Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 9

Ivan Illich
Đọc ở Viện Hoàng Gia Kiến trúc Anh, York, 07/1984.

Đậu Sỹ Nghĩa dịch

Nguyễn Anh Cường hiệu đính

Ở là làm người. Muôn thú có ổ, gia súc có chuồng, xe kéo xếp


trong kho, và ga-ra dành cho ô tô. Chỉ người có thể Ở. Ở là
một nghệ thuật. Mỗi con nhện sinh ra với bản năng dệt một
loại lưới đặc thù cho giống loài nó. Như thú vật khác, con nhện
bị quy định bởi gen. Người là sinh vật duy nhất là nghệ sỹ, và
nghệ thuật Ở là bộ phận của nghệ thuật sống. Một ngôi nhà
không phải là cái ổ hay ga-ra.
Hầu hết ngôn ngữ dùng từ « sống » theo nghĩa « ở ». Hỏi «
anh sống ở đâu ? » tức hỏi chỗ tồn tại thường nhật định hình
thế giới của anh. Nói xem anh cư lưu thế nào, tôi sẽ nói anh là
ai. Đẳng thức sống và Ở có từ thời thế giới này vẫn còn có thể
ở được, và người là ở-trong (in-habitant). Vậy, Ở có nghĩa là
an cư trong dấu vết của mình, là để cho cuộc đời viết lưới và
nút thắt từ tiểu sử mình vào trong mặt đất. Việc viết này có thể
được các thế hệ nối nhau in sâu vào đá, hay cứ mỗi mùa mưa
lại được phác lại tươi mới với lau và lá. Những dấu vết cư lưu
của người cũng phù du như người cư lưu. Chỗ Ở không thể
xem là hoàn thiện nếu nó không được chiếm dụng, ngược với
hàng hóa hiện đại bị xuống cấp ngay từ ngày sử dụng. Căn lều
cần chỉnh lại hàng ngày, nó cần dựng, kéo, dỡ. Nông trang
tăng lên hay nhỏ lại tùy theo tình trạng các nông viên: ta
thường có thể phân biệt từ xa liệu rằng trẻ con đã lập gia đình,
hay liệu người già đã mất. Xây một nhà kéo dài từ đời này qua
đời khác, nghi lễ in dấu thời khắc trọng yếu: từ lúc đặt viên đá
đầu đến khi cắt rui mái, vài ba thế hệ có thể đi qua. Một khu
phố thị chưa bao giờ hoàn tất; cho đến thế kỷ XVIII, người ở
khu bình dân vẫn còn bảo vệ nghệ thuật Ở của mình khi tụ tập
phản đối cải thiện mà kiến trúc sư áp đặt lên. Ở là bộ phận của

1
kinh tế học đạo đức mà E. P. Thomson đã nói rất rõ. Nó gục
ngã trước những đại lộ Đức Vua, nhân danh trật tự, sạch sẽ,
an ninh và trang trí xé nát những lối xóm. Nó gục ngã trước
cảnh sát, vào thế kỷ 19 đặt ra tên đường và số nhà. Nó gục ngã
trước những nhà chuyên môn, dẫn ống thoát nước và đặt quy
chuẩn. Nó gần như bị tuyệt diệt bởi phúc lợi, ngợi ca quyền
công dân đối với ga-ra và ti-vi.
Ở là hoạt động ngoài tầm kiến trúc sư, không chỉ vì nó là nghệ
thuật bình dân; không chỉ vì nó cứ biến dịch và vượt khỏi sự
kiểm soát của anh ta; không chỉ vì nó thuộc phức tạp tinh tế
bên ngoài chân trời của nhà sinh học hay người phân tích hệ
thống thông thường; mà trên hết vì không cộng đồng nào Ở
như nhau. Tập quán (habit) và chốn ở (habitat) gần như là một.
Mỗi kiến trúc bản địa (nếu dùng thuật ngữ nhân học) là một
lời nói bản địa duy nhất. Nghệ thuật-sống trong sự toàn vẹn
của mình – tức nghệ thuật của yêu và mơ, khổ và chết – biến
mỗi cách sống thành duy nhất. Và như vậy, nghệ thuật này
quá phức tạp để dạy theo phương pháp Comenius hay
Pestalozzi, theo những nhà giáo hay ti-vi. Cần thời gian để
lĩnh hội nghệ thuật này. Mỗi cá nhân trở thành người xây bản
địa hay người nói tiếng bản địa qua trưởng thành, đi từ nhập
môn qua giai đoạn khác để thành một người cư lưu nam hay
nữ. Như vậy, không gian ba chiều, thuần chất Descarte mà
kiến trúc sư xây nhà, và không gian bản địa mà việc Ở mang
vào hiện hữu, chúng tạo thành hai lớp không gian khác biệt.
Kiến trúc sư chỉ xây lên. Cư dân bản địa phôi dựng tiên đề
không gian họ Ở.
Về mặt topo học, người tiêu thụ nhà ở đương đại sống ở thế
giới khác. Tọa độ không gian nhà nơi anh định vị mình là thế
giới duy nhất anh từng trải nghiệm. Anh ta không thể tin rằng
người Peul chăn bò, người Dogon leo núi, người Songhai bắt
cá và người Bobo cày ruộng sống trong các không gian dị giới
lại cùng thuộc về một cảnh quan riêng biệt, như đa số các nhà
sinh thái học đã nhận thấy. Với hộ dân hiện đại, một dặm là
một dặm, và sau mỗi dặm này là những dặm khác, vì thế giới
không có trung tâm. Với kẻ cư lưu, trung tâm thế giới là nơi
họ sống; mười dặm ở ngược sông có thể ngắn hơn nhiều một
dặm vào sa mạc. Theo nhà nhân học, văn hóa của kẻ cư lưu
uốn cong nhãn quan của anh ấy. Thực tế là nó thiết định những
đặc tính không gian nơi anh ta Ở.
Hộ dân đã đánh mất nhiều năng lực Ở của mình. Sự tất yếu
phải ngủ dưới một mái nhà mình khôi hài thay lại hóa thành

