đó được bộc lộ qua những hình ảnh thơ vừa đẹp
vừa gợi cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu” tất cả để làm đẹp
cho nơi Bác nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình
để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.
Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” càng nhấn mạnh thêm cái ước mơ của tác giả
được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là
khát khao chung của rất nhiều người, bởi vì
“ Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,
Ta bỗng lớn ở bên người một chút”
Viễn Phương cũng cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong
khổ cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”, cây tre này khiến cho chúng ta nhớ lại hình ảnh
“hàng tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” đã làm nên kết
cấu đầu cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu như mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả
dân tộc sẽ là hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại một lần nữa hình ảnh “cây tre”
để nhấn mạnh tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời thực hiện lý tưởng
của người và đây cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.
Theo bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về chúng ta
nhận ra được dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và cnagf lúc càng
phát triển. Nỗi đau cứ được dâng cao và đến khổ cuối thì dâng lên tới đỉnh điểm, nỗi đau
ấy cũng chính là tiếng lòng của tất cả người dân Việt Nam.
Tác giả chưa bao giờ có ước muốn sẽ làm điều gì đó cao cả, kỳ vĩ mà chỉ là “con chim
hót”, “đóa hoa tỏa hương” mà thôi, đó là những hình ảnh vô cùng nhỏ bé, bình dị nhưng
đó là tất cả những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác.
Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường thì đến khổ thơ cuối này
hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là hình ảnh nghệ thuật nhân hóa, đó là tấm lòng
thành kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra đó là tình cảm của toàn
dân tộc kính dâng lên người.
Nếu như ở mấy khổ trên địa từ nhân xưng, chủ thể nói tới là tác giả, là “con” thì ở khổ
cuối chủ thể đó bị ẩn đi, không phải tác giả không nhắc tới nữa mà lúc này chủ thể là tất
cả người con Việt Nam chứ không riêng gì tác giả nữa. Khổ cuối khép lại đó là cảm giác
chia tay, xa cách về không gian địa lý, thời gian nhưng nó lại gần gữi trong ý chí và tình
cảm, lòng trung hiếu
Bài thơ “viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi được vào
viếng lăng Bác. Bài thơ có giọng điệu trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm, ngôn
ngữ giản dị mà cô đúc. Bài thơ chính là tâm tình, là lời tri ân, sự biết ơn của con dân gửi
tới vị cha già kính yêu của dân tộc, cả đời gắn bó, sát cánh, hy sinh cho sự nghiệp của cả
dân tộc.

🍊CẢM NHẬN KHỔ THƠ 1 BÀI THƠ NÓI VỚI CON CỦA Y PHƯƠNG🍊
(Tài liệu ôn thi vào 10)
------------------
Mỗi con người sinh ra đều có gia đình, quê hương, nguồn cội. Nơi ấy đã nuôi dưỡng ta
lớn, dạy ta bài học đường đời đầu tiên, cho ta từng ấy thời gian yêu thương, san sẻ. Hai
tiếng quê hương luôn là đề tài truyền cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Y Phương - một
nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào -
đã truyền tình yêu gia đình, yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc vào Nói với con thông
qua lời của một người cha nhắc nhở con trước lúc con lên đường. Cả bài thơ là từng lời
chân thành, mộc mạc trong đó khổ đầu với những ý thơ đẹp, Y Phương đã gửi vào lòng
người tình cảm gắn bó với gia đình, quê hương, đó là tình cảm thiêng liêng đáng giữ gìn:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Gia đình! Tiếng gọi thân thương bắt đầu cho mọi tình cảm tốt đẹp của con người. Gia
đình là cái nôi ấm là điểm tựa vững chắc của mỗi người làm bến đỗ bình yên sau những
gian truân vất vả của cuộc đời.
Nơi ấy là nơi mẹ về sau buổi chợ trưa với vành nón lá “quê hương là cầu tre nhỏ/ mẹ về
nón lá nghiêng che” (Quê hương - Đỗ Trung Quân). Là nơi có cha tẩn mẩn gọt từng nan
tre là cho con cánh diều be bé. Gia đình là nơi con bước những bước đầu tiên chập
chững, là nơi lưu giữ tiếng nói,tiếng cười con trẻ. Xuyên suốt toàn bộ mạch cảm xúc của
khổ thơ đong đầy sự đầm ấm và yên vui của tình cảm gia đình tình yêu quê hương đất
nước.
Trong bốn dòng thơ đầu bài thơ là hình ảnh của người con lớn lên trong tình cảm gia
đình êm ái yêu thương. Ở đó còn toát lên tình yêu thương dạt dào sâu nặng và người
cha dành cho đứa con thân yêu của mình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Hiện lên qua từng con chữ vần thơ là một mái nhà đầm ấm yên vui có cả cha có mẹ và
có cả con. Ở đó, cha mẹ đã dìu dắt và nâng đỡ con từng bước đi tiếng nói nụ cười đầu
tiên trong cuộc đời. Bằng những từ ngữ giàu hình ảnh cùng với phép liệt kê “chân phải,
chân trái, tiếng nói, tiếng cười”, Y Phương đã vẽ ra trước mắt người đọc không khí ấm
cúng, hạnh phúc của một gia đình. Ở đó, có một đứa trẻ đang vừa lên một đang cố bước
những bước chân non nớt về phía cha mẹ mình. Không có gì đáng yêu hơn là đôi bàn
chân hồng hồng đi trên sàn nhà và đôi tay bé xíu vẫy vẫy cha mẹ. Trong sự đáng yêu ấy
là cả niềm mong đợi, vui sướng của mẹ cha khi lần đầu được nghe con bập bẹ “mẹ ơi,
cha ơi”, lần đầu nhìn thấy con vững chãi bước đi trên chính đôi chân của mình. Câu thơ
mộc mạc cứ như một lời kể nhưng bên trong lại là những tình cảm thân thương, trìu mến
của cha mẹ dành cho đứa con bé bỏng. Nụ cười của con, tiếng nói của con làm sống lại
những kỉ niệm tưởng chừng đã mất khi cha mẹ còn là một đứa trẻ:
Bàn chân từng đạp bằng sắt đá
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên.
(Tên làng - Y Phương).
Những bước đi của con là bước đi của thời gian, bước đi nối tiếp nhau của các thế hệ.
Ngày xưa, ông bà đã từng nắm lấy đôi bàn tay cha mẹ dìu đi thì bây giờ đôi tay cha mẹ
đủ trưởng thành để dìu dắt con, làm chỗ dựa cho con để con yên tâm khôn lớn. Điểm tựa
vững chắc là gia đình đã nuôi dưỡng tâm hồn con lớn lên từng ngày.
Con con chỉ lớn lên trong vòng tay của cha mẹ trong tình yêu thương của gia đình mà là
còn trong sự đùm bọc của quê hương trong vẻ đẹp của người đồng mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Từ tình cảm gia đình sâu nặng, người cha hướng con đến tình cảm dành cho quê hương,
cho dân tộc mình. Tác giả đã khéo léo dùng cụm từ “người đồng mình” để nhắc đến
những con người giản dị, mộc mạc nơi rừng núi. Người đồng mình cũng là người quê
mình nhưng trong “đồng” ta thấy được cả sự đoàn kết, gắn bó: cùng chung quê hương -
đồng hương, cùng chung tấm lòng: đồng lòng, cùng chung chí hướng - đồng chí vì tất cả
chúng ta là đồng bào!
Cha đang kể cho con nghe về người đồng mình trong cuộc sống sinh hoạt. Con lớn lên
không chỉ nhờ vào tình yêu của cha mẹ, tình cảm gia đình mà còn nhờ vào công sức lao
động của người đồng mình. Họ là những con người có đôi bàn tay tài hoa khéo léo:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Hai động từ “cài” và “ken” đã cho thấy rõ sự tài hoa trong cách dùng từ của nhà thơ Y
Phương. Tác giả đang hướng bạn đọc đến với sự kết nối giữa giá trị lao động và giá trị
nghệ thuật. Và có thể thấy bức vách ở đây không chỉ là bức vách cụ thể bằng đất bằng
đá nữa mà nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Y Phương đã miêu tả đôi bàn tay với
những chi tiết nhỏ nữa là phi lý nhưng lại tái hiện lên được nét đặc trưng của người dân
tộc Tày, đó chính là sự tài hoa tâm hồn đầy lãng mạn. Cụm từ “vách nhà ken câu hát” đã
làm bừng dậy một không gian văn hóa của người dân tộc Tày ở tỉnh Cao Bằng. Vách nhà
được làm bằng nhiều tấm gỗ hoặc tre xếp xít nhau,ken chặt vào nhau tạo thành bức
tường vững chắc, phần nào nói lên được cuộc sống lao động vất vả, thiếu thốn của
người dân nơi đây. Tuy vậy ta không thấy tiếng thở than cho sự vất vả ấy mà trái lại Y
Phương đã nói lên được tinh thần lạc quan, hăng say lao động của con người. Trong khó
khăn, họ vẫn hát ca bên đống lửa, điệu khèn, tiếng sáo, điệu múa uyển chuyển của cô
thôn nữ làm cuộc sống của người dân giàu hơn mọi thứ, một đời sống tinh thần phong
phú. Các động từ “đan, cài, ken” đều có chung một nét nghĩa đó là gắn kết các vật lại với
nhau một cách bền chặt nhất. Phải chăng tác giả đã khéo léo dụng từ để nói được tinh
thần đoàn kết, gắn bó,san sẻ của người đồng mình trong mọi hoàn cảnh, đó cũng là đức
tính là bản sắc văn hóa vùng miền.
Bên cạnh đó, sự hùng vĩ của núi rừng và sự thơ mộng của thiên nhiên miền núi cũng góp
phần bồi đắp cho đời sống tình cảm của người con ngày một lớn hơn:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nhắc đến núi rừng, chúng ta lại nghĩ đến những con suối dữ dội,những trận mưa lũ mịt
mù “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” hay những rừng cây cao vút chạy tít tắp
đến chân trời. Đối với người đồng bào mình, núi rừng là cội nguồn của sự sống, là người
mẹ chở che, núi rừng cho con người mọi thứ cần thiết cho đời sống hằng ngày. Để nói
đến điều tuyệt vời mà núi rừng mang lại cho con người, Y Phương chỉ dùng một từ “hoa”.
Hoa ở đây không đơn thuần là đặc trưng của đại ngàn hoa cỏ mà còn mang ý nghĩa chỉ
vẻ đẹp, sự tinh túy, sự hòa quyện giữa nét đẹp hoang dã và tình yêu của con người dành
cho thiên nhiên. Hình ảnh hoa như một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả
đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn
cao đẹp của con người ở đó. Cả “rừng” và “con đường” đều được nhân hóa để nơi ấy
không chỉ là nơi đứa con khôn lớn mà còn là chỗ dựa tinh thần cho những bước đi của
con vào đời. Mỗi con đường con ra suối, lên núi, băng rừng hay trở về nhà đều mang
“những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi
dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con người. Đó là tấm lòng của quê hương
dành cho mỗi con người cũng là tấm lòng của người đồng mình dành cho nhau: thủy
chung, hiền lành, rộng mở. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm
đềm.
Từ tình cảm của quê hương, xứ sở, người cha đã không kìm được nỗi hạnh phúc, tự hào
để nhắc cho con mình ngày đầu tiên nhớ mãi:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Kết quả của “ngày cưới” mà tác giả vẫn luôn nhớ chính là đứa con, là sinh linh bé bỏng
cha mẹ luôn bảo vệ và nâng niu. Qua đây Y Phương muốn nhắn nhủ với con rằng yêu
thương chính là cội nguồn của tất cả, như việc sống và tồn tại hiện nay của mỗi người.
Con bây giờ đã đủ trưởng thành, sắp lên đường lập chí, lập thân, nhưng cha vẫn không
quên nhắc nhở con sự thiêng liêng của hôn nhân khởi đầu là ngày cưới. Mọi niềm vui,
mọi trách nhiệm của con người cũng được nuôi dưỡng từ đây.
Ba hình ảnh: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ gợi thức dậy ở
đứa trẻ tình yêu thương, lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra
và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc màu cổ tích. Đó là thế giới của những con
người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên những
cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha
và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế
sẽ đủ sức bao bọc con trong những êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm
hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.

Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng mà vừa phong phú, sinh
động, giàu chất thơ. Với thể thơ tự do với nhịp điệu, giọng thơ tha thiết, nhiều hình ảnh
mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm kết hợp một số biện pháp nghệ thuật như nhân hóa,
ẩn dụ, đoạn thơ đã làm nổi bật sự gắn bó sâu nặng của con người đối với gia đình, quê
hương, đồng bào mình. Đó là tình cảm đáng trân trọng, đáng giữ gìn và nó trở thành nét
đẹp văn hóa của con người Việt Nam. Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà
với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ.
Mọi tình cảm tốt đẹp của con người đều được nuôi dưỡng từ những điều bình dị nhất.
Trong đó có tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Y Phương đã mượn lời
người cha nhắc nhở con trước lúc con lên đường cũng là muốn nhắc nhở chúng ta sống
ân nghĩa, thủy chung, hướng về nguồn cội. Đoạn thơ đã bồi đắp cho ta thêm về tình yêu
gia đình và tình yêu quê hương đất nước. Từ đó tự nhắn nhủ với bản thân mỗi người
phải cố gắng rèn luyện hơn chăm chỉ học tập để xây dựng nước nhà một giàu đẹp và
phát triển.

🍈Những nhận định hay về bài thơ Nói với con và nhà thơ Y Phương🍈
(Tài liệu ôn thi vào lớp 10)
----------------
– “Y Phương đã ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân
tộc mình ”
– Tác phẩm của Y Phương gắn với chiều sâu thế giới nội tâm của ông. Những vần thơ
của Y Phương được khơi nguồn từ sự sống, từ cuộc đời cụ thể, những trải nghiệm của
ông. Khi cuộc sống đã trải qua biết bao thăng trầm thì tác phẩm của Y Phương thể hiện
triết lí với nhiều trăn trở và suy ngẫm. Quan niệm văn chương của ông hiện rõ điều này:
“Văn chương là một việc làm trả ơn những người sinh thành và nuôi dưỡng mình”.
– Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người
với tự nhiên đã tạo cho thơ Y Phương có sức sống rất bền. Đó chính là giá trị nhân văn
làm nên vẻ đẹp của phong cách thơ Y Phương.
– Y Phương là người có quan niệm sống, quan niệm nghệ thuật một cách rõ ràng, một
nhà thơ có tư tưởng, có quan niệm nghệ thuật là biểu hiện của một nhà thơ lớn.
– Y Phương trước sau nhất quán một xác tín nghề nghiệp”. Như nhiều người cầm bút
khác, Y Phương đã trăn trở trên từng trang viết, “luôn đòi hỏi cao với bản thân” trau chuốt
lại những vần thơ đã ra đời, đó cũng là điều hay gặp ở nhiều người sáng tác có ý thức.
– Thơ Y Phương bình dị, chân chất, hồn nhiên, giấu cất mà không he hé lộ thiên, lặng lẽ
mà bùng nổ, nhẩn nha như chính cuộc đời ông, con người ông.
– Thơ Y Phương “cũng như rượu ngon, thơ ông càng để lâu càng ngấm thời gian, có
điều kiện để ông thanh lọc những tạp chất, trở nên tinh khiết – cái tĩnh lặng luôn luôn là
môi trường của ý tưởng sâu sắc”
– “Y Phương của đời thường và Y Phương trong thơ là một. Bạn đọc tìm thấy ở thơ anh
một tiếng nói chung, ấy là sự đồng lòng, đồng cảm”
– Y Phương là một người vùng cao nhưng đã khắc phục được cái “thô ráp, ngây ngô vốn
là nhược tật của lối cảm đó”
– “Y Phương bắt đầu tuổi trẻ mình bằng cuộc đời người lính và bắt đầu đời thơ mình là
những bài thơ đánh giặc”. Theo ông, mảng thơ của Y Phương viết về non nước Cao
Bằng rất thiết tha và linh hoạt, còn những bài thơ nói về mẹ, về con, về người yêu thì
mang đậm bản sắc dân tộc.
– Sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình chính là nhịp tim thầm kín bền vững nhất trong
từng bài thơ Y Phương, là cốt lõi của giọng hát Y Phương”. Ngoài ra, “Trong Tiếng hát
tháng giêng, Y Phương còn chứng tỏ sự độc đáo của mình ở một mảng thơ khác – thơ
tình.
– Những hình bóng thiếu nữ Tày, là một hình tượng văn học khỏe khoắn, chủ đạo nhất
của thơ Y Phương

ĐỒNG CHÍ OKOK

PHÂN TÍCH BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ" (Bài hay)


