Professional Documents
Culture Documents
Cốt lõi Kinh Tương Ưng
Cốt lõi Kinh Tương Ưng
1. Đức Phật không phải là người lãnh đạo chúng tăng ............................................. 1
2. Thế Tôn bị bịnh ..................................................................................................... 1
3. Lời di giáo của Thế Tôn trước khi nhập niết bàn .................................................. 1
4. Vấn đề thần thông.................................................................................................. 2
5. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề chiến tranh ............................................. 2
6. Quan điểm của đức Phật đối vấn đề trọng nam khinh nữ ..................................... 2
7. Không phóng dật ................................................................................................... 2
8. Bạn lành ................................................................................................................. 3
9. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề tài sản .................................................... 3
10. Bốn hạng người ở đời .......................................................................................... 3
11. Không ai có thể tránh né được vô thường ........................................................... 3
12. Vô thường ............................................................................................................ 3
13. Tam độc ............................................................................................................... 3
14. Bố thí ................................................................................................................... 3
15. Vấn đề danh lợi và sống chết .............................................................................. 4
16. Quan điểm của đức Phật về vấn đề xây dựng tự Viện ........................................ 4
17. Vấn đề nói năng................................................................................................... 4
18. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề khổ hạnh .............................................. 4
19. Kinh nghiệm tu tập của đức Phật ........................................................................ 4
20. Sống trong hiện tại .............................................................................................. 5
21. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề tín ngưỡng dân gian ............................ 5
22. Ác ma khuấy nhiễu đức Phật............................................................................... 5
23. Thế Tôn nhập Niết bàn (parinibhàna) ................................................................. 5
24. Duyên khởi .......................................................................................................... 5
25. Chư thiên thỉnh Phật nói pháp ............................................................................. 6
26. Giáo pháp của đức Phật là chân lý ...................................................................... 6
27. Tán thán đức Thế Tôn ......................................................................................... 6
28. Xá lợi Phất bị Tỷ kheo nhiếc mắng ..................................................................... 6
29. Tán thán Xá Lợi Phất .......................................................................................... 7
30. Xá Lợi Phất nhập diệt .......................................................................................... 7
31. Tình cảm của Ananda đối với Xá Lợi Phất ......................................................... 7
32. Tình cảm của Phật đối với tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên .................... 7
33. Đức Phật khuyên Ananda về sự kiện ngài Xá lợi Phất nhập diệt ....................... 8
34. Vấn đề tụng đọc................................................................................................... 9
35. Tỷ kheo xuất gia sống vì lợi dưỡng .................................................................... 9
36. Ngoại đạo ganh tị với đức Phật ........................................................................... 9
37. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đế tế lễ của Bà la môn ............................ 10
38. Sự thanh tịnh hay không thanh tịnh không tùy thuộc việc niệm chú hay giai cấp
................................................................................................................................. 11
39. Đức Phật bài bác việc tụng chú của Bà la môn ................................................. 11
40. Ngoại đạo luôn luôn tìm cách phá hoại đạo Phật .............................................. 12
41. 8 nguyên nhân đưa đến nghèo đói..................................................................... 13
42. Sự khác nhau giữa công việc của người tại gia và xuất gia .............................. 13
43. Người con bất hiếu ............................................................................................ 13
44. Sự khác biệt giữa những người xin ăn và hạnh khất thực ................................. 14
45. Liên quan đến “Kinh Tứ Thập Nhị Chương” ................................................... 14
46. “Kinh Tương Ưng” phát triển thành “Kinh Tung Bộ” ..................................... 14
47. Chư Thiên và A Tu La đánh nhau ..................................................................... 14
48. Bốn loại thức ăn ................................................................................................ 15
49. Đức Phật phản bác hai cực đoan có và không .................................................. 15
50. Khổ do ai tạo ra ................................................................................................. 15
51. Lạc do ai tạo ra .................................................................................................. 15
52. Giới luật ............................................................................................................. 16
53. Liên quan đến vấn đề giới luật (Giới biệt trú)................................................... 16
54. Những giới điều liên quan đến nhà người cư sĩ ................................................ 16
55. 5 giới .................................................................................................................. 16
56. 4 dự lưu hay 4 niềm tin bất động ...................................................................... 17
57. Đạo Phật là Tôn giáo đề cao vai trò hiểu biết hay trí tuệ .................................. 17
58. Nghiệp ............................................................................................................... 18
59. Tứ thánh đế ........................................................................................................ 18
60. Bát chánh đạo .................................................................................................... 18
61. Kiết sử ............................................................................................................... 19
62. 5 uẩn .................................................................................................................. 19
63. 5 căn và 5 trần không phải là kiết sử ................................................................. 20
64. Mục đích của người xuất gia ............................................................................. 20
