Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

Triết học 

là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới
quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn
tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa
học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp
tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.

Các vấn đề của triết học


Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý
thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác
của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
Socrates
Triết học đưa ra các câu hỏi về bản thể, nhận thức, chân lý, đạo đức, thẩm mỹ. Các vấn đề cơ bản
của triết học là:

 Vấn đề về bản thể: vật chất và ý thức là gì? Mối quan hệ giữa chúng như thế nào?
 Vấn đề về chân lý: làm thế nào để xác định được một luận cứ đi từ tiền đề đến kết luận
có hiệu lực hay không? Làm thế nào để biết được một phát biểu là đúng sai? Ta có thể
trả lời những loại câu hỏi nào?
 Vấn đề về nhận thức: quá trình nhận thức diễn ra thế nào? Chúng ta có thể nhận thức
chính xác thế giới khách quan hay không? Thực tại là gì? Chúng ta nhận thức thực tại
như thế nào, có nhận thức toàn bộ thực tại hay không?
 Vấn đề về đạo đức: thế nào là "tốt", thế nào là "xấu" (hoặc thế nào là "giá trị", thế nào là
"phi giá trị")? Sự khác biệt giữa tốt và xấu? Hành động như thế nào là đúng? Các giá trị
có tính chất tuyệt đối hay tương đối? Thế nào là các quy tắc tự nhiên? Hạnh phúc là gì?
 Vấn đề về thẩm mỹ: đẹp là gì, xấu là gì? Nghệ thuật là gì?
Thời kỳ triết học Hy Lạp cổ đại, năm vấn đề cơ bản trên tương ứng với năm nhánh của triết học
là siêu hình học, lôgic, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Tuy nhiên đối tượng của triết học còn
mở rộng đến chính trị học, vật lý học, địa chất học, sinh học, khí tượng học, và thiên văn học. Bắt
đầu từ Socrates, các nhà triết học Hy Lạp đã phát triển triết học theo hướng phân tích, tức là, phân
chia vật thể thành các thành phần nhỏ hơn để nghiên cứu. Triết học cổ Hy Lạp thường được coi là
cơ sở của triết học phương Tây.
Các nền triết học khác không phải luôn luôn phân chia, hoặc nghiên cứu theo cách của người Hy
Lạp. Triết học Ấn Độ có nhiều điểm tương tự như triết học phương Tây. Trước thế kỷ thứ 19, trong
ngôn ngữ của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc Trung Quốc, không có từ "triết học" mặc dù
nền triết học của các nước này đã phát triển từ lâu rồi. Đặc biệt là các nhà triết học Trung Hoa sử
dụng các phạm trù hoàn toàn khác người Hy Lạp. Các định nghĩa không dựa trên các đặc điểm
chung mà thường có tính ẩn dụ và để chỉ một vài đối tượng cùng một lúc. [1]. Biên giới giữa các phạm
trù không rõ ràng như trong triết học phương Tây.
Chức năng của triết học Mác Lênin  có hai nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Chức năng thế giới quan của triết học Mác – Lênin
– Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Triết
học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác – Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện
chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
– Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:
+ Nó có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Nó
giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục
đích ý nghĩa của cuộc sống.
+ Nó giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người
xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.
+ Nó nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác
lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng
thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.
+ Nó là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản
chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng
phản cách mạng, phản khoa học.
Thứ hai: Chức năng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin
– Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai trò chỉ đạo việc sử
dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương
pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng:
+ Phương pháp luận duy vật biện chứng là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học trang bị
cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
+ Triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ
nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Cũng như mọi khoa học, triết học Mác – Lênin cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Đó là
chức năng thế giới và chức năng phương pháp luận, chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo
và phê phán,… Tuy nhiên, chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ
bản của triết học Mác – Lênin như trên đây đã chia sẻ. Bài viết mong rằng đã đem đến cho Quý vị những
thông tin hữu ích khi tìm hiểu về triết học Mác – Lênin nói chung và Chức năng của triết học Mác –
Lênin nói riêng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật Trong lịch sử,
cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học, chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức cơ
bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ
nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của
vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một số
dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới. Những lý giải đó
được thể hiện trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Tuy còn rất
nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân vật chất của
giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của
chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu trong lịch sử triết học Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII. Đặc điểm lớn
nhất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu
hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch
sử chuyển tiếp thời kỳ Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, V.I Lênin và những
người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử
dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ đầu
khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy
vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật
trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực
tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải
một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức
1.2.1. Vật chất 1.2.1.1. Phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù tiết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm. Ngay từ thời cổ
đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy thì chủ
nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới, thực thể của thế giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo
nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với thuộc tính của chúng. Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời,
nhìn chung, các nhà duy vật quan niệm vật chất hay một số chất tự có, đầu tiên, được coi là những “giới
hạn tột cùng” đóng vai trò là cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới. Từ thời cổ đại, thuyết Ngũ hành của triết
học Trung Quốc đã cho rằng những chất tự có, đầu tiên ấy là kim – mộc – thủy – hỏa – thổ; ở Ấn Độ,
phái Sàmkhya lại quan niệm đấy là Pràkriti hay Pradhana; ở Hy Lạp, phái Milê quan niệm là nước (quan
niệm của Talét) hay không khí (quan niệm của Anaximen); Hêraclít quan niệm đó là lửa; còn Đêmôcrít
thì khẳng định đó là nguyên tử... Cho đến thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất của các nhà triết học
thời cận đại Tây Âu như Ph.Bêcơn, R.Đềcáctơ, T.Hốpxơ, Đ.Điđơrô... vẫn không có những thay đổi căn
bản. Họ tiếp tục đi theo khuynh hướng hiểu về vật chất như các nhà triết học duy vật thời cổ đại và đi sâu
tìm hiểu cấu trúc vật chất của giới tự nhiên trong sự biểu hiện cảm tính cụ thể của nó. Quan niệm về vật
chất của các nhà triết học duy vật trước Mác đã đặt nền móng cho khuynh hướng lấy bản thân giới tự
nhiên để giải thích về giới tự nhiên nhưng nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như: đồng nhất vật chất với vật
thể, không hiểu bản chất của ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không tìm được cơ sở
để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không có cơ sở để đứng trên
quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề về xã hội... Những hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy
vật không triệt để, khi giải quyết những vấn đề về giới tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy
vật, nhưng khi giải quyết các vấn đề xã hội, họ đã “trượt” sang quan điểm duy tâm. Sự phát triển của khoa
học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những phát minh của Rơnghen, Béccơren,
Tômxơn... đã bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó
dẫn tới cuộc khủng hoáng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những người theo chủ
nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai
trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới. Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống
sự xuyên tạc của các nhà triết học duy tâm, bảo vệ và phát triển thế giới quan duy vật, V.I.Lênin đã tổng
kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời kế thừa tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen để đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin
cho thấy: Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học (phạm trù khái
quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học) với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành
(khái niệm dung để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính). Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến
nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó. Thứ ba,
vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay
gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất; vật
chất là cái được ý thức phản ánh. Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học: Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất,
phổ biến nhất của vật chất là thuộc tính tồn tại khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản
giữa khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù
của khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa
duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý
luận cho việc dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan
niệm về xã hội. Hai là, khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “được đem lại cho con người
trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, V.I.Lênin không những đã
khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định
khả năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản
ánh” của con người đối với thực tại khách quan.
1.2.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian,
thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo
nghĩa chung nhất – tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy:. Theo quan điểm của Ph.Ăngghen, vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi
vị trí mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”; vật chất luôn gắn liền với vận động và
chỉ thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất mới biểu hiện được sự tồn tại của mình. Vận
động trở thành phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất tồn tại khách quan nên vận động cũng tồn tại
khách quan và vận động của vật chất là tự thân vận động. Dựa trên thành tự khoa học ở thời đại mình,
Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của
các vật thể trong không gian); vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá
trình nhiệt, điện...); vận động hóa học (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong quá trình hóa hợp và phân
giải); vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen...); vận động xã hội (sự
biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa... của đời sống xã hội). Các hình thức vận động cơ
bản nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độ thấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của
vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ
mật thết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và
bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có
nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận
động cao nhất mà nó có. Bằng việc phân loại các hình thức vận động Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành; hợp loại, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về
chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức
vận động, hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Khi
khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy
vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ
nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận đứng im; song, quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im
là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng và đứng im là hiện tượng tương đối,
tạm thời. Vận động trong thế cân bằng là vận động chưa làm thay đổi về cơ bản về vị trí, hình dáng, kết
cấu của sự vật; chưa làm thay đổi cơ bản chất của sự vật. Đứng im là hiện tượng tương đối, vì đứng im
chỉ xảy ra đối với một số hình thức vận động và trong một số quan hệ nhất định chứ không phải xảy ra
với tất cả các hình thức vận động và với tất cả các quan hệ. Đứng im là hiện tượng tạm thời vì đứng im
chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn.
 Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất Mọi dạng cụ thể của vật chất đều
tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại
trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái...) với những
dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự
vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa... Những hình thức tồn
tại như vậy được goi là thời gian. Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian
và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian” . Vật chất,
không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng
không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động. Là hình thức tồn tại của vật chất, không
gian và thời gian tồn tại khách quan, bị vật chất quy định; trong đó, không gian có ba chiều: chiều cao,
chiều rộng, chiều dài; thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến tương lai.
1.2.1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở
tính vật chất của nó. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Một là, chỉ có một thế giới duy nhất
là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đi. Ba là,
mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ
chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật
chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất. Trong
thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau;
là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
1.2.2. Ý thức
1.2.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
 Nguồn gốc tự nhiên của ý thức Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong
đó, hai yếu tố cơ bản nhất là bộ óc con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo
nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo. Về bộ óc con người: ý thức là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc con người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức con người
càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá trình
phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi
sinh lý thần kinh của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc. Về mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan, tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với
thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới
khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc con người, hình
thành nên ý thức. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song
phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức, trình độ: phản ánh vật lý, hóa học, phản ánh sinh học; phản
ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của
các dạng vật chất tự nhiên. Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa (thay đổi kết cấu, vị trí,
tính chất lý – hóa qua quá trình kết hợp, phân giải các chất) khi có sự tác động qua lại với nhau giữa các
dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật
nhận tác động. Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh.
Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính
kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng
cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc... khi nhận sự tác
động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm
giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự
tác động tư bên ngoài môi trường lên cơ thể sống. Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật có hệ thần
kinh trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông qua cơ chế phản xạ có điều
kiện. Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong số các hình thức phản ánh, nó
chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc con người. Phản ánh
năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế
giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn
thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh
năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.
 Nguồn gốc xã hội của ý thức Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức; trong đó,
cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ. Lao động là quá trình con người tác động vào giới
tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá
trình vừa làm thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết
cấu, những quy luật vận động... của nó qua những hiện tượng mà con người có thể quan sát được. Những
hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động đến bộ óc người và bằng hoạt động của
bộ óc , tri thức nói riêng, ý thức nói chung về thế giới khách quan hình thành và phát triển. Ngôn ngữ là
hệ thống tín hiệu vật chất chứa dựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không
