Tiểu luận triết

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN


TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3: : Phân tích quan niệm duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Liên hệ với thực tiễn.

Họ, tên SV: Nguyễn Trường Phong


Mã SV: 11225107
Lớp: LLNL1105(122)_19
Khóa: 64. GĐ: 2022-2026

Hà Nội - 11/2022
1
1) Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức.
a) Vật chất
i) Định nghĩa
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
V. I. Lenin đã định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”. Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho
đến nay vẫn được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.
Thứ nhất, Lenin muốn chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất, vô hạn,
muốn phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự
khái quát và trừu tượng, với những dạng vật chất cụ thể, với những “hạt nhỏ”
cảm tính. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học không có những đặc tính cụ
thể có thể cảm thụ được.
Thứ hai, vật chất luôn là một tồn tại khách quan và đây là một thuộc tính cơ
bản nhất, phổ biến nhất của vật chất trong chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vật
chất tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, cho
dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất khi xuất hiện dưới các hình thức tồn tại cụ thể nào đó của
nó có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó tác động đến các giác quan của
con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ý thức chẳng qua chỉ là một sự
phản ánh của vật chất.
ii) Phương thức tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại và là thuộc tính cố hữu của vật chất. Theo
P. Engels, vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Vận động có nhiều hình thức trong đó có 5 hình thức vận động cơ bản: vận
động cơ học (di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); vận động vật lí
(vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình điện
nhiệt…); vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp
và phân giải các chất); vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi
trường); vận động xã hội (sự biến đổi thay thế của các hình thái kinh tế xã hội).
Các hình thức vận động đều quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi sự vật, hiện tượng

2
có thể gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng
bằng một hình thức vận động cơ bản.
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng.
Không có vật chất phi vận động và cũng không bao giờ có vận động phi vật
chất. Vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó vận
động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh
rằng nếu một hình thức vận động nao đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu
nó nảy sinh ra một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận
động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn
tồn tai với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Bên cạnh sự vận động, vật chất còn đứng im. Đó là trạng thái ổn định về
chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình
thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho
sự vận dộng chuyển hóa của vật chất. Đứng im chỉ có tính tạm thời và được bao
hàm trong sự chuyển động không ngừng của vật chất. Vận động là tuyệt đối
trong khi đứng im chỉ là tương đối. Engels viết: “Vận động riêng biệt có xu
hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng
biệt.”
iii) Hình thức tồn tại của vật chất
Hình thức tồn tại của vật chất vận động là không gian và thời gian. Tuy
không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động nhưng chúng lại không tách rời nhau. Không có sự vật, hiện
tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá trình diễn biến của
nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không
có quảng tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó
bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do
đó, không gian và thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không – thời
gian. Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi
lẫn tính chất. Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng trong thế giới không ở đâu
có tận cùng về không gian, cũng như không ở đâu có ngưng đọng, không biến
đổi hoặc không có sự tiếp nối của các quá trình. Không gian và thời gian của
một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn.
iiii) Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, tính thống nhất chân chính
của thế giới là ở tính vật chất của nó. Triết học Mác- Lênin khẳng định chỉ có
một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, không có thế giới tinh thần. Đồng thời
3
còn khẳng định rằng các bộ phận thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất,
có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về
lịch sử phát triển và đều phải luôn tuân thủ theo những qui luật khách quan của
thế giới vật chất. Do đó thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận không
do ai sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó không có cái gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguyên nhân
và là kết quả của nhau.
b) Ý thức
i) Định nghĩa
Ý thức là toàn bộ đời sống tinh thần của con người trong đó bao gồm tri
thức và tình cảm. Còn với C. Marx, ông đưa ra định nghĩa rằng ý niệm (ý thức)
chẳng qua chỉ là cái khách quan được di chuyển vào bộ não con người (dưới
hình thức là các dòng mang giá trị phản ánh thông tin) và được cải biến đi ở
trong đó.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức chính là sự xuất hiện con người và hình
thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan. Bộ óc
con người có cấu trúc đặc biệt phát triển, vượt xa gấp nhiều lần mọi loại sinh
vật khác, được tố thành từ 14 – 15 tỷ tế bào thần kinh. Do đó, ý thức là hình
thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất
của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con
người.
Tuy vậy, sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn
do nguồn gốc xã hội. Sự phát triển của giới tự nhiên mới chỉ được coi là nguồn
gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực
tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. C. Marx và P. Engels đã nhiều lần chỉ rõ
trong các công trình nghiên cứu khoa học của mình rằng ý thức là một hiện
tượng mang bản chất xã hội.
Ý thức không chỉ là sự phán ánh tái tạo mà còn chủ yếu là sự phản ánh sáng
tạo hiện thực khách quan. Thông qua hoạt động lao động cải tạo thế giới khách
quan mà con người đã từng bước nhận thức được thế giới, có ý thức ngày càng
sâu sắc về thế giới. Ý thức hình thành không phải là quá trình con người tiếp
nhận thụ động các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ
yếu từ hoạt động thực tiễn. Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong
những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau;
cùng với sự phát triển của tri thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học
cũng dần được hình thành, phát triển giúp nhận thức lý tính của loài người ngày
một sâu sắc. Chính điều đó làm ý thức ngày càng năng động, sáng tạo hơn.