2
một nhu cầu được định hình theo văn hóa. Với hắn, tự do Ở
chẳng còn nghĩa. Điều hắn cần là quyền có một số lượng mét
vuông nào đó bên trong một không gian xây sẵn. Hắn trân quý
quyền lợi này và biết dùng nó. Nghệ thuật sống đã bị tước đoạt
khỏi hắn: hắn không cần đến nghệ thuật Ở vì hắn chỉ cần căn
hộ ; cũng như việc hắn không cần nghệ thuật khổ đau vì đã có
y tế, và chắc chắn chưa hề nghĩ gì về nghệ thuật chết.
Hộ dân sống trong thế giới dựng sẵn. Việc lưu dấu trên đường
cũng không dễ hơn việc đục lỗ trên tường. Hắn sống một đời
không dấu vết. Những dấu ấn để lại bị xem là những lỗ thủng
– như sự hư hao. Những gì hắn để lại bị bỏ đi như rác. Môi
trường từ nơi chốn chung của cư lưu, bị tái định nghĩa xét như
một tài nguyên để sản xuất ga-ra cho người, cho hàng hóa và
ô tô. Chung cư cung cấp những buồng ngăn nơi hộ dân lưu
trú. Người ta quy hoạch, xây dựng và trang bị cho họ những
chung cư. Được phép Ở một cách tối giản trong căn hộ của
mình là một ưu biệt: chỉ người giàu mới dời cửa hay đóng đinh
vào tường. Như vậy không gian thuần tính của ga-ra đã thay
thế không gian bản địa của cư lưu. Các chỗ lưu trú giống hệt
nhau từ Đài Loan đến Ohio, từ Lima đến Bắc Kinh. Khắp nơi
ta đều thấy cùng một kiểu ga-ra cho người – hay những kệ
chứa lực lượng lao động qua đêm, rất tiện để vận chuyển. Cư
dân ở không gian do mình tự làm bị thay bằng hộ dân lưu trú
trong những công trình sản xuất sẵn, được đăng ký hợp pháp
như một người tiêu thụ chỗ ở và được luật thuê nhà và vay thế
chấp bảo vệ.
Hầu hết xã hội đều xem xin trọ như dấu hiệu túng thiếu: trẻ
mồ côi được nhận nuôi, người hành hương xin ở nhờ, tội đồ
bị tống giam, nô lệ bị nhốt qua đêm và người lính – nhưng chỉ
từ sau thế kỷ 18 –mới ngủ lại ở trại. Trước kia, ngay cả quân
đội cũng phải dựng trại tự làm chỗ ở cho mình. Duy chỉ có xã
hội công nghiệp cố biến mỗi công dân thành một hộ dân, nghĩa
là phải được cư trú và hủy đi cái trách vụ của một hoạt động
xã hội, cộng đồng mà tôi gọi là Ở. Giờ đây, những ai kiên trì
với tự do cư lưu theo ý mình thì hoặc là rất khá giả, không thì
bị xem là khác người. Điều này đúng cho cả những ai chưa bị
cái gọi là “sự phát triển” tẩy đi khát vọng Ở, và cho cả những
kẻ ly khai (unpluggers) đi tìm hình thức cư lưu mới, muốn
biến phong cảnh công nghiệp thành một nơi có thể Ở – ít nhất
tại những vết nứt hay những điểm yếu của cảnh quan này.
Cả người không-hiện-đại và hậu hiện đại đều phản đối việc xã
hội cấm đoán sự tự thiết định về không gian; và họ sẽ phải liệu

