Professional Documents
Culture Documents
Tài liệu văn 1 - 230329 - 111610
Tài liệu văn 1 - 230329 - 111610
Bài thơ mở đầu với lời giới thiệu đậm chất ngôn ngữ Nam Bộ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Cách xưng hô của tác giả trong câu thơ đầu tiên này thật đặc biệt. Đó là cách xưng hô
“Con” – “Bác” rất gần gũi, thân thương của người dân Nam Bộ. Dường như nó đã xoá tan
đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi vì trong thâm tâm mọi
người, Bác là người cha kính yêu:
“Người là Cha, là Bác, là Anh.
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ ”
(Sáng tháng năm – Tố Hữu)
Cụm từ “ở miền Nam” như thông báo cho Bác biết rằng người con ấy đến từ một nơi rất
xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chỉ
mong có ngày giành được độc lập, thống nhất, đón Bác vào thăm.
Cụm từ ấy như thông báo cho Bác biết rằng: miền Nam máu mủ ruột thịt giờ đây đã được
giải phóng rồi Bác ơi! Khi còn sống Bác vẫn nhớ miền Nam da diết, mong ngày được vào
thăm miền Nam thân thương:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Miền Trung nhớ Bác – Tố Hữu)
Động từ “thăm” cũng như một sự nói giảm nói tránh hay mặt khác còn là sự đấu tranh,
đối lập giữa lí trí và thể xác. Dù nhà thơ không muốn tin Bác đã mất rồi nhưng sự thật
hiện tại vẫn là thể. Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương
sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Từ cảm thán “Ôi” biểu thị bao niềm xúc động tự hào về hàng tre trước lăng Bác. Với biện
pháp ẩn dụ hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh
giữ cho giấc ngủ của Bác. “Hàng tre xanh xanh” mộc mạc như muốn nhấn mạnh sức
sống bền bỉ của tre hay dân tộc Việt Nam. Cái “xanh” ấy cũng đã được tác giả Nguyễn
Duy nhắc đến trong thơ của mình:
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Từ ngày xưa đã có bờ tre xanh"
Quả thật, đi suốt chiều dài lịch sử, đâu đâu ta cũng thấy bóng tre thấp thoáng. Tre của
Thép Mới “giữ nhà, giữ cửa, giữ túp lều tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre anh hùng chống
giặc ngoại xâm, luỹ tre làng còn là nơi tâm tình, hò hẹn của những đôi trai gái. Khi dần
tiến tới lăng Bác, cảnh vật xung quanh Viễn Phương lại thay đổi:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ ”
Ai đã từng vào thăm lăng Bác mới cảm nhận được vẻ đẹp của câu thơ này. “Mặt trời
trong lăng” vừa là bút pháp tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ. Mặt trời là nguồn sáng của vạn
vật khi nó mang ánh sáng đến khắp hành tinh. Bác Hồ là người đem lại ánh sáng khắp
dân tộc, soi sáng bầu trời đêm của những cuộc đời tăm tối, nô lệ. Thật ra, việc so sánh
Bác với hình ảnh mặt trời không chỉ là phát hiện của Viễn Phương mà chúng ta đã từng
bắt gặp điều này ở trong ca dao kháng chiến:
“Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương’’
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
“Người là hoa của đất trời” – Dòng người đi thăm lăng Bác được ví như những bông hoa
tươi đẹp, rạng rỡ, “kết thành tràng hoa” dâng lên Bác.
Bài thơ là hình ảnh ẩn dụ đẹp, từ ngữ giản dị mà cô đúc, nhà thơ đã bộc lộ hết tình cảm
của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc – Bác Hồ. Còn riêng bản thân, em luôn
khắc sâu trong tim mình hình ảnh của Bác. Em hứa với lòng mình sẽ cố gắng học giỏi,
thực hiện tốt năm điều Bác đã dạy để xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ thân thương.
🍊CẢM NHẬN KHỔ THƠ 1 BÀI THƠ NÓI VỚI CON CỦA Y PHƯƠNG🍊
(Tài liệu ôn thi vào 10)
------------------
Mỗi con người sinh ra đều có gia đình, quê hương, nguồn cội. Nơi ấy đã nuôi dưỡng ta
lớn, dạy ta bài học đường đời đầu tiên, cho ta từng ấy thời gian yêu thương, san sẻ. Hai
tiếng quê hương luôn là đề tài truyền cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Y Phương - một
nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào -
đã truyền tình yêu gia đình, yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc vào Nói với con thông
qua lời của một người cha nhắc nhở con trước lúc con lên đường. Cả bài thơ là từng lời
chân thành, mộc mạc trong đó khổ đầu với những ý thơ đẹp, Y Phương đã gửi vào lòng
người tình cảm gắn bó với gia đình, quê hương, đó là tình cảm thiêng liêng đáng giữ gìn:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Gia đình! Tiếng gọi thân thương bắt đầu cho mọi tình cảm tốt đẹp của con người. Gia
đình là cái nôi ấm là điểm tựa vững chắc của mỗi người làm bến đỗ bình yên sau những
gian truân vất vả của cuộc đời.
Nơi ấy là nơi mẹ về sau buổi chợ trưa với vành nón lá “quê hương là cầu tre nhỏ/ mẹ về
nón lá nghiêng che” (Quê hương - Đỗ Trung Quân). Là nơi có cha tẩn mẩn gọt từng nan
tre là cho con cánh diều be bé. Gia đình là nơi con bước những bước đầu tiên chập
chững, là nơi lưu giữ tiếng nói,tiếng cười con trẻ. Xuyên suốt toàn bộ mạch cảm xúc của
khổ thơ đong đầy sự đầm ấm và yên vui của tình cảm gia đình tình yêu quê hương đất
nước.
Trong bốn dòng thơ đầu bài thơ là hình ảnh của người con lớn lên trong tình cảm gia
đình êm ái yêu thương. Ở đó còn toát lên tình yêu thương dạt dào sâu nặng và người
cha dành cho đứa con thân yêu của mình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Hiện lên qua từng con chữ vần thơ là một mái nhà đầm ấm yên vui có cả cha có mẹ và
có cả con. Ở đó, cha mẹ đã dìu dắt và nâng đỡ con từng bước đi tiếng nói nụ cười đầu
tiên trong cuộc đời. Bằng những từ ngữ giàu hình ảnh cùng với phép liệt kê “chân phải,
chân trái, tiếng nói, tiếng cười”, Y Phương đã vẽ ra trước mắt người đọc không khí ấm
cúng, hạnh phúc của một gia đình. Ở đó, có một đứa trẻ đang vừa lên một đang cố bước
những bước chân non nớt về phía cha mẹ mình. Không có gì đáng yêu hơn là đôi bàn
chân hồng hồng đi trên sàn nhà và đôi tay bé xíu vẫy vẫy cha mẹ. Trong sự đáng yêu ấy
là cả niềm mong đợi, vui sướng của mẹ cha khi lần đầu được nghe con bập bẹ “mẹ ơi,
cha ơi”, lần đầu nhìn thấy con vững chãi bước đi trên chính đôi chân của mình. Câu thơ
mộc mạc cứ như một lời kể nhưng bên trong lại là những tình cảm thân thương, trìu mến
của cha mẹ dành cho đứa con bé bỏng. Nụ cười của con, tiếng nói của con làm sống lại
những kỉ niệm tưởng chừng đã mất khi cha mẹ còn là một đứa trẻ:
Bàn chân từng đạp bằng sắt đá
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên.
(Tên làng - Y Phương).
Những bước đi của con là bước đi của thời gian, bước đi nối tiếp nhau của các thế hệ.
Ngày xưa, ông bà đã từng nắm lấy đôi bàn tay cha mẹ dìu đi thì bây giờ đôi tay cha mẹ
đủ trưởng thành để dìu dắt con, làm chỗ dựa cho con để con yên tâm khôn lớn. Điểm tựa
vững chắc là gia đình đã nuôi dưỡng tâm hồn con lớn lên từng ngày.
Con con chỉ lớn lên trong vòng tay của cha mẹ trong tình yêu thương của gia đình mà là
còn trong sự đùm bọc của quê hương trong vẻ đẹp của người đồng mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Từ tình cảm gia đình sâu nặng, người cha hướng con đến tình cảm dành cho quê hương,
cho dân tộc mình. Tác giả đã khéo léo dùng cụm từ “người đồng mình” để nhắc đến
những con người giản dị, mộc mạc nơi rừng núi. Người đồng mình cũng là người quê
mình nhưng trong “đồng” ta thấy được cả sự đoàn kết, gắn bó: cùng chung quê hương -
đồng hương, cùng chung tấm lòng: đồng lòng, cùng chung chí hướng - đồng chí vì tất cả
chúng ta là đồng bào!
Cha đang kể cho con nghe về người đồng mình trong cuộc sống sinh hoạt. Con lớn lên
không chỉ nhờ vào tình yêu của cha mẹ, tình cảm gia đình mà còn nhờ vào công sức lao
động của người đồng mình. Họ là những con người có đôi bàn tay tài hoa khéo léo:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Hai động từ “cài” và “ken” đã cho thấy rõ sự tài hoa trong cách dùng từ của nhà thơ Y
Phương. Tác giả đang hướng bạn đọc đến với sự kết nối giữa giá trị lao động và giá trị
nghệ thuật. Và có thể thấy bức vách ở đây không chỉ là bức vách cụ thể bằng đất bằng
đá nữa mà nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Y Phương đã miêu tả đôi bàn tay với
những chi tiết nhỏ nữa là phi lý nhưng lại tái hiện lên được nét đặc trưng của người dân
tộc Tày, đó chính là sự tài hoa tâm hồn đầy lãng mạn. Cụm từ “vách nhà ken câu hát” đã
làm bừng dậy một không gian văn hóa của người dân tộc Tày ở tỉnh Cao Bằng. Vách nhà
được làm bằng nhiều tấm gỗ hoặc tre xếp xít nhau,ken chặt vào nhau tạo thành bức
tường vững chắc, phần nào nói lên được cuộc sống lao động vất vả, thiếu thốn của
người dân nơi đây. Tuy vậy ta không thấy tiếng thở than cho sự vất vả ấy mà trái lại Y
Phương đã nói lên được tinh thần lạc quan, hăng say lao động của con người. Trong khó
khăn, họ vẫn hát ca bên đống lửa, điệu khèn, tiếng sáo, điệu múa uyển chuyển của cô
thôn nữ làm cuộc sống của người dân giàu hơn mọi thứ, một đời sống tinh thần phong
phú. Các động từ “đan, cài, ken” đều có chung một nét nghĩa đó là gắn kết các vật lại với
nhau một cách bền chặt nhất. Phải chăng tác giả đã khéo léo dụng từ để nói được tinh
thần đoàn kết, gắn bó,san sẻ của người đồng mình trong mọi hoàn cảnh, đó cũng là đức
tính là bản sắc văn hóa vùng miền.