thể tồn tại và thể hiện. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
xã hội. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong
quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao triếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết,
đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Như vậy,
nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và sự phát triển của ý thức là lao
động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng
đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho
tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
1.2.2.2. Bản chất và kết cấu của ý thức
 Bản chất của ý thức Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh
được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông
tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo
ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo
của sự phản ánh còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại...
trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư
tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Điều đó thể hiện ở chỗ: ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về
nội dung và về hình thức biểu hiện, nhưng nó không còn ý nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
tiến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu...) của
con người. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và
được cái biến đi trong đó”. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn
(chủ yếu là) của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực
tiễn xã hội.
 Kết cấu của ý thức Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết
với nhau; trong đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí. Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con
người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo hình ảnh của đối tượng được n1hận thức dưới dạng
các loại ngôn ngữ. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Căn cứ
và lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành nhiều loại như: tri thức về tự nhiên, tri thức về con người
và xã hội. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành: tri thức đời thường và
tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính... Tình cảm
là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt
của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận
sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh; một hoạt động thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tùy thuộc
vào đối tượng nhận thức mà sự rung động của con người về đối tượng đó mà tình cảm được biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, như: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo... Ý chí là
sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở trong quá trình thực
hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở
đó con người tự ý thức được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực
hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều
khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con người tự
kiềm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá
trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện nội
dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. V.I.Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo
nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng
mình, giải phóng nhân loại. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối
với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố.
1.2.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất
có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song, ý thức không hoàn toàn
thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
1.2.3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định ý thức vì: Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người
nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con
người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự
phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan
điểm: vật chất có trước, ý thức có sau. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hộ của ý
thức (bộ óc con người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra hiện tượng phản ánh, lao động,
ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (bộ óc con người, hiện tượng phản ánh, lao động,
ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình
ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và
phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác
động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ
quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
1.2.3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì ý thức là ý thức của con người nên
nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi
được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo
ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở
ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện
pháp, công cụ, phương tiện... để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của
mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sự tác động trở lại của ý thức đối với
vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa
học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản
ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động
của con người đã đi ngược lại với các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với
hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan. Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con
người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả. Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc bản chất
của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội
dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng
tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt
động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản
ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người
và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý
thức
2 Nguyên lý :
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của tất cả mọi sự vật, hiện tượng
trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy, nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm:
-    Nguyên lý về mối liên hệ phô biến
Nguyên lý này khái quát những tính chất chung của các mối liên hệ; nghiên cứu khái quát những
mối liên hệ phổ biến nhất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là các mối liên
hệ: cái chung và cái nêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, nội
dung và hình thức, khả năng và hiện thực.
-     Nguyên lý về sự phát triển
Nguyên lý này khái quát những tính chất chung của mọi sự phát triển của các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời cũng nghiên cứu chỉ ra những quy luật chung nhất của mọi quá
trình vận động, phát triển; đó là các quy luật: những thay đổi về lượng dẫn tới những thay đổi về chất và
ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định. Đó là
các quy luật về phương thức, nguồn gốc, động lực và khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi quá trình
vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Quan điểm toàn diện là gì?
Quan điểm toàn diện là quan điểm được phản ánh trong phương pháp luận triết học, là quan điểm khi
nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc thì cần phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ gián
tiếp đến trung gian có liên quan đến sự vật. Quan điểm toàn diện mang tính đúng đắn trong các hoạt
động hay là trong đánh giá một đối tượng nhất định nào đó. Các nhà nghiên cứu sẽ chỉ ra tính hợp lý cần
thiết trong nhu cầu phản ánh chính xác và hiệu quả đối tượng. Từ đó đưa ra các đánh giá mới mang tính
khách và hiệu quả. Thực tế thì quan điểm này vẫn giữ nguyên giá trị khi cần thiết trong đánh giá hay
phán xét đối tượng nào đó. Quan điểm thể hiện được vai trò của người thực hiện khi phân tích trên các
đối tượng. Khi tiến hành nghiên cứu và xem xét các sự vật, hiện tượng hay sự việc nào đó cần phải chú
tâm đến các yếu tố có liên quan đến sự vật, sự việc hay hiện tượng đó. Hay chính là chú tâm đến tất cả
những tác động lên chủ thể đang quan tâm. Không chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận theo tính chất tích cực
hay cảm xúc mà cần phải tiến hành nhìn nhận trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đánh giá chuyên môn thì
mới mang lại hiệu quả tốt nhất. 
Quan điểm toàn diện xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến các hiện tượng, sự vật trên
thế giới. Với các tính chất trong tác động và phản ánh kết quả khác nhau thì phải có quan điểm toàn diện
vì bất kỳ mối quan hệ nào cũng sẽ tồn tại sự vật và sự việc. Không có bất cứ sự vật nào tồn tại một cách
riêng biệt hay chỉ chịu tác động từ duy nhất một yếu tố có khả năng tồn tại cô lập, độc lập với sự vật
khác. Khi nghiên cứu và phân tích sẽ cho thấy rằng nếu muốn đánh giá chủ thể một cách hiệu quả nhất
thì cần nhìn nhận chủ thể đó một cách toàn diện và bày tỏ rõ quan điểm. 
 