“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ Tố Hữu!
Chẳng biết tự bao giờ, hình ảnh người lính trên đường ra trận trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn khó phai mờ.
Cũng viết về người lính kháng chiến thời chống Pháp nhưng bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác. Đó là mối tình đồng chí đồng đội được
hình thành và phát triển trong điều kiện chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian khổ để tạo nên
phẩm chất dẹp đẽ, một trong những nguòn sức mạnh của quân đội ta.
Thật vậy, bài thơ “Đồng chí” không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ được
nhiều người biết đến nhất, thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến “Đồng
chí”. Bài thơ đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn
gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người.
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng
nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội thật sâu
sắc. Mở đầu bài thơ tác giả viết :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Thành ngữ “Nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “Đất cày lên sỏi đá” đã mang đến
sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người
chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người
sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói “ nước mặn đồng chua ”, “đất cày lên sỏi
đá ”. Họ thật sự là những người nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc ”, đang
chống chọi lại với thời tiết khắc nghiệt của vùng quê chua phèn sỏi đá để khoát lên mình
màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê hương đất nước thân yêu.
Mỗi người một vùng quê, những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa hề quen
biết nhau.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và
chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng
thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “ Nhớ ” của mình cũng thể hiện
tình cảm này.
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hòi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến ”
Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. trước hết phải nói
tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến
đấu.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Súng bên súng là cách nói hàm súc, hình tượng. Cùng chung lí tưởng chiến đấu. Anh
cùng tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập tự do và sống
còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu ” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm
giao. Có thể nói hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ
cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Súng và đầu, ý chí và tình cảm là sự gắn
bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng. Câu thơ “ Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỉ ” là câu thơ hay và cảm động đầy ắp kỉ niệm của một thời gian
khổ. Đã là đôi tri kỉ phải hiểu nhau thông cảm cho nhau, chia sẻ ngọt bùi cho nhau. Phải
là người bạn chí cốt bên nhau. Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ phải cùng
chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu. Câu thơ được biểu hiện bằng
một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm.
“Đồng chí!”. Câu thơ chỉ gồm hai tiếng như ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thời,
đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là sự kết
tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Tình đồng chí là cao độ của tình bạn tình người. Câu thơ
thứ bảy trở thành bản lề gắn kết giữa hai dòng cảm xúc: một bên là cơ sở hình thành tình
đồng chí và một bên là những biểu hiện thiêng liêng của tình cảm đẹp ấy. Biểu hiện đầu
tiên của tình đồng đội thắm thiết chính là ở học có sự thấu hiểu nhau sâu sắc:
“Ruông nương anh gởi bạn thân cày
Gian nhà không mặt kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người trai làng ra lính”
Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người lính vốn
là nông dân đó. Gơi bạn thân cày mảnh ruộng của mình. Nhớ tới gian nhà trống không “
gió lung lay ”. Sẵn sàng gởi lại những gì quí giá thân thiết của cuộc sống người nông dân
nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Hai chữ “mặc kệ ” đã nói được một cách dứt khoát
mạnh mẽ của những người lính ra trận. Họ dứt khoát nhưng không vô tình, trong lòng họ
vẫn nặng tình với quê hương thân yêu. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết :
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
“Giếng nước gốc đa ” hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín
đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “ Cây đa giếng nước sân
đình ”. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu
phương đối người ra trận. Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây thêm ấn tượng mạnh
mẽ.
Mối tình đồng chí keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng
của nhau mà đó còn là sự cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người
lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Bằng những hình ảnh thơ chân thực và xúc động, gợi tả, gợi hình. Tác giả đã làm sống
dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đấu của người lính thời chống Pháp.
Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng trán ứơt
mồ hôi, những trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét. Những gian lao thiếu thốn
ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ
cười của người lính “Miệng cười buốt giá ” thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh người lính
thật đáng trân trọng mỗi khi ta đọc những câu thơ nói về cuộc sống kham khổ của họ.
“Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”
Chúng ta mới cảm thấy khâm phục và tự hào biết bao.
Vậy sức mạnh nào để giúp cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy ?
Có phải chăng đó là tình đồng chí dồng đội “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”.
Thật giản dị và xúc động của sự biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở hững
người lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử thách
cao nhất là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi chiến hào.
Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là biểu tượng đẹp nhất của
tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Có thể nói đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, là một biểu
tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối ” những
người chiến sĩ phục kích chờ giặc đứng bên nhau, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp
họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình đồng
chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy có
vầng trăng như treo trên đầu súng. Một hình ảnh thơ rất đặc sắc chỉ có bốn tiếng thôi
nhưng dã gây cho người đọc một bất ngờ thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng.
Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ
và thi sĩ. Súng còn là biểu tượng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do. Trăng là biểu
tượng của non nước thanh bình cùng đặt trên một bình diện “đầu súng trăng treo ”. Ý thơ
đã đem đến cho chúng ta một liên tưởng về tâm hồn người lính rất đẹp.
Trong ác liệt chiến tranh vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên
vui. Có thể nói đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính
cách mạng. Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của
anh bộ đội cụ Hồ.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu rất hàm súc, mộc mạc, chân thực và có sức gợi tả khái
quát cao, đã khắc họa được một trong những phẩm chất đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Đớ là
mối tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn, gian khổ có nhau, sóg chết có nhau. Bài thơ
có thực có hư tạo nên vẻ đẹp hài hòa, gây cho người đọc những suy tư sâu sắc, những
xúc động sâu lắng. Có thể nói bài thơ Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc
mạc, bình dị cao cả và thiêng liêng.

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi


Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo toàn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui”

🍒PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ - CHÍNH HỮU🍒


(Tài liệu ôn thi vào 10)
-----------Tình cảm là thứ quan trọng nhất đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt
ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho cái hạt giống tinh thần
bên trong ta nảy nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm, tả sẽ chỉ như cái ống nước
rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ. Tình cảm
trong chiến tranh, trong những mưa bom bão đạn, những khói lửa mịt mù lại càng đáng
nhớ hơn, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương không điều kiện, đồng cam cộng khổ vượt
qua những chông gai của cuộc chiến. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy không gì khác chính
là tình đồng chí. Nhà thơ Chính Hữu đã viết về tình cảm cao đẹp ấy, đồng thời tái hiện lài
một cách chân thực hình ảnh người lính chống Pháp, qua bài thơ “Đồng chí” của ông.
Chính Hữu sáng tác thơ không nhiều nhưng trong số đó lại có những bài đặc sắc, với
cảm xúc dồn nén, dồi dào, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc. Hoạt động quân đội trong suốt
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, là một trong số những chiến sĩ tham gia
chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì giải phóng miền Nam nên thơ ông hầu như chỉ viết về
người lính và chiến tranh. Bài “Đồng chí” được ông sáng tác sau thắng lợi vẻ vang của
quân ta trong chiến dịch Việt Bắc với niềm hân hoan tột độ và sự thăng hoa cảm xúc của
tác giả khi nhân dân ta thắng được bọn thực dân được trang bị vũ khí hiện đại bằng tinh
thần dân tộc, lòng yêu nước ngút cao và tình đồng đội, đồng chí keo sơn gắn bó. Chính
điều đó đã làm cho “Đồng chí” tuy có nói về những thiếu thốn cơ cực của người lính
nhưng vẫn chứa đầy sự lạc quan và ấm áp tình người. Kể về hai người lính bộ đội cụ Hồ
đến từ những vùng miền khác nhau, tác phẩm đã làm nổi bật lên mối giao cảm khắng khít
giữa họ khi cùng nhau đứng trên một trận tuyến, cùng chống lại một kẻ thù chung. Và cái
đưa đến mối giao cảm đặc biệt giữa họ ấy, chính là tình đồng chí.
Xuyên suốt bài thơ nổi bật lên giọng thơ mộc mạc nhưng trữ tình, chân chất mà gợi cảm.
Từ mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ đều tập trung vào miêu tả tình đồng chí, tình đồng đội của
những người lính. Hầu hết họ đều là nông dân, dưới ánh mặt trời rạng soi của cách mạng
mới khoác lên mình màu áo quân nhân, mới ra đi tìm lại độc lập tự do cho dân tộc. Quê
hương của họ đều không phải là nơi làng quê trù phú:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
“Anh” đến từ vùng đất phèn nước mặn, “tôi” lại đến từ nơi có thiên nhiên cằn cỗi. Kết cấu
sóng đôi, đối ứng và thành ngữ “nước mặn đồng chua” đã nói rõ tất cả về quê hương của
“anh” và xóm làng của “tôi”. Hai con người khác nhau từ những nơi chốn khác nhau lại có
cùng điểm chung: đều xuất thân từ miền quê nghèo khó, lam lũ. Chính điểm chung về
cảnh ngộ ấy đã dẫn đến tình giai cấp giữa nhưng người bộ đội, đồng thời là mảnh đất
màu mỡ cho hạt giống của tình đồng chí nảy nở, phát triển. Tiếng gọi của Tổ quốc đã
đưa những con người từ mọi miền đất nước, từ các phương trời “xa lạ” đền gần nhau, để
họ được cùng đứng trong một hàng ngũ quân đội, để cùng “chẳng hẹn” mà lại quen
nhau:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
“Anh với tôi đôi người xa lạ”. Từ đôi được tác giả sử dụng thay cho từ đồng nghĩa “hai” lại
có tác dụng, có giá trị biểu đạt rất lớn. Đã là “đôi” tức là lúc nào cũng gắn bó chặt chẽ, lúc
nào cũng hiểu lẫn nhau, và sợi dây tình cảm lúc nào cũng bền chặt, thắm thiết. Cách
dùng từ ngữ giản dị, không hoa mĩ này của tác giả như một lời khẳng định, khẳng định
tình thân, sự gắn bó giữa hai người lính, cái đẹp đẽ của tình người – tình đồng chí. “Anh
với tôi” tưởng như “chẳng hẹn” nhưng thật ra là có hẹn: chung lòng yêu nước nồng nàn,
chung ước mong, ý chí diệt giặc, chung trong một đơn vị; tưởng chừng “xa lạ” nhưng lại
rất thân quen: đến từ hai miền quê khác nhau nhưng cùng sống trên mảnh đất Việt Nam,
cùng chảy trong người dòng máu Việt Nam, là đồng bào của nhau, để rồi quen, để rồi trở
thành bạn tốt:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
“Tri kỉ” là người bạn tốt, người này luôn hiểu thấu tâm sự của người kia. Sự nghiệp chung
của đất nước đã xóa nhòa lằn ranh địa lý, khác biệt về văn hóa, đã đưa hai con người “xa
lạ” đến đứng cảnh nhau trên mặt trận, nâng tình đồng cảm giải cấp giữa họ trở thành tình
tri kỉ. Giữa hai người lính đã không còn khoảng cách nữa, không còn xa lạ nữa, tất cả
như hòa làm một, đằng sau những khẩu súng sát cạnh, những mái đầu tựa vào nhau, và
đằng sau những tấm chăn đắp chung. Tác giả sử dụng cấu trúc sóng đôi độc đáo trong
câu thơ, cùng cách miêu tả hàm súc: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nếu như “súng
bên súng” nói về cái chung về hoàn cảnh, kẻ thù, chung một trận tuyến, một khao khát
độc lập tự do thì “đầu sát bên đầu” còn là cái chung về tâm tư, tình cảm, sự quyện hòa
tâm hồn của đôi bạn tâm giao. Hình ảnh giàu cảm xúc đó còn cả ngợi sự đoàn kết giữa
hai anh bộ đội cụ Hồ: trong chiến đấu gian khổ vẫn kề vai sát cánh, trong khó khăn đời
lính thì chia cho nhau từng lời tâm sự, san sẻ cho nhau hơi ấm chung chăn trong đêm
khuya giá rét. Cái chăn đắp chung ấy có lẽ không chỉ là chiếc chăn bình thường, mà là
chiếc chăn của tình đồng đội, chiếc chăn ấm nồng sưởi nóng tâm hồn người lính trong
cái rét buốt da thịt triền miên, cái lạnh lùng vô tình của súng ống đạn bom. Đắp chung
chăn, anh và tôi cùng chia nhau hơi ấm tâm hồn, tiếp thêm cho nhau sức mạnh tinh thần
để rồi thêm nữa sự mạnh mẽ, cứng rắn. Tiếng gọi quê hương mới thật tha thiết làm sao!
Nó đã khiến “đôi người xa lạ” có thể trở thành “đôi tri kỉ”. Một hình ảnh đối lập đẹp đến
nao lòng. Bạn tri kỉ thật sự không dễ kiếm, có khi cả đời vẫn không tìm được một ai. Vậy
mà hai anh lính lại thành tri kỉ của nhau, gắn bó với nhau nhanh chóng như vậy, bất chấp
chiến trường nhiều kẻ địch, đường rừng lắm chông gai. Phải chăng khi đứng giáp ranh
giữa sự sống và cái chết của chiến tranh, khi quên cả bản thân mình vì lợi ích chung, con
người ta mới có những tình cảm tự nhiên và sâu sắc đến vậy? Phải chăng khi đất nước
hoạn nạn, đứng trước nguy cơ đánh mất độc lập tự do thì tình bạn, tình tri kỉ mới sớm
nảy nở nơi hai con người “xa lạ”? Câu thơ với hình ảnh giản dị mà gợi cảm. Đắp chăn
chung, hai người bộ đội đã như anh em một nhà, chia ngọt sẻ bùi, tình thân thắm thiết
đến mức không thể diễn tả nổi. Nói đến cái lạnh buốt của đêm rừng nhưng người đọc
vẫn cảm nhận được hơi ấm tỏa ra từ ngọn lửa mang tên “tình đồng đội” trong sâu thẳm
trái tim, hơi ấm mà cả người lính lẫn người đều chẳng thể nào quên được: “Bát cơm sẻ
nửa, chăn sui đắp cùng”. Đó chính là cơ sở vững vàng, là nguồn cội của tình đồng chí.
Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng giai cấp, đồng tâm tư đã hóa
thành tình cảm cao quý thiêng liêng giữa hai anh, họ gọi nhau bằng cái tên chung:
"Đồng chí!"
Câu thơ từ bảy, tám từ đột ngột rút lại thành hai tiếng “đồng chí” tha thiết, dâng trào cảm
xúc. Không chỉ đóng vai trò là tiếng gọi quân đội trang nghiêm mà đó còn là tiếng gọi
chân thành từ sâu thẳm con tim người lính chiến, là tiếng gọi reo vui của hai con người
cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, mục đích khi đứng dưới lá cờ Cách mạng;
không chỉ là danh từ mà còn là một tính từ bộc lộ tình cảm, niềm xúc động xen lẫn lòng từ
hào. Xúc động trước tình bạn tri giao cao đẹp, không lợi dụng, tính toán, hai người bạn
gắn bó với nhau vô điều kiện, bởi cả hai có rất nhiều điểm chung: từ xuất thân, cảnh ngộ
đến lòng căm giặc đến chung một tình cảm, một tấm chăn. Tự hào khi tình cảm cao đẹp
nay đã được nâng lên thành một thứ thiếng liêng và quý giá hơn: tình đồng chí. Là kết
tinh, tinh hoa của mọi thứ: tình người, cao hơn tình người là tình giai cấp, cao hơn tình
giai cấp là tình bạn, tình tri kỉ, và trên cả tình tri kỉ chính là tình đồng chí. Hai tiếng “đồng
chí” mới thiêng liêng làm sao, mới tha thiết làm sao. Gọi nhau là “đồng chí”, anh với tôi
dương như không còn nữa những khác nhau về văn hóa, sự chênh lệch tuổi tác, những
e dè của hai con người đến từ hai phương trời khác biệt. Các cá thể khác nhau như
quyện hòa làm một, trở thành một khối với tình đoàn kết vững chắc. Tuy chỉ có hai tiếng
ngắn ngủi nhưng câu thơ lại đóng vai trò quan trọng trong bố cục toàn bài. Nó đánh dấu
cột mốc mới trong mạch cảm dúc của tác giả, bao hàm nhiều suy nghĩ sâu xa, nhiêu tư
tưởng mang tầm triết lý. Như nét chấm phá tuyệt vời trong bức tranh thủy mặc, như nốt
nhạc nhấn âm trong bản giao hưởng bằng lời thơ, hai tiếng “đồng chí” đã đem lại cho bài
thơ trữ tình người lính một kết cấu mạch lạc chỉ có ở văn thơ chính luận. Tất cả đã làm
cho giọng thơ như xao xuyến hơn, lời thơ như lưu luyến hơn, và bản hòa ca bất tận của
tình người trở nên sâu sắc hơn, lắng đọng hơn.
Tình đồng đội chân thành đã giúp các anh lính vượt qua bao khó khăn, bao nỗi nhớ về
quê hương, làng xóm:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những ngổn
ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bất
khuất truóc kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc, chân chất, bình
dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa mà lại không luôn nhớ
về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm êm của bản thân để ra đi cho
niềm vui chung của toàn dân tôc. Nhưng bên trong những người lính chiến ấy có ngày
nào nguôi ngoai nỗi nhớ về vùng đất thân thương? Ở đó có gian nhà, có mảnh ruộng,
khu vườn_những gì quan trọng nhất đối với người nông dân. Nhưng giờ đây, đối với anh
trai làng mặc áo lính, không còn gì quan trọng hơn sinh mệnh của đất nước, như Bác Hồ
đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, anh đã tạm quên cái quý giá của cuộc đời
mình để ra đi bảo vệ cái quý giá của đất nước giang sơn. Ruộng nương được anh gửi lại
cho người bạn thân cày . Và gian nhà… tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi dùng
chữ “không” khi miêu tả trong “gian nhà không”. Gian nhà không nhiều vật dụng, đơn sơ
vì cái nghèo quay quắt lan tỏa vào đời sống từng người trong khoảng thời gian khó khăn
ấy của đất nước; nhưng từ không mà nhà thơ sự dụng lại không thảm thương bi đát như
sự thực của nó, cũng không lạc quan hóa quá đáng cái khổ mà vừa phải, vừa giàu sức
gợi hình, vừa mang tính gợi cảm. Ngôi nhà trống không vì đơn sơ, nay lại càng trống trải
vì vắng bóng người trai cần cù tháo vát nhưng anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập ngũ.
Hai chữ “mặc kệ” hay chính là lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của anh lính
với lòng yêu nước trào dâng. Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình tượng người
lính cao cả như một vị anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, khư khư giữ lấy hạnh
phúc cho riêng mình. Một sự hi sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý.
Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh trai làng ở trận tuyến vẫn không thể quên
được hình bóng quê nhà thân thương:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của làng quê
Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai chiều. “Giếng nước
gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là người thân, cha mẹ, anh em,
họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong cuộc đời người bộ đội. Dù “người ra đi
đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Nguyễn Đình Thi) nhưng
trong lòng “người ra đi” ấy vẫn đau đáu nhớ về cái “thềm nắng lá rơi đầy” quen thuộc,
cũng như anh chiến sĩ dù “mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại cả ruộng nương nhưng bên trong
anh, ngọn lửa nhớ thương chưa bao giờ bị dập tắt. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, là
“giếng nước gốc đa” nhớ người đi hay chính là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi của người đi
về “giếng nước gốc đa”? Người đi lính nhớ về người ở lại, kẻ ở lại lại nhung nhớ người ra
đi; người ra trận luôn hướng tầm mắt về nơi quê nhà, người ở quê nhà lại luôn dõi theo
bước chân người ra trận. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu nơi cả hai miền kí ức. Hậu
phương ủng hộ tiền tuyến, luôn hướng về tiền tuyến, còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn
trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương. Một hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó,
hình tượng người lính hiện lên thật anh hùng, mạnh mẽ dút khoát trước tiếng gọi của non
sông, song vẫn rất giàu tình nghĩa khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người thân,
bạn bè. Có lẽ trong lòng anh chiến sĩ vẫn còn day dứt hình ảnh mẹ già lúc tiễn con ra
trận:
Chiều nay con ra trận
Lòng mẹ thương
Nhưng thôi tình chẳng bận
Đi đi mẹ lắng tin chờ
(Chế Lan Viên)
và lời hỏi “Bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong” (Hoàng Trung Thông) nên
cái hình bóng quê hương mới thật đậm sâu rõ nét như vậy. Chất đầy nỗi nhớ và niềm tin,
hành trang ra trận của người lính như đầy hơn bao giờ hết.
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng sâu sắc, người
lính còn có thêm điểm tựa chắc chắc với tình bạn, tìh đồng chí, cùng nhau vượt qua
những khó khăn đời lính:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá"
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ chông gai
như chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm điệu thơ bỗng
trở nên chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như chùng xuống trước
bạo nhọc nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng quê nghèo khổ, các anh lại
gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ thôi mà phản ánh được một thực
trang, một thời kì khó khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì
đất nước nghèo nên con người, và đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê
và giọng điệu thơ bùi ngùi trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội
và của người lính Việt lúc bấy giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang,
quân phục. Kể sao cho xiết hằng hà sa số những khó khăn kham khổ của các anh chiến
sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình
“ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách tả tơi vì
dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Ta bỗng nhớ lại hai câu thơ:
"Phi sốt rét bất thành bộ đội
Phi áo vá bất thành bộ đội"
mà thấy cay cay làm sao! Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì đắng
ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lăn sau bao ngày xông
pha chốn rừng thiêng nước độc đâu. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng vẫn
không hề bị quật ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của sức mạnh kì diệu đó
chính là tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn khắng khít giữa hai người. Cùng nhau trải
qua gian lao cay đắng, khó khăn tưởng như quá lớn không thể vượt qua đã được chia
đôi trong khi sức mạnh tinh thần của họ lại được nhân lên nhiều lần_sức mạnh tinh thần
nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ sử
dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ bùi của người lính. Tôi biết anh khi đang trong
“cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Tôi biết anh áo rách
vai, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho tâm tình của anh, anh thông
cảm cho nỗi lòng tôi. Và cũng vì không cô đơn trong khổ cực gian khó, hai người đồng
chí mới bật tung được hàng bao cảm xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất
đống, súng rơi đạn lạc:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay đến cả
những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người lính lại rất giàu
có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm tối nhất, thế mà nụ
cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”. Đó là cái buốt giá của
thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi, gieo rắc khó khăn lên đời
người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý nhất, vì được thắp lên trong
gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như
ánh bình minh chiếu sáng cả một vùng trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn
băng đóng im lìm. Nụ cười ấy thật đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy
đã nói lên tất cả về người lính: tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng
số phận. Đâu phải ai cũng có thể cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân
treo sợi tóc” của đất nước, con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười
thản nhiên lạnh lùng, mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm
lên, để lòng thấy tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái
rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái thiếu thốn quan áo (áo rách vai,
quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí
thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay nhau. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan tâm, mọi
lời nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là
biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình đồng chí mộc
mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm chặt tay nhau,
truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận, những niềm tin
chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng, cảm động khi nói
về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân thành, đậm sâu, hồn hậu
như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra trận. Bàn tay im lặng như lại nói
lên được tình cảm thiêng liêng_tình đồng chí, tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt
tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính…
Một cách
biểu lộ tình cảm tự nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay ta đã nói
Biểu hiện của tình đồng chí càng được tô đậm hơn, khắc sâu hơn qua bức tranh chiến
đấu cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại mang màu
sắc trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương muối”_ xót xa thay
cho cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại bị thiên nhiên hoành
hành bằng những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng những màn sương muối phủ
kín cả một cánh rừng hoang. Tuy trong thời tiết như thế, các anh vẫn “đứng cạnh bên
nhau “ để mà “chờ giặc tới”. Thật vậy! Tình đồng chí giữa họ cao cả như thế đấy, không
chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư nỗi nhớ, cùng nhau trải qua gian nan khổ cực của cuộc
chiến, mà giờ đây còn kề vai sát cánh bên nhau trên cái nền lạnh giá của “rừng hoang
sương muối”, cùng “chờ giặc tới” với tư thế hiên ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần
lạc quan, đỏ rực lửa tình đồng đội. Bức tranh chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi
thở hiện thực và thời đại, vừa thấm đẫm cái trữ tình bay bổng. Con đường kháng chiến
của dân tộc hãy còn dài, khi mà mỗi bước tiến trên con đường lại được đánh đổi bằng
xương máu, bằng mạng sống bao con người ngã xuống, thì sự lạc quan cùng bao tình
cảm ấm nồng đã tiếp thêm sức mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên cạnh lòng yêu nước
tràn đầy và ý chí chiến đầu bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình đồng chí bền vững của hai
người lính khi cùng sát cánh bên nhau chờ để đối diện với giặc, để đánh tan chúng giành
lại non sông đất nước đã tạo cho ta một niềm cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới, không ít thì
nhiều quan ta cũng phải có người hi sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng, “mặc kệ”
cái chết có thể đến bất kì lúc nào với bất kì ai, để cùng vui chung niềm vui người lính: tận
hưởng không khí rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà ngay cả họ
cũng là một phần của nó: “Đầu súng trăng treo”
Đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính. Trên nên xám lạnh của
cánh rừng hoang tĩnh mịch đêm khuya rực lên hình ảnh tuyệt đẹp: vầng trăng tròn treo
lủng lẳng trên đầu súng. Là người trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến nên tác giả
Chính Hữu mới có được cái nhìn tinh tế như vậy, mới có những liên tương phong phú và
giàu chất bay bổng như vậy. Trời về khuya gần sáng, trăng xuống thấp dần, thấp dần đến
khi trăng chạm vào đầu súng, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu “đầu súng trăng
treo” ắp đầy ý nghĩa biểu tượng: súng tượng trưng cho người lính, cho tinh thần quyết
chiến quyết thắng, cho sự chiến đấu hết mình không quản ngại hiểm nguy; còn trăng là
sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là biểu tượng của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa,
của cái đẹp thanh bình, dịu dàng. Tính hiện thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác
giả và chất trữ tình từ một tâm hồn thăng hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống
động: súng và trăng, là gần và xa, là cứng rắn và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai
dũng và hiền hòa, là thi nhân và chiến sĩ. Súng và trăng còn là một cặp đồng chí: người
lính cầm súng chiến đầu cho hòa bình, cho vầng trăng tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên
nền quê hương. Hai hình ảnh đối lập tương phản này lại được nhà thơ đặt cạnh nhau,
sóng đôi cùng nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp trong thơ văn
kháng chiến, thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: cứng cỏi trong
chiến đấu nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường nhưng tâm hồn
cũng rất thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời kết của
toàn bài thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của cuộc chiến
vệ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, động thời làm giảm bớt đi cái ác
liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng.
Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn rất cô đọng,
chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh liên tưởng lãng
mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình đồng chí vững vàng
của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dẫu còn gặp
nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn vượt lên hết thảy và trở thành
tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu
đã thể hiện chân thực hình tượng người người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của
họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu
cảm.
Bài thơ khép lại nhưng ấn tượng trong lòng thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta như
vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai người chiến
sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại nhưng
những năm tháng gian khổ thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta như vẫn hiện lên
hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai người chiến sĩ đứng
cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại nhưng những năm
tháng gian khổ mà hào hùng đó vẫn mãi là một chương quan trọng trong cuốn sách với
những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc. Ta lại càng ý thức hơn nữa lòng biết ơn dành
cho các anh bộ đội cụ Hồ đã đổ bao xương máu để đất nước giang sơn được như ngày
hôm nay. Cùng chung lý tưởng, ý chí, cảnh ngộ xuất thân, chung nhau trải qua gian nan
ngặt nghèo, những người lính ấy đã sống, chiến đấu, và nếu có hi sinh, đều như một
người anh hùng.
Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.