Bên cạnh đó, sự hùng vĩ của núi rừng và sự thơ mộng của thiên nhiên miền núi cũng góp
phần bồi đắp cho đời sống tình cảm của người con ngày một lớn hơn:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nhắc đến núi rừng, chúng ta lại nghĩ đến những con suối dữ dội,những trận mưa lũ mịt
mù “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” hay những rừng cây cao vút chạy tít tắp
đến chân trời. Đối với người đồng bào mình, núi rừng là cội nguồn của sự sống, là người
mẹ chở che, núi rừng cho con người mọi thứ cần thiết cho đời sống hằng ngày. Để nói
đến điều tuyệt vời mà núi rừng mang lại cho con người, Y Phương chỉ dùng một từ “hoa”.
Hoa ở đây không đơn thuần là đặc trưng của đại ngàn hoa cỏ mà còn mang ý nghĩa chỉ
vẻ đẹp, sự tinh túy, sự hòa quyện giữa nét đẹp hoang dã và tình yêu của con người dành
cho thiên nhiên. Hình ảnh hoa như một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả
đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn
cao đẹp của con người ở đó. Cả “rừng” và “con đường” đều được nhân hóa để nơi ấy
không chỉ là nơi đứa con khôn lớn mà còn là chỗ dựa tinh thần cho những bước đi của
con vào đời. Mỗi con đường con ra suối, lên núi, băng rừng hay trở về nhà đều mang
“những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi
dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con người. Đó là tấm lòng của quê hương
dành cho mỗi con người cũng là tấm lòng của người đồng mình dành cho nhau: thủy
chung, hiền lành, rộng mở. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm
đềm.
Từ tình cảm của quê hương, xứ sở, người cha đã không kìm được nỗi hạnh phúc, tự hào
để nhắc cho con mình ngày đầu tiên nhớ mãi:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Kết quả của “ngày cưới” mà tác giả vẫn luôn nhớ chính là đứa con, là sinh linh bé bỏng
cha mẹ luôn bảo vệ và nâng niu. Qua đây Y Phương muốn nhắn nhủ với con rằng yêu
thương chính là cội nguồn của tất cả, như việc sống và tồn tại hiện nay của mỗi người.
Con bây giờ đã đủ trưởng thành, sắp lên đường lập chí, lập thân, nhưng cha vẫn không
quên nhắc nhở con sự thiêng liêng của hôn nhân khởi đầu là ngày cưới. Mọi niềm vui,
mọi trách nhiệm của con người cũng được nuôi dưỡng từ đây.
Ba hình ảnh: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ gợi thức dậy ở
đứa trẻ tình yêu thương, lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra
và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc màu cổ tích. Đó là thế giới của những con
người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên những
cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha
và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế
sẽ đủ sức bao bọc con trong những êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm
hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.
Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng mà vừa phong phú, sinh
động, giàu chất thơ. Với thể thơ tự do với nhịp điệu, giọng thơ tha thiết, nhiều hình ảnh
mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm kết hợp một số biện pháp nghệ thuật như nhân hóa,
ẩn dụ, đoạn thơ đã làm nổi bật sự gắn bó sâu nặng của con người đối với gia đình, quê
hương, đồng bào mình. Đó là tình cảm đáng trân trọng, đáng giữ gìn và nó trở thành nét
đẹp văn hóa của con người Việt Nam. Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà
với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ.
Mọi tình cảm tốt đẹp của con người đều được nuôi dưỡng từ những điều bình dị nhất.
Trong đó có tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Y Phương đã mượn lời
người cha nhắc nhở con trước lúc con lên đường cũng là muốn nhắc nhở chúng ta sống
ân nghĩa, thủy chung, hướng về nguồn cội. Đoạn thơ đã bồi đắp cho ta thêm về tình yêu
gia đình và tình yêu quê hương đất nước. Từ đó tự nhắn nhủ với bản thân mỗi người
phải cố gắng rèn luyện hơn chăm chỉ học tập để xây dựng nước nhà một giàu đẹp và
phát triển.
🍈Những nhận định hay về bài thơ Nói với con và nhà thơ Y Phương🍈
(Tài liệu ôn thi vào lớp 10)
----------------
– “Y Phương đã ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân
tộc mình ”
– Tác phẩm của Y Phương gắn với chiều sâu thế giới nội tâm của ông. Những vần thơ
của Y Phương được khơi nguồn từ sự sống, từ cuộc đời cụ thể, những trải nghiệm của
ông. Khi cuộc sống đã trải qua biết bao thăng trầm thì tác phẩm của Y Phương thể hiện
triết lí với nhiều trăn trở và suy ngẫm. Quan niệm văn chương của ông hiện rõ điều này:
“Văn chương là một việc làm trả ơn những người sinh thành và nuôi dưỡng mình”.
– Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người
với tự nhiên đã tạo cho thơ Y Phương có sức sống rất bền. Đó chính là giá trị nhân văn
làm nên vẻ đẹp của phong cách thơ Y Phương.
– Y Phương là người có quan niệm sống, quan niệm nghệ thuật một cách rõ ràng, một
nhà thơ có tư tưởng, có quan niệm nghệ thuật là biểu hiện của một nhà thơ lớn.
– Y Phương trước sau nhất quán một xác tín nghề nghiệp”. Như nhiều người cầm bút
khác, Y Phương đã trăn trở trên từng trang viết, “luôn đòi hỏi cao với bản thân” trau chuốt
lại những vần thơ đã ra đời, đó cũng là điều hay gặp ở nhiều người sáng tác có ý thức.
– Thơ Y Phương bình dị, chân chất, hồn nhiên, giấu cất mà không he hé lộ thiên, lặng lẽ
mà bùng nổ, nhẩn nha như chính cuộc đời ông, con người ông.
– Thơ Y Phương “cũng như rượu ngon, thơ ông càng để lâu càng ngấm thời gian, có
điều kiện để ông thanh lọc những tạp chất, trở nên tinh khiết – cái tĩnh lặng luôn luôn là
môi trường của ý tưởng sâu sắc”
– “Y Phương của đời thường và Y Phương trong thơ là một. Bạn đọc tìm thấy ở thơ anh
một tiếng nói chung, ấy là sự đồng lòng, đồng cảm”
– Y Phương là một người vùng cao nhưng đã khắc phục được cái “thô ráp, ngây ngô vốn
là nhược tật của lối cảm đó”
– “Y Phương bắt đầu tuổi trẻ mình bằng cuộc đời người lính và bắt đầu đời thơ mình là
những bài thơ đánh giặc”. Theo ông, mảng thơ của Y Phương viết về non nước Cao
Bằng rất thiết tha và linh hoạt, còn những bài thơ nói về mẹ, về con, về người yêu thì
mang đậm bản sắc dân tộc.
– Sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình chính là nhịp tim thầm kín bền vững nhất trong
từng bài thơ Y Phương, là cốt lõi của giọng hát Y Phương”. Ngoài ra, “Trong Tiếng hát
tháng giêng, Y Phương còn chứng tỏ sự độc đáo của mình ở một mảng thơ khác – thơ
tình.
– Những hình bóng thiếu nữ Tày, là một hình tượng văn học khỏe khoắn, chủ đạo nhất
của thơ Y Phương
Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những ngổn
ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bất
khuất truóc kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc, chân chất, bình
dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa mà lại không luôn nhớ
về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm êm của bản thân để ra đi cho
niềm vui chung của toàn dân tôc. Nhưng bên trong những người lính chiến ấy có ngày
nào nguôi ngoai nỗi nhớ về vùng đất thân thương? Ở đó có gian nhà, có mảnh ruộng,
khu vườn_những gì quan trọng nhất đối với người nông dân. Nhưng giờ đây, đối với anh
trai làng mặc áo lính, không còn gì quan trọng hơn sinh mệnh của đất nước, như Bác Hồ
đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, anh đã tạm quên cái quý giá của cuộc đời
mình để ra đi bảo vệ cái quý giá của đất nước giang sơn. Ruộng nương được anh gửi lại
cho người bạn thân cày . Và gian nhà… tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi dùng
chữ “không” khi miêu tả trong “gian nhà không”. Gian nhà không nhiều vật dụng, đơn sơ
vì cái nghèo quay quắt lan tỏa vào đời sống từng người trong khoảng thời gian khó khăn
ấy của đất nước; nhưng từ không mà nhà thơ sự dụng lại không thảm thương bi đát như
sự thực của nó, cũng không lạc quan hóa quá đáng cái khổ mà vừa phải, vừa giàu sức
gợi hình, vừa mang tính gợi cảm. Ngôi nhà trống không vì đơn sơ, nay lại càng trống trải
vì vắng bóng người trai cần cù tháo vát nhưng anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập ngũ.
Hai chữ “mặc kệ” hay chính là lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của anh lính
với lòng yêu nước trào dâng. Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình tượng người
lính cao cả như một vị anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, khư khư giữ lấy hạnh
phúc cho riêng mình. Một sự hi sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý.
Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh trai làng ở trận tuyến vẫn không thể quên
được hình bóng quê nhà thân thương:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của làng quê
Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai chiều. “Giếng nước
gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là người thân, cha mẹ, anh em,
họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong cuộc đời người bộ đội. Dù “người ra đi
đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Nguyễn Đình Thi) nhưng
trong lòng “người ra đi” ấy vẫn đau đáu nhớ về cái “thềm nắng lá rơi đầy” quen thuộc,
cũng như anh chiến sĩ dù “mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại cả ruộng nương nhưng bên trong
anh, ngọn lửa nhớ thương chưa bao giờ bị dập tắt. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, là
“giếng nước gốc đa” nhớ người đi hay chính là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi của người đi
về “giếng nước gốc đa”? Người đi lính nhớ về người ở lại, kẻ ở lại lại nhung nhớ người ra
đi; người ra trận luôn hướng tầm mắt về nơi quê nhà, người ở quê nhà lại luôn dõi theo
bước chân người ra trận. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu nơi cả hai miền kí ức. Hậu
phương ủng hộ tiền tuyến, luôn hướng về tiền tuyến, còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn
trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương. Một hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó,
hình tượng người lính hiện lên thật anh hùng, mạnh mẽ dút khoát trước tiếng gọi của non
sông, song vẫn rất giàu tình nghĩa khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người thân,
bạn bè. Có lẽ trong lòng anh chiến sĩ vẫn còn day dứt hình ảnh mẹ già lúc tiễn con ra
trận:
Chiều nay con ra trận
Lòng mẹ thương
Nhưng thôi tình chẳng bận
Đi đi mẹ lắng tin chờ
(Chế Lan Viên)
và lời hỏi “Bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong” (Hoàng Trung Thông) nên
cái hình bóng quê hương mới thật đậm sâu rõ nét như vậy. Chất đầy nỗi nhớ và niềm tin,
hành trang ra trận của người lính như đầy hơn bao giờ hết.
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng sâu sắc, người
lính còn có thêm điểm tựa chắc chắc với tình bạn, tìh đồng chí, cùng nhau vượt qua
những khó khăn đời lính:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá"
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ chông gai
như chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm điệu thơ bỗng
trở nên chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như chùng xuống trước
bạo nhọc nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng quê nghèo khổ, các anh lại
gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ thôi mà phản ánh được một thực
trang, một thời kì khó khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì
đất nước nghèo nên con người, và đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê
và giọng điệu thơ bùi ngùi trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội
và của người lính Việt lúc bấy giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang,
quân phục. Kể sao cho xiết hằng hà sa số những khó khăn kham khổ của các anh chiến
sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình
“ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách tả tơi vì
dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Ta bỗng nhớ lại hai câu thơ:
"Phi sốt rét bất thành bộ đội
Phi áo vá bất thành bộ đội"
mà thấy cay cay làm sao! Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì đắng
ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lăn sau bao ngày xông
pha chốn rừng thiêng nước độc đâu. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng vẫn
không hề bị quật ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của sức mạnh kì diệu đó
chính là tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn khắng khít giữa hai người. Cùng nhau trải
qua gian lao cay đắng, khó khăn tưởng như quá lớn không thể vượt qua đã được chia
đôi trong khi sức mạnh tinh thần của họ lại được nhân lên nhiều lần_sức mạnh tinh thần
nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ sử
dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ bùi của người lính. Tôi biết anh khi đang trong
“cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Tôi biết anh áo rách
vai, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho tâm tình của anh, anh thông
cảm cho nỗi lòng tôi. Và cũng vì không cô đơn trong khổ cực gian khó, hai người đồng
chí mới bật tung được hàng bao cảm xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất
đống, súng rơi đạn lạc:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay đến cả
những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người lính lại rất giàu
có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm tối nhất, thế mà nụ
cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”. Đó là cái buốt giá của
thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi, gieo rắc khó khăn lên đời
người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý nhất, vì được thắp lên trong
gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như
ánh bình minh chiếu sáng cả một vùng trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn
băng đóng im lìm. Nụ cười ấy thật đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy
đã nói lên tất cả về người lính: tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng
số phận. Đâu phải ai cũng có thể cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân
treo sợi tóc” của đất nước, con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười
thản nhiên lạnh lùng, mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm
lên, để lòng thấy tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái
rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái thiếu thốn quan áo (áo rách vai,
quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí
thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay nhau. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan tâm, mọi
lời nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là
biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình đồng chí mộc
mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm chặt tay nhau,
truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận, những niềm tin
chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng, cảm động khi nói
về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân thành, đậm sâu, hồn hậu
như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra trận. Bàn tay im lặng như lại nói
lên được tình cảm thiêng liêng_tình đồng chí, tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt
tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính…
Một cách
biểu lộ tình cảm tự nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay ta đã nói
Biểu hiện của tình đồng chí càng được tô đậm hơn, khắc sâu hơn qua bức tranh chiến
đấu cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại mang màu
sắc trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương muối”_ xót xa thay
cho cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại bị thiên nhiên hoành
hành bằng những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng những màn sương muối phủ
kín cả một cánh rừng hoang. Tuy trong thời tiết như thế, các anh vẫn “đứng cạnh bên
nhau “ để mà “chờ giặc tới”. Thật vậy! Tình đồng chí giữa họ cao cả như thế đấy, không
chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư nỗi nhớ, cùng nhau trải qua gian nan khổ cực của cuộc
chiến, mà giờ đây còn kề vai sát cánh bên nhau trên cái nền lạnh giá của “rừng hoang
sương muối”, cùng “chờ giặc tới” với tư thế hiên ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần
lạc quan, đỏ rực lửa tình đồng đội. Bức tranh chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi
thở hiện thực và thời đại, vừa thấm đẫm cái trữ tình bay bổng. Con đường kháng chiến
của dân tộc hãy còn dài, khi mà mỗi bước tiến trên con đường lại được đánh đổi bằng
xương máu, bằng mạng sống bao con người ngã xuống, thì sự lạc quan cùng bao tình
cảm ấm nồng đã tiếp thêm sức mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên cạnh lòng yêu nước
tràn đầy và ý chí chiến đầu bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình đồng chí bền vững của hai
người lính khi cùng sát cánh bên nhau chờ để đối diện với giặc, để đánh tan chúng giành
lại non sông đất nước đã tạo cho ta một niềm cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới, không ít thì
nhiều quan ta cũng phải có người hi sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng, “mặc kệ”
cái chết có thể đến bất kì lúc nào với bất kì ai, để cùng vui chung niềm vui người lính: tận
hưởng không khí rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà ngay cả họ
cũng là một phần của nó: “Đầu súng trăng treo”
Đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính. Trên nên xám lạnh của
cánh rừng hoang tĩnh mịch đêm khuya rực lên hình ảnh tuyệt đẹp: vầng trăng tròn treo
lủng lẳng trên đầu súng. Là người trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến nên tác giả
Chính Hữu mới có được cái nhìn tinh tế như vậy, mới có những liên tương phong phú và
giàu chất bay bổng như vậy. Trời về khuya gần sáng, trăng xuống thấp dần, thấp dần đến
khi trăng chạm vào đầu súng, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu “đầu súng trăng
treo” ắp đầy ý nghĩa biểu tượng: súng tượng trưng cho người lính, cho tinh thần quyết
chiến quyết thắng, cho sự chiến đấu hết mình không quản ngại hiểm nguy; còn trăng là
sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là biểu tượng của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa,
của cái đẹp thanh bình, dịu dàng. Tính hiện thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác
giả và chất trữ tình từ một tâm hồn thăng hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống
động: súng và trăng, là gần và xa, là cứng rắn và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai
dũng và hiền hòa, là thi nhân và chiến sĩ. Súng và trăng còn là một cặp đồng chí: người
lính cầm súng chiến đầu cho hòa bình, cho vầng trăng tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên
nền quê hương. Hai hình ảnh đối lập tương phản này lại được nhà thơ đặt cạnh nhau,
sóng đôi cùng nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp trong thơ văn
kháng chiến, thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: cứng cỏi trong
chiến đấu nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường nhưng tâm hồn
cũng rất thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời kết của
toàn bài thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của cuộc chiến
vệ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, động thời làm giảm bớt đi cái ác
liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng.
Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn rất cô đọng,
chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh liên tưởng lãng
mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình đồng chí vững vàng
của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dẫu còn gặp
nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn vượt lên hết thảy và trở thành
tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu
đã thể hiện chân thực hình tượng người người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của
họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu
cảm.
Bài thơ khép lại nhưng ấn tượng trong lòng thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta như
vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai người chiến
sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại nhưng
những năm tháng gian khổ thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta như vẫn hiện lên
hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai người chiến sĩ đứng
cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại nhưng những năm
tháng gian khổ mà hào hùng đó vẫn mãi là một chương quan trọng trong cuốn sách với
những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc. Ta lại càng ý thức hơn nữa lòng biết ơn dành
cho các anh bộ đội cụ Hồ đã đổ bao xương máu để đất nước giang sơn được như ngày
hôm nay. Cùng chung lý tưởng, ý chí, cảnh ngộ xuất thân, chung nhau trải qua gian nan
ngặt nghèo, những người lính ấy đã sống, chiến đấu, và nếu có hi sinh, đều như một
người anh hùng.
Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.
Lí do thế là đã rõ. Kính xe đã bị những trận bom ác liệt của giặc Mĩ làm cho vỡ hết. Lời
giải thích đơn sơ nhưng khả năng gợi tả rất lớn, giúp người đọc hiểu ra rằng những chiếc
xe này đã dạn dày, từng trải trên đường ra mặt trận. Giới thiệu về xe mà cũng là bước
đầu giới thiệu về chủ nhân của chúng.
Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân vật chính và những chiếc
xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của họ. Khi
người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận đánh. Sự
sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên
ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tính từ ung dung đặt ở vị trí đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động ấy. Trong cái nhìn bao
quát cả đất trời ẩn chứa niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó
khăn nguy hiểm. Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị
động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh
thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình
cảm tất cả vì miền Nam thân yêu, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang
cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng.
Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những
gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh, hiểm trở. Mùa
mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh
thì máy bay Mĩ liên tục trút bom đạn xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có
kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào. Bút pháp tả
thực kết hợp với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp bất ngờ của những câu thơ:
Cảm giác của người chiến sĩ lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được
nhà thơ diễn tả cụ thể và sinh động. Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe
không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió
thốc làm cay đến chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và
hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của
rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần
gũi hơn, do đó mà sự cảm nhận dường như tăng lên gấp bội. Sao trời ban đêm, cánh
chim ban ngày như say như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại
phía sau, người lái xe tưởng như nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa
đựng ý nghĩa tượng trưng sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích
đến của trái tim người lính.
Nỗi vất vả, gian nan được Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản
dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Đến đây thì mọi khó khăn, nguy hiểm đã bị đẩy lùi ra xa, làm nền cho tập thể của những
chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Họ thương
nhau còn hơn ruột thịt, sống chết có nhau, cùng chung lí tưởng và tình cảm cao đẹp: tất
cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng trong hoàn
cảnh ấy. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn, giấc ngủ chập
chờn trên cánh võng chông chênh đường xe chạy đã đủ nói lên tất cả. Và lạ lùng thay,
nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là những khó khăn, nguy hiểm của người
lính lái xe không kính lại trở thành tiện lợi bất ngờ khi họ gặp nhau trên đường ra mặt
trận:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Họ tạm
nghỉ bên nhau phút chốc để rồi lại lên đường, lại đi, lại đi đến những nơi cần hàng, cần
đạn. Họ tin tưởng ngày mai trời xanh thêm và chiến thắng đang tới rất gần.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà
quyện với nhau:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu
rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe
đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến
lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm
công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là
một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe
anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
🌵"Chiếc lược ngà" - Bài ca nhân bản về tình cảm cha con
Ra đời vào thời điểm ác liệt của cuộc chiến tranh, song “Chiếc lược ngà” lại tập trung nói
về tình người cao đẹp – mà cụ thể là tình cha con thiêng liêng sâu nặng trong cảnh ngộ
éo le của chiến tranh. Đây là tác phẩm tiêu biểu trong đời văn của Nguyễn Quang Sáng
có mặt trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 suốt bao nhiêu năm qua.
🌿 Từ tiếng gọi ba vỡ òa niềm xúc động
Ông Sáu rời nhà đi kháng chiến từ khi con gái còn nhỏ, chỉ được thấy con qua tấm ảnh
nhỏ. Suốt những năm tháng sống ở chiến trường, không lúc nào ông Sáu nguôi ngoai nỗi
nhớ về con gái. Ba ngày được về nghỉ phép, ông Sáu nôn nao được trông thấy con, vội
vàng, cuống quýt. Nhưng đến khi về tới nhà, bé Thu, con gái ông, lại không nhận ra ba
mình bởi vết thẹo trên mặt ông Sáu do chiến tranh để lại.
Suốt ba ngày, ông Sáu cố gắng gần gũi, vỗ về con nhưng càng lại gần thì con gái càng
đẩy ông ra. Trong bữa ăn, bé Thu bất thần hất cái trứng cá ra khỏi chén mà ông Sáu gắp
cho, giận quá và không kịp suy nghĩ, ông vung tay đánh vào mông nó. Bé Thu bỏ về nhà
ngoại. Đến khi bé Thu nhận ba thì cũng là lúc ông Sáu phải vào chiến trường. Trước khi
chia tay ba, bé Thu muốn ba mua cho mình một chiếc lược khi ba trở về.
Trở lại chiến trường, ông Sáu nhớ thương con vô hạn. Nhớ lời con dặn, ông tìm cho
được khúc ngà rồi lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ làm cho con một chiếc lược. Nhưng
chưa kịp trở về đưa chiếc lược tận tay con gái thì ông Sáu đã hi sinh ở chiến trường.
Chiếc lược ông gửi lại cho người đồng đội là ông Ba, nhờ đưa cho con gái mình, rồi mới
nhắm mắt.
Trong truyện, bé Thu là nhân vật để lại ấn tượng nhiều hơn cả. Nhà văn đã làm nổi bật
chân dung nhân vật qua diễn biến tâm lí, lời nói, hành động.Khi chưa nhận ra ông Sáu là
cha, bé Thu tỏ ra ngờ vực, lảng tránh. Khi ông Sáu trở về thăm nhà và tự nhận mình là
ba, bé Thu không tin vì có vết thẹo dài trên má, không giống với người trong tấm hình.
Ông Sáu càng muốn gần con thì bé Thu lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí, thái độ
ấy được thể hiện qua các chi tiết: Hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi
mới gặp ông Sáu, nói trống không, nhất định không chịu gọi cha, nhất định không chịu
nhờ ông chắt nước nồi cơm, hất cái trứng cá mà ông gắp cho, bỏ về nhà ngoại khi bị ông
Sáu đánh…
Không chịu nhận sự quan tâm của ông Sáu, em dành tất cả tình yêu cho người cha trong
tấm ảnh chụp chung với má không có vết thẹo trên mặt. Bé Thu có những hành động,
phản ứng mạnh mẽ. Em tỏ ra bướng bỉnh, ương ngạnh, cứng đầu. Tuy nhiên sự ương
ngạnh đó không hề đáng trách, bởi em còn quá nhỏ, chưa hiểu được tình thế khắc
nghiệt, éo le của chiến tranh. Những hành động của bé Thu chỉ là những phản ứng tâm lí
tự nhiên.
Chính thái độ quyết liệt, ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con
dành cho cha. Đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh mà đó là
sự kiên định quyết liệt của một con người có lập trường. Đây chính là nét cá tính để sau
này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.
Trong đêm bỏ về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn
mặt ba. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa, ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân
hận, hối tiếc. Nghe bà kể, bé nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn.
Trong buổi sáng cuối cùng, trước lúc ông Sáu chuẩn bị trở lại chiến trường, thái độ và
hành động của bé Thu đã thay đổi hoàn toàn. Bé Thu cất tiếng gọi ba. Tiếng ba vỡ ra từ
sâu thẳm trong lòng cô bé. Cái tiếng ba mà ông Sáu chờ đợi suốt bao nhiêu năm, tưởng
chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn người đọc thì nghẹn lại.
Cái tiếng ba đó được cất lên bằng tất cả tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách
đã bị dồn nén bấy lâu nay bùng lên mạnh mẽ, hối hả, xúc động. Rồi “vừa kêu vừa chạy
xô tới, nhanh như một con sóc”, “nó hôn ba nó cùng khắp.
Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”, “hai tay nó
siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi
câu chặt lấy ba nó, và đôi vai của nó rung rung”, rồi Thu đòi ông Sáu mua cho cây lược
khi về… Chứng kiến những biểu hiện tình cảm đó, những người có mặt tại nhà ông Sáu
không cầm được nước mắt, người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái
tim mình. Cái cách mà bé Thu biểu lộ tình cảm dành cho cha thật vô cùng mạnh mẽ,
nồng nhiệt.
Đặt nhân vật vào tình huống éo le, với ngòi bút miêu tả tâm lí sinh động, sự am hiểu, tình
yêu thương trẻ em sâu sắc… Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nổi bật chân dung của
bé Thu qua lời nói, thái độ, hành động. Đây là cô bé có nét cá tính là sự cứng cỏi đến
mức tưởng như ương ngạnh… nhưng trước sau Thu vẫn là đứa trẻ với tất cả nét hồn
nhiên, ngây thơ của con trẻ. Điểm nổi bật nhất ở em chính là tấm lòng và tình yêu thương
cha mạnh mẽ, nồng nhiệt và sâu đậm.
🌿 Đến hành động làm chiếc lược cho thỏa nỗi nhớ thương con
Hiện lên trong tác phẩm, ông Sáu là một chiến sĩ kiên cường, có tinh thần trách nhiệm
cao đối với đất nước, có tính kỉ luật cao, luôn đặt Tổ quốc lên trên. Ông Sáu là người cha
lí tưởng, có tình cảm sâu nặng với con. Nguyễn Quang Sáng đặc biệt làm nổi bật tình
phụ tử thiêng liêng trong những trang văn của mình.
Khi chưa gặp mặt con, người cha ấy nôn nao nhớ. Khi mới về, mong được gặp con nên
khi thuyền chưa cập bến ông đã nhảy lên bờ, vừa gọi, vừa đưa tay đón con.
Những ngày ở bên con, lúc nào người cha ấy cũng vỗ về, chăm sóc con, mong con gọi
mình là cha. Ba ngày phép ở nhà, ông khổ tâm vì bé Thu cứ xa lánh, không chịu gọi cha.
Thương con, ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi và tìm mọi cách để được gần con. Ông Sáu vô
cùng xúc động khi bé Thu cất tiếng gọi ba.
Trở lại khu căn cứ, ông thương nhớ con vô cùng. “Lúc nhớ con, ông cứ ân hận vì sao
mình đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vò ông”. Tình cảm của ông đối với con được thể
hiện tập trung và sâu sắc nhất là ở phần sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng, tại
khu căn cứ và làm chiếc lược tặng cho con gái như đã hứa. “Ba về ba mua cho con cây
lược nghe ba”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con
từ biệt. Với người cha ấy, là mong ước đầu tiên mà cũng là duy nhất.
Cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng làm cho con cây lược trở thành bổn phận của người
cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Kiếm được khúc ngà, ông vô
cùng vui mừng, sung sướng rồi ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược,
trên sống lưng lược có khắc dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Và ta thật sự xúc
động khi chứng kiến cảnh ông Sáu thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên
tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”.
Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân sáng tạo ra
tác phẩm duy nhất trong đời. Tác phẩm đó được làm bằng sự ân hận, day dứt, bằng nỗi
nhớ niềm thương, bằng lòng khao khát đoàn viên, sum họp, bằng ý chí của một người
chiến sĩ và bằng cả trái tim của một người cha với cô con gái bé bỏng của mình. Chiếc
lược đã trở thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và
chứa đựng, kết tinh tình cảm ruột thịt xúc động trong hoàn cảnh chiến tranh.
Thế rồi, ông Sáu không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay con. Người cha – người chiến
sĩ đó đã hy sinh trong một trận càn lớn của Mĩ – ngụy. Trong giờ phút cuối cùng, không
còn đủ sức trăng trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông Sáu làm được một
việc “đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn
bạn hồi lâu”. Lời hứa của ông Ba “tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu” mới làm cho
người cha ấy yên lòng nhắm mắt. Đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng
liêng hơn cả một lời di chúc, là ước nguyện cuối cùng của một người chiến sĩ xa gia đình,
xa con đi chiến đấu: Ước nguyện tình cảm cha con, ước nguyện của tình phụ tử thiêng
liêng. Ông Sáu đã hi sinh “nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”.
Tình cảm mà ông dành cho con vô cùng sâu sắc, thiết tha.
🌿 Và tình cha con của họ… ở mãi trong lòng người
Đọc truyện, thấy rưng rưng một nỗi niềm. Tình cha con ông Sáu – bé Thu thật cao đẹp,
xúc động, thiêng liêng, bất diệt trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đạn bom ác liệt của
kẻ thù không bao giờ làm đứt gãy, suy giảm cái tình của cha dành cho con, con dành cho
cha.
Tình cảm đó hiện diện và sáng lên giữa dòng chảy thời gian và đi vào lòng người trong
niềm vấn vương, thương cảm. Câu chuyện cha con ông Sáu và bé Thu không chỉ đem
đến niềm xúc động sâu sắc mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau
thương mất mát, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia
đình.
Nhân vật ông Sáu, bé Thu và câu chuyện tình cảm cha con của họ được thể hiện một
cách sinh động và ấn tượng bởi nhà văn đã xây dựng tình huống truyện đặc sắc, tình
huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt
của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với
đứa con.
Nhà văn cũng đã thành công trong việc miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật,
đặc biệt là bé Thu. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất. Người kể chuyện trong vai một
người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại
mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật, bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ,
đưa ra những lời bình luận về những điều được kể.
Chẳng hạn: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người,
nghe thật xót xa”; hoặc “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết
bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy”, “cây lược ấy
chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của
anh”… Những ý kiến, suy nghĩ, lời bình đó của người kể chuyện có tác dụng dẫn dắt sự
tiếp nhận của người đọc, người nghe, lôi cuốn độc giả vào câu chuyện để ngân lên muôn
vàn cung bậc cảm xúc. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và mang đậm màu sắc Nam Bộ.
Có thể nói, so với tình mẫu tử thì văn chương xưa nay viết về tình phụ tử không nhiều.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng nằm trong số ít đó lại là tác phẩm đặc sắc, lay
động lòng người. Tác giả đặt câu chuyện vào trong không gian gia đình và không gian núi
rừng nơi khu căn cứ giữa khói lửa đạn bom của những tháng ngày đất nước không bình
yên để khẳng định vẻ đẹp của người cha – người chiến sĩ kiên cường, bản lĩnh. Tình cảm
cha con nói riêng, tình cảm gia đình nói chung là thứ tình cảm muôn thuở, có tính nhân
bản bền vững. Tình cảm đó được thể hiện trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến nên lại
càng trân trọng hơn.
“Chiếc lược ngà” vượt lên con nước bạc của thời gian để khẳng định sức sống vĩnh hằng
và câu chuyện cha con ông Sáu – bé Thu mãi mãi là bài ca đẹp - bài ca mang giá trị nhân
bản sâu sắc, ở mãi trong lòng người.
Nếu ở các khổ thơ trước, giọng thơ đều đều, chậm dãi, miên man trong những kỉ niệm
tươi đẹp của quá khứ thì đến khổ bốn, giọng thơ đã đột ngột cất cao, thể hiện sự choáng
ngợp, bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trước khung của sổ. Mất điện,
theo một lẽ tự nhiên khi con người chỉ tìm tới nơi có ánh sáng, hành động phản xạ như
một thói quen “bật tung cửa sổ” và con người đã vô tình bắt gặp “vầng trăng tròn” tình
nghĩa năm nào.
Nghệ thuật đảo ngữ đã đẩy từ “đột ngột” lên đầu câu thơ, nhấn mạnh đến sự ngỡ ngàng,
ngạc nhiên, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn vành
vạnh, chan chứa tình nghĩa vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con người, vẫn luôn lặng
lẽ tỏa sáng không hề hao khuyết. Còn con người thì lãng quên vầng trăng nên khi bắt
gặp vầng trăng mới cảm thấy bất ngờ, đột ngột đến như vậy.
Loay hoay trong gian phòng tối ấy để rồi trào lên bao suy tư, trăn trở:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Nghệ thuật nhân hóa, so sánh, từ láy, điệp ngữ đã diễn tả vầng trăng tít tắp trên trời cao
đang đăm đắm nhìn xuống con người nơi mặt đất để gợi nhớ. Kỉ niệm xưa ào ạt nhìn về,
vẹn nguyên trong sáng khiến cho con người xúc động rưng rưng. Nhân vật trữ tình lặng
lẽ đối diện với vầng trăng - người bạn trữ tình mà mình lãng quên. Trăng đối diện với con
người, quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung, tình nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình
và vô tình khoảnh khắc khắc ấy khiến nhà thơ hổ thẹn, ân hận về sự thay đổi của mình.
Nhân vật trữ tình rưng rưng muốn khóc, anh ngơ ngác nhìn trăng, soi lòng mình vào
trăng để nhận ra mình đã sai. Do vậy tâm hồn anh sẽ không thể nào tĩnh lặng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Vầng trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Trăng "tròn vành vạnh" là một vẻ đẹp viên mãn, "im phăng phắc" là im như tờ không một
tiếng động nhỏ. Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế độc lập mà song song. Đối lập giữa
sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ vô tình. Đối lập giữa cái im lặng của
vầng trăng và sự thức tỉnh của con người. Cái sự giật mình thức tỉnh được diễn tả thật
đáng quí vì khi ta giật mình thức tỉnh tức là đã nhận ra sự bạc bẽo của mình, nhận ra sai
lầm của mình với quá khứ. Đó là thái độ ăn năn hối hận tự nhắc lòng mình hãy ngưng lại
nhịp sống hối hả để tìm lại chính mình, tìm lại những gì đã mất, đã lãng quên. Đó là sự
thức tỉnh đầy nhân bản để tâm hồn con người trở vềtrong trẻo, thánh thiện như xưa.
Nguyễn Duy đã thảng thốt lo âu trước sự thay đổi của con người khi chiến tranh đi qua,
thế nhưng ông không mất niềm tin vào nhân cách của con người, giá trị tốt đẹp của cuộc
sống. Có lần ông đã khẳng định "Cái tâm hồn nguồn cội của dân tộc Việt luôn chan chứa
những giá trị nhân văn cao cả nhất. Con người có thể bị lãng quên, có thể chối bỏ những
điều đó trong tâm hồn cá nhân anh ta. Thế nhưng dù anh ta có làm bất cứ điều gì đi nữa
thì những giá trị văn hóa thuần khiết nhất của dân tộc vẫn vậy, bao bọc, che chở an ủi
anh ta một cách vô hình. Đó chính là những nét nhân văn nhất của tinh thần Việt".
Ở đây trăng độ lượng bao dung. Phải chăng trăng tượng trưng cho sự cao quý của nhân
dân tượng trưng cho vẻ đẹp gian lao sâu nặng nghĩa tình của tổ quốc. Trăng tượng trưng
cho vẻ đẹp của tình bạn, tình chiến đấu không thể nào quên. Qua hình tượng ánh trăng
nhà thơ nhắc nhở chúng ta rằng phải biết sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ và đó
chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc ta.
"Ánh trăng" - hành trình về sự thức tỉnh hoàn thiện mình. Dù thời gian trôi đi, cuộc sống
còn đổi thay nhưng những giá trị tinh thần, những tư tưởng đạo lý sẽ không thay đổi, sẽ
còn mãi với thời gian bởi đó là một nét đẹp của người Việt, của dân tộc Việt. Chính vì thế
mà Lương Kim Phương khi bình luận về bài thơ này đã khẳng định: "Bài thơ giống như
một câu chuyện giàu chất thơ, đầy hiện thực cuộc sống. Tuy bài thơ không một chút đao
to búa lớn mà sao khi đọc ta thấy như có ai đang quất vào mình đau đớn".
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều.
Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán,
buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và
cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của
Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người
thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động
trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu
đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim
được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy
sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi
nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày
đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với
chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn
với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng
giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều
liên tưởng đên thân phận: Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột
rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía
tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể
gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có,
quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ,
bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già
tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha
mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai,
quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những
băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình.
Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một
người con rất mực hiếu thảo.Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều
lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính
mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét
buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc
của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng
điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con
mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi
buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì
đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng
cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa.
Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa
phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội
cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng,
nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm
họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ
liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều
từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc
họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu
Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức
tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo
diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh
một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực
sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân
vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.
💌Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim
Lân💌
(Tài liệu ôn thi vào 10)
----------------
Trong lời tự bạch của mình, Kim Lân nói rằng: “Nói đến tình yêu nước, nghe cảm thấy
còn xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt
Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả vật chất cũng như đời sống tinh
thần”. Chính tình yêu làng sâu sắc của bản thân Kim Lân đã lớn dần lên thành tình cảm
cách mạng. Và truyện ngắn “Làng” chính là nơi nguồn tình cảm cao quý đó có dịp thăng
hoa. Đến với tác phẩm, ta gặp một nhân cách ông Hai giản dị bình thường như bao
người khác nhưng tràn đầy tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến.Cả tác
phẩm là cuộc chiến nội tâm, là thử thách đối với tình yêu làng của ông Hai khi ông nghe
tin làng Chợ Dầu theo giặc. Suốt mấy ngày ông đau khổ, dằn vặt chẳng dám gặp ai. Đến
khi tin đồn được cải chính ông Hai lại hồ hởi đi khoe làng với tất cả niềm vui sướng của
mình.