2. Cơ sở lý luận về quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện được thể hiện từ cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Với các tính chất thể hiện trong tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng của
các mối liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tác
động qua lại lẫn nhau như thế sẽ giúp các sự vật được phản ánh với tính chất đa dạng trong thực tế; một
sự vật được nhìn nhận theo các yếu tố tác động và những tác động nên các yếu tố khác. Với chủ nghĩa
duy vật biện chứng thì những phản ánh trên sự vật đều được giải thích. Quan điểm toàn diện đòi hỏi để
có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận; các yếu tố, các thuộc tính khác nhau với chính sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời quan điểm
toàn diện đòi hỏi phải phân biệt từng mối liên hệ phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên,... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác
động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của bản thân. 
Trong tính chất duy vật biện chứng những nhìn nhận và đánh giá được xây dựng từ nhiều chiều và phản
ánh những kết quả tồn tại trên thị trường. Những nguyên nhân được tìm ra có nguyên nhân trực tiếp hay
tác động không trực tiếp và phản ánh năng lực, khả năng và cái nhìn nhiều chiều của một chủ thể. 
 
3. Ý nghĩa của quan điểm toàn diện
Khi phân tích bất cứ đối tượng nào thì cần vận dụng lý thuyết, hiểu biết một cách hệ thống thì sẽ xem xét
được cấu thành nên những yếu tố, những bộ phận nào với mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào thì
từ đó phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố. Chúng ta cần xem xét sự
vật trong tính mở của nó tức xem xét xem trong mối quan hệ với các hệ thống khác với các yếu tố tạo
thành môi trường vận động và phát triển của nó; xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và
các khẩu trung của nó. Phải nắm được và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ
trong quá trình cấu thành sự vật. Bản thân quan điểm toàn diện đã bao gồm quan điểm lịch sự vì vậy khi
xem xét, hiện tượng phải đặt sự vật hiện tượng vào đúng không gian, thời gian mà sự vật, sự việc và
hiện tượng tồn tại. 
 
4. Yêu cầu của quan điểm toàn diện
Mối quan hệ của quan điểm toàn diện có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận giữa sự vật này với sự vật
khác giữa các mối liên hệ trực tiếp với mối liên hệ gián tiếp. Cái nhìn mang tính phiến diện sẽ không
mang đến hiệu quả trong công tác thực hiện mà ngực lại sẽ có thể tạo ra những nhận định hay các quan
điểm mang tính lệch lạc; cũng như sẽ mang đến những quyết định không đúng đắn cho mục tiêu của
thực hiện phản ánh quan điểm. 
Theo quan điểm toàn diện thì con người cần nhận thức sự vật qua mối quan hệ qua lại và mối quan hệ
này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này với sự vật khác; giữa mối liên hệ trực tiếp với
mối liên hệ gián tiếp. Khi chúng ta nhìn nhận quan điểm toàn diện thì mới đưa ra được các nhận thức
đúng đắn. Không những thế quan điểm toàn diện còn đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng
mối liên hệ đó là mối liên hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ về bản
chất. Quan điểm toàn diện đòi hỏi con người phải chú ý và phân biệt từng mối liên hệ, cách nhìn nhận
trên các khía cạnh khác nhau phản ánh những đặc trung riêng biệt. Từ đó làm nên tính đa dạng của chủ
thể trong cách thể hiện trên thực tế. Bởi vậy mà việc quan tâm và phân tích từng yếu tố được thể hiện
trên cơ sơ cụ thể. Bên cạnh đó, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi con người phải nắm bắt được khuynh
hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Những nhìn nhận mang đến phản ánh như thế nào cho phù
hợp hay cơ sở để phát triển trong tương lai; hoặc những yếu tố biến động có thể được đánh giá mang
đến những nhận định nhất định cần thiết giúp cho việc thực hiện các hoạt động tác động trên sự vật
được tiến hành hiệu quả đáp ứng các mong muốn của chủ thể tiến hành. 
 
5. Ví dụ chứng minh quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện thể hiện trong tất cả các hoạt động có tác động của phản ánh quan điểm. Ví dụ
trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau phản ánh trong con người họ; không thể chỉ
thực hiện quan sát phiến diện từ những thể hiện bên ngoài để đánh giá tính cách, thái độ và năng lực
của họ. Cũng không thể chỉ dựa trên một một hành động để phán xét con người hay phán xét cách sống
của họ. Khi đánh giá cần có thời gian cho quá trình quan sát tổng thể từ những phản ánh trong bản chất
con người; các mối quan hệ của người này với người khác; cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ
và hiện tại. Những nhìn nhận và đánh gia streen từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ tạo ra những
quan điểm toàn diện từ đó mà cách nhìn nhận một người được thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ
ràng; chứ không phải chỉ là phù phiếm, giả định của nhận định. 
Hay trong công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam không những chú ý đến mối liên hệ nội tại mà
còn chú trọng đến mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Qua quá trình đổi mới thì chúng ta đã sử
dụng đồng bộ các phương tiện cũng như biện pháp khác nhau để mang lại hiệu quả cao nhất; không
những chỉ vận dụng được nguồn lực đất nước mà còn cần tận dụng sự giúp đỡ các các nước láng giềng.

 -  Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, phát triển va lịch sử cụ thể:

Quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm cơ bản thuộc về phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật. Chúng được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện
chứng về tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ và sự phát triển
của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

-   Nội dung chính của quan điểm toàn diện


Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của
nó. Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến diện, siêu hình,
máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo
ra khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có hiệu quả đối
với các vấn đề thực tiễn.

Ví dụ, khi phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng lý thuyết hệ thống, tức là:
xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và
tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố
(thuộc tính “trời”); mặt khác, cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó, tức là xem xét nó
trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo thành môi trường vận động, phát triển của
nó...

-   Nội dung chính của quan điểm phát triển

Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay đổi về chất
ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác định, nhờ đó giúp cho
chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát triển của nó. Cũng từ đó có thể
dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó.

Ví dụ, C. Mác đã đứng trên quan điểm phát triển đế phân tích sự phát triển của xã hội loài người qua các
hình thái tổ chức kinh tế - xã hội hoặc ông đã đứng trên quan điểm đó để phân tích lịch sử phát triển của
các hình thái giá trị: từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến hình thái cao nhất của nó là hình thái tiền tệ,...

-    Nội dung chính của quan điểm lịch sử cụ thể

Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật

trong các mối quan hệ và tình huống xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức là:
khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu
tính xác định lịch sử cụ thể; tránh chiết trung, nguỵ biện.