BT TIEU DOI XE KHONG KINH (PTD)

🌵PHÂN TÍCH BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH🌵


--------------------
🍄Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt.
Trong những năm tháng sục sôi khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, nhân dân miền
Bắc đã không tiếc sức người sức của, chi viện cho miền Nam ruột thịt. Những đoàn quân
trùng trùng điệp điệp nối nhau ra tiền tuyến và Phạm Tiến Duật cũng có mặt trong đội ngũ
ấy. Anh đã được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh ác liệt và trở thành một nhà
thơ – chiến sĩ. Chùm thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Gửi em cô gái thanh
niên xung phong đã được giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969.
Thơ Phạm Tiến Duật không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay ngôn
ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương… Ngược lại, người đọc thích thơ anh bởi
sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo. Có thể coi Bài thơ về tiểu đội xe
không kính tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này. Thông qua bài
thơ, Phạm Tiến Duật ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn
nguy hiểm, niềm vui trẻ trung, sôi nổi cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của
các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Bài thơ khắc họa thành công một hình tượng độc đáo: những chiếc xe ô tô vận tải không
có kính chắn gió mà vẫn băng băng trên đường ra trận. Bên trong cái vỏ ngoài xấu xí,
xây xát của những chiếc xe không kính ấy là một bề dày thành tích chiến đấu và quý giá
nhất là có một trái tim sáng ngời tinh thần yêu nước của những người lính trẻ.
Mở đầu bài thơ, tác giả giải thích nguyên nhân vì sao xe không có kính bằng lời lẽ giản
dị, tự nhiên:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Lí do thế là đã rõ. Kính xe đã bị những trận bom ác liệt của giặc Mĩ làm cho vỡ hết. Lời
giải thích đơn sơ nhưng khả năng gợi tả rất lớn, giúp người đọc hiểu ra rằng những chiếc
xe này đã dạn dày, từng trải trên đường ra mặt trận. Giới thiệu về xe mà cũng là bước
đầu giới thiệu về chủ nhân của chúng.
Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân vật chính và những chiếc
xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của họ. Khi
người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận đánh. Sự
sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên
ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tính từ ung dung đặt ở vị trí đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động ấy. Trong cái nhìn bao
quát cả đất trời ẩn chứa niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó
khăn nguy hiểm. Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị
động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh
thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình
cảm tất cả vì miền Nam thân yêu, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang
cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng.
Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những
gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh, hiểm trở. Mùa
mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh
thì máy bay Mĩ liên tục trút bom đạn xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có
kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào. Bút pháp tả
thực kết hợp với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp bất ngờ của những câu thơ:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Cảm giác của người chiến sĩ lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được
nhà thơ diễn tả cụ thể và sinh động. Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe
không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió
thốc làm cay đến chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và
hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của
rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần
gũi hơn, do đó mà sự cảm nhận dường như tăng lên gấp bội. Sao trời ban đêm, cánh
chim ban ngày như say như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại
phía sau, người lái xe tưởng như nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa
đựng ý nghĩa tượng trưng sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích
đến của trái tim người lính.
Nỗi vất vả, gian nan được Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản
dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ừ thì ướt áo


Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Hai đoạn thơ tả thực đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật cả trong cách diễn tả. Câu
thơ đậm chất văn xuôi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Xe không kính, bụi phun tóc
trắng như người già. Xe không kính, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Điệp từ chưa cần,
hình ảnh phì phèo châm điếu thuốc, giọng cười ha ha sảng khoái… làm nổi bật chất bình
dị mà anh hùng của những chiến sĩ lái xe trong chiến tranh. Gian khổ tột cùng nhưng hào
hùng cũng tột bậc. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc
về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ,
phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.
Trong gian lao, thử thách, tình đồng đội, đồng chí càng trở nên thiêng liêng hơn, máu thịt
hơn. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình yêu thương đồng đội thắm thiết:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Đến đây thì mọi khó khăn, nguy hiểm đã bị đẩy lùi ra xa, làm nền cho tập thể của những
chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Họ thương
nhau còn hơn ruột thịt, sống chết có nhau, cùng chung lí tưởng và tình cảm cao đẹp: tất
cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng trong hoàn
cảnh ấy. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn, giấc ngủ chập
chờn trên cánh võng chông chênh đường xe chạy đã đủ nói lên tất cả. Và lạ lùng thay,
nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là những khó khăn, nguy hiểm của người
lính lái xe không kính lại trở thành tiện lợi bất ngờ khi họ gặp nhau trên đường ra mặt
trận:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Họ tạm
nghỉ bên nhau phút chốc để rồi lại lên đường, lại đi, lại đi đến những nơi cần hàng, cần
đạn. Họ tin tưởng ngày mai trời xanh thêm và chiến thắng đang tới rất gần.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà
quyện với nhau:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu
rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe
đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến
lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm
công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là
một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe
anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