4
ii) Bản chất của ý thức
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bên ngoài là biểu thị nội
dung nhân được từ vật gây ra tác động và được truyền đi trong quá trình phản
ánh. Bản tính của phản ánh qui định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức
phải lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan qui định và có nội dung
phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức còn có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã
hội. Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phán ánh ý thức người
với trình độ phán ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quá của sự phản
ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của
quá trình phản ánh có định hướng, có mục địch rõ rệt. Trên cơ sở khả năng phản
ánh ngày càng sâu sắc của ý thức, bằng những thao tác tư duy trừu tượng đem
lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn chủ động cải tạo thế giới
trong hiện thực, sáng tạo ra “thiên nhiên thứ hai” im đậm dấu ấn con người. Do
đó, sáng tạo chính là đặc trưng bản chất nhất của ý thức.
iii) Kết cấu của ý thức
Người ta có hai cách phân chia kết cấu của ý thức dựa trên hai tiêu chí: các
yếu tố hợp thành và và chiều sâu của nội tâm.
Theo các yếu tố hợp thành: ý thức gồm ba yếu tố cơ bản nhất là tri thức,
tình cảm và ý chí. Trong đó, tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất, được coi là
phương thức tồn tại của ý thức. Ngoài ra, ý thức có thể bao gồm các yếu tố khác
như niềm tin và lý trí.
Theo chiều sâu của nội tâm thì ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô
thức.
c) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.
i) Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau, và từ đó vật chất giữ vai trò quyết định. Vai trò đó được thể
hiện rõ ràng qua các khía cạnh cụ thể sau.

5
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất “sinh” ra ý
thức vì sự xuất hiện của ý thức gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây
khoảng 3 đến 7 triệu năm. Trong khi đó, con người là kết quả của cả một quá
trình tiến hóa lâu dài và phức tạp của giới tự nhiên, vật chất cho nên lẽ tự nhiên,
ý thức – một thuộc tính không thể tách rời của con người – cũng do giới tự
nhiên sinh ra. Vật chất là tính thứ nhất còn ý thức được coi như là tính thứ hai.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức.
Dạng vật chất có tổ chức cao nhất không gì khác là bộ óc con người mà ý thức
là thứ tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não. Sự vận động của
thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ
óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung ý thức. Suy cho cùng, dù cho ở bất kì
hình thức nào thì ý thức đều là sự phản ánh hiện thực khách quan. Có thế giới
hiện thực vận dộng, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được
phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. “Ý thức không bao giờ có thể
là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức.”, đó là một khẳng định của hai nhà
triết học C. Marx và P. Engels. Tóm lại, ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới
khách quan. Từ thời đại nguyên thủy sơ khai cho đến nền văn minh tiến bộ vượt
bậc như ngày nay, tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung tư duy con người
đều được quyết định bởi một động lực mạnh mẽ: sự phát triển của hoạt động
thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Trong bản chất của ý thức
có hai thuộc tính không thể tách rời đó là phản ánh và sáng tạo. Tuy nhiên, sự
phản ánh của con người là sự phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn thay vì chỉ đơn thuần là sự “soi gương”, “chụp ảnh”. Chính thực tiễn là
cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản
ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động và phát triển của ý thức. Mọi sự
tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật
chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Một minh
chứng rõ nét nhất chính là đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học
ngày càng phát triển. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất,
của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức con
người.
Dù vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về
mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V. I. Lenin,
rằng “sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những
phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận

6
thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới
hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối.”
ii) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Ý thức là do vật chất sinh ra song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động to lớn trở lại đối với vật chất. Điều này được thể
hiện trên các khía cạnh sau.
Thứ nhất, mặc dù ý thức là do vật chất sinh ra nhưng đã ra đời thì ý thức có
“đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một
cách máy móc vào vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành
so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi
của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người chứ tự bản thân ý thức thì không có khả năng biến đổi
hiện thực. C. Marx và P. Engels đã khẳng định: “Xưa nay, tu tưởng không thể
đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được, trong bất cứ tình huống nào,
tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự
thế giới cũ mà thôi”. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách
quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng,
biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc
biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân –
lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất lớn.
Thứ ba, vai trò của ý thức được thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành
động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức giúp con người đề ra chủ trương,
đường lối, chính sách, những mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng
phù hợp với thực tế khách quan. Con người nhận thức và phản ánh thế giới
khách quan càng đầy đủ chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng có hiệu quả
bấy nhiêu, khi đó mọi tiềm năng sáng tạo sẽ được khai thác, sức mạnh vật chất
được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản
ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn.
nhát là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.

7
Tuy nhiên, cơ sở cho việc phát huy tính năng động, chủ quan của ý thức là
việc tôn trọng tính khách quan của vật chất, nó không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định. Chính vì vậy, nếu quên điều đó,
nếu lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược thì sẽ rơi vào căn bệnh chủ quan duy ý chí, khó tránh khỏi thất bại
trong hoạt động thực tiễn.
2) Ý nghĩa phương pháp luận chung
a) Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hành động
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế
hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những
điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả
tai hại khôn lường. Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình
học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối
tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy
luật. Do đó, nhận thức và cải tạo sự vật hiện tượng nhìn chung đều cần phải xuất
phát từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ
bên trong vốn có của nó. Sự vật hiện tượng cần được nhận thức một cách đúng
đắn, tránh tô hồng cũng như bôi đen, không được gán ghép cho nó những cái
mà nó không có. Từ đó, cần tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí;
chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
b) Phát huy tính năng động sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con
người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải
luôn chủ động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới.
Phải chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo
dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đồng thời phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng
cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói
chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa
hiện nay; coi trọng việc giữ gìn rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng
viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
3) Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận chung vào thực tiễn
a) Liên hệ với chính bản thân trong cuộc sống hằng ngày