Như vậy, khi thực hiện quan điểm toàn diện và phát triển cần phải luôn luôn gắn với quan điểm lịch sử
cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả đối
với các vấn đề thực tiễn.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp phạm
trù được sử dụng là Cái chung và cái riêng, Bản chất và hiện tượng, Nội dung và hình thức, Tất
nhiên và ngẫu nhiên, Nguyên nhân và kết quả, Khả năng và hiện thực.
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định.
Trong đó:

 Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển


 Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
 Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt
phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những
người Cộng sản.
Theo Các Mác: Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng
cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giao điếu của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực về
cái đang tồn tại, phép biện chứng cũng bao hàm cả quan niệm, sự phủ định cái đang tồn tại đó, về
sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đều được phép biện chứng xét trong sự vận động, tức
xét cả mặt nhất thời của hình thái đó;… vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả,
và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng.[1]

Ý nghĩa
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận động,
phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật
này cũng tạo cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Vì vậy đây là nền tảng
cho sự phát triển của sự vật hiện tượng sau này.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra
nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về
lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự phát triển
thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra.
Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt mình,
những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức cụ thể của
chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách quan của mối liên
hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên ngành.

2.1. Cái riêng - cái chung


2.1.1 Phạm trù cái riêng, cái chung

Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm
trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,... lặp lại
phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Trong mỗi sự vật, hiện tượng ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là những đặc tính,
những tính chất,... chỉ tồn tai một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật,
hiện tượng khác.
Ví dụ: Mỗi người là một thể thực riêng biệt, bên trong mỗi người đều có điểm chung như có đầu
óc để quan sát và điều khiển hành vi của mình. Có trái tim để cảm nhận thế giới xung quanh.
2.1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung

Theo quan điểm duy vật biện chứng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách
quan. Trong đó, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại
của nó; cái chung không tồn tại biệt lập tách rời cái riêng, tức là không tách rời mỗi sự vật, hiện
tượng, quá trình cụ thể.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối
tách rời cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn
nhất; còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.
Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung đã được V.I.Lênin khái quát ngắn gọn:
"Như vậy, các mặt đối lập (cái riêng đối lập với cái chung) là đồng nhất: cái riêng chỉ tồn tại
trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng.
Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía
cạnh, hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại
khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái
chung,... Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những
cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình),...
2.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng cụ thể trong các hoạt động của con 
người; không nhận thức cái chung thì trong thực tiễn giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp 
cụ thể sẽ vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải 
xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài những cái riêng.  
Mặt khác, cần phải được cá biệt hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể;
khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc, hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi
cái  chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cũng
cần phải biết tận dụng các điều kiện cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo
những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau
trong những điều kiện cụ thể.
 
2.2. Nguyên nhân và kết quả
2.2.1. Phạm trù nguyên nhân, kết quả

Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau thì gây nên một biến đổi nhất định. Phạm trù
kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu
tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng tạo nên. Nguyên nhân khác
với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với kết quả. Điều
kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới hình thành kết quả. 
Ví dụ: Gieo gió ắt sẽ gặp bảo, làm việc phi pháp sự ác đến ngay, ở hậu gặp hậu ở bạc gặp bạc
2.2.2.  Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả 

Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao hàm tính tất yếu:
không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định; và ngược lại, không có kết quả
nào không có nguyên nhân.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân.Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết
quả và một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên.
Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể diễn ra theo các
hướng thuận, nghịch khác nhau và đều có ảnh hưởng đến sự hình thành kết quả, nhưng vị trí,
vai trò của chúng là khác nhau: có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân
bên trong, nguyên nhân bên ngoài,... Ngược lại, một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết
quả, trong đó có kết quả chính và phụ, cơ bản và không cơ bản, trực tiếp và gián tiếp,...Trong
sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
Ph.Ăngghen viết: "Chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có
ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định;
nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với
toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau trong một
khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả
luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác
hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược lại".
2.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật,  hiện
tượng dẫn đến kết quả trong thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế
giới đó.  
Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại
nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể
trong nhận  thức và thực tiễn.  
Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại một kết quả có thể có
nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử
cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân - quả.  
 
2.3. Tất nhiên - ngẫu nhiên
2.3.1. Phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên

Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật
chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, không thể khác.
Còn phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của
nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể
xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
Ví dụ: Để đạt được kết quả nhất trong việc học tập thì cần siêng năng, chăm chỉ là điều tất
nhiên, tuy nhiên tới ngày thi thì mắc vấn đề sức khỏe nên làm bài thi kết quả thấp là điều ngẫu
nhiên.
2.3.2 Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự vận động,
phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định.
Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chửng với nhau; không có cái tất nhiên
thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông
qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung
cho tất nhiên. Ph.Ăngghen cho rằng: "Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do
những ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức dưới đó
ẩn nấp cái tất yếu". Ranh giới giữa cái tất yếu và ngẫu nhiên có tính chất tương đối. Trong
những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau, tất nhiên trở thành ngẫu nhiên và ngẫu
nhiên trở thành tất nhiên  
2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận  

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải  căn
cứ vào cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất 
nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên, và khi dựa 
vào cái tất nhiên phải chú ý đến cái ngẫu nhiên. Tất yếu và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho
nhau. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của
chúng theo mục đích nhất định.
 