🌵"Chiếc lược ngà" - Bài ca nhân bản về tình cảm cha con

Ra đời vào thời điểm ác liệt của cuộc chiến tranh, song “Chiếc lược ngà” lại tập trung nói
về tình người cao đẹp – mà cụ thể là tình cha con thiêng liêng sâu nặng trong cảnh ngộ
éo le của chiến tranh. Đây là tác phẩm tiêu biểu trong đời văn của Nguyễn Quang Sáng
có mặt trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 suốt bao nhiêu năm qua.
🌿 Từ tiếng gọi ba vỡ òa niềm xúc động
Ông Sáu rời nhà đi kháng chiến từ khi con gái còn nhỏ, chỉ được thấy con qua tấm ảnh
nhỏ. Suốt những năm tháng sống ở chiến trường, không lúc nào ông Sáu nguôi ngoai nỗi
nhớ về con gái. Ba ngày được về nghỉ phép, ông Sáu nôn nao được trông thấy con, vội
vàng, cuống quýt. Nhưng đến khi về tới nhà, bé Thu, con gái ông, lại không nhận ra ba
mình bởi vết thẹo trên mặt ông Sáu do chiến tranh để lại.
Suốt ba ngày, ông Sáu cố gắng gần gũi, vỗ về con nhưng càng lại gần thì con gái càng
đẩy ông ra. Trong bữa ăn, bé Thu bất thần hất cái trứng cá ra khỏi chén mà ông Sáu gắp
cho, giận quá và không kịp suy nghĩ, ông vung tay đánh vào mông nó. Bé Thu bỏ về nhà
ngoại. Đến khi bé Thu nhận ba thì cũng là lúc ông Sáu phải vào chiến trường. Trước khi
chia tay ba, bé Thu muốn ba mua cho mình một chiếc lược khi ba trở về.
Trở lại chiến trường, ông Sáu nhớ thương con vô hạn. Nhớ lời con dặn, ông tìm cho
được khúc ngà rồi lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ làm cho con một chiếc lược. Nhưng
chưa kịp trở về đưa chiếc lược tận tay con gái thì ông Sáu đã hi sinh ở chiến trường.
Chiếc lược ông gửi lại cho người đồng đội là ông Ba, nhờ đưa cho con gái mình, rồi mới
nhắm mắt.
Trong truyện, bé Thu là nhân vật để lại ấn tượng nhiều hơn cả. Nhà văn đã làm nổi bật
chân dung nhân vật qua diễn biến tâm lí, lời nói, hành động.Khi chưa nhận ra ông Sáu là
cha, bé Thu tỏ ra ngờ vực, lảng tránh. Khi ông Sáu trở về thăm nhà và tự nhận mình là
ba, bé Thu không tin vì có vết thẹo dài trên má, không giống với người trong tấm hình.
Ông Sáu càng muốn gần con thì bé Thu lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí, thái độ
ấy được thể hiện qua các chi tiết: Hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi
mới gặp ông Sáu, nói trống không, nhất định không chịu gọi cha, nhất định không chịu
nhờ ông chắt nước nồi cơm, hất cái trứng cá mà ông gắp cho, bỏ về nhà ngoại khi bị ông
Sáu đánh…
Không chịu nhận sự quan tâm của ông Sáu, em dành tất cả tình yêu cho người cha trong
tấm ảnh chụp chung với má không có vết thẹo trên mặt. Bé Thu có những hành động,
phản ứng mạnh mẽ. Em tỏ ra bướng bỉnh, ương ngạnh, cứng đầu. Tuy nhiên sự ương
ngạnh đó không hề đáng trách, bởi em còn quá nhỏ, chưa hiểu được tình thế khắc
nghiệt, éo le của chiến tranh. Những hành động của bé Thu chỉ là những phản ứng tâm lí
tự nhiên.
Chính thái độ quyết liệt, ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con
dành cho cha. Đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh mà đó là
sự kiên định quyết liệt của một con người có lập trường. Đây chính là nét cá tính để sau
này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.
Trong đêm bỏ về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn
mặt ba. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa, ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân
hận, hối tiếc. Nghe bà kể, bé nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn.
Trong buổi sáng cuối cùng, trước lúc ông Sáu chuẩn bị trở lại chiến trường, thái độ và
hành động của bé Thu đã thay đổi hoàn toàn. Bé Thu cất tiếng gọi ba. Tiếng ba vỡ ra từ
sâu thẳm trong lòng cô bé. Cái tiếng ba mà ông Sáu chờ đợi suốt bao nhiêu năm, tưởng
chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn người đọc thì nghẹn lại.
Cái tiếng ba đó được cất lên bằng tất cả tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách
đã bị dồn nén bấy lâu nay bùng lên mạnh mẽ, hối hả, xúc động. Rồi “vừa kêu vừa chạy
xô tới, nhanh như một con sóc”, “nó hôn ba nó cùng khắp.
Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”, “hai tay nó
siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi
câu chặt lấy ba nó, và đôi vai của nó rung rung”, rồi Thu đòi ông Sáu mua cho cây lược
khi về… Chứng kiến những biểu hiện tình cảm đó, những người có mặt tại nhà ông Sáu
không cầm được nước mắt, người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái
tim mình. Cái cách mà bé Thu biểu lộ tình cảm dành cho cha thật vô cùng mạnh mẽ,
nồng nhiệt.
Đặt nhân vật vào tình huống éo le, với ngòi bút miêu tả tâm lí sinh động, sự am hiểu, tình
yêu thương trẻ em sâu sắc… Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nổi bật chân dung của
bé Thu qua lời nói, thái độ, hành động. Đây là cô bé có nét cá tính là sự cứng cỏi đến
mức tưởng như ương ngạnh… nhưng trước sau Thu vẫn là đứa trẻ với tất cả nét hồn
nhiên, ngây thơ của con trẻ. Điểm nổi bật nhất ở em chính là tấm lòng và tình yêu thương
cha mạnh mẽ, nồng nhiệt và sâu đậm.
🌿 Đến hành động làm chiếc lược cho thỏa nỗi nhớ thương con
Hiện lên trong tác phẩm, ông Sáu là một chiến sĩ kiên cường, có tinh thần trách nhiệm
cao đối với đất nước, có tính kỉ luật cao, luôn đặt Tổ quốc lên trên. Ông Sáu là người cha
lí tưởng, có tình cảm sâu nặng với con. Nguyễn Quang Sáng đặc biệt làm nổi bật tình
phụ tử thiêng liêng trong những trang văn của mình.
Khi chưa gặp mặt con, người cha ấy nôn nao nhớ. Khi mới về, mong được gặp con nên
khi thuyền chưa cập bến ông đã nhảy lên bờ, vừa gọi, vừa đưa tay đón con.
Những ngày ở bên con, lúc nào người cha ấy cũng vỗ về, chăm sóc con, mong con gọi
mình là cha. Ba ngày phép ở nhà, ông khổ tâm vì bé Thu cứ xa lánh, không chịu gọi cha.
Thương con, ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi và tìm mọi cách để được gần con. Ông Sáu vô
cùng xúc động khi bé Thu cất tiếng gọi ba.
Trở lại khu căn cứ, ông thương nhớ con vô cùng. “Lúc nhớ con, ông cứ ân hận vì sao
mình đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vò ông”. Tình cảm của ông đối với con được thể
hiện tập trung và sâu sắc nhất là ở phần sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng, tại
khu căn cứ và làm chiếc lược tặng cho con gái như đã hứa. “Ba về ba mua cho con cây
lược nghe ba”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con
từ biệt. Với người cha ấy, là mong ước đầu tiên mà cũng là duy nhất.
Cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng làm cho con cây lược trở thành bổn phận của người
cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Kiếm được khúc ngà, ông vô
cùng vui mừng, sung sướng rồi ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược,
trên sống lưng lược có khắc dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Và ta thật sự xúc
động khi chứng kiến cảnh ông Sáu thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên
tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”.
Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân sáng tạo ra
tác phẩm duy nhất trong đời. Tác phẩm đó được làm bằng sự ân hận, day dứt, bằng nỗi
nhớ niềm thương, bằng lòng khao khát đoàn viên, sum họp, bằng ý chí của một người
chiến sĩ và bằng cả trái tim của một người cha với cô con gái bé bỏng của mình. Chiếc
lược đã trở thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và
chứa đựng, kết tinh tình cảm ruột thịt xúc động trong hoàn cảnh chiến tranh.
Thế rồi, ông Sáu không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay con. Người cha – người chiến
sĩ đó đã hy sinh trong một trận càn lớn của Mĩ – ngụy. Trong giờ phút cuối cùng, không
còn đủ sức trăng trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông Sáu làm được một
việc “đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn
bạn hồi lâu”. Lời hứa của ông Ba “tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu” mới làm cho
người cha ấy yên lòng nhắm mắt. Đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng
liêng hơn cả một lời di chúc, là ước nguyện cuối cùng của một người chiến sĩ xa gia đình,
xa con đi chiến đấu: Ước nguyện tình cảm cha con, ước nguyện của tình phụ tử thiêng
liêng. Ông Sáu đã hi sinh “nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”.
Tình cảm mà ông dành cho con vô cùng sâu sắc, thiết tha.
🌿 Và tình cha con của họ… ở mãi trong lòng người
Đọc truyện, thấy rưng rưng một nỗi niềm. Tình cha con ông Sáu – bé Thu thật cao đẹp,
xúc động, thiêng liêng, bất diệt trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đạn bom ác liệt của
kẻ thù không bao giờ làm đứt gãy, suy giảm cái tình của cha dành cho con, con dành cho
cha.
Tình cảm đó hiện diện và sáng lên giữa dòng chảy thời gian và đi vào lòng người trong
niềm vấn vương, thương cảm. Câu chuyện cha con ông Sáu và bé Thu không chỉ đem
đến niềm xúc động sâu sắc mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau
thương mất mát, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia
đình.
Nhân vật ông Sáu, bé Thu và câu chuyện tình cảm cha con của họ được thể hiện một
cách sinh động và ấn tượng bởi nhà văn đã xây dựng tình huống truyện đặc sắc, tình
huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt
của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với
đứa con.
Nhà văn cũng đã thành công trong việc miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật,
đặc biệt là bé Thu. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất. Người kể chuyện trong vai một
người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại
mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật, bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ,
đưa ra những lời bình luận về những điều được kể.
Chẳng hạn: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người,
nghe thật xót xa”; hoặc “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết
bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy”, “cây lược ấy
chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của
anh”… Những ý kiến, suy nghĩ, lời bình đó của người kể chuyện có tác dụng dẫn dắt sự
tiếp nhận của người đọc, người nghe, lôi cuốn độc giả vào câu chuyện để ngân lên muôn
vàn cung bậc cảm xúc. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và mang đậm màu sắc Nam Bộ.
Có thể nói, so với tình mẫu tử thì văn chương xưa nay viết về tình phụ tử không nhiều.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng nằm trong số ít đó lại là tác phẩm đặc sắc, lay
động lòng người. Tác giả đặt câu chuyện vào trong không gian gia đình và không gian núi
rừng nơi khu căn cứ giữa khói lửa đạn bom của những tháng ngày đất nước không bình
yên để khẳng định vẻ đẹp của người cha – người chiến sĩ kiên cường, bản lĩnh. Tình cảm
cha con nói riêng, tình cảm gia đình nói chung là thứ tình cảm muôn thuở, có tính nhân
bản bền vững. Tình cảm đó được thể hiện trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến nên lại
càng trân trọng hơn.
“Chiếc lược ngà” vượt lên con nước bạc của thời gian để khẳng định sức sống vĩnh hằng
và câu chuyện cha con ông Sáu – bé Thu mãi mãi là bài ca đẹp - bài ca mang giá trị nhân
bản sâu sắc, ở mãi trong lòng người.

🥝Phân tích nhân vật bé Thu🥝


(Tài liệu ôn thi vào 10)
------------------
Có một nhà văn đã nói rằng: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc
sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở
thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại.
Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu
trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha
mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.
Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ
trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba,
người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm
động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng
ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của
tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ
nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con
em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi
để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một
tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến
lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp
mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính
riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt
có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái
ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến
nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên
hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu,
bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn
theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay
buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn
ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé
Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù
chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ
con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một
tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta
không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không
khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn
cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi,
Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu
và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng
gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm
của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng
cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng
cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi
đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ
trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây tiếng cho
thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí
trẻ em.
Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm,
chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với
một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho
anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn
toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để
có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng
không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Chính thái độ ngang
ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn
giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà
em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé
không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của
Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự
bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi
ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường.
Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo
dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ
nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ
vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó,
đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như
tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố
đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy
đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm
trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi
mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó
chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói
trong tiếng khóc: -Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”.Tình cảm con với ba
được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối
hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó
cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”.
Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như
có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận
nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn
sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay
không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé
của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù
giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu
rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn.
Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay,
có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai
nắm lấy trái tim mình.
Xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau,
nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ
tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để
ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ
chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm
cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao
cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu
nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng
người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba
tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành
cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất
nước.
Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu - một nhân
vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người
ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng
yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Có thể kể đến cách tạo tình huống bất
ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” (như chi
tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba
gắp cho,chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi. Nhờ những thành công nghệ
thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người
– tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng
về một em bé Nam bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

🥦PHÂN TÍCH BÀI THƠ ÁNH TRĂNG - NGUYỄN DUY🥦


(Tài liệu ôn thi vào 10)
---------------
Thời xưa cũng như thời nay, thiên nhiên là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà
văn, nhà thơ, đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đã giật mình
thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy một nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một "Ánh trăng". Đối diện
trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với
những những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ "Ánh trăng" giản dị như một
niềm ân hận trong tâm sự sâu kín của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa hiền hậu, bình dị, gắn liền với kỉ niệm
một thời đã qua, một thời nhà thơ hằng gắn bó:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ
Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những "đồng, sông, bể" gợi một vùng
không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan
hòa ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Đến khi vào chiến
trường, trăng thành người bạn tri kỉ, gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của
cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, lúc
trăng soi sáng trên đường hành quân.
Vầng trăng ấy cũng là "quầng lửa" theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trăng
thành người bạn chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ và những mất mát hi sinh, vầng
trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính. Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối
chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến -
vầng trăng tri kỉ.
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Trần trụi và hồn nhiên là một vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, vô tư đến lạ thường, không cầu kì,
không trang sức. Hình ảnh so sánh đã tô đậm thêm sức quyến rũ đến lạ thường của
trăng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của
đồng, của sông của bể và của những người lính chân chất. Chính vẻ đẹp ấy đã khiến
nhân vật trữ tình phải thốt lên "ngỡ không bao giờ quên / cái vầng trăng tình nghĩa". Câu
thơ như một lời thề thiêng liêng giữa rừng sâu nước độc. Hai tiếng nghĩa tình vang lên
khiến cho ranh giới giữa con người với trăng tưởng chừng như mãi bền vững.
Thế nhưng từ hồi về thành phố, tình cảm của con người đã thay đổi. Vầng trăng tri kỉ
ngày nào nay đã trở thành người dưng, người khách qua đường xa lạ không quen biết.
Còn con người đâu còn son sắt thủy chung. Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta
không khỏi nhói đau, tình cảm xưa nay chia lìa. Nguyễn Duy đã diễn tả được cái đổi thay
của lòng người. Nghệ thuật nhân hóa so sánh làm cho lời thơ trở thành lời tự thú chân
thành của tác giả.
Tác giả là người dũng cảm, dám đối diện với chính mình. Và lời thơ thực sự nhức nhối,
xót xa bởi sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử, với thiên nhiên mà còn là sự phản bội
chính bản thân mình. Trong sâu thẳm cõi lòng mình, hình như tác giả đã hoàn toàn quên
đi vầng trăng hay nói cách khác là trong trái tim đủ đầy của nhà thơ không còn chỗ cho
vầng trăng dù chỉ là một phần nhỏ nhất. Ý thơ trở nên trầm lặng, suy tư. Cuộc sống hiện
tại với đầy đủ tiện nghi có thể coi là ước mơ của bao người. Ước mơ ấy nay đã trở thành
hiện thực nhưng cái đáng mừng kia đôi khi phải trả giá đánh đổi bằng một cái mất. Khổ
thơ như lan tỏa một cảm giác buồn nhẹ nhàng, thấm thía.
Tưởng chừng như trăng cứ thế mà chìm khuất đi mãi mãi, người với trăng sẽ chẳng còn
cơ hội mà gặp gỡ nhau. Bởi trước phồn hoa đô hội, dưới ánh sáng cửa gương, đèn điện,
dưới sự bận bịu, lo toan cho cuộc sống của con người thì trăng sẽ trở nên nhạt nhòa,
chìm khuất nhưng nó đã có dịp bừng sáng lên khi một tình huống bất ngờ xảy đến, để rồi
đánh thức biết bao nhiêu là suy ngẫm, kỉ niệm dội về trong lòng thi nhân:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổn
đột ngột vầng trăng tròn

Nếu ở các khổ thơ trước, giọng thơ đều đều, chậm dãi, miên man trong những kỉ niệm
tươi đẹp của quá khứ thì đến khổ bốn, giọng thơ đã đột ngột cất cao, thể hiện sự choáng
ngợp, bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trước khung của sổ. Mất điện,
theo một lẽ tự nhiên khi con người chỉ tìm tới nơi có ánh sáng, hành động phản xạ như
một thói quen “bật tung cửa sổ” và con người đã vô tình bắt gặp “vầng trăng tròn” tình
nghĩa năm nào.
Nghệ thuật đảo ngữ đã đẩy từ “đột ngột” lên đầu câu thơ, nhấn mạnh đến sự ngỡ ngàng,
ngạc nhiên, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn vành
vạnh, chan chứa tình nghĩa vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con người, vẫn luôn lặng
lẽ tỏa sáng không hề hao khuyết. Còn con người thì lãng quên vầng trăng nên khi bắt
gặp vầng trăng mới cảm thấy bất ngờ, đột ngột đến như vậy.
Loay hoay trong gian phòng tối ấy để rồi trào lên bao suy tư, trăn trở:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Nghệ thuật nhân hóa, so sánh, từ láy, điệp ngữ đã diễn tả vầng trăng tít tắp trên trời cao
đang đăm đắm nhìn xuống con người nơi mặt đất để gợi nhớ. Kỉ niệm xưa ào ạt nhìn về,
vẹn nguyên trong sáng khiến cho con người xúc động rưng rưng. Nhân vật trữ tình lặng
lẽ đối diện với vầng trăng - người bạn trữ tình mà mình lãng quên. Trăng đối diện với con
người, quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung, tình nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình
và vô tình khoảnh khắc khắc ấy khiến nhà thơ hổ thẹn, ân hận về sự thay đổi của mình.
Nhân vật trữ tình rưng rưng muốn khóc, anh ngơ ngác nhìn trăng, soi lòng mình vào
trăng để nhận ra mình đã sai. Do vậy tâm hồn anh sẽ không thể nào tĩnh lặng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Vầng trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Trăng "tròn vành vạnh" là một vẻ đẹp viên mãn, "im phăng phắc" là im như tờ không một
tiếng động nhỏ. Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế độc lập mà song song. Đối lập giữa
sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ vô tình. Đối lập giữa cái im lặng của
vầng trăng và sự thức tỉnh của con người. Cái sự giật mình thức tỉnh được diễn tả thật
đáng quí vì khi ta giật mình thức tỉnh tức là đã nhận ra sự bạc bẽo của mình, nhận ra sai
lầm của mình với quá khứ. Đó là thái độ ăn năn hối hận tự nhắc lòng mình hãy ngưng lại
nhịp sống hối hả để tìm lại chính mình, tìm lại những gì đã mất, đã lãng quên. Đó là sự
thức tỉnh đầy nhân bản để tâm hồn con người trở vềtrong trẻo, thánh thiện như xưa.
Nguyễn Duy đã thảng thốt lo âu trước sự thay đổi của con người khi chiến tranh đi qua,
thế nhưng ông không mất niềm tin vào nhân cách của con người, giá trị tốt đẹp của cuộc
sống. Có lần ông đã khẳng định "Cái tâm hồn nguồn cội của dân tộc Việt luôn chan chứa
những giá trị nhân văn cao cả nhất. Con người có thể bị lãng quên, có thể chối bỏ những
điều đó trong tâm hồn cá nhân anh ta. Thế nhưng dù anh ta có làm bất cứ điều gì đi nữa
thì những giá trị văn hóa thuần khiết nhất của dân tộc vẫn vậy, bao bọc, che chở an ủi
anh ta một cách vô hình. Đó chính là những nét nhân văn nhất của tinh thần Việt".
Ở đây trăng độ lượng bao dung. Phải chăng trăng tượng trưng cho sự cao quý của nhân
dân tượng trưng cho vẻ đẹp gian lao sâu nặng nghĩa tình của tổ quốc. Trăng tượng trưng
cho vẻ đẹp của tình bạn, tình chiến đấu không thể nào quên. Qua hình tượng ánh trăng
nhà thơ nhắc nhở chúng ta rằng phải biết sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ và đó
chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc ta.
"Ánh trăng" - hành trình về sự thức tỉnh hoàn thiện mình. Dù thời gian trôi đi, cuộc sống
còn đổi thay nhưng những giá trị tinh thần, những tư tưởng đạo lý sẽ không thay đổi, sẽ
còn mãi với thời gian bởi đó là một nét đẹp của người Việt, của dân tộc Việt. Chính vì thế
mà Lương Kim Phương khi bình luận về bài thơ này đã khẳng định: "Bài thơ giống như
một câu chuyện giàu chất thơ, đầy hiện thực cuộc sống. Tuy bài thơ không một chút đao
to búa lớn mà sao khi đọc ta thấy như có ai đang quất vào mình đau đớn".