8
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ta đã xây dựng nên
được ý nghĩa phương pháp luận chung. Tiếp đó, cần liên hệ được phương pháp
luận chung đó lên trên chính bản thân mình để bản thân ngày càng phát triển
hơn.
Thứ nhất, bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng
đến cuộc sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải
ý thức được những vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù
hợp với thực tế khách quan. Nói cách khác, mọi hành động của bản thân đều
nên dựa trên cơ sở thực tế, từ việc lên kế hoạch, đặt mục tiêu, không nên có
những suy nghĩ viễn vông xa rời thực tế khách quan vì sẽ không mang lại hiệu
quả. Dựa trên thực tế, ta cũng có thể xác định được bản thân cần ưu tiên điều gì
để mang lại lợi ích lớn nhất, tránh việc chạy theo những thứ không phù hợp với
bản thân.
Thứ hai, phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng
ngày. Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần
chú trọng phát triển tri thức của bản thân. Ta cần không ngừng nỗ lực học hỏi,
tìm tòi, nghiên cứu để ngày càng nâng cao cũng như hoàn thiện tri thức của
mình. Đặc biệt, tính sáng tạo được thể hiện rõ ràng nhất khi ta đương đầu với
những tình huống khó khăn, khi đó hướng đi mới tiến bộ hơn sẽ được xây dựng
từ nền tảng những tri thức sẵn có. Chỉ khi có một tri thức toàn diện được trang
bị đầy đủ ta mới có khả năng cải tạo thực tại khách quan thông qua các hoạt
động của mình.
Thứ ba, cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới. Hiện nay có rất nhiều
nguồn thông tin tiêu cực mà khi tiếp xúc sẽ mang đến ảnh hưởng xấu cho bản
thân. Kiến thức quanh ta là vô biên vô hạn, thu nạp được nhiều tri thức là một
điều hết sức tích cực nhưng hãy nên học hỏi một cách có chọn lọc. Không phải
điều gì mới mẻ cũng là bổ ích, là hữu dụng.
Thứ tư, khi xem xét một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh
thần, cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan; không được chủ quan trong
mọi tình huống. Khi nhìn nhận một sự vật, hiện tượng bất kì, ta cần có một cách
nhìn tổng thể, bao quát trên nhiều phương diện khác nhau của chủ thể để từ đó
có một nhận xét, một cách hiểu thấu đạt và khách quan nhất có thể; không được
để chi phối bởi cảm xúc cá nhân. Luôn luôn dự phòng cho mọi tình huống xảy
đến để chuẩn bị cách ứng phó, nếu không sẽ rơi vào căn bệnh chủ quan với
những hậu quả khôn lường.
b) Liên hệ với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước

9
Như chúng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước,
nền kinh tế miền Bắc còn nhiều nhược điểm. Nền kinh tế miền Bắc còn bị chiến
tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ tàn phá nặng nề. Ở miền Nam,
sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, nông nghiệp nhiều
vùng hoang hoá, lạm phát trầm trọng… Đi cùng với đó là cơ sở vật chất kĩ thuật
còn nhiều yếu kém, cơ cấu nền kinh tế rất mất cân đối.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế
hoạch năm 1976-1980 quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất vượt
quá khả năng của nền kinh tế, như năm 1975, phấn đấu đạt 20 triệu tấn lương
thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha khai hoang, 1 triệu 200 ha rừng mới trồng…
10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đặc biệt là đề ra việc xây dựng
thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ
hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Những chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp đã tác động xấu tới nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến đời sống của
nhân dân… Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50%-
60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội
tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã nhận định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và
phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan
duy ý trí, vi phạm qui luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa,
xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh quá mức việc xây dựng
công nghiệp nặng; duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương”.
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ yếu nêu trên, cũng có những
nguyên nhân khách quan như hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc
tế…song chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm đó cùng
với trì trệ trong công tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt
tiêu nhiều động lực phát triển.
Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (Ở đây là các
chủ trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền kinh tế) và thấy tác
động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào
thải.

10
Vì vậy trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh
tế xã hội ở nước ta Đảng và nhà nước ta đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình
hình lấy ý kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và đặc biệt là đổi mới tư duy
về kinh tế. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó
có kinh nghiệm: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hanh động theo qui
luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tại Đại hội VI Đảng ta đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích
đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra các định
hướng mới đặc biệt là đổi mới kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của ba chương
trình kinh tế: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất, hình thành
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư
sản, sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế,
sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Trong quá trình thực hiện nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, những diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng xấu đến
tình hình kinh tế và xã hội của nước ta, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới:
công cuộc đổi mới. Và đến Đại hội Đại Biểu toàn Quốc lần thứ VII ta đã đánh
giá tình hình kinh tế chính trị xã hội Việt Nam sau bốn năm thực hiện đường lối
đổi mới: công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan
trọng.
Tình hình chính trị của đất nước ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến
tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội
được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật chất và
tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện. So với trước đây thì
mức độ khủng hoảng đã giảm bớt. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng
được phát huy…
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật
chất, giữa kinh tế và chính trị. Nhờ có đường lối đổi mới, sản xuất phát triển,
đời sống của nhân dân nói chung được cải thiện, mức độ khủng hoảng đã giảm
bớt, do đó đã góp phần ổn định tình hình chính trị của đất nước, góp phần vào
việc phát huy dân chủ trong xã hội. Không chủ quan với những thành tựu đã đạt
được, Đại hội VII đã chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt
kinh tế đó là: lạm phát còn ở mức cao, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài,
lao động thiếu việc làm tăng lờn… Đồng thời cũng tự phê bình về việc chậm
xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới, còn nhiều lúng túng và sơ hở trong
điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường…