65. Sự khác biệt giữa 5 uẩn và 5 thủ uẩn ................................................................ 20
66. Ngoại đạo trà trộn trong tăng đoàn vì lợi dưỡng ............................................... 21
67. Lòng ganh tị của ngoại đạo về sự cúng dường ................................................. 21
68. Tư cách và mục đích của người xuất gia........................................................... 21
69. Sự khác biệt giữa các giới hay xứ ..................................................................... 21
70. Mọi việc đều có nhân và duyên ......................................................................... 21
71. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã ............................................................................... 22
72. Mười nghiệp đạo ............................................................................................... 22
73. Luân hồi vô thủy................................................................................................ 22
74. Rất nhiều kiếp trôi qua ...................................................................................... 22
75. Nước mắt nhiều hơn nước của đại dương ......................................................... 22
76. Sữa mẹ nhiều hơn nước của đại dương ............................................................. 22
77. Chánh pháp và tượng pháp ................................................................................ 23
78. Tranh cãi đúng sai về lời dạy của Phật.............................................................. 23
79. Thiểu số là người ít tham đa số là người tham .................................................. 24
80. Vấn đề danh và lợi............................................................................................. 24
81. Nhân quả............................................................................................................ 24
82. Sinh được làm người là khó .............................................................................. 24
83. Sự nhập diệt của Thế Tôn có làm cho tâm của Xá lợi Phất đau khổ không? ... 25
84. Thân bịnh và tâm bịnh ....................................................................................... 25
85. Thân bịnh và tâm không bị bịnh ....................................................................... 25
86. Tinh thần tùy duyên bất biến trong đạo Phật .................................................... 25
87. Nhân của khổ ..................................................................................................... 26
88. Sắc của 3 thời là vô thường là khổ là vô ngã .................................................... 26
89. Nương tựa chính mình....................................................................................... 26
90. Tỷ kheo thiện xảo về 7 xứ ................................................................................. 26
91. Sự sai khác giữa Phật và A la hán ..................................................................... 27
92. Thuyết không nhân không duyên ...................................................................... 27
93. Thuyết phủ nhận giá trị của đạo đức ................................................................. 27
94. Thuyết phủ nhận giá trị nhân quả nghiệp báo ................................................... 28
95. Thuyết duy vật (Thắng luận?) ........................................................................... 28
96. Những thân nhân của đức Phật ......................................................................... 29
97. Nghi ngờ giáo Pháp ........................................................................................... 29
98. Đức Phật chỉ là bậc Đạo sư ............................................................................... 29
99. Hiểu sai lời Phật dạy ......................................................................................... 29
100. Không như thật tuệ tri ..................................................................................... 29
101. 14 vấn đề siêu hình .......................................................................................... 30
102. Ai thấy pháp là thấy Phật ................................................................................ 30
103. Đức Phật xác định thân của ngài vẫn bị hôi thối ............................................ 30
104. Giáo Pháp của Phật không phải để tranh luận ................................................ 31
105. Sự tồn tại của các Pháp như bọt nước ............................................................. 31
106. 37 phẩm trợ đạo ............................................................................................... 31
107. Thế nào gọi là vô minh? .................................................................................. 31
108. Vô minh là gốc của phiền não ......................................................................... 31
109. Thế nào gọi là minh? ....................................................................................... 32
110. Minh là gốc của các thiện pháp ....................................................................... 32
111. Thế nào gọi là thuyết pháp? ............................................................................ 32
112. Thế nào gọi là chúng sanh? ............................................................................. 32
113. Thế nào gọi là A la hán?.................................................................................. 32
114. Thế nào gọi là chánh niệm?............................................................................. 33
115. Thế nào gọi là tỉnh giác? ................................................................................. 33
116. Tứ Thiền .......................................................................................................... 33
117. 8 định ............................................................................................................... 33
118. Diệt thọ tưởng định ......................................................................................... 34
119. Quán Vô ngã .................................................................................................... 34
120. Nguyên thủy Phật giáo khái niệm Bồ Tát chỉ lúc Phật chưa giác ngộ............ 34
121. 12 xứ là chỉ cho tất cả pháp ............................................................................. 35
122. Phương pháp đoạn tận vô minh ....................................................................... 35
123. Sự hòa hợp của ba pháp .................................................................................. 35
124. Các cảm thọ ..................................................................................................... 35
125. Bài pháp đức Phật nói cho người bịnh ............................................................ 36
126. Sự chăm lo chúng tăng của ngài Xá lợi Phất .................................................. 37
127. Liên quan đến Phẩm Thường Bất Khinh trong “Kinh Pháp hoa” .................. 37
128. Đức Phật không chủ trương tìm hiểu những vấn đề không liên hệ đời sống
phạm hạnh ............................................................................................................... 37
129. Phạm vi khái niệm hiểu biết hay trí tuệ trong Phật giáo nguyên thủy ............ 37