☘️PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH☘️


------------------
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn
mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn
giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không
tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp
tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ
cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy
chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về
Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về
những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi
trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như
sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như
bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều.
Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán,
buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và
cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của
Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người
thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động
trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu
đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim
được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy
sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi
nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày
đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với
chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn
với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng
giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều
liên tưởng đên thân phận: Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột
rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía
tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể
gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có,
quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ,
bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già
tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha
mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai,
quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những
băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình.
Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một
người con rất mực hiếu thảo.Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều
lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính
mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét
buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc
của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng
điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con
mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi
buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì
đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng
cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa.
Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa
phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội
cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng,
nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm
họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ
liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều
từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc
họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu
Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức
tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo
diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh
một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực
sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân
vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

💌Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim
Lân💌
(Tài liệu ôn thi vào 10)
----------------
Trong lời tự bạch của mình, Kim Lân nói rằng: “Nói đến tình yêu nước, nghe cảm thấy
còn xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt
Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả vật chất cũng như đời sống tinh
thần”. Chính tình yêu làng sâu sắc của bản thân Kim Lân đã lớn dần lên thành tình cảm
cách mạng. Và truyện ngắn “Làng” chính là nơi nguồn tình cảm cao quý đó có dịp thăng
hoa. Đến với tác phẩm, ta gặp một nhân cách ông Hai giản dị bình thường như bao
người khác nhưng tràn đầy tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến.Cả tác
phẩm là cuộc chiến nội tâm, là thử thách đối với tình yêu làng của ông Hai khi ông nghe
tin làng Chợ Dầu theo giặc. Suốt mấy ngày ông đau khổ, dằn vặt chẳng dám gặp ai. Đến
khi tin đồn được cải chính ông Hai lại hồ hởi đi khoe làng với tất cả niềm vui sướng của
mình.
Với “Làng”, lồng trong tình huống truyện độc đáo là việc miêu tả chiều sâu tâm lí nhân vật
cũng hết sức tinh tế, đặc biệt qua nhân vật ông Hai. Những rung động, xúc cảm lúc buồn
lúc vui đã tạo nên hiệu ứng đặc biệt với bạn đọc.
Ấn tượng đầu tiên về ông Hai chính là hình ảnh người nông dân Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Pháp gian khổ. Đó là con người chất phác, cần cù, siêng năng, đầy tinh thần
lao động. Ông Hai đến đây chỉ là người dân đi tản cư và trong ông luôn đau đáu về quê
hương mình, nơi mà ông gắn bó đã nửa đời. Ta thấy được tình yêu đó lớn thế nào, khi
nghĩ đến cái cảnh ông vùng vằng nhất quyết ở làng kháng chiến và chỉ ngậm ngùi chịu ra
đi khi được giảng giải rằng: “tản cư cũng là kháng chiến”. Lúc đó và bây giờ cũng chẳng
khác nhau là mấy. Đang ở nơi đất khách quê người, ông luôn đau đáu về làng, luôn nhớ
về cái “độ ấy”, cái lúc mà ông vui vẻ bên anh em bạn bè “cũng hát hỏng, cũng bông
phèng, cũng đào cũng cuốc mê man suốt ngày”… Tâm trạng ông như trẻ ra cùng những
nhớ nhung, hồi tưởng.
Nơi tản cư, ông đang trọ trong nhà mụ chủ khó tính,luôn xiên xỏ… nhưng ông vẫn vì
kháng chiến mà chịu đựng, vẫn lạc quan. Ông tiếp tục sống trong tình yêu làng Chợ Dầu
tha thiết, yêu nước yêu cách mạng, thù ghét bọn Tây cướp nước! Cũng ở nơi này, ông
đã hình thành nên thói quen không thể bỏ - vào phòng thông tin đọc báo. Dù có biết chữ
nhưng ông cũng chẳng dễ dàng gì đọc được thế là phải nghe lỏm, “điều này làm ông khổ
tâm hết sức”. Nhưng ông chẳng nhụt chí vì ở đây luôn có những niềm vui lớn, ông được
nghe “tinh những người tài giỏi” cứu nước. Cứ đến, ông lại náo nức, rạo rực và lại thêm
tin tưởng đến thắng lợi. Ông bước đi cùng niềm vui “náo nức” để tiếp tục cho cuộc sống
nơi quê người và cảm thấy thật nhẹ nhàng, khoan khoái, sẵn sàng thả hồn trên những
con đường đầy nắng, chấp chới cánh cò…
Nhưng rồi, kịch tính đã xảy ra, một tình huống trớ trêu đã đến. Cái tin làng Chợ Dầu của
ông theo Tây không biết từ đâu đã chạy theo những người tản cư mới lên tới đây, tới
ngay trước cái mặt đang vênh lên vì phấn khích: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Và
rồi niềm phấn khích trong lòng ông bị dội gáo nước lạnh, cái tượng đài trong lòng ông -
làng Chợ Dầu đã theo Tây! Thật là khó có thể chấp nhận. Ông như dính một cú sốc lớn:
“Cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở
được. Một lúc mới rặn è..è...”. Như cố ngoi lên tìm chút hy vọng, ông hỏi: “Liệu có thật
không hở bác? Hay chỉ là lại…”. Nhưng không, người đàn bà đi tản cư đã khẳng định
“Việt gian từ thằng chủ tịch… Thằng chánh Bệu…” thì khó mà bác bỏ được. Và câu hỏi
“Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?” như một đòn giáng vào tâm hồn gần như
tê dại của ông rồi. Ông cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng cố làm ra vẻ bình thản để che
dấu tâm trạng, cúi mặt mà đi về nhà. Ông đau lắm, đến nỗi chẳng dám nhận mình là
người làng Chợ Dầu dù ông rất tin tưởng ở những người đồng hương kháng chiến.
Ông Hai cố gắng chạy trốn, cố gắng lảng tránh nhưng cũng chẳng được vì trong tâm
tưởng ông luôn có làng. Chính vì thế mà những lời nói của đám người tản cư lúc nãy cứ
bám theo ông về tận nhà. Ông đã sụp đổ thật rồi. Ông nghĩ mà tủi thân, giàn giụa cả
nước mắt. Ông đang nghĩ cho những đứa trẻ “làng Việt gian”sẽ bị hắt hủi hay ông đang
nghĩ cho chính bản thân mình? Ông đã trung thành với cách mạng vậy mà giờ đây phải
mang tiếng bán nước… Ông đau đớn khôn cùng khi nghĩ về những anh em yêu nước
của mình. Liệu họ có thể bán rẻ Tổ quốc? Nhưng những bằng chứng quá cụ thể đã nói
lên tất cả mọi chuyện. Một mặt ông đang cố bảo vệ, mặt kia ông lên án để rồi tạo thành
cuộc xung đột nội tâm ghê gớm. Nhục nhã quá! Ghê tởm thay cái giống Việt gian – quân
bán nước!
Trong cái khung cảnh đau khổ thế này, bà Hai xuất hiện như một cái sự không cần thiết.
Bà cũng đã nghe tin, cũng đã rất lo lắng. Khi bà nhắc đến tin đồn chỉ khiến cho một người
im lặng vì “đau” phải cáu gắt. Cũng phải hiểu cho ông Hai, khi một người đang đau sẽ
khó có thể thông cảm được cho nỗi đau của người khác. Không khí trong căn nhà chật
chội giờ trở nên khó thở hơn bao giờ hết…
Nỗi ám ảnh nặng nề, cảm giác đau xót, nhục nhã đã biến thành nỗi sợ hãi thường trực
trong ông Hai kể từ lúc nghe được tin dữ ấy. Bằng chứng là ông tự dày vò mình trong
căn nhà nhỏ bốn ngày liền. Tất cả những gì ông làm được chỉ là nghe ngóng. Ông ngóng
xem người ta bàn tán chuyện đó ra sao…, ông “nơm nớp”… ông “chột dạ”... Cứ thoáng
nghe đến Tây, Việt gian, cam - nhông... là ông “lủi ra một góc nhà, nín thít”. Đã đau đớn
vậy rồi mà ông vẫn cứ tìm thêm nỗi đau. Có lẽ, ông biết là không nên nhưng lí trí đã thua,
thua một con tim nồng nàn chẳng đổi!
Và cuối cùng thì việc ông luôn thường trực một nỗi sợ hãi và đáng sợ hơn là mụ chủ nhà
bóng gió đuổi gia đình ông đi, bởi nhà ông là người làng Việt gian. “Thế là tuyệt đường
sinh sống! Cực nhục chưa! Đi đâu bây giờ?” Cái giống làng Việt gian mới nhục làm sao?
Đến một chốn dung thân cũng chẳng có. Chẳng nơi nào chứa cái hạng người như thế.
Nếu kiếm được cũng chẳng mặt mũi nào mà ở. Đó là kết quả của những suy nghĩ quặn
xé từ trái tim ứa máu của ông Hai.
Trước mắt ông lão chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được rồi. Còn về làng… Vừa
chớm nghĩ thôi ông đã gạt phắt đi ngay. Là một người như ông, há ông chịu quay về cái
chốn nhục nhã đó nữa, quay về chẳng phải cùng hàng với bọn Việt gian sao? Và “về làng
tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông đã khổ tâm quá rồi. Chọn làng hay kháng chiến?
Ông khổ tâm tới mức mà phải đau đớn thốt ra: ”Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù!”
Mâu thuẫn nội tâm đã được đẩy lên đỉnh điểm. Ông sa vào bế tắc. Ông đã nén, nén cái
đau khổ quá nhiều rồi. Và cuối cùng, ông chỉ biết giãi bày tâm sự cùng đứa con út. Với
đứa con, ông trải hết cái tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn. Trong cuộc trò chuyện, ông vẫn
đưa đứa con thơ ngây một tình yêu làng chợ Dầu tha thiết, hình ảnh làng vẫn đau đáu
trong tâm khảm ông. Và hơn hết, ông đã gạt bỏ cái riêng mà hòa vào cái chung của
kháng chiến. Gánh nặng trong ông đã vơi đôi phần. Hình như, đến giây phút này từ trong
tấn bi kịch đó lại sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp đó là tinh thần dân tộc, trung thành
với cách mạng, với cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông/Cụ Hồ trên đầu trên cổ
soi xét cho bố con ông…”. Tình cảm đó như là nguồn nghị lực vô tận đem đến sức sống
cho ông Hai. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát
người anh hùng”:
“Người ta trong lúc hiểm nghèo
Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”
Ông đã sáng, sáng chói lên lòng yêu nước chân thành của người nông dân hướng đến
cách mạng, đến cụ Hồ. Vẻ đẹp đó thực sự đáng ngợi ca.
Để rồi, hình như ông trời đã không tuyệt đường sống của ai bao giờ, nhất là với những
người như ông. Nó đã đến, cái tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính đã đến. Ông
Hai đã sống như thể vừa được hồi sinh một lần nữa sau cuộc chiến xung đột nội tâm ghê
gớm kéo dài vừa qua. Tình yêu làng, yêu nước đã trở về hòa quyện sâu sắc hơn trong
lòng người nông dân chất phác này. Ông Hai đã trút bỏ được sự dằn vặt, đau khổ bấy
lâu. Niềm vui đã trở lại trên khuôn mặt buồn thiu ngày trước. Ông lão vui như chưa có lần
nào vui hơn được nữa: “Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…” rồi
mua quà cho con, đi khắp nơi sang nhà bác Thứ, mụ chủ nhà, hễ gặp ai ông lại nói lại kể,
lại cười. Và lại khoe: “Tây đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn”. Niềm vui đó lớn đến nỗi khi kể
về làng mình bị đốt nhẵn, nhà mình bị cháy rụi mà chẳng quan tâm, chẳng bận lòng,
dường như chẳng hề hấn gì chỉ biết đến trước mắt là niềm vui kháng chiến, niềm vui
cách mạng. Hay là vì ông Hai đã trút đi được nổi hổ thẹn, cực nhục? Mọi thứ dường như
tan biến trong hạnh phúc dâng trào. Bây giờ lại có thể tự hào, hãnh diện khoe về cái làng
kháng chiến của mình nữa rồi.
Người nông dân chất phác, mộc mạc đã tìm được con đường vẽ ra chân trời mới cho họ.
Nhờ đó, cách mạng trở thành một phần trong họ - những người như ông Hai sẽ đau khổ
thế nào khi chân lí sống của mình bị xâm phạm. Cách mạng đã cho họ cuộc sống mới và
họ hiểu để trân trọng, để bảo vệ.
Tình huống làng chợ Dầu theo Tây được cải chính là cái kết cho cuộc xung đột nội tâm
gay gắt của ông Hai nhưng nó đã mở ra cả tâm và thế mới cho những nhân vật trong
truyện. Cái nhìn về làng chợ Dầu đã được thay đổi qua từng nét mặt của ông Hai. Nhờ
đấy mà toát lên một vẻ đẹp tình cảm xuất phát từ đáy lòng, máu thịt - tình cảm gắn bó với
làng quê, cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân chân chất ấy.
Xây dựng được tâm lí ông Hai một cách ấn tượng và tinh tế là thành công lớn của truyện
ngắn “Làng”. Qua đây, sự khám phá chiều sâu tâm trạng và tâm lí nhân vật được Kim
Lân nâng lên một tầm mới. Tác giả đã gửi lại sau “Làng” một tình yêu, một niềm tin vào
người nông dân Việt Nam trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp lắm gian lao.

🥑ĐỀ VĂN: CẢM NHẬN BÀI THƠ MÙA XUÂN NHO NHỎ - THANH HẢI🥑
(Tài liệu ôn thi vào 10 nên tham khảo)
--------------------
🥦Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà
thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng
thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:
“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”
(Chế Lan Viên)
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi
lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của
Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã
được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà
thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của
cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà
tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung
quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế
mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một
bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm
của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa
lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ
màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc
gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt
tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu
như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên.
Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh , mà còn có âm thanh xao
xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả
đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán
“ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem
đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một
mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra
vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây
là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân
ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc
động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm
xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm
nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là
một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ.
Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang
khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất
nước, mùa xuân của cách mạng:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của
người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc
của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng
trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành
lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải
dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc.
Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng
ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với
khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho
câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là
có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và
sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn
năm lịch sử.