3
đến những can thiệp của cảnh sát từ phiền toái do mình gây
ra. Họ bị ghi dấu như kẻ xâm phạm, kẻ chiếm dụng trái phép,
kẻ vô chính phủ và họ bị xem là mối họa tùy theo từng tình
huống mà họ thiết định tự do Ở của mình: như người Anh-
Điêng đã đột nhập và định cư trên vùng đất hoang ở Lima;
như những favellados ở Rio de Janeiro trở về sống chui trên
ngọn đồi nơi vừa bị đuổi – tức là sau 40 năm ở đó; như những
sinh viên đã dám biến đổi tàn tích ở Kreuzberg, Berlin thành
chỗ ở cho mình, như những người gốc Puerto Rico vẫn quyết
quay về với công trình bị đốt và bao kín tường ở South Bronx.
Tất cả bọn họ sẽ bị quét sạch, không thật sự vì thiệt hại gây
cho chủ đất, vì đe dọa sức khỏe hay bình yên của hàng xóm,
mà vì họ thách thức cái tiên đề xã hội đã định nghĩa mỗi công
dân như một đơn vị cần có một ga-ra theo chuẩn.
Cả bộ tộc Anh-Điêng đã bỏ dãy Andes xuống khu ngoại ô
Lima và hạt ngoại ô Chicago đã tách mình khỏi cơ quan nhà
ở đô thị, cả hai đều thách thức mô hình phổ biến hiện tại xem
công dân như homo castrensis, con người ở trọ. Nhưng với
những thách thức đó, người mới đến và kẻ ly khai lại tạo ra
những phản ứng khác nhau. Người Anh-Điêng có thể bị xem
là ngoại đạo và cần được giáo dục để quý trọng sự chăm lo vật
chất của nhà nước với nơi ở của họ. Kẻ ly khai nguy hiểm hơn
hẳn: hắn là chứng nhân cho hiệu ứng bị thiến từ sự che chở
mẫu tử của thành phố. Không như người ngoại đạo, loại dị
giáo này thách thức tiên đề tôn giáo dân sự, nó ẩn dưới mọi ý
thức hệ hiện hành, dù bề ngoài chúng có vẻ đối lập nhau. Theo
tiên đề này, công dân xét như homo castrensis cần một hàng
hóa gọi là “lưu trú”, quyền lưu trú của hắn được viết thành
luật. Kẻ ly khai không phản đối lại quyền này, song hắn thực
chống lại điều kiện cụ thể trong đó quyền lưu trú mâu thuẫn
với tự do Ở. Và với kẻ ly khai, tự do này, một khi rơi vào mâu
thuẫn, sẽ được xem là đáng quý hơn thứ hàng hóa lưu trú, hiển
nhiên là thứ khan hiếm trên danh nghĩa.
Dù sao, giữa giá trị bản địa và kinh tế, sự mâu thuẫn không tự
giới hạn ở phần không gian nơi ngưỡng cửa. Ta sẽ nhầm nếu
giới hạn ảnh hưởng của cư lưu trong việc định hình không gian
nội thất; cư lưu cũng hình thành những gì ở ngoài cửa chính,
dù theo một cách khác. Đất Ở nằm cả hai bên: ngưỡng cửa
giống như là điểm xoay không gian do Ở tạo ra. Một bên gia
đình, bên kia không gian chung: không gian những hộ gia đình
cư lưu là của chung. Nó che chở cho cộng đồng như ngôi nhà
che chở cho thành viên. Cũng như việc không có cộng đồng