130. Thế nào là hộ trì các căn? ................................................................................ 37
131. Tùy theo căn cơ mà nói pháp .......................................................................... 38
132. Thái độ của Phật đối với vấn đề vô ký ............................................................ 39
133. Đáo bỉ ngạn ..................................................................................................... 39
134. Ba điều kiện để hoàn thành tư cách vị Tỷ kheo .............................................. 39
135. Thân xuất gia mà tâm không xuất gia ............................................................. 40
135. Sự bất hạnh nhất cho giới nữ........................................................................... 40
136. 5 nổi khổ của người nữ .................................................................................... 40
136. 5 sức mạnh của giới nữ ................................................................................... 41
137. 5 điều khó cho người nữ.................................................................................. 41
138. Lời đức Phật khuyên về người nữ ................................................................... 42
139. Thái độ Tỷ kheo đối với nữ sắc ....................................................................... 42
140. Định nghĩa về Niết bàn.................................................................................... 43
141. Đạo lộ đi đến Niết bàn..................................................................................... 43
142. 4 niềm tin bất động .......................................................................................... 43
143. Tam bảo ........................................................................................................... 43
144. Vấn đề cầu nguyện .......................................................................................... 44
145. Tỷ kheo nắm giữ vàng bạc và vấn đề „Thập sự phi pháp‟ trong luật tạng...... 45
146. Không nên bàn luận về những chuyện không liên quan đến đời sống phạm
hạnh ......................................................................................................................... 45
147. Thế nào là con đường Trung đạo .................................................................... 45
148. Vấn đề tài sản và làm công đức....................................................................... 47
149. Tứ vô lượng tâm .............................................................................................. 47
150. Vô vi ................................................................................................................ 47
151. Mục đích của người phạm hạnh ...................................................................... 47
152. Giới hạnh ......................................................................................................... 47
153. Như lý tác ý ..................................................................................................... 48
154. Không phóng dật ............................................................................................. 48
155. Hiệu quả việc tu tập pháp môn chân chánh .................................................... 48
156. 4 thủ ................................................................................................................. 48
157. 7 tùy miên ........................................................................................................ 49
158. 5 dục công đức ................................................................................................ 49
159. 5 hạ phần kiết sử .............................................................................................. 49
160. 5 thượng phần kiết sử ...................................................................................... 49
161. 7 giác chi ......................................................................................................... 49
162. Tứ Niệm xứ ..................................................................................................... 49
163. 5 căn ................................................................................................................ 50
164. Pháp môn niệm hơi thở ................................................................................... 51
165. 4 như ý túc ....................................................................................................... 51
166. 4 chánh cần ...................................................................................................... 52
167. Nguyên nhân chánh pháp không tồn tại ở thế gian ......................................... 52
168. Ác ma yêu cầu Thế Tôn diệt độ ...................................................................... 52
169. Dự Lưu quả...................................................................................................... 52
170. Những nơi Thế Tôn du hành và thuyết pháp .................................................. 53
171. Phương pháp tu tập không đúng của ngoại đạo .............................................. 53
172. Anàthapindika ................................................................................................. 53
173. Con rùa mù chun vào khúc gỗ ở trên biển ...................................................... 53
174. Các đoạn kinh đức Phật dùng vị dụ, so sánh để mô tả về Tứ đế .................... 53
175. Lời Phật dạy ít như nắm lá trong bàn tay ........................................................ 53
Nội dung
3. Lời di giáo của Thế Tôn trước khi nhập niết bàn
Tương Ưng 5, trang 239~240 Này Ananda, Ta nay đã già, bậc trưởng thượng, bậc
trưởng lão, đã đạt đến đoạn cuối của đời, đã đến tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ
1
xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thừng chằng chịt. Cũng vậy, thân Như
Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ dây thừng chằng chịt. Này Ananda, chỉ
trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng
và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy, thân Như Lai được thoải mái. Vậy này
Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình,
chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp
làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Và này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo tự
mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một gì khác? Này Ananda, ở đây, Tỷ-kheo trú, quán thân trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; quán thọ trên các
thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời. Này Ananda, như vậy là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một điều gì khác,
dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương
tựa một điều gì khác.
5. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề chiến tranh
Tương Ưng 1, trang 188~192
6. Quan điểm của đức Phật đối vấn đề trọng nam khinh nữ
Tương Ưng 1, trang 194
2
8. Bạn lành
Tương Ưng 1, trang 197; Tương Ưng 5, trang 11 này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo
thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập và làm cho viên mãn Thánh đạo
Tám ngành? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tu tập chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly,
liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Tỷ-kheo tu tập chánh tư
duy... tu tập chánh ngữ... tu tập chánh nghiệp... tu tập chánh mạng... tu tập chánh tinh