🌷Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng🌷
(Tài liệu ôn thi vào 10)
--------------
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối tượng phản ánh thay
cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào
trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn là cõi nhân sinh, mục tiêu
cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người”
(Chữ dùng của Hemingway). Với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiệm
về những con người khác nhau. Trong tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân đã tạc nên
những trang viết neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông Hai – một trái tim
yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước nồng nàn.
Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm
không nhiều nhưng sáng tác nào của ông cũng vững vàng nơi lòng người và thách thức
quy luật băng hoại của thời gian. Nguyên Hồng từng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một
lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn.
Bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của Kim Lân đong đầy bóng dáng làng
quê và con người Việt Nam. Truyện “Làng” được sáng tác trong những năm đầu của
kháng chiến chống Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên “Tạp chí Văn nghệ” năm 1948. Lấy
bối cảnh cuộc tản cư trong những năm đầu kháng chiến, tác phẩm xoay quanh những
chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ông Hai. Ông không thuộc hạng cùng đình
nghèo khổ như anh Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng”
trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. Từ
con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp
chung.Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của
ông. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi
nói về nơi nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt
biến chuyển, hoạt động”. Đặc biệt, ông Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không
cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không quan tâm họ có nghe hay không, ông
chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Rồi qua từng thời kì
khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn
thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.
Xa rời quê hương, sống nhờ nơi đất khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê, nhớ
làng.Ông hoài niệm về những năm tháng được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào,
khuân đá… Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng.”
Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào trái tim ông
phát ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miên về những ngày quá khứ : “Chao ôi,
ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là
tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt. Tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt
dào và tha thiết. Vì nhớ, vì yêu nên ông Hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe
tình hình, tin tức kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười,
ông vui cả với cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.Ông
phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến.Ruột gan ông lão như múa cả lên vì
nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của
làng. Quả đúng như Raxun Gamzatov từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra
khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”.
Trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được, ông
Hai gặp gỡ những người dưới xuôi lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo giặc từ
một người đàn bà tản cư. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng
đi ,tưởng như đến không thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội
tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng
hoàng và sững sờ vô cùng, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim
ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi
vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật
không hở bác. Hay là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng
làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về
ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ
Dầu, ông đâu còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ông vội
vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cái
cớ ông bám lấy để rời khỏi đây :”Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay
đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, không muốn ai phát hiện ra mình là
người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì
giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng
mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhục và tủi thân.
Mang trong mình cả một khoảng trời giông bão, cả một mối tơ lòng hỗn độn, ông Hai lê
từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng còn tâm sức để làm gì cả. Nhìn lũ trẻ
mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xô đẩy,
giằng xé trong đầu ông: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng
bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa thành công
nỗi lòng của ông lão nông dân ấy. Ông Hai xót thương cho số phận của chính mình và
đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng
trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”.
Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ
đanh thép: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng
nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của
ông, họ đều là những người sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút
ấy, ông Hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà
thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai
người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?”. Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt
kéo đến đâm vào trái tim ông, phũ phàng dập tắt ngọn lửa niềm tin. Ông Hai bất lực chấp
nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao
ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn
thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông đâu chỉ
đau cho mình, đau cho làng mà ông còn đau cho những người đồng hương cùng cảnh
ngộ: "Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã
rõ cái cớ sự này chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên
sinh gắt gỏng khi nói chuyện với bà Hải. Ông Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện
tồi tệ đó, không muốn ai xát muối vào vết thương trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo
trăm bề “trằn trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành
hạ cả tinh thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên
được” hay “trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ
Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn
bọn Việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình
ông vào thế cùng cực, tuyệt đường đất sinh nhai.
Từ khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông ăn không ngon, ngủ
không yên. Ông cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong
nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến
ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… Ông né tránh
tất cả những gì liên quan đến cái tin dữ dội kia và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là
“chuyện ấy”. Bởi chính ông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế
đầy phũ phàng và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão nông dân chất phác, chân lắm tay
bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái tin làng theo giặc quả là một cú trời giáng chí
mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã tột cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt
rốn mà còn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lòng tự tôn, là danh dự. Ông và cái làng ấy đã
trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.
Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai thực sự rơi vào bế tắc. Chính
trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình thế là phải lựa chọn: làng Chợ Dầu
hay Tổ quốc? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “Hay là quay về làng?” để gia đình ông có
chỗ dung thân. Thuở trước, làng Chợ Dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng
giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lòng ông đắng ngắt, đau nhói từng hồi. Mới hôm nào về làng là
khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và
phải dập tắt ngay cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng giờ đã nối gót theo Tây, “về làng tức là
bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là cam chịu trở về với kiếp sống lầm than, kiếp sống của
những kẻ nô lệ. Dòng máu Việt Nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi
qua mọi ngõ ngách trong trái tim ông. Tận sâu nơi cõi lòng người nông dân ấy, ngọn lửa
của tình yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã
quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ông Hai đã khẳng
định tình cảm rạch ròi của người nông dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng
liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.
Trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ông Hai chỉ còn biết thả trôi nỗi lòng của mình
vào những lời thủ thỉ, tâm sự với thằng con út. Chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi
bày hết thảy những gợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lòng. Ông hỏi con về làng, để thỏa
nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi con. Ông muốn con ghi nhớ “Nhà ta ở
làng Chợ Dầu” cũng như muốn chính mình không được quên Chợ Dầu là quê hương, là
gốc gác. Phải chăng chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị
trong trái tim ông. Ông hỏi con về Cụ Hồ – biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho
tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã bám chặt vào mạch huyết.
Đồng thời, ông cũng muốn truyền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao đẹp, thiêng liêng,
nhân bản nhất của con người: Tình yêu làng và yêu nước.Cuộc đối thoại giữa hai bố con
chỉ xoay quanh chuyện làng và chuyện nước. Ông nói với con, nhưng thực chất là lời từ
vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lòng trong sạch của mình, mong “Anh em
đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ta chợt
nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh hùng”:
“Người ta trong lúc hiểm nghèo Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”
Ông Hai đã ngời sáng với những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân, nét đẹp chung
hòa giữa tình yêu làng và lòng yêu nước.
Bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ
hãnh diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua, nhường chỗ cho những rạng
đông phía cuối chân trời. Cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai. Ông như được hồi
sinh một lần nữa, rủ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “cái mặt
buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông trở lại với “thói quen” cũ của
mình, lật đật đi khoe khoang khắp nơi rằng: "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.
Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt
gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả”. Sách “Bình
giảng văn học 9″ có viết: "Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự “Tây nó đốt nhà tôi
rồi. Đốt nhẵn "một cách hả hê sung sướng thật sự như ông". Đối với người nông dân,
ngôi nhà là tài sản lớn lao, là biết bao tháng ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao
hồi ức vui buồn. Vậy vì cớ gì mà ông Hai lại lấy làm vui mừng trước sự mất mát của ngôi
nhà ? Bởi quân Tây đốt nhà ông nghĩa là làng ông không hề theo giặc mà vẫn một lòng
yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã có thể thoát khỏi cái
danh “người làng Việt gian”, được
sống như một người yêu nước,lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình.
Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình hợp lý, đó chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút
miêu tả tâm lý nhân vật. Ông Hai còn dự định nuôi lợn ăn mừng, niềm vui sướng tưởng
như vỡ òa, như những thanh âm vang vọng cả phần kết truyện. Không khó để nhận ra
với những người nông dân thật thà, chất phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay
gian nhà chứ nhất định không để cho danh dự và tự tôn của mình, của làng và của Tổ
quốc bị vấy bẩn.
Với thứ hương thơm tỏa ra từ đoá hoa mang tên “Nghệ thuật” của thiên truyện, với ánh
chiếu của ngòi bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào trang
viết, phải dùng trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con chữ. Xây dựng tình huống
truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm
“Làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân
vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. Bên cạnh đó, việc miêu
tả chân thực, cụ thể nét mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng góp phần xây dựng thành
công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài tình khi sử dụng hàng loại câu
cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật độc thoại nội tâm như xé đôi lòng người để
đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau xót, xấu hổ,
nhục nhã. Ngôn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng
ngày, giản dị, chân chất của người nông dân Bắc Bộ. Tóm lại, thi pháp truyện ngắn bao
gồm các yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện… Và “Làng” thành công trên
mọi phương diện ấy. Kim Lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy
những bước ngoặc trong diễn biến tâm lí của ông Hai.
Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định: “[…] Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là
cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh sách của Kim
Lân, cõi lòng ta say đắm trong hơi thở bất diệt của thiên truyện “Làng”, nhịp đập của
người thưởng văn hòa cùng nhịp đập của lão Hai, từ ấy ta tìm ra “thanh nam châm” của
văn chương dưới một danh xưng khác là “Lòng yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc”.
“Nét thần” của tác phẩm là mạch tình cảm hoà quyện, thống nhất trong trái tim người
nông dân, tựa như “toà thành” hiên ngang, sừng sững và bất diệt đến nổi chẳng có súng
đạn nào có thể công phá, chẳng có ngọn lửa tàn ác nào có thể thiêu rụi. Tình cảm dành
cho quê hương, đất nước đã nghiễm nhiên trở thành nguồn “thần hứng” của biết bao thi
phẩm. Ví như “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”

🌵PHÂN TÍCH BÀI THƠ SANG THU - HỮU THỈNH🌵


(Tài liệu ôn tập vào 10)
-------------
Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân
tộc ta. Ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần
thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang
biến chuyển nhẹ nhàng. Thơ ông mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế
và giàu rung cảm. Sang thu là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ ấy.
Bài thơ đưa ta đến với cảnh đất trời Việt Nam khi sang thu, từ gần đến xa, với những nét
rất gần gũi, thân thương:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Mọi hình ảnh, hiện tượng đó của đất trời khi chuyển từ hạ sang thu mọi người đều biết,
đều quen. Vậy mà đến bài thơ này của Hữu Thỉnh ta mới cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp
êm ả, thanh bình của nó. Hương ổi, gió se, sương mỏng, mây nhởn nhơ bay, chim vội vã
về phương nam, nắng vẫn rực vàng, mưa vơi dần, tiếng sấm bớt hẳn… những tín hiệu
báo mùa thu về ấy sao mà thân thương, gần gũi, nao nao gợi nhớ một miền quê thời thơ
ấu trong kí ức của mỗi chúng ta.
Nhà thơ không viết “Thu sang” mà chọn tựa đề là “Sang thu” nghĩa là mùa thu chỉ mới bắt
đầu. Từ “thu” làm bổ ngữ cho động từ “sang” gợi chủ thể cảm nhận sự chuyển mùa ấy là
con người. Cách đặt tựa đề báo hiệu những cảm nhận tinh tế và riêng biệt về mùa thu.
Hương thơm của những trái ổi chín trong vườn “vào trong gió se” tức là hương thơm bốc
mạnh và tỏa ra thành luồng, chứ không thoang thoảng. Nhà thơ vừa ngửi thấy mùi
hương ổi, lại vừa cảm nhận được cái se lạnh của gió đầu thu. Hương thì đậm đà mà gió
thì nhè nhẹ nên không gian rất đỗi nồng nàn.
Sương thu thì “chùng chình”qua ngõ, nghĩa là nó cố ý nhởn nhơ, chậm chạp lại, quấn
quýt bên ngõ xóm, đường làng hay quấn quýt, giao hòa cùng người ngắm cảnh? Hương
ổi, gió se, sương thu là những kí hiệu làm nhà thơ giật mình nhận ra: “Hình như thu
đã…”. Cảm xúc của tác giả vừa nhẹ nhàng, vừa bâng khuâng.
Bằng sự tinh nhạy của tất cả các giác quan, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của
mùa thu đều hiện diện. Mùa thu có “hương ổi”, có “gió se” và làn sương mơ “chùng
chình” trước ngõ. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt. Thu
đến nhẹ nhàng quá. Nhẹ nhàng đến nỗi chưa hẳn tin đó là sự thật. Bởi thế, có thể thấy,
đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một
tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến đắm say, cuồng nhiệt của nhà thơ.
Sau giây phút bối rối, ngỡ ngàng nhà thơ bước ra với đất trời để “kiểm chứng” nỗi hoài
nghi của mình. hực là, mùa thu đã “sang” rồi. Mùa thu đã về khắp đất trời. Đây không
phải là mùa thu đầu tiên trong đời nên sự hân hoan đã nhường chỗ cho sự đằm lắng, dịu
nhẹ, khoan thai mà đón nhận:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
“Sông được lúc dềnh dàng” chậm chạp, rề rà, không vội vàng gì. Người đọc như được
thấy mặt nước phẳng lặng của sông thu soi chiếu cánh chim vội vã bay từ khung trời chói
chang của mùa hạ sang khung trời ấm áp của mùa thu. Có lẽ, vì luyến lưu bờ xinh bãi
đẹp mà con dòng nước cũng không muốn trôi đi chăng?
Những đám mây trên bầu trời cũng “vắt nửa mình sang thu” như chưa muốn rời xa mùa
hạ nồng ấm. Đám mây lưu luyến lúc giao mùa được cảm nhận bằng tâm hồn tinh tế và
trong trẻo. Và mùa hạ dần qua cũng vơi dần những cơn mưa rào, trả lại cho trời thu sắc
xanh muôn thuở. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm,
yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.
Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và
thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về
con người, về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Nắng ấm và mưa giông là những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ. Nay những dấu hiệu ấy
tuy có vơi nhưng hãy còn rạo rực lắm. Hai từ “bao nhiêu” thể hiện sự tiếc nuối mênh
mang của nhà thơ đối với màu hạ. Đối với nhà thơ, bốn mùa đều đẹp tươi. Mùa thu mang
tới bao điều mới mẻ nhưng mùa hạ cũng lắm kỉ niệm ấm áp. Chia biệt cái cũ, đón nhận
cái mới, ở giữa ranh giới ấy khiến cho tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ không khỏi ngậm
ngùi.
Hai câu kết vừa có ý nghĩa tả thực, lại vừa có ý nghĩa hàm ẩn. Ý nghĩa tả thực là tả hiện
tượng sấm và hàng cây lúc sang thu. Còn ý nghĩa hàm ẩn mà nhà thơ gửi gắm ở đây có
lẽ là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (sấm) đã bớt đi sự bất
ngờ đối với những người từng trải (cây đứng tuổi). Đây là sự suy ngẫm của tác giả về
nhân sinh, về quy luật của cuộc sống nhân nói về cảnh thiên nhiên đất trời sang thu.
Rõ ràng, khi viết bài thơ này, Hữu Thỉnh đã bước vào tuổi trung niên, đã đi qua một thời
trai trẻ trong chiến tranh nên những chiêm nghiệm của nhà thơ có sức khơi gợi cho mọi
người về lẽ sống làm người: Ta hãy bình tĩnh mà đón nhận và giải quyết mọi vấn đề gặp
phải trong cuộc sống.
“Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi
con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì
vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.
Biểu hiện về màu thu, thơ xưa lấy động để tả tĩnh, gợi nhiều hơn tả. Nguyễn Khuyến
trong bài thơ Mùa thu câu cá đã diễn tả tài tình cảnh sắc mùa thu, vừa tinh khôi, sạch sẽ,
vừa gợi buồn, gợi nhớ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
“Ao thu trong veo”, “lá vàng”, “tầng mây”, “ngõ trúc” vốn là thi liệu mặc định của mùa thu.
Nguyễn Khuyến với cái tài tả cảnh bậc thầy đã khéo léo sắp đặt nên bức tranh thu tuyệt
đỉnh, trước và sau ông khó ai bì kịp.
Nhà thơ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng thu cũng đã có những cảm nhận tinh tế, đầy xúc
cảm trước sự dịch chuyển của mùa thu:
“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”
Không biểu hiện rõ ràng như Hữu Thỉnh trong bài Sang thu, Lưu Trọng Lư gợi nhiều hơn
tả. Tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngơ ngác biểu thị rõ ràng của
mùa thu đến. Nó vừa đến, chưa rõ ràng nên khiến cho con nai – chủ thể cảm nhận – ngơ
ngác. Tiếng thu đích thực của Lưu Trọng Lư là như vậy đó. Ta không nghe tiếng thu ấy
bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá
ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không…
Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ linh
hoạt, giọng thơ ngọt ngào, đằm thắm, nghệ thuật đan xen miêu tả và cảm xúc tự nhiên,
hài hòa, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu
quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

🥝PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ANH THANH NIÊN - LẶNG LẼ SAPA🥝