2.4. Nội dung - hình thức
2.4.1. Phạm trù nội dung, hình thức

Phạm trù nội dung là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố,
những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng. Trong khi đó, phạm trù hình thức dùng để chỉ
phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện  tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Ví dụ: Nội dung trong một cuốn sách như thế nào sẽ quyết định phải làm bìa như thế đó, nếu
nội dung buồn mà lại có cách bố trí tiêu đề và màu bìa là gam màu vui nhộn thì sẽ rất phản
cảm, người đọc sẽ không bao giờ quyết định đọc cuốn sách đó.
2.4.2. Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, vì vậy không có  một
hình thức nào không chứa dựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn  tại
trong một hình thức nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức,
và cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung  quyết định hình thức và hình thức tác động
trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội  dung là khuynh hướng biến đổi còn hình thức
là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng. Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức
phải thay đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt
đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết  định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình  thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội
dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.  
2.4.3. Ý nghĩa phương pháp luận  

Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận 
thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một
trong hai mặt đó. Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước
hết phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội
dung của nó. Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung;
mặt khác  cũng cần phải thực hiện những thay đổi đối với những hình thức không còn phù hợp
với nội  dung, cản trở sự phát triển của nội dung. 
 
2.5. Bản chất - hiện tượng
2.5.1. Phạm trù bản chất, hiện tượng

Phạm trù bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, qui định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng đó. Phạm trù hiện tượng là phạm trù dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.  
Ví dụ:  Nước có bản chất là lỏng thì sẽ thể hiện ra bằng hiện tượng.
2.5.2.  Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng   

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập với 
nhau. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện
tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Không có bản
chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện
của một bản chất nào đó. 
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng cũng
mất theo. Vì vậy, Lênin viết: "Bản chất hiện ra, còn hiện tượng có tính bản chất". Sự đối lập
giữa bản chất và hiện tượng: Sự đối lập của mâu thuẫn biện chứng thể hiện: bản  chất là cái
chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng. Bản chất là cái bên
trong, hiện tượng là cái bên ngoài. Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi.  
2.5.3. Ý nghĩa phương pháp luận  

Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà phải  đi
vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất.  Lênin
viết: " Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất
cấp một đến bản chất cấp hai". Mặt khác, bản chất phản ánh tính tất yếu, tính qui luật nên trong
nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chư không căn cứ vào hiện tượng thì mới
có thể đánh giá một cách đầy  đủ, chính xác về sự vật, hiện tượng đó.  
 
2.6. Khả năng - hiện thực
2.6.1. Phạm trù khả năng, hiện thực

Phạm trù khả năng dùng để chỉ những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự. Còn phạm trù hiện
thực dùng để chỉ những gì chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng.  
Ví dụ: Trước mắt là bút, giấy và thước kẻ là hiện thực thì khả năng có thể tạo ra được một hộp
đựng quà.
2.6.2. Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực   

Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ thống nhất, không tách rời, luôn luôn chuyển
hóa lẫn nhau. Quá trình đó biểu hiện: khả năng chuyển hóa thành hiện thực, và hiện thực lại
chứa đựng những khả năng mới; khả năng mới, trong những điều kiện nhất định, lại chuyển
hóa thành hiện thực. Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng có thể
tồn tại một hoặc  nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả năng ngẫu nhiên,
khả năng gần, khả năng xa,... Trong đời sống xã hội, khả năng chuyển hóa thành hiện thực
phải có điều kiện khách quan  và nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan là tính tích cực xã hội
của ý thức chủ thể con người để chuyển hóa khả năng thành hiện thực. Điều kiện khách quan
là sự tổng hợp các mối quan hệ về hoàn cảnh, không gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa
ấy.  
2.6.3. Ý nghĩa phương pháp luận  

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải dựa vào hiện thực để xác lập nhận thức và 
hoạt động. Lênin cho rằng: "Chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật chứ không phải dựa
vào những khả năng... người Macxit chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của
mình,  những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được". Tuy nhiên, trong
nhận thức và thực tiễn cũng cần phải nhận thức toàn diện các khả năng từ trong hiện thực để
có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự phát triển trong những hoàn cảnh
nhất định. Tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong việc nhận thức và thực  tiễn để biến khả
năng thành hiện thực theo mục đích nhất định.  

1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức con người.  Đây là
nguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định, thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, với cảm giác của con người và
loài người nói chung, mặc dù người ta có thể chưa biết đến chúng.

Hai là, công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, các cảm giác của chúng ta (và mọi tri thức) đều là sự phản ánh,
đều là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan: “Cảm giác là một hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”. Nhưng không phải sự phản ánh thụ động, cứng đờ của hiện thực khách quan giống như sự
phản ánh vật lý của cái gương trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Đó chính là quan niệm
trực quan của chủ nghĩa duy vật siêu hình, không đánh giá đúng mức vai trò tích cực của chủ thể, của
nhân cách và hoạt động thực tiễn của con người trong phản ánh.

 Ba là, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói
chung. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai
của cảm giác, ý thức nói chung; là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tất nhiên, “… thực tiễn mà chúng ta
dùng làm tiêu chuẩn trong lý luận về nhận thức, phải bao gồm cả thực tiễn của những sự quan sát, những
sự phát hiện về thiên văn học…”. Do vậy, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.

2. Bản chất của nhận thức


Nhận thức là một loại hoạt động của con người, là quá trình phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo thế giới
khách quan vào trong đầu óc người. Hoạt động đó được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn; lấy thực
tiễn làm cơ sở, làm mục đích, làm động lực và làm tiêu chuẩn xác định tính đúng đắn của các tri thức ấy.
Chủ thể nhận thức là con người với bản chất xã hội nên quá trình nhận thức thường bị chi phối bởi điều
kiện lịch sử, về kinh tế, chính trị -xã hội, truyền thống văn hoá; đặc điểm tâm sinh lý, đặc biệt là  năng
lực nhận thức, tư duy của chủ thể.

Khách thể nhận thức là hiện thực khách quan trong phạm vi hoạt động của con người. Nhận thức là sự
phản ánh của chủ thể đối với khách thể. Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới khách quan mà
con người không thể biết được. Những tri thức của con người về thế giới được thực tiễn kiểm nghiệm là
tri thức xác thực, tin cậy.

Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, tức thì mà
là sự phản ánh chủ động, tích cực, có sáng tạo; từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến
sâu, từ hiện tượng đến bản chất.

Ý nghĩa của vấn đề: Nhận thức không chỉ phản ánh những cái đã và đang tồn tại mà còn phản ánh những
cái sẽ tồn tại, có thể giúp con người dự báo tương lai. Nhận thức không chỉ giải thích thế giới mà còn cải
tạo thế giới.

3. Các giai đoạn của nhận thức


Nhận thức là quá trình biện chứng từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và đến thực tiễn…

– Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, phản ánh trực
tiếp hiện thực khách quan bằng các giác quan, qua các hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác và biểu
tượng.

Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực, là kết quả tác động của sự vật vào giác quan con
người. Nó chỉ phản ánh được những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật nh ư nóng, lạnh, màu sắc,
mùi vị… Cảm giác có vai trò to lớn trong quá trình nhận thức và thay đổi khi được rèn luyện.

Tri giác là sự phản ánh đối tượng trong tính toàn vẹn, trực tiếp tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của
sự vật do cảm giác đem lại. Từ tri giác, nhận thức cảm tính chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng.

Biểu tượng là hình ảnh về sự vật được tái hiện trong đầu một cách khái quát, khi không còn tri giác trực
tiếp với sự vật. Nó chỉ giữ lại những nét chung về bề ngoài của sự vật. Biểu tượng cũng như cảm giác, tri
giác, đều là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng biểu tượng phản ánh sự vật một cách gián
tiếp và có thể sáng tạo ra một biểu tượng khác tương tự.

Đặc điểm chung của giai đoạn nhận thức cảm tính là phản ánh có tính chất hiện thực, trực tiếp, không
thông qua khâu trung gian. Sự phản ánh đó tuy phong phú, sinh động, nhưng chỉ là phản ánh bề ngoài,
hiện tượng của sự vật.

– Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở tài
liệu do trực quan sinh động đưa lại. Chỉ qua giai đoạn này, nhận thức mới nắm được bản chất, quy luật
của hiện thực. Tư duy trừu tượng được biểu hiện dưới các hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy lý.

Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng phản ánh cái chung, bản chất, tất yếu của sự vật.
Khái niệm được hình thành là từ hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Khái niệm
được diễn đạt bằng ngôn ngữ là từ ngữ, đó là vật liệu đầu tiên để xây dựng nên những tri thức khoa học.
Khi vận dụng, phải linh hoạt, mềm dẻo cho phù hợp.

Phán đoán là một hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên sự liên kết, vận dụng những khái niệm đã có,
nhằm khẳng định hay phủ định, một hay nhiều thuộc tính sự vật. Mỗi phán đoán được biểu đạt bằng một
“mệnh đề” nhất định.

Phán đoán cũng không ngừng vận động, phát triển từ đơn giản đến phức tạp, gắn liền với quá trình phát
triển của thực tiễn, nhận thức, nên nó là hình  thức để biểu đạt quy luật khách quan của sự vật, hiện tượng.
Phán đoán có nhiều loại như phán đoán khẳng định, phủ định, đơn nhất, đặc thù…

Suy lý là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Nếu như phán đoán dựa trên sự liên kết các khái niệm,
thì suy lý dựa trên cơ sở những phán đoán đã được xác lập, và những mối liên hệ có tính quy luật của
những phán đoán đó, để đi đến những phán đoán mới có tính chất kết luận.

Suy lý không chỉ cho phép ta biết được những cái đã, đang xảy ra, mà còn cho biết cả những cái sẽ xảy ra.
Nếu có sự phân tích sâu sắc, toàn diện, nắm chắc được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng thì có thể dự báo được tương lai của chúng.

Giai đoạn nhận thức lý tính tuy không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan, nhưng phản ánh trừu
tượng, khái quát, vạch ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận thức đáng tin cậy, gần với
chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức.

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá  trình nhận thức. Tuy chúng có sự
khác nhau về vị trí, mức độ và phạm vi phản ánh, nhưng có liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Mỗi giai đoạn đều có mặt tích cực và mặt hạn chế. Giai đoạn nhận thức cảm tính, tuy nhận thức hiện thực
trực tiếp thế giới khách quan, nhưng đó chỉ là nhận thức những hiện tượng bề ngoài, giản đơn, nông cạn.
Còn nhận thức lý tính, tuy không phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng, nhưng vạch ra những mối liên hệ
bản chất, tất yếu bên trong, vạch ra quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức, xét đến cùng, đều bắt
nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa chúng có liên hệ
mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính
không thể thực hiện gì hết nếu thiếu tài liệu của nhận thức cảm tính đưa lại.

Ngược lại, nhận thức lý tính sau khi đã hình thành thì tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó nhận
thức nhạy bén hơn, chính xác hơn trong quá trình phản ánh hiện thực. Tư duy trừu tượng phản ánh gián
tiếp hiện thực nên dễ có nguy cơ phản ánh sai lạc. Do vậy, nhận thức của tư duy trừu tượng phải quay về
thực tiễn, để thực tiễn kiểm nghiệm, từ đó mà phân biệt giữa nhận thức đúng với nhận thức sai.

Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa
là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Kết thúc vòng khâu này lại là điểm khởi
đầu của vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình vô tận, liên tục của sự nhận thức chân lý khách quan.
4. Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức
+ Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, cảm tính, có tính chất lịch sử- xã hội của con người nhằm cải
tạo thế giới khách quan để phục vụ nhu cầu của con người. Hoạt động thực tiễn rất phong phú nhưng có
ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị- xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự
tồn tại và phát triển xã hội.

 Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức. Thực tiễn cung cấp những tài liệu hiện thực, khách quan,
làm cơ sở để con người nhận thức; trực tiếp tác động vào thế giới khách quan, qua đó đối tượng bộc lộ ra
những đặc trưng, thuộc tính, những quy luật vận động để con người nhận thức được.

Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn thường xuyên vận động, phát triển nên nó
luôn luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho nhận thức. Hoạt động của con người,
bao giờ cũng có mục đích, yêu cầu và tổ chức thực hiện mà không phải lúc nào cũng có sẵn trong đầu óc.
Nếu mục đích, yêu cầu, cách thức thực hiện đúng thì hoạt động thực tiễn thành công. Nhận thức của con
người không chỉ để giải thích thế giới mà là để cải tạo thế giới theo nhu cầu, lợi ích của mình. Thực tiễn
là động lực và mục đích của nhận thức.

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó vừa có là hiện thực phong phú,
vừa có tính phổ biến là hoạt động vật chất khách quan, có tính lịch sử – xã hội. Hiện thực lịch sử xảy ra
một lần nhưng nhiều người nhận thức và nhận thức nhiều lần khác nhau.

Người ta không thể lấy nhận thức để kiểm tra nhận thức, không thể lấy nhận thức này làm chuẩn để kiểm
tra nhận thức kia vì chính bản thân nhận thức được dùng làm tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức khác chưa
chắc đã đúng. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn thật sự, duy nhất của chân lý.

+ Ý nghĩa của vấn đề: Phải đảm bảo sự “thống nhất lý luận và thực tiễn’’, lý luận phải xuất phát từ thực
tiễn, luôn có ý thức tự giác kiểm tra mọi nhận thức của mình thông qua thực tiễn, không cho phép con
người biến một hiểu biết bất kỳ nào đó thành chân lý vĩnh viễn, bất biến cho mọi lúc, mọi nơi, đồng thời
phải chống mọi biểu hiện của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.

5. Chân lý
+ Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan, được thực tiễn kiểm
nghiệm. Chân lý là kết quả quá trình con người nhận thức thế giới khách quan.

Chân lý có tính khách quan. Chân lý tuy là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó chính là hiện
thực khách quan, không lệ thuộc vào con người.

Chân lý có tính cụ thể, không có chân lý chung chung trừu tượng đúng cho mọi điều kiện hoàn cảnh, mà
chỉ có chân lý cụ thể, xác định, gắn với điều kiện, hoàn cảnh, gắn với không gian, thời gian cụ thể.

Chân lý có tính tương đối và tính tuyệt đối. Chân lý tương đối là tri thức của con người phản ánh đúng
hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa bao quát hết thảy mọi mặt của hiện thực
khách quan và luôn luôn bị chế ngự bởi điều kiện lịch sử. Chân lý tuyệt đối là tri thức của con người về
thế giới khách quan nhưng đạt được sự hoàn toàn đúng đắn, đầy đủ và chính xác về mọi phương diện.

+ Ý nghĩa của vấn đề: Người theo chủ nghĩa duy vật không thể đem suy nghĩ chủ quan của mình làm căn
cứ cho lý luận. Trong một giới hạn nhất định nếu thoát ly không gian, thời gian thì chân lý có thể biến
thành sai lầm và ngược lạ

1. Những vấn đề lý luận của quy luật


1.1 Khái niệm về lượng và chất
a. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất
hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu
thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083đvC, nhiệt
độ sôi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất riêng của đồng để phân biệt nó
với các kim loại khác.
Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật hiện tượng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước biển mặn tồn tại ở bên trong chứ
không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt
được nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc tính là những
tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra
bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự
vật, hiện tượng đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới
hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính
cơ bản và không cơ bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động
vật thì thuộc tính cơ bản của con người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công
cụ, có tư duy còn các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con
người với con người thì những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân tay lại trở thành thuộc tính
cơ bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn trong
mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một
chất mà rất có thể có nhiều chất. Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con
người từ ấu thơ -> mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một
chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển hóa thành sự
vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước
rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho trạng thái
lỏng của nước thay đổi.
b. Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng
Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng tốc độ và nhịp
điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó lượng còn biểu hiện ở kích
thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ
vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide
(CO2). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên tử oxi
(O)
Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí
nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự vật hiện tượng có nhiều
loại lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố
bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng
phức tạp theo.
- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể nhận thức bằng
con đường trừu tượng và khái quát hóa. Trên thực tế lượng của sự vật thường được xác định
bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng hay một phân tử bao gồm những
nguyên tử nào. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái
quát như trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công
dân,..
- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số lượng nguyên tử
hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội hoặc chiều dài,
chiều rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên
biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay
một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó điều tồn tại khách
quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng chỉmang tính tương
đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là
lượng.
 
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất
giữa mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và
ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1
nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản,
khách quan, vốn có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,
…“Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau
một cách biện chứng. Khi sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong
một độ nhất định. Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về
“chất” của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và lượng
của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc
lập với nhau mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.  Khi lượng của sự vật, hiện tượng
được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ.
Không giới hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự
thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ
tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa chất và lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một
thỏi thép ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng nghìn độ song thỏi thép vẫn ở
trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất
định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Theo triết
học Mác-Lênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Chúng ta có thể hiểu, điểm nút là thời điểm mà
tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình
này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Sự
vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.  Bước nhảy là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật
trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián
đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu
rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện
atmotphe ở trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến
100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm
nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái
rắn hoặc khí (bước nhảy).  Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự
tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song
điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của những
điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy: 
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhẩy
đột biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi
chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được
tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là
bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của
chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong
đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục
bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu
thành sự vật.  Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố
riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện
bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta
đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và
lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta.
Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà có sự tác động trở lại đối với lượng,
được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi
học sinh vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực hiện bước nhảy để trở thành
sinh viên. Trình độ văn hoá của học sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà những thay
đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân tích ở trên có thể rút
ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về
lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra
liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.

You might also like