Với “Làng”, lồng trong tình huống truyện độc đáo là việc miêu tả chiều sâu tâm lí nhân vật
cũng hết sức tinh tế, đặc biệt qua nhân vật ông Hai. Những rung động, xúc cảm lúc buồn
lúc vui đã tạo nên hiệu ứng đặc biệt với bạn đọc.
Ấn tượng đầu tiên về ông Hai chính là hình ảnh người nông dân Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Pháp gian khổ. Đó là con người chất phác, cần cù, siêng năng, đầy tinh thần
lao động. Ông Hai đến đây chỉ là người dân đi tản cư và trong ông luôn đau đáu về quê
hương mình, nơi mà ông gắn bó đã nửa đời. Ta thấy được tình yêu đó lớn thế nào, khi
nghĩ đến cái cảnh ông vùng vằng nhất quyết ở làng kháng chiến và chỉ ngậm ngùi chịu ra
đi khi được giảng giải rằng: “tản cư cũng là kháng chiến”. Lúc đó và bây giờ cũng chẳng
khác nhau là mấy. Đang ở nơi đất khách quê người, ông luôn đau đáu về làng, luôn nhớ
về cái “độ ấy”, cái lúc mà ông vui vẻ bên anh em bạn bè “cũng hát hỏng, cũng bông
phèng, cũng đào cũng cuốc mê man suốt ngày”… Tâm trạng ông như trẻ ra cùng những
nhớ nhung, hồi tưởng.
Nơi tản cư, ông đang trọ trong nhà mụ chủ khó tính,luôn xiên xỏ… nhưng ông vẫn vì
kháng chiến mà chịu đựng, vẫn lạc quan. Ông tiếp tục sống trong tình yêu làng Chợ Dầu
tha thiết, yêu nước yêu cách mạng, thù ghét bọn Tây cướp nước! Cũng ở nơi này, ông
đã hình thành nên thói quen không thể bỏ - vào phòng thông tin đọc báo. Dù có biết chữ
nhưng ông cũng chẳng dễ dàng gì đọc được thế là phải nghe lỏm, “điều này làm ông khổ
tâm hết sức”. Nhưng ông chẳng nhụt chí vì ở đây luôn có những niềm vui lớn, ông được
nghe “tinh những người tài giỏi” cứu nước. Cứ đến, ông lại náo nức, rạo rực và lại thêm
tin tưởng đến thắng lợi. Ông bước đi cùng niềm vui “náo nức” để tiếp tục cho cuộc sống
nơi quê người và cảm thấy thật nhẹ nhàng, khoan khoái, sẵn sàng thả hồn trên những
con đường đầy nắng, chấp chới cánh cò…
Nhưng rồi, kịch tính đã xảy ra, một tình huống trớ trêu đã đến. Cái tin làng Chợ Dầu của
ông theo Tây không biết từ đâu đã chạy theo những người tản cư mới lên tới đây, tới
ngay trước cái mặt đang vênh lên vì phấn khích: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Và
rồi niềm phấn khích trong lòng ông bị dội gáo nước lạnh, cái tượng đài trong lòng ông -
làng Chợ Dầu đã theo Tây! Thật là khó có thể chấp nhận. Ông như dính một cú sốc lớn:
“Cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở
được. Một lúc mới rặn è..è...”. Như cố ngoi lên tìm chút hy vọng, ông hỏi: “Liệu có thật
không hở bác? Hay chỉ là lại…”. Nhưng không, người đàn bà đi tản cư đã khẳng định
“Việt gian từ thằng chủ tịch… Thằng chánh Bệu…” thì khó mà bác bỏ được. Và câu hỏi
“Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?” như một đòn giáng vào tâm hồn gần như
tê dại của ông rồi. Ông cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng cố làm ra vẻ bình thản để che
dấu tâm trạng, cúi mặt mà đi về nhà. Ông đau lắm, đến nỗi chẳng dám nhận mình là
người làng Chợ Dầu dù ông rất tin tưởng ở những người đồng hương kháng chiến.
Ông Hai cố gắng chạy trốn, cố gắng lảng tránh nhưng cũng chẳng được vì trong tâm
tưởng ông luôn có làng. Chính vì thế mà những lời nói của đám người tản cư lúc nãy cứ
bám theo ông về tận nhà. Ông đã sụp đổ thật rồi. Ông nghĩ mà tủi thân, giàn giụa cả
nước mắt. Ông đang nghĩ cho những đứa trẻ “làng Việt gian”sẽ bị hắt hủi hay ông đang
nghĩ cho chính bản thân mình? Ông đã trung thành với cách mạng vậy mà giờ đây phải
mang tiếng bán nước… Ông đau đớn khôn cùng khi nghĩ về những anh em yêu nước
của mình. Liệu họ có thể bán rẻ Tổ quốc? Nhưng những bằng chứng quá cụ thể đã nói
lên tất cả mọi chuyện. Một mặt ông đang cố bảo vệ, mặt kia ông lên án để rồi tạo thành
cuộc xung đột nội tâm ghê gớm. Nhục nhã quá! Ghê tởm thay cái giống Việt gian – quân
bán nước!
Trong cái khung cảnh đau khổ thế này, bà Hai xuất hiện như một cái sự không cần thiết.
Bà cũng đã nghe tin, cũng đã rất lo lắng. Khi bà nhắc đến tin đồn chỉ khiến cho một người
im lặng vì “đau” phải cáu gắt. Cũng phải hiểu cho ông Hai, khi một người đang đau sẽ
khó có thể thông cảm được cho nỗi đau của người khác. Không khí trong căn nhà chật
chội giờ trở nên khó thở hơn bao giờ hết…
Nỗi ám ảnh nặng nề, cảm giác đau xót, nhục nhã đã biến thành nỗi sợ hãi thường trực
trong ông Hai kể từ lúc nghe được tin dữ ấy. Bằng chứng là ông tự dày vò mình trong
căn nhà nhỏ bốn ngày liền. Tất cả những gì ông làm được chỉ là nghe ngóng. Ông ngóng
xem người ta bàn tán chuyện đó ra sao…, ông “nơm nớp”… ông “chột dạ”... Cứ thoáng
nghe đến Tây, Việt gian, cam - nhông... là ông “lủi ra một góc nhà, nín thít”. Đã đau đớn
vậy rồi mà ông vẫn cứ tìm thêm nỗi đau. Có lẽ, ông biết là không nên nhưng lí trí đã thua,
thua một con tim nồng nàn chẳng đổi!
Và cuối cùng thì việc ông luôn thường trực một nỗi sợ hãi và đáng sợ hơn là mụ chủ nhà
bóng gió đuổi gia đình ông đi, bởi nhà ông là người làng Việt gian. “Thế là tuyệt đường
sinh sống! Cực nhục chưa! Đi đâu bây giờ?” Cái giống làng Việt gian mới nhục làm sao?
Đến một chốn dung thân cũng chẳng có. Chẳng nơi nào chứa cái hạng người như thế.
Nếu kiếm được cũng chẳng mặt mũi nào mà ở. Đó là kết quả của những suy nghĩ quặn
xé từ trái tim ứa máu của ông Hai.
Trước mắt ông lão chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được rồi. Còn về làng… Vừa
chớm nghĩ thôi ông đã gạt phắt đi ngay. Là một người như ông, há ông chịu quay về cái
chốn nhục nhã đó nữa, quay về chẳng phải cùng hàng với bọn Việt gian sao? Và “về làng
tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông đã khổ tâm quá rồi. Chọn làng hay kháng chiến?
Ông khổ tâm tới mức mà phải đau đớn thốt ra: ”Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù!”
Mâu thuẫn nội tâm đã được đẩy lên đỉnh điểm. Ông sa vào bế tắc. Ông đã nén, nén cái
đau khổ quá nhiều rồi. Và cuối cùng, ông chỉ biết giãi bày tâm sự cùng đứa con út. Với
đứa con, ông trải hết cái tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn. Trong cuộc trò chuyện, ông vẫn
đưa đứa con thơ ngây một tình yêu làng chợ Dầu tha thiết, hình ảnh làng vẫn đau đáu
trong tâm khảm ông. Và hơn hết, ông đã gạt bỏ cái riêng mà hòa vào cái chung của
kháng chiến. Gánh nặng trong ông đã vơi đôi phần. Hình như, đến giây phút này từ trong
tấn bi kịch đó lại sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp đó là tinh thần dân tộc, trung thành
với cách mạng, với cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông/Cụ Hồ trên đầu trên cổ
soi xét cho bố con ông…”. Tình cảm đó như là nguồn nghị lực vô tận đem đến sức sống
cho ông Hai. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát
người anh hùng”:
“Người ta trong lúc hiểm nghèo
Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”
Ông đã sáng, sáng chói lên lòng yêu nước chân thành của người nông dân hướng đến
cách mạng, đến cụ Hồ. Vẻ đẹp đó thực sự đáng ngợi ca.
Để rồi, hình như ông trời đã không tuyệt đường sống của ai bao giờ, nhất là với những
người như ông. Nó đã đến, cái tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính đã đến. Ông
Hai đã sống như thể vừa được hồi sinh một lần nữa sau cuộc chiến xung đột nội tâm ghê
gớm kéo dài vừa qua. Tình yêu làng, yêu nước đã trở về hòa quyện sâu sắc hơn trong
lòng người nông dân chất phác này. Ông Hai đã trút bỏ được sự dằn vặt, đau khổ bấy
lâu. Niềm vui đã trở lại trên khuôn mặt buồn thiu ngày trước. Ông lão vui như chưa có lần
nào vui hơn được nữa: “Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…” rồi
mua quà cho con, đi khắp nơi sang nhà bác Thứ, mụ chủ nhà, hễ gặp ai ông lại nói lại kể,
lại cười. Và lại khoe: “Tây đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn”. Niềm vui đó lớn đến nỗi khi kể
về làng mình bị đốt nhẵn, nhà mình bị cháy rụi mà chẳng quan tâm, chẳng bận lòng,
dường như chẳng hề hấn gì chỉ biết đến trước mắt là niềm vui kháng chiến, niềm vui
cách mạng. Hay là vì ông Hai đã trút đi được nổi hổ thẹn, cực nhục? Mọi thứ dường như
tan biến trong hạnh phúc dâng trào. Bây giờ lại có thể tự hào, hãnh diện khoe về cái làng
kháng chiến của mình nữa rồi.