4
nào có cùng cách cư lưu, không có không gian chung nào
giống hệt nhau. Tập quán quy định ai có thể và ai bắt buộc
phải sử dụng không gian chung, ra sao, khi nào và ở đâu. Cũng
như ngôi nhà phản ánh những nhịp điệp và tăng giảm trong
cuộc sống gia đình, không gian chung là dấu vết của cộng
đồng. Không thể có sự Ở nào không đi kèm không gian chung.
Những người nhập cư mất nhiều thời gian để hiểu rằng xa lộ
không phải phố hay lối đi, mà là phương tiện cho lưu chuyển.
Tôi từng gặp dân Puerto Rico đến New York, họ cần nhiều
năm để hiểu rằng ở đó, vỉa hè không phải là một phần của
quảng trường. Ở khắp châu Âu, cùng với sự thất vọng của đám
quan chức Đức, người Thổ bày bàn ghế ra đường để tán
chuyện, để đánh cuộc, để bán buôn, để cà phê hay dựng hàng
nhỏ. Cần thời gian để dứt bỏ không gian chung, và nhận ra
rằng xe cộ không chỉ giết chết buôn bán mà cả những câu
chuyện phiếm bên hè. Với người tiêu thụ nhà ở hiện đại thì sự
phân biệt giữa không gian riêng và công cộng không thay thế
mà phá hủy sự phân biệt truyền thống giữa nhà và không gian
chung, gắn kết ở ngưỡng cửa. Nhưng những nhà sinh thái học
của ta còn lâu mới nhận ra tác động mà nhà ở chung cư xét
như là hàng hóa đã gây ra cho môi trường. Sinh thái học (eco-
logy) vẫn vận hành như thứ phụ trợ hay song sinh của kinh tế
học (eco-nomy). Sinh thái học chính trị chỉ trở nên triệt để và
hiệu quả khi nhận ra sự tàn phá không gian chung qua cách nó
biến thành tài nguyên kinh tế chính là yếu tố môi trường làm
tê liệt nghệ thuật Ở.
Một minh chứng về phá hủy không gian chung chính là mức
độ mà thế giới của ta đã trở nên không thể Ở như thế nào.
Cùng với tăng dân số, nghịch lý thay ta lại khiến cho môi
trường không thể Ở được. Cũng như việc có nhiều người cần
chỗ ở hơn, cuộc chiến chống cư lưu bản địa đã vào hồi kết, và
con người buộc phải tìm kiếm nhà ở, thứ sẽ càng hiếm hoi.
Một thế hệ trước, Jane Jacobs đã thực sự chỉ ra rằng trong
những thành phố truyền thống, nghệ thuật Ở và sức sống của
không gian chung cùng tăng lên khi thành phố mở rộng và như
khi con người ta sống gần nhau hơn. Nhưng trong ba mươi
năm gần đây, hầu như trên khắp thế giới, những công cụ quyền
lực đã được dùng để xâm hại nghệ thuật Ở của cộng đồng địa
phương và như vậy, tạo cảm giác sâu sắc tăng dần về sự khan
hiếm không gian sống.
Sự xâm hại không gian chung của nhà ở không hề kém tàn bạo
so với việc đầu độc nguồn nước. Việc những ốc đảo cư lưu