(Tài liệu ôn thi vào 10)
---------------
Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh
sang, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng
của người cầm bút”. Và trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long đã để tiếng
lòng của mình cất lên, để linh hồn tác phẩm bay lên qua hình tượng nhân vật anh thanh
niên.
Tác phẩm có cốt truyện khá đơn giản. Tất cả xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các
nhân vật: ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên làm việc trên đỉnh núi Yên Sơn. Cuộc trò
chuyện ngắn ngủi chỉ có 30’ nhưng đã để lại những dư vị ngọt ngào.
Vẻ đẹp trước nhất mà ta thấy ở anh thanh niên đó là niềm đam mê, trách nhiệm với công
việc. Là một người trẻ, chắc hẳn anh cũng mang trong mình nhiều ước mơ và khát vọng
được đi đến những khung trời xa, khám phá những mảnh đất mới. Vậy mà, ở độ tuổi
thanh xuân mơn mởn ấy, anh đã chọn cho mình công việc khí tượng kiêm vật lí địa cầu
trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét quanh năm chỉ có mây mù và sương phủ.
Công việc vất vả và cô độc nhưng anh không hề than buồn, than khổ, anh kể về nó một
cách hào hứng: Nhiệm vụ của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động
mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Anh kể về những máy móc của mình như kể về những người bạn: cái thùng đo mưa,
máy nhật quang kí, máy vin, máy đo chấn động vở quả đất. Công việc của anh vô cùng
khó khăn, vất vả, lại còn phải chịu thêm cái thời tiết mưa gió khắc nghiệt: mỗi ngày anh
phải báo về “nhà” bằng máy bộ đàm bốn lần: bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một
giờ sáng.
Gian khổ nhất là lần báo về lúc một giờ sáng, khi ấy có cả mưa tuyết. Nếu là người khác,
khi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức, có lẽ sẽ tắt đi ngủ tiếp, nhưng anh thì khác. Anh
chui ra khỏi chăn, xách ngọn đèn bão ra vườn. Con người thật quá nhỏ bé trước thiên
nhiên vũ trụ, nhưng ý chí của con người thì không một thế lực nào có thể đánh bại được.
Bên trong con người anh thanh niên chính là cái lửa của tuổi trẻ, cái lửa của nhiệt huyết
đối với công việc, ngọn lửa ấm áp ấy đã xua đi phần nào cái giá lạnh của ngọn núi cô
đơn lạnh lẽo kia. Công việc của anh nói chung là dễ, nhưng cần độ chính xác cao. Tất cả
đều được anh hoàn thành với tinh thần tự giác, sự cần mẫn, chăm chỉ. Đặc biệt, khó
khăn hơn cả thời tiết khắc nghiệt, đó là sự cô đơn vắng vẻ, quanh năm không có một
bóng người.
Ta còn thấy ở anh thanh niên ngời sáng lên một tâm hồn thật đẹp. Anh có tấm lòng nhân
hậu, quan tâm tới mọi người. Quanh năm chỉ làm bạn với rừng xanh, mấy trắng, bão
tuyết, sương rơi, ta hiểu vì sao anh lại “thèm người” đến thế. Vì vậy, anh lại càng trân
trọng hơn sợi dây liên hệ giữa mình với mọi người. Biết vợ bác lái xe bị ốm, anh biếu bác
củ tam thất, ông họa sĩ và cô kĩ sư lên nhà chơi, anh đãi họ bằng món nước chè pha
nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh. Lúc chào tạm biệt, anh không
quên tặng hai làn trứng- đều là những món cây nhà lá vườn.
Cuộc sống của anh không hề nhàm chán mà rất khoa học, ngăn nắp. Anh tự trồng hoa,
nuôi gà, tự học và có sách làm bạn lúc cô đơn. Anh thanh niên còn rất đáng yêu trong
suy nghĩ. Anh không còn cô đơn nữa vì đã có công việc làm bạn: “Khi ta việc, ta với công
việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao
anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu
buồn đến chết mất”. Công việc chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của anh, là sợi dây
gắn kết anh với mọi người. Và công việc ấy càng có ý nghĩa hơn khi anh biết những cống
hiến của mình đang góp phần phục vụ cho quê hương, đất nước. Với anh, hạnh phúc
chính là làm việc, là cống hiến:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”
Khi thấy bác họa sĩ định vẽ mình, anh khiêm tốn từ chối và giới thiệu những người khác
đáng vẽ hơn: đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu sét- những
con người hi sinh hạnh phúc riêng tư để cống hiến hết mình cho tập thể. Ở anh còn có
một tinh thần cầu tiến đáng trân trọng. Anh ngưỡng mộ anh bạn làm việc trên đỉnh Phan-
xi-păng, mong muốn làm được nhiều hơn nữa để phục vụ quê hương, đất nước.
Bằng lối kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, truyện hầu như không có cốt truyện, các nhân vật
không có tên riêng, tên nhân vật là tên của công việc, tác giả đã khắc họa thành công
bức chân dung nhân vật anh thanh niên- một người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng có
một tấm lòng sôi nổi và một trái tim ấm áp. Công việc của anh có thể không ai biết đến,
không ai nhớ tên, nhưng chính cái lặng thầm ấy lại là vẻ đẹp toát lên từ con người mộc
mạc, giản dị. Anh thanh niên cùng với biết bao người có công việc thầm lặng như anh
đang hằng ngày, hằng giờ góp phần làm thay đổi đất nước, mang lại cuộc sống tốt đẹp
hơn cho mọi người.
Đọc xong tác phẩm, chúng ta tự hỏi: Sa Pa có lặng lẽ không? Sa Pa lặng lẽ trong cảnh
vật mơ màng, thơ mộng, nhưng đằng sau cái lặng lẽ ấy lại là một bầu nhiệt huyết, là sự
say mê, hết mình và cống hiến. Qua câu chuyện về những mảnh đời lặng lẽ tưởng như
thầm lặng, tác giả cũng muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: Hãy sống một cuộc đời có ý
nghĩa, không chỉ vì bản thân mà còn vì xã hội, đất nước:
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta
Mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”
Tóm lại, qua nhân vật anh thanh niên ta thấy được vẻ đẹp trong cách sống trong tâm hồn
suy nghĩ của anh. Hình tượng anh thanh niên chỉ thoáng qua như một bức chân dung
nhưng cũng đủ khiến cho người đọc trân trọng ngưỡng mộ và quý mến anh. Anh là con
người tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam những năm đầu miền Bắc nước ta
vừa sản xuất vừa chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đó là một thế hệ một tấm gương
sáng cho thế hệ trẻ học tập và noi theo phát huy vẻ đẹp ấy.

🥕Phân tích nhân vật anh thanh niên "Lặng lẽ Sa Pa"🥕


(Tài liệu ôn thi vào 10)
--------------
Nghệ thuật hướng tới cái đẹp. Nếu cái đẹp là một cái gì gắn liền với cuộc sống, bắt
nguồn từ lao động, tiêu biểu cho cái đẹp của cuộc sống phải được coi là đối tượng miêu
tả chủ yếu của nghệ thuật. Có lẽ xuất phát từ quan điểm ấy, Nguyễn Thành Long trong
truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã tập trung xây dựng các hình tượng nhân vật đẹp cả trong
tâm hồn và tính cách. Trong số các nhân vật ấy, anh thanh niên làm công tác khí tượng ở
Sa Pa gây một cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Là một thanh niên hai mươi bảy tuổi, cái tuổi sôi nổi yêu đời ham hoạt động, anh đã tự
nguyện nhận công tác một mình ở đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Công việc
tưởng như đơn giản, chỉ cần đo gió, đo mưa, tính mây, tính nắng cho chính xác nhưng
anh phải vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách. Anh tâm sự với ông họa sĩ già: “Gian
khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy.
Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô
tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống
những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…”. Nhưng có lẽ cái khó khăn
nhất là phải sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, không
một bóng người quanh năm suốt tháng. Ở đó, muốn gặp người khác, nhìn trông và nói
chuyện là một điều khó. Vậy mà anh vượt qua tất cả vì sự gắn bó với công việc đến say
mê khiến anh không cảm thấy cô độc, lẻ loi… “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao
gọi là một mình được” vì anh thấy công việc của mình gắn liền với việc của bao anh em
đoàn viên. Và nhất là anh thấy rõ với công việc của mình, anh đã được “dự vào việc báo
trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Có hiểu được như vậy
mới thấy được hạnh phúc của anh khi được biết mình cũng góp phần vào cuộc chiến đấu
hạ phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng.
Anh ham mê đọc sách và nghiên cứu sách vở, tự lo liệu để thường xuyên có sách đọc.
Anh tâm sự với cô gái trẻ: “Cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện”. Anh
đã tạo cho mình cuộc sống sôi nổi, năng động, đầy hứng thú. Anh nuôi gà lấy trứng,
trồng hoa lay ơn, thược dược, vàng, tím đồi rực rỡ. Anh trồng vườn cây thuốc quý, anh
sắp xếp một căn nhà ba gian sạch sẽ… Cuộc sống tinh thần của anh sáng như pha lê,
không vương hạt bụi. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi ba mươi phút với bác lái xe, ông họa
sĩ già và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ, tính hiếu khách, thái độ nhân hậu, ấm tình người của
anh làm ta cảm động. Anh lo lắng tìm thuốc quý để chữa bệnh cho vợ bác lái xe, anh hái
hoa tặng cô gái, biếu làn trứng làm thức ăn trưa cho những vị khách quý bất chợt ghé
thăm. Những nét tính cách trên ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của anh, người thanh niên sống
trong chế độ mới, làm chủ tập thể. Thường, các tác giả rất quan tâm đến việc đặt tên cho
các nhân vật. Nhưng trong Lặng lẽ Sa Pa thì lại không như vậy. Nhân vật chính của
chúng ta không có tên. Tác giả chỉ gọi đơn giản là “Anh thanh niên” kèm theo là một bản
vẽ đơn sơ “tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ”. Có lẽ đó cũng là một dụng ý nghệ thuật của
tác giả, nó phù hợp với tính cách quên mình của anh. Khi nói về sự làm việc lẻ loi, anh
không muốn nói về mình mà nói về người khác: “Một mình thì anh bạn trên đỉnh Phăng-
xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu”. Khi ông họa sĩ
già định vẽ anh thì anh giới thiệu ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, đồng chí cán bộ khoa
học nghiên cứu làm bản đồ sét riêng cho nước nhà. Tính khiêm tốn, anh không muốn
mình được đề cao.
Viết đến đây, ta lại nhớ đến bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân. Nhân vật trữ
tình trong bài thơ của anh cũng là một người anh hùng “Không một tấm hình, không một
dòng địa chỉ” mà tác giả gọi bằng cái tên chung – Anh Giải phóng quân. Những con
người của đất Việt đó đã gặp nhau ở đức tính hi sinh quên mình chăng? Những con
người anh hùng vô danh ấy đã “ngày đêm làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước” một
cách thầm lặng, không chút ồn ào khoa trương. Họ làm việc, công tác rất sôi nổi hăng hái
nhưng không lên gân, tâm hồn họ đẹp đẽ và trong sáng nhưng không đơn giản. Trong
Lặng lẽ Sa Pa ta thấy họ là cả một tập thể: người bạn ở đỉnh núi Phăng-xi-păng, ông kĩ
sư, người cán bộ khoa học. Qua thân thế, cuộc đời của một con người bình thường từ
quần chúng mà ra ấy, nhà văn đã phản ánh được tư tưởng mới của thời đại cách mạng
chúng ta. Vì thế, nhân vật ấy trở thành điển hình và có tác dụng giáo dục mạnh mẽ.
Mặt khác, các nhân vật trong truyện từ bác lái xe, đến ông họa sĩ già, cô gái trẻ đều góp
phần làm cho hình ảnh anh thanh niên được sinh động và đậm nét hơn. Bác lái xe xuất
hiện chỉ có tác dụng dẫn dắt, giới thiệu nhân vật chính, nhưng chính lời nói của bác lại
gây sự chú ý, hứng thú cho người đọc. Ông họa sĩ già với niềm say mê và sự suy tư trầm
lắng trước sự xuất hiện bất ngờ của một đối tượng nghệ thuật, mà bao lâu ông khó nhọc
săn tìm, đã đem đến cho hình tượng anh thanh niên một vẻ đẹp hồn nhiên, chân thật mà
cũng hết sức độc đáo.
Đặc biệt, cuộc gặp gờ bất ngờ của cô kĩ sư nông nghiệp với anh cán bộ khí tượng trẻ
tuổi. Cô gái bàng hoàng khi đột nhiên khám phá trên mấy trang sách đọc dở của anh
cuộc sống tinh thần tuyệt đẹp. Những nét miêu tả tinh tế của tác giả về tâm tư, dáng điệu,
cử chỉ góp phần tô điểm thêm một cách ý nhị, duyên dáng cho bức chân dung của nhân
vật chính.
Trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa không có nhân vật tiêu cực nhưng không phải vì thế mà
tác phẩm kém giá trị hiện thực. Nhân vật của Nguyễn Thành Long gần gũi, quen thuộc
với chúng ta vì tính cách nhân vật được bộc lộ qua những quan hệ thường ngày, qua
những nỗi niềm, tâm sự, suy nghĩ… chứ không qua những biến cố, sự kiện ồn ào.
Những thắng lợi và thất bại, niềm vui sướng và sự đau xót, cuộc đấu tranh giữa cái cũ và
cái mới… ngày nay đang diễn ra xáo trộn suốt đêm ngày. Những mầm mống, những yếu
tố mới, những hi vọng mới cứ kế tiếp nhau ngày càng nảy nở. Đó là cảm nghĩ của chúng
ta sau khi đọc xong những trang cuối cùng câu chuyện. Những con người rõ nét, xinh
đẹp, say sưa lao động, nhiệt tình yêu cuộc sống hiện lên trong sách. Những hình tượng
thu hút trí tưởng tượng và tình cảm của ta, làm ta thiết tha yêu mến và đồng tình, mong
muốn noi gương sống như những con người đó.

🥳PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG - CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
CỦA NGUYỄN DỮ
(Tài liệu ôn thi vào 10)
-------------
Thạch lam đã từng nói rằng “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý
khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn”.
Đúng vậy! Một nhà văn ưu tú không chỉ đặt cảm xúc riêng của bản thân vào cốt truyện
mà bên cạnh đó có thể nhìn nhận hoàn cảnh nhân vật với cái nhìn khách quan. Nguyễn
Dữ là một tác giả thành công như thế! Ông là nhà văn lỗi loạt của đất nước ta trong thế kỉ
XVI. Vốn là học trò của Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một trong những tác phẩm làm
nên sự nghiệp văn chương của ông phải kể đến “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Truyện viết về nhân vật Vũ Nương người phụ nữ tài sắc, thủy chung, hiếu thảo nhưng
mang một số phận oan ức, tủi nhục và bất hạnh.
“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” – Tố Hữu. Nguyễn Dữ là
chuyên viết về đề tài văn xuôi bằng chữ Hán, ông làm quan được vài năm rồi xin về ở ẩn.
“Truyền kì mạn lục” là tập truyện ghi chép những câu chuyện kì lạ được lưu truyền viết
bằng chữ Hán. Với cốt truyện thường có những yếu tố hoang đường – khai thác từ
truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử. Nhân vật chính thường là những người
phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhưng các thế lực bạo
tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt. “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16
của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện
niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của xã hội phong kiến,
đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ mang tên Vũ Nương
Viết về người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp, bình dân mà nghèo khó – Vũ
Nương. Với phẩm chất đức hạnh, xuất thân từ một gia đình nghèo khổ nàng vừa có nhan
sắc vừa thùy mị nết na tư duy tốt đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh con của nhà hào phú
đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ, một cuộc hôn nhân không có sự bình đẳng, sự tự do
chọn lựa. Vốn dĩ chồng nàng là một người có tính đa nghi, ghen tuông. Biết thế người
phụ nữ Vũ Thị luôn làm tròn đạo lí vợ chồng nàng vốn dĩ thông minh, đôn hậu biết tính
chồng mình nên nàng đã “luôn giữ khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng thất
hòa”. Điều này cho thấy được đây là một người phụ nữ nết na, hiền lành, khéo léo, đúng
mực.
Sống trong thời loạn lạc hai vợ chồng xum vầy chưa được bao lâu thìTrương Sinh đi
lính nơi biên ải. Khi chồng đi lính Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng dặn dò chồng
những lời tình nghĩa thiết tha “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mang được ấn
phong hầu, mặc áo gấm về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế
là đủ rồi”. Mong ước thật giản dị cho thấy được một người vợ lo lắng yêu thương chồng
tính tình dịu dàng, ân cần coi thường danh lợi, tiền tài. Ngoài ra, Vũ Nương là một người
vợ thương chồng, lo lắng sự vất vả của chồng khi ra chiến trận, chỉ mong chồng mình
khỏe mạnh và bình an. Nàng thông cảm trước nỗi vất vả gian lao của chồng phải chịu
đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều
còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quán kì, khiến cho tiện thiếp băn
khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Những lời của nàng dù diễn đạt bằng lối văn cổ, nhiều điển tích
và hình ảnh ước lệ, nhưng vẫn toát lên sự chân thành và tha thiết khiến cho mọi người có
mặt trong buổi đưa tiễn đều cảm động đến ứa nước mắt. Chờ chồng những năm chồng
đi lính nàng ngày ngày đợi chờ trông đến thổn thức “ Tô son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”, nỗi nhớ kéo dài theo từng năm tháng “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào
ngăn được”. Nguyễn Dữ thấm khổ nỗi cô đơn của người vợ ở nhà chờ chồng đi chinh
chiến, một người phụ nữ thủy chung son sắt đợi chờ ngày chồng trở về. Tâm trạng nhớ
nhung của người chinh phụ chờ người chinh phu đã được Đoàn Thị Điểm trong Chinh
phụ ngâm khúc thốt lên rằng:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
Phẩm chất tốt đẹp của người vợ hiền này càng được bộc lộ trong hoàn cảnh vợ
chồng xa cách, nàng là một người mẹ hiền dịu một mình dạy con, phung dưỡng mẹ
chồng già yếu đau… Đối với mẹ chồng – là nàng dâu hiếu thảo khi bà bị ốm nàng đã lo
thuốc thang, lễ bái thần phật, luôn dịu dàng nhẹ nhàng dùng những lời khôn khéo khuyên
năng để bà vơi đi nỗi nhớ con. Đến khi bà mất: nàng đã hết lời thương sót, ma chay tử tế
lễ cẩn thận y như cha mẹ đẻ mình cho thấy được nàng là một người con dâu đức hạnh,
hiếu thảo. Trước khi mất người mẹ chồng trăn trôi dặn cô con dâu:“Sau này, trời xét lòng
lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Đối với con trai mình – Đản hết mực yêu
thương con, nuôi dạy con. Để bù đắp nỗi thiếu vắng người cha, người chồng trong gia
đình lại hết mực chăm lo con trẻ, nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha
Đản. Từ hành động đó là nút thắc dẫn đến bi kịch bất hạnh của người con dâu hiền lành,
người mẹ thương con. Vũ Nương là hình tượng người phụ nữ lí tưởng trong thời xã hội
phong kiến đương thời: Công, dung, ngôn hạnh.
Là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp là thế nhưng oan nghiệp lại ùa đến.
Khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, với biết bao mục tiêu Vũ Nương đặt ra sau ba
năm chờ chồng cứ ngỡ gia đình có thể vui vẻ, sum họp hạnh phúc. Nhưng không bất
hạnh của nàng bắt nguồn từ chi tiết chiếc bóng vui đùa con thơ dẫn dến Trương Sinh tin
lời con trẻ ngờ vực và kết tội Vũ Nương. Chồng nghe lời con trẻ “
Trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi,
mẹ Đản ngồi cũng ngồi và chưa bao giờ bế Đản cả”. Trương sinh nghi oan cho vợ của
mình mắng miết, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lợi biện
bạch của cả hàng xóm. Vốn dĩ có tính hay ghen vũ phu lại ít học gia đình đứng trước
nguy cơ tan vỡ.
Cuối cùng thất vọng đến tột đỉnh, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn Vũ
Nương đành mượn dòng sông để giãi tỏa tấm lòng trong trắng của mình, nàng tắm gội
cho sạch, ra bến sông Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời và than, nói rồi nàng nhảy xuống
sông tự vẫn. Vũ Nương bị người yêu thương nhất đẩy xuống bờ vực thẳm dẫn đến bi
kịch gia đình sau bao nhiêu năm chờ chồng chinh chiến trở về. Cái chết đau đớn của Vũ
Nương cũng là sự đầu hàng của con người trước số phận. Nguyễn Du đã thốt lên rằng:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Nguyễn Dữ đã tạo nên một cái kết có hậu thay vì một cái kết bi thương – là sự giải oan
cho chính bản thân người phụ nữ Vũ Nương. Đồng cảm của tác giả đối với người phụ nữ
xã hội xưa – phong kiến chúa đất, ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ ngày
xưa: thủy chung, son sắt, tình nghĩa, hiếu thảo, hết mực yêu thương chồng con.
Gorki từng nói rằng “Văn học là nhân học”, “Chuyện người con gái Nam Xương” là
một tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội bất công, nam quyền chà đạp lên số phận của
người phụ nữ. Thi phẩm nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, chế độ nam quyền
người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ
nữ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là một đại diện cho thân phận
người phụ nữ phong kiến
ngày xưa thủy chung, son sắt, đức hạnh hiếu thảo nhưng mang một số phận bất hạnh
đầy éo le.
________________________