Người nông dân chất phác, mộc mạc đã tìm được con đường vẽ ra chân trời mới cho họ.
Nhờ đó, cách mạng trở thành một phần trong họ - những người như ông Hai sẽ đau khổ
thế nào khi chân lí sống của mình bị xâm phạm. Cách mạng đã cho họ cuộc sống mới và
họ hiểu để trân trọng, để bảo vệ.
Tình huống làng chợ Dầu theo Tây được cải chính là cái kết cho cuộc xung đột nội tâm
gay gắt của ông Hai nhưng nó đã mở ra cả tâm và thế mới cho những nhân vật trong
truyện. Cái nhìn về làng chợ Dầu đã được thay đổi qua từng nét mặt của ông Hai. Nhờ
đấy mà toát lên một vẻ đẹp tình cảm xuất phát từ đáy lòng, máu thịt - tình cảm gắn bó với
làng quê, cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân chân chất ấy.
Xây dựng được tâm lí ông Hai một cách ấn tượng và tinh tế là thành công lớn của truyện
ngắn “Làng”. Qua đây, sự khám phá chiều sâu tâm trạng và tâm lí nhân vật được Kim
Lân nâng lên một tầm mới. Tác giả đã gửi lại sau “Làng” một tình yêu, một niềm tin vào
người nông dân Việt Nam trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp lắm gian lao.
🥑ĐỀ VĂN: CẢM NHẬN BÀI THƠ MÙA XUÂN NHO NHỎ - THANH HẢI🥑
(Tài liệu ôn thi vào 10 nên tham khảo)
--------------------
🥦Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà
thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng
thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:
“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”
(Chế Lan Viên)
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi
lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của
Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã
được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà
thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của
cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà
tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung
quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế
mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một
bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm
của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa
lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ
màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc
gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt
tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu
như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên.
Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh , mà còn có âm thanh xao
xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả
đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán
“ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem
đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một
mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra
vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây
là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân
ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc
động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm
xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm
nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là
một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ.
Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang
khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất
nước, mùa xuân của cách mạng:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của
người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc
của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng
trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành
lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải
dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc.
Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng
ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với
khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho
câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là
có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và
sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn
năm lịch sử.
🌷Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng🌷
(Tài liệu ôn thi vào 10)
--------------
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối tượng phản ánh thay
cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào
trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn là cõi nhân sinh, mục tiêu
cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người”
(Chữ dùng của Hemingway). Với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiệm
về những con người khác nhau. Trong tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân đã tạc nên
những trang viết neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông Hai – một trái tim
yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước nồng nàn.
Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm
không nhiều nhưng sáng tác nào của ông cũng vững vàng nơi lòng người và thách thức
quy luật băng hoại của thời gian. Nguyên Hồng từng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một
lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn.
Bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của Kim Lân đong đầy bóng dáng làng
quê và con người Việt Nam. Truyện “Làng” được sáng tác trong những năm đầu của
kháng chiến chống Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên “Tạp chí Văn nghệ” năm 1948. Lấy
bối cảnh cuộc tản cư trong những năm đầu kháng chiến, tác phẩm xoay quanh những
chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ông Hai. Ông không thuộc hạng cùng đình
nghèo khổ như anh Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng”
trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. Từ
con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp
chung.Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của
ông. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi
nói về nơi nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt
biến chuyển, hoạt động”. Đặc biệt, ông Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không
cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không quan tâm họ có nghe hay không, ông
chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Rồi qua từng thời kì
khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn
thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.
Xa rời quê hương, sống nhờ nơi đất khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê, nhớ
làng.Ông hoài niệm về những năm tháng được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào,
khuân đá… Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng.”
Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào trái tim ông
phát ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miên về những ngày quá khứ : “Chao ôi,
ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là
tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt. Tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt
dào và tha thiết. Vì nhớ, vì yêu nên ông Hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe
tình hình, tin tức kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười,
ông vui cả với cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.Ông
phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến.Ruột gan ông lão như múa cả lên vì
nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của
làng. Quả đúng như Raxun Gamzatov từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra
khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”.
Trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được, ông
Hai gặp gỡ những người dưới xuôi lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo giặc từ
một người đàn bà tản cư. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng
đi ,tưởng như đến không thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội
tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng
hoàng và sững sờ vô cùng, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim
ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi
vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật
không hở bác. Hay là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng
làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về
ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ
Dầu, ông đâu còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ông vội
vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cái
cớ ông bám lấy để rời khỏi đây :”Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay
đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, không muốn ai phát hiện ra mình là
người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì
giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng
mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhục và tủi thân.
Mang trong mình cả một khoảng trời giông bão, cả một mối tơ lòng hỗn độn, ông Hai lê
từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng còn tâm sức để làm gì cả. Nhìn lũ trẻ
mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xô đẩy,
giằng xé trong đầu ông: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng
bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa thành công
nỗi lòng của ông lão nông dân ấy. Ông Hai xót thương cho số phận của chính mình và
đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng
trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”.
Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ
đanh thép: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng
nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của
ông, họ đều là những người sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút
ấy, ông Hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà
thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai
người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?”. Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt
kéo đến đâm vào trái tim ông, phũ phàng dập tắt ngọn lửa niềm tin. Ông Hai bất lực chấp
nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao
ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn
thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông đâu chỉ
đau cho mình, đau cho làng mà ông còn đau cho những người đồng hương cùng cảnh
ngộ: "Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã
rõ cái cớ sự này chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên
sinh gắt gỏng khi nói chuyện với bà Hải. Ông Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện
tồi tệ đó, không muốn ai xát muối vào vết thương trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo
trăm bề “trằn trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành
hạ cả tinh thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên
được” hay “trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ
Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn
bọn Việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình
ông vào thế cùng cực, tuyệt đường đất sinh nhai.
Từ khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông ăn không ngon, ngủ
không yên. Ông cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong
nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến
ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… Ông né tránh
tất cả những gì liên quan đến cái tin dữ dội kia và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là
“chuyện ấy”. Bởi chính ông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế
đầy phũ phàng và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão nông dân chất phác, chân lắm tay
bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái tin làng theo giặc quả là một cú trời giáng chí
mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã tột cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt
rốn mà còn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lòng tự tôn, là danh dự. Ông và cái làng ấy đã
trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.
Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai thực sự rơi vào bế tắc. Chính
trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình thế là phải lựa chọn: làng Chợ Dầu
hay Tổ quốc? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “Hay là quay về làng?” để gia đình ông có
chỗ dung thân. Thuở trước, làng Chợ Dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng
giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lòng ông đắng ngắt, đau nhói từng hồi. Mới hôm nào về làng là
khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và
phải dập tắt ngay cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng giờ đã nối gót theo Tây, “về làng tức là
bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là cam chịu trở về với kiếp sống lầm than, kiếp sống của
những kẻ nô lệ. Dòng máu Việt Nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi
qua mọi ngõ ngách trong trái tim ông. Tận sâu nơi cõi lòng người nông dân ấy, ngọn lửa
của tình yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã
quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ông Hai đã khẳng
định tình cảm rạch ròi của người nông dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng
liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.
Trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ông Hai chỉ còn biết thả trôi nỗi lòng của mình
vào những lời thủ thỉ, tâm sự với thằng con út. Chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi
bày hết thảy những gợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lòng. Ông hỏi con về làng, để thỏa
nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi con. Ông muốn con ghi nhớ “Nhà ta ở
làng Chợ Dầu” cũng như muốn chính mình không được quên Chợ Dầu là quê hương, là
gốc gác. Phải chăng chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị
trong trái tim ông. Ông hỏi con về Cụ Hồ – biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho
tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã bám chặt vào mạch huyết.
Đồng thời, ông cũng muốn truyền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao đẹp, thiêng liêng,
nhân bản nhất của con người: Tình yêu làng và yêu nước.Cuộc đối thoại giữa hai bố con
chỉ xoay quanh chuyện làng và chuyện nước. Ông nói với con, nhưng thực chất là lời từ
vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lòng trong sạch của mình, mong “Anh em
đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ta chợt
nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh hùng”:
“Người ta trong lúc hiểm nghèo Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”
Ông Hai đã ngời sáng với những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân, nét đẹp chung
hòa giữa tình yêu làng và lòng yêu nước.
Bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ
hãnh diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua, nhường chỗ cho những rạng
đông phía cuối chân trời. Cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai. Ông như được hồi
sinh một lần nữa, rủ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “cái mặt
buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông trở lại với “thói quen” cũ của
mình, lật đật đi khoe khoang khắp nơi rằng: "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.
Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt
gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả”. Sách “Bình
giảng văn học 9″ có viết: "Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự “Tây nó đốt nhà tôi
rồi. Đốt nhẵn "một cách hả hê sung sướng thật sự như ông". Đối với người nông dân,
ngôi nhà là tài sản lớn lao, là biết bao tháng ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao
hồi ức vui buồn. Vậy vì cớ gì mà ông Hai lại lấy làm vui mừng trước sự mất mát của ngôi
nhà ? Bởi quân Tây đốt nhà ông nghĩa là làng ông không hề theo giặc mà vẫn một lòng
yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã có thể thoát khỏi cái
danh “người làng Việt gian”, được
sống như một người yêu nước,lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình.
Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình hợp lý, đó chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút
miêu tả tâm lý nhân vật. Ông Hai còn dự định nuôi lợn ăn mừng, niềm vui sướng tưởng
như vỡ òa, như những thanh âm vang vọng cả phần kết truyện. Không khó để nhận ra
với những người nông dân thật thà, chất phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay
gian nhà chứ nhất định không để cho danh dự và tự tôn của mình, của làng và của Tổ
quốc bị vấy bẩn.
Với thứ hương thơm tỏa ra từ đoá hoa mang tên “Nghệ thuật” của thiên truyện, với ánh
chiếu của ngòi bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào trang
viết, phải dùng trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con chữ. Xây dựng tình huống
truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm
“Làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân
vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. Bên cạnh đó, việc miêu
tả chân thực, cụ thể nét mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng góp phần xây dựng thành
công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài tình khi sử dụng hàng loại câu
cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật độc thoại nội tâm như xé đôi lòng người để
đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau xót, xấu hổ,
nhục nhã. Ngôn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng
ngày, giản dị, chân chất của người nông dân Bắc Bộ. Tóm lại, thi pháp truyện ngắn bao
gồm các yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện… Và “Làng” thành công trên
mọi phương diện ấy. Kim Lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy
những bước ngoặc trong diễn biến tâm lí của ông Hai.
Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định: “[…] Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là
cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh sách của Kim
Lân, cõi lòng ta say đắm trong hơi thở bất diệt của thiên truyện “Làng”, nhịp đập của
người thưởng văn hòa cùng nhịp đập của lão Hai, từ ấy ta tìm ra “thanh nam châm” của
văn chương dưới một danh xưng khác là “Lòng yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc”.
“Nét thần” của tác phẩm là mạch tình cảm hoà quyện, thống nhất trong trái tim người
nông dân, tựa như “toà thành” hiên ngang, sừng sững và bất diệt đến nổi chẳng có súng
đạn nào có thể công phá, chẳng có ngọn lửa tàn ác nào có thể thiêu rụi. Tình cảm dành
cho quê hương, đất nước đã nghiễm nhiên trở thành nguồn “thần hứng” của biết bao thi
phẩm. Ví như “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
🥳PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG - CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
CỦA NGUYỄN DỮ
(Tài liệu ôn thi vào 10)
-------------
Thạch lam đã từng nói rằng “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý
khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn”.
Đúng vậy! Một nhà văn ưu tú không chỉ đặt cảm xúc riêng của bản thân vào cốt truyện
mà bên cạnh đó có thể nhìn nhận hoàn cảnh nhân vật với cái nhìn khách quan. Nguyễn
Dữ là một tác giả thành công như thế! Ông là nhà văn lỗi loạt của đất nước ta trong thế kỉ
XVI. Vốn là học trò của Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một trong những tác phẩm làm
nên sự nghiệp văn chương của ông phải kể đến “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Truyện viết về nhân vật Vũ Nương người phụ nữ tài sắc, thủy chung, hiếu thảo nhưng
mang một số phận oan ức, tủi nhục và bất hạnh.
“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” – Tố Hữu. Nguyễn Dữ là
chuyên viết về đề tài văn xuôi bằng chữ Hán, ông làm quan được vài năm rồi xin về ở ẩn.
“Truyền kì mạn lục” là tập truyện ghi chép những câu chuyện kì lạ được lưu truyền viết
bằng chữ Hán. Với cốt truyện thường có những yếu tố hoang đường – khai thác từ
truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử. Nhân vật chính thường là những người
phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhưng các thế lực bạo
tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt. “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16
của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện
niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của xã hội phong kiến,
đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ mang tên Vũ Nương
Viết về người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp, bình dân mà nghèo khó – Vũ
Nương. Với phẩm chất đức hạnh, xuất thân từ một gia đình nghèo khổ nàng vừa có nhan
sắc vừa thùy mị nết na tư duy tốt đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh con của nhà hào phú
đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ, một cuộc hôn nhân không có sự bình đẳng, sự tự do
chọn lựa. Vốn dĩ chồng nàng là một người có tính đa nghi, ghen tuông. Biết thế người
phụ nữ Vũ Thị luôn làm tròn đạo lí vợ chồng nàng vốn dĩ thông minh, đôn hậu biết tính
chồng mình nên nàng đã “luôn giữ khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng thất
hòa”. Điều này cho thấy được đây là một người phụ nữ nết na, hiền lành, khéo léo, đúng
mực.
Sống trong thời loạn lạc hai vợ chồng xum vầy chưa được bao lâu thìTrương Sinh đi
lính nơi biên ải. Khi chồng đi lính Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng dặn dò chồng
những lời tình nghĩa thiết tha “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mang được ấn
phong hầu, mặc áo gấm về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế
là đủ rồi”. Mong ước thật giản dị cho thấy được một người vợ lo lắng yêu thương chồng
tính tình dịu dàng, ân cần coi thường danh lợi, tiền tài. Ngoài ra, Vũ Nương là một người
vợ thương chồng, lo lắng sự vất vả của chồng khi ra chiến trận, chỉ mong chồng mình
khỏe mạnh và bình an. Nàng thông cảm trước nỗi vất vả gian lao của chồng phải chịu
đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều
còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quán kì, khiến cho tiện thiếp băn
khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Những lời của nàng dù diễn đạt bằng lối văn cổ, nhiều điển tích
và hình ảnh ước lệ, nhưng vẫn toát lên sự chân thành và tha thiết khiến cho mọi người có
mặt trong buổi đưa tiễn đều cảm động đến ứa nước mắt. Chờ chồng những năm chồng
đi lính nàng ngày ngày đợi chờ trông đến thổn thức “ Tô son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”, nỗi nhớ kéo dài theo từng năm tháng “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào
ngăn được”. Nguyễn Dữ thấm khổ nỗi cô đơn của người vợ ở nhà chờ chồng đi chinh
chiến, một người phụ nữ thủy chung son sắt đợi chờ ngày chồng trở về. Tâm trạng nhớ
nhung của người chinh phụ chờ người chinh phu đã được Đoàn Thị Điểm trong Chinh
phụ ngâm khúc thốt lên rằng:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
Phẩm chất tốt đẹp của người vợ hiền này càng được bộc lộ trong hoàn cảnh vợ
chồng xa cách, nàng là một người mẹ hiền dịu một mình dạy con, phung dưỡng mẹ
chồng già yếu đau… Đối với mẹ chồng – là nàng dâu hiếu thảo khi bà bị ốm nàng đã lo
thuốc thang, lễ bái thần phật, luôn dịu dàng nhẹ nhàng dùng những lời khôn khéo khuyên
năng để bà vơi đi nỗi nhớ con. Đến khi bà mất: nàng đã hết lời thương sót, ma chay tử tế
lễ cẩn thận y như cha mẹ đẻ mình cho thấy được nàng là một người con dâu đức hạnh,
hiếu thảo. Trước khi mất người mẹ chồng trăn trôi dặn cô con dâu:“Sau này, trời xét lòng
lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Đối với con trai mình – Đản hết mực yêu
thương con, nuôi dạy con. Để bù đắp nỗi thiếu vắng người cha, người chồng trong gia
đình lại hết mực chăm lo con trẻ, nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha
Đản. Từ hành động đó là nút thắc dẫn đến bi kịch bất hạnh của người con dâu hiền lành,
người mẹ thương con. Vũ Nương là hình tượng người phụ nữ lí tưởng trong thời xã hội
phong kiến đương thời: Công, dung, ngôn hạnh.
Là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp là thế nhưng oan nghiệp lại ùa đến.
Khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, với biết bao mục tiêu Vũ Nương đặt ra sau ba
năm chờ chồng cứ ngỡ gia đình có thể vui vẻ, sum họp hạnh phúc. Nhưng không bất
hạnh của nàng bắt nguồn từ chi tiết chiếc bóng vui đùa con thơ dẫn dến Trương Sinh tin
lời con trẻ ngờ vực và kết tội Vũ Nương. Chồng nghe lời con trẻ “
Trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi,
mẹ Đản ngồi cũng ngồi và chưa bao giờ bế Đản cả”. Trương sinh nghi oan cho vợ của
mình mắng miết, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lợi biện
bạch của cả hàng xóm. Vốn dĩ có tính hay ghen vũ phu lại ít học gia đình đứng trước
nguy cơ tan vỡ.
Cuối cùng thất vọng đến tột đỉnh, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn Vũ
Nương đành mượn dòng sông để giãi tỏa tấm lòng trong trắng của mình, nàng tắm gội
cho sạch, ra bến sông Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời và than, nói rồi nàng nhảy xuống
sông tự vẫn. Vũ Nương bị người yêu thương nhất đẩy xuống bờ vực thẳm dẫn đến bi
kịch gia đình sau bao nhiêu năm chờ chồng chinh chiến trở về. Cái chết đau đớn của Vũ
Nương cũng là sự đầu hàng của con người trước số phận. Nguyễn Du đã thốt lên rằng:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Nguyễn Dữ đã tạo nên một cái kết có hậu thay vì một cái kết bi thương – là sự giải oan
cho chính bản thân người phụ nữ Vũ Nương. Đồng cảm của tác giả đối với người phụ nữ
xã hội xưa – phong kiến chúa đất, ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ ngày
xưa: thủy chung, son sắt, tình nghĩa, hiếu thảo, hết mực yêu thương chồng con.
Gorki từng nói rằng “Văn học là nhân học”, “Chuyện người con gái Nam Xương” là
một tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội bất công, nam quyền chà đạp lên số phận của
người phụ nữ. Thi phẩm nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, chế độ nam quyền
người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ
nữ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là một đại diện cho thân phận
người phụ nữ phong kiến
ngày xưa thủy chung, son sắt, đức hạnh hiếu thảo nhưng mang một số phận bất hạnh
đầy éo le.
________________________