5
cuối cùng đang bị những chương trình nhà ở xâm chiếm cũng
đáng ghê tởm như việc tạo ra khí thải. Những định kiến pháp
lý rập khuôn hỗ trợ quyền nhà ở, bất chấp việc yêu sách này
mâu thuẫn với tự do khám phá những hình thức cư lưu mới,
chúng cũng áp chế chẳng khác gì những điều luật cưỡng ép
cách sống một cặp đôi “năng sản”. Nhưng điều này vẫn cần
được tuyên cáo ra. Không khí, nước và những cách thức sống
chung khác đã tìm thấy những người bảo vệ. Họ được đào tạo,
rồi chính quyền giao việc cho họ. Đến thời điểm này, tự do cư
lưu vẫn chỉ là mối bận tâm của một thiểu số các phong trào
dân sự; và thậm chí chúng cũng thường bị kiến trúc sư xuyên
tạc, vì hiểu nhầm mục tiêu.
“Tự-xây-dựng” được xem như thú vui đơn thuần – hoặc như
lời an ủi với khu ổ chuột. Việc trở về cuộc sống nông thôn bị
nhìn là chủ nghĩa lãng mạn. Hồ cá và chuồng gà nội đô được
xem như giải trí đơn thuần. Những nhà xã hội học hưởng
lương cao đổ xô đến các khu dân “hoạt động tốt” cho đến khi
chúng thất bại. Chiếm dụng chỗ ở bị xem là bất tuân dân sự,
và chiếm dụng có cải tạo là tiếng kêu thét để có nhà ở tốt hơn
và nhiều hơn. Nhưng trong lĩnh vực nhà ở, như giáo dục, y tế,
giao thông hay mai táng, chính kẻ ly khai lại không phải là
người thuần khiết. Tôi biết một gia đình nuôi vài con dê ở
Appalachians và buổi tối lại chơi máy tính chạy pin. Tôi biết
một người chiếm dụng trái phép đã xâm nhập vào khu tường
vây Harlem, và gửi con gái đi học trường tư.
Song, cả chẩn đoán châm biếm và tâm lý đều không làm kẻ ly
khai biến mất. Họ đã đánh mất ý thức hippi Calvinist và tự
phát triển thành một nhánh châm biến và kỹ năng chính trị.
Trải nghiệm bản thân nói với họ rằng sự tận hưởng nghệ thuật
sống được phục hồi từ cư lưu có lợi hơn thứ tiện nghi đã bỏ
lại. Và càng ngày họ trở nên có khả năng hơn để từ chối tiên
đề về homo castrensis như một bộ phận nền tảng của xã hội
công nghiệp.
Còn có những nguyên do khác khiến việc phục hồi không gian
cư lưu ngày hôm nay có vẻ hợp lý. Những phương pháp, vật
liệu và máy móc hiện đại khiến việc tự xây dựng thành đơn
giản và ít nhọc hơn xưa. Số người thất nghiệp gia tăng loại bỏ
dần cái mác phản-xã hội cho những ai không muốn qua hiệp
hội xây dựng. Ngày càng nhiều công nhân xây dựng có đào
tạo phải hoàn toàn học lại nghề để làm những việc bên ngoài,
có ích hơn cho mình và cộng đồng. Sự thiếu hiệu quả nghiêm
trọng của công trình trong thập niên bảy mươi làm cho những

6
chuyển hóa trước đây không thể ngờ đến đã trở nên ít dị ứng
hơn, thậm chí còn hợp lý hơn nếu theo những người biểu tình
cách đây vài năm. Trải nghiệm của Thế Giới Thứ Ba hội tụ
với trải nghiệm ở South Bronx. Trong chiến dịch tranh cử của
mình, tổng thống Mexico đã tuyên bố rõ: kinh tế Mexico
không thể cung ứng nhà ở cho đa số công dân của mình dù là
hiện tại hay trong tương lai. Cách duy nhất để tất cả người dân
Mexico được cấp trú thoải mái là qua sự chuẩn bị về pháp lý
và vật chất khiến mỗi cộng đồng nước này có thể tự lưư trú tốt
hơn bao giờ hết.
Điều vừa đề xuất phía trên rất quan trọng: sự ly khai của một
quốc gia khỏi thị trường toàn cầu về nhà ở đơn vị. Tôi không
tin rằng một đất nước Thế Giới Thứ Ba có thể làm được điều
đó. Chừng nào mà một đất nước vẫn còn tự xem mình là chưa
phát triển, họ sẽ dùng mô hình phía Bắc, dù tư bản hay xã hội
chủ nghĩa. Tôi không thể tin rằng một đất nước như vậy có thể
thật sự ly khai, xét như một dân tộc. Có quá nhiều quyền lực
tích tụ nơi các chính quyền dựa trên ý thức hệ về con người
“lưu trú” một cách tự nhiên. Huyễn tưởng (utopia) về kiến tạo
quốc gia và xây dựng nhà ở gắn chặt với nhau trong ý nghĩ
của mọi giới tinh hoa mà tôi biết, đặc biệt trong Thế Giới Thứ
Ba. Tôi tin rằng tự do Ở, và hậu cần về công cụ - ở mặt pháp
lý lẫn vật chất – để lựa chọn này khả thi, phải được nhận thức
đầu tiên ở các quốc gia “phát triển.” Ở đó, kẻ ly khai có thể
tranh luận với niềm tin và sự chính xác hơn vì sao hắn ta xem
tự do này quý hơn việc có ga-ra. Và sau đó hãy để anh ta đến
Mexico để học những gì mà gạch không nung có thể làm.
Ngày một nhiều hơn những luận điểm đặt sự phục hồi năng
lực bản địa của Ở lên trên những yêu sách bất lực về kho chứa
cá nhân. Như chúng ta biết, những luận điểm này nhất quán
với phương hướng của phong trào sinh thái khi phong trào này
thực sự thoát khỏi cái bóng của kinh tế học tức khoa học về
giá trị khan hiếm. Chúng cũng nhất quán với những phân tích
triệt để mới mẻ về vấn đề công nghệ, chống lại việc tuyển mộ
con người xem như tình nguyện viên vào ngành công nghiệp
xây dựng, chống lại việc sử dụng những công cụ hiện đại để
bù đắp cho năng lực khiếm khuyết về Ở. Song điều quan trọng
hơn, là về một luận điểm vẫn còn ở trạng thái phôi thai, nhưng
tôi đã đọc được khi quan sát nhiều những nỗ lực tự phát cụ
thể.
Không gian thích hợp mang dấu cuộc sống là cơ sở sống còn
như nước sạch hay không khí trong lành. Người đơn giản là