11
Như vậy, rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn
phương pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới
trong lĩnh vực chính trị. Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm tình
hình quốc tế và trong nước đã đề ra mục tiêu tổng quát vào các mục tiêu cụ thể,
những phương châm chỉ đạo trong 5 năm 1991- 1995 đặc biệt đáng chú ý là
phương châm kết hợp động lực kinh tế với động lực chính trị tinh thần, phương
châm tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ đưa công tác đổi mới đi vào chiều
sâu với bước đi vững chắc lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời thúc đẩy
mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác. Kể từ đó, nền kinh tế đất nước ta ngày
càng đi lên, trở thành một trong những nước đang phát triển có tỉ lệ tăng trưởng
kinh tế ổn định qua từng năm.
c) Liên hệ với công cuộc phòng chống đại dịch Covid-19
Có thể thấy, nước ta là một trong các quốc gia vượt qua đại dịch thành công
nhất và để có được thành quả đó, nhà nước đã phát huy tối đa tính sáng tạo,
năng động của con người dựa trên tình hình thực tế. Ngay từ khi dịch bệnh mới
bùng phát nhỏ lẻ, trong khi nhiều quốc gia vẫn còn đang thờ ơ, chủ quan thì
nước ta đã ngay lập tức áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội ở nhiều mức độ
đồng thời bắt buộc đeo khẩu trang khi tiếp xúc nhằm khống chế dịch bệnh.
Song song với đó là các thông tin về dịch bệnh được tuyên truyền trên mọi
phương tiện truyền thông, từ băng rôn, khẩu hiệu đến những bài hát có ca từ dễ
nghe dễ nhớ để người dân luôn có ý thức chống dịch. Ngoài ra, tính sáng tạo
còn được thể hiện rõ khi tại nhiều địa phương, các giáo viên tại trường học cũng
đã sáng chế ra nước rửa tay sát khuẩn mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, sau
khi đại dịch qua đi, ngành du lịch tăng trưởng mạnh cũng là nhờ các chính sách
kích cầu du lịch sáng tạo của nhà nước và các dịch vụ mới lạ thu hút khách du
lịch của người dân. Từ đó, ta mới thấy được ý nghĩa phương pháp luận chung có
tính vận dụng cao như thế nào.
Kết luận
Qua phần nội dung trên, ta có thể dễ dàng nhận ra tầm quan trọng của việc
hiểu và nắm rõ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng
ý nghĩa phương pháp luận chung và vận dụng một cách hiệu quả, sáng tạo vào
trong thực tiễn. Phương pháp luận chung của mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức là một phương pháp luận khoa học nhất, tối ưu nhất. Nó không
chỉ giúp phát triển và hoàn thiện bản thân một cá nhân mà còn phát triển cả một
xã hội, giúp cho một quốc gia có những bước đi đúng đắn. Đất nước ta vượt qua
được thời kì đen tối sau chiến tranh, vượt qua được cuộc đại dịch kinh hoàng và

12
ngày càng đi lên sánh vai với các cường quốc đều là nhờ vận dụng đúng đắn ý
nghĩa phương pháp luận.hfchtchtchtctyctyctcrycyrc

13

You might also like