😍PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN😍


(Tài liệu ôn thi vào 10)
-------------
Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với nền thơ với lời thơ thấm thía bao nỗi
buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh,
đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình. Nhưng xét đến cùng,
chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo
não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc
đời.
Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu
thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ông tìm được nguồn sống từ cuộc sống mới của
dân tộc và say mê sáng tạo. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm
nổi bậc của ông trong giai đoạn này.
Đoàn thuyền đánh cá được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã
kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc
sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành. Đất nước đang
thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ.
Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết. Tố Hữu,
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, lên miền núi, đến với nhà máy, nông
trường... Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi
ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất
nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Xuyên suốt bài thơ là bút pháp sáng tác lãng mạn, bay bổng, cảm xúc vũ trụ độc đáo tràn
trào. Thi phẩm đã để lại cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị, những ấn tượng sâu sắc.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá lúc hoàng hôn buông xuống:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi".
cam nhan ve bai tho doan thuyen danh ca
Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt. Hai câu đầu tả cảnh, hai
câu sau nói về con người. Buổi chiều không mang nét buồn; không gian, mặt biển bao la,
hoàng tráng; thiên nhiên tràn đầy sức sống. Hình ảnh mặt trời rực rỡ từ từ xuống biển
chói lòa ánh sáng. Phép nhân hóa và ẩn dụ "Sóng đã cài then đêm sập cửa" gợi cho
người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi,
thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ, sẵn sàng che chở cho tất cả.
Thế nhưng vũ trụ đi vào yên nghỉ nhưng không hề thấy nét lụi tàn mà ngược lại càng trở
nên huy hoàng, mĩ lệ. Ánh sáng mặt trời bừng lên mãnh liệt ngỡ như có thể khiến cho cả
đại dương sôi sục trong sức nóng bỏng khủng khiếp. Thủ pháp so sánh độc đáo, khiến
người đọc bất ngờ, thú vị. Những con sóng lăn tăn trên mặt biển như khép lại cánh cửa
của ngày. Màn đêm biển cả mở ra, sâu thẳm và huyền bí.
Trước khi vũ trụ đi vào lặng lẽ, đoàn thuyền đánh cá căng buồm ra khơi. Nhịp thơ vừa
chùng xuống lập tức căng lên theo cách buồm ngược gió:
"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi".Từ "lại" cho ta thấy đây không phải là lần đầu tiên
đoàn thuyền ra khơi mà đã rất nhiều lần và trở nên quen thuộc. Một tư thế chủ động
mạnh mẽ, đầy tin tưởng trong bài ca lao động tươi vui. Cảnh và người tưởng như đối lập
song lại hòa hợp. Cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của
một bức tranh lao động khỏe khoắn. Khung cảnh vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ
sắc màu, hứa hẹn một chuyến ra khơi thắng lợi.
Trong câu hát, đoàn thuyền vượt sóng ra khơi, băng mình trên biển cả tìm kiếm những
luồng cá. Tiếng hát vang vọng trong đại dương, tràn đầy khí thế:
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi".
Biện pháp so sánh đầy hình ảnh kết hợp với lối chơi chữ độc đáo. "Cá thu biển Đông như
đoàn thoi" khiến cho câu thơ nhộn nhịp theo từng đoàn cá chạy. Phép nhân hóa: "đêm
ngày dệt biển muôn luồn sáng" lập tức phá tan vẻ đơn điệu của biển đêm. Huy Cận đã
hết sức chú ý đến việc xây dựng hình ảnh đặc sắc cho đoạn thơ nhằm tạo nên sự hài
hòa giữa con người và biển cả. Đại dương không còn đáng sợ nữa. Đại dương giờ đây
chính là ngôi nhà vĩ đại, là nguồn sống của con người.
Lời ca tiếng hát là những ước mơ đẹp, ước mơ về một chuyến đi với những thành quả
lao động cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp. Hình ảnh
của sự liên tưởng sáng tạo, giàu ý nghĩa; hình ảnh mang chất thơ, thi vị hóa công việc
đánh bắt cá nặng nhọc. Câu hát yêu đời, thiết tha, trìu mến, ca ngợi sự giàu đẹp của biển
Đông Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam.
Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên
biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời,
làm chủ biển trời quê hương. Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa
lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng
"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng".
Con thuyền lướt trên mặt biển chừng như không phải bằng sức người. Gió đã lái con
thuyền đi. Gió là thủy thủ hỗ trợ cho thuyền. Còn có cả ánh trăng trên trời cao căng trên
cánh buồm. Nếu nhìn từ xa, con thuyền như đang bay trong một bầu không vĩ đại với gió,
với trăng chẳng khác nào con thuyền trong huyền thoại. Con thuyền mạnh mẽ cứ thế lao
đi như không hề có một trở ngại nào.
Huy Cận đã thi vị con thuyền đánh cá, nâng con thuyền lên một tầm vóc lớn lao, vĩ đại,
sánh ngang vũ trụ. Cảm xúc vũ trụ đã nâng cao hồn thơ Huy Cận, khiến câu thơ cất
cánh. Tầm vóc người lao động cũng được nâng lên tột bậc trong tư thế chủ động. Họ sẵn
sàng làm chủ thiên nhiên, làm chủ công việc, làm chủ sự sống. Họ hiên ngang "dò bụng
biển"; họ nhanh chóng "dàn đan thế trận" đưa luồng cá vào vòng vây khép kín.
Ý thơ đã nâng tâm hồn chúng ta với niềm cảm xúc lâng lâng sảng khoái. Hình ảnh thơ
tạo nên sự liên tưởng đọc đáo. Đoàn thuyền đánh cá là gạch nối để liên kết giữa trời và
biển, cùng hòa chung giai điệu lao động của con người. Lãng mạn nhưng không xa rời
thực tế. Câu thơ miêu tả rất chân thực hoạt động đánh bắt cá của ngư dân vừa điêu
luyện vừa hết sức tài tình. Cách miêu tả của Huy Cận như tập trung vào công việc lao
động đánh bắt cá vì nhiều vất vả, nhọc nhằn.
Đồng thời, Huy Cận cũng đã ví những ngư dân hôm nay như những người chiến sĩ,
những nhà thám hiểm đại dương vĩ đại. Họ đang chiến đấu cùng biển cả, khám phá và
chinh phục thiên nhiên dữ dội. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu
chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say,
trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối
với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long".
Biển cả phong phú tài nguyên và vô cùng giàu có. Những loài cá là linh hồn của biển cả.
Cách diễn đạt mang tính cách dân gian (chim, thu, nhụ, đè). Bút phát liệt kê trùng điệp
ngợi ca sự giàu có của biển cả. Bức tranh thơ không chỉ thể hiện sự giàu có của biển mà
còn lung linh những màu sắc. Những chú cá song lấp lánh dưới ánh trăng, màu đen hồng
kết hợp màu vàng chóe tạo cảm giác ấm áp.
Nghệ thuật nhân hóa, cách dùng đại từ "em" thể hiện tình cảm trìu mến, thân thương của
tác giả. Nhà thơ tỏ thái độ trân trọng, nân niu thành quả lao động. Từ "em" mềm mại lập
tức làm cho câu thơ lấp lánh sắc màu. Có giai thoại cho rằng lúc ban đầu Huy Cận viết:
"Cá đuôi én vẫy trăng vàng chóe". Rõ thực, cá đuôi én là tên một loài cá. Đến khi in thơ,
nhà xuất bản cho rằng Huy Cận viết sai chính tả nên sửa thành: "Cái đuôi em vẫy trăng
vàng chóe". Sự cố này không những không phá hỏng ý thơ mà còn làm cho câu thơ trở
nên hình tượng và sinh động vô cùng.
Giữa mặt biển đêm bao la, mênh mông, từng con sóng nhấp nhô chạy vào bờ, tâm hồn
nhà thơ như hòa nhập với cái mênh mông, vô tận của thiên nhiên. Trong những giây phút
lắng đọng của tâm hồn, Huy Cận nghe được cả tiếng thở của đêm:
"Đêm thở sao lùa nước Hạ Long".
Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận xây dựng trong thơ một sức tưởng tượng phong phú,
độc đáo. Những con sóng nhấp nhô, đều đặn như hơi thở từ trên lồng ngực khổng lồ của
biển cả. Hòa trong hơi thở đó, có cả ánh trăng, cả bóng sao lung linh in hình trên mặt
biển hiền hòa theo những con sóng hội tụ trên vịnh Hạ Long. Có thể nói, bằng tâm hồn
hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không
khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ
sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.
Dấu hai chấm trong khổ thơ như sự giải thích độc đáo, làm ta có cảm giác không chỉ là
gió tạo nên những con sóng nhấp nhô mà chính những vì tinh tú trên bầu trời in hình
xuống mặt nước tạo nên những con sóng "sao lùa nước". Câu thơ đậm chất gợi tả, tạo
sự liên tưởng, lắng đọng sâu xa trong lòng người đọc. Biển trở nên xinh đẹp, lôi cuốn...
Phải có đôi mắt tinh tế, ánh nhìn sâu đậm, Huy Cận mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp
của thiên nhiên, của biển trời Việt Nam.
Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình
ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy
niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".
Công việc đánh bắt cá nặng nhọc nhưng dưới mắt Huy Cận bỗng trở nên nhẹ nhàng, êm
ái. Người dân chài không phải đang đánh cá mà là đang ca hát giữa biển trời. Lời hát mời
gọi đầy sức thuyết phục đã quyến rũ những chú cá đên với những chiếc lưới đầy:
"Ta hát bài ca gọi cá vào".
Từ tiếng hát của ngư dân trở thành giai điệu lao động đầy lạc quan, yêu đời của những
con người mới trong buổi đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội, thiên nhiên như đồng điệu:
"Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao"
Ánh trăng in hình trên mặt nước. Ánh trăng lung linh, huyền ảo, lấp lánh, trên mặt biển rồi
theo cơn sóng dập dờn vỗ vào mạn thuyền. Nghệ thuật nhân hóa "gõ thuyền" như phụ
họa trong giai điệu câu hát, thiên nhiên cùng với con người gõ nhịp tình yêu cuộc sống -
nhiệt tình lao động xây dựng cuộc sống. Phải có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống dạt
dào, Huy Cận mới viết nên những vần thơ đẹp như thế. Những vần thơ giàu sức biểu
cảm:
"Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".
Biển như người mẹ hiền bao dung, quảng đại đang rộng mở cánh tay, tấm lòng để nuôi
lớn đàn con thân yêu. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp so sánh thể hiện nguồn tài nguyên vô
tận của thiên nhiên Việt Nam - biển Đông Việt Nam. Huy Cận bằng những vần thơ của
mình đã tạo sự liên tưởng đầy trìu mến. Biển - người mẹ vĩ đại, đã nuôi lớn những ngư
dân bằng chất mặn mà của muối, của cá tôm... Biển rất ân tình.
Không mãi du hành, hát ca trên biển sóng, nhà thơ trở về với công việc người ngư dân.
Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn
trương, gấp gáp:
"Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng.
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vầy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng".
Ánh sáng trên bầu trời đêm đã mở dần, một ngày mới chuẩn bị ló rạng. Đây cũng là lúc
những ngư dân thu hoạch kết quả của một đêm đánh bắt cá:
"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng".
Một kết quả mỹ mãn. Những ngư dân đang hăng hái, khẩn trương "kéo xoăn tay" những
mẻ lưới đầy ắp cá tôm. Những mẻ cá được nhà thơ thi vị hóa như những chùm quả ngọt
đầu mùa. "Xoăn", từ dùng đắt, gợi hình, gợi cảm. Cánh tay nối cánh tay, bện lại như
những sợi dây thừng chắc chắn và dẻo dai. Động tác lao động mới thật là khỏe khoắn,
bền bỉ. "Chùm cá nặng", kết quả lao động xứng đáng, tốt đẹp. Quá trình lao động cật lực,
miệt mài. Phần thưởng của tình cần cù, chịu khó, dũng cảm; của năng lực trí tuệ nghề
nghiệp; của lòng yêu nghề, yêu biển, của tinh thần trách nhiệm của những con người biết
làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên.
Ánh nắng ngày mới vừa lóe lên ở phía chân trời xa. Những tia nắng lúc đầu còn mong
manh, yếu ớt một màu hồng nhạt phản chiếu lên những chú cá, tạo một hình ảnh đầy gợi
cảm:
"Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"
Dưới ánh sáng của ngày mới, những chiếc vẩy bạc kết hợp với đuôi vàng tạo thành một
màu vàng trắng lấp lánh. Toàn khổ thơ sáng rực rỡ. Ánh sáng ấy do cá, bởi cá. Biển đêm
mà không tối, bao trùm lên cả bức tranh về biển là màu sắc của cá phong phú, lóng
lánh... Hình ảnh thơ đấy sức sống và niềm tin - phấn khởi để chào đón một ngày mới.
Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo
lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe
cùng thành quả thu về "vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông". Màu hồng của bình minh làm
ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận
hành của vũ trụ. Sau những mẻ lưới nặng trĩu cá tôm, đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở
về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ. Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu
cuối của khổ thứ nhất. Cấu trúc đầu - cuối tương ứng ấy trở thành điệp khúc ngân nga,
nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe
khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân:
"Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".
Đoàn thuyền bắt đầu trở về, phía sau là ánh mặt trời bắt đầu nhô lên từ lòng đại dương
xanh thẳm. Từ "chạy đua" làm nên âm điệu thơ khẩn trương, nhanh chắc. Một cuộc chạy
đua giữa con người và thiên nhiên, cuộc chạy đua để giành lấy, tranh thủ sự dựng xây,
cống hiến cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Đoàn thuyền vừa đến bến cũng là lúc mặt trời rời khỏi lòng đại dương, mở ra một ngày
mới tươi đẹp:
"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".
Cảnh mặt trời đội biển rất lạ. Người đọc có cảm giác như mặt biển được nâng cao theo
từng con sóng triều dâng tỏa rạng, xóa tan màn đêm. Một đêm lao động đã kết thúc, ngư
dân xếp lưới và hạnh phúc với thành quả lao động vừa thu được.
Huy Cận đã cường điệu hình ảnh những chú cá: "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".
Dưới ánh nắng mặt trời, những đôi mắt cá lấp lánh như hàng nghìn ánh mặt trời bé con.
Thiên nhiên rực rỡ một mặt trời to lớn, xán lạn; con người có trong tay muôn nghìn mặt
trời nhỏ lấp lánh, huy hoàng... Bút pháp lãng mạn đầy chất thơ, ca ngợi và thể hiện tình
yêu lao động, tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống mới. Một ngày mới tươi
vui, một cuộc đời mới đang sinh sôi, nảy nở.
Thành công của bài thơ còn ở việc Huy Cận xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng
tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan của người lao
động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ
Long, bài thơ Đoàn thuyền đánh các ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có
của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã
được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
"Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!"
(Tố Hữu)

You might also like