7
không hợp bên trong ga-ra, dù có được trang trí lộng lẫy với
phòng tắm hay thiết bị kiệm năng như thế nào. Nhà và ga-ra
không phải là những không gian cùng thể loại. Nhà không phải
là ổ của người theo cách nhà sinh học xã hội quy giản, cũng
không phải là kệ tủ ở đó con người không tài nào sống sót, bất
chấp nó được bọc nệm tốt nhường nào. Ga-ra là kho trữ dành
cho đồ vật lưu chuyển trong không gian thuần tính của hàng
hóa; cái ổ được định hình và chiếm dụng bởi con vật, bản năng
đã buộc chúng vào lãnh thổ. Con người ở. Chúng ta đã ở Trái
Đất theo muôn cách khác nhau và sao chép hình thức cư lưu
của nhau. Hàng thiên niên kỷ qua, điều quyết định những đổi
thay của không gian cư lưu không phải do bản năng hay gen
mà do văn hóa, kinh nghiệm và suy tư. Phải thừa nhận rằng cả
lãnh thổ và không gian cư lưu đều có đặc điểm ba chiều, song
về mặt ý nghĩa, chúng không cùng một loại không gian – cũng
khác như giữa không gian cư lưu và ga-ra. Không có khoa học
nào mà ta biết, ngày hôm nay có thể nắm bắt thực sự tính đa
dạng topo này – cả xã hội học, nhân học, hay lịch sử hiện giờ
hầu hết đều từ bỏ giác độ viễn tượng trung tâm, nơi ta sẽ không
nhìn ra sự khác biệt đó. Tôi thực tin rằng những sự trái ngược
có tính bộ môn về trải nghiệm con người dưới giá trị bản địa,
dưới chế độ của tính khan hiếm, chính là bước đầu tiên có thể
làm sáng tỏ sự khác biệt quan trọng này. Và nếu thiếu đi sự
phục dựng một ngôn ngữ có thể bật lên sự khác biệt đó thì việc
từ chối xem mình với mô hình “con người lưu trú” và sự tìm
kiếm không gian cư trú bản địa mới sẽ không thể trở nên hiệu
quả về chính trị…
Và vì vậy, khi hành vi Ở trở thành một chủ đề chính trị, chúng
ta không cách nào tránh khỏi ngả rẽ. Một bên là quan tâm về
“gói nhà ở” – tức việc làm thế nào để mọi người hưởng quyền
lợi về gian buồng xây sẵn, có vị trí và trang bị tốt. Ở đây việc
đóng gói của người nghèo với đơn vị nhà ở cho họ sẽ trở thành
một lĩnh vực tăng trưởng dành cho công nhân xã hội khi không
còn tiền chi cho kiến trúc sư. Bên còn lại là quan tâm về quyền
lợi của một cộng đồng được tự định hình và tự thích nghi với
khả năng và nghệ thuật của bản thân. Khi theo đuổi mục tiêu
này, rất nhiều người ở phía Bắc nhận ra rằng sự phân mảnh
của nơi Ở và sự đánh mất truyền thống đã tước đi quyền cư
lưu khả dĩ. Những người trẻ đang đeo đuổi nhà ở, chính họ sẽ
khao khát nhìn về Southwards, nơi mà không gian và truyền
thống vẫn sống.

8
Khao khát mới chớm nở này của những nước chưa phát triển
sẽ được lòng can đảm và suy tư chữa lành. Song ở Thế Giới
Thứ Ba, bản thân sự sinh tồn còn phụ thuộc vào cán cân đúng
đắn giữa quyền “tự xây dựng” và quyền sở hữu đất cùng một
vài thứ như rui mái của riêng mình.

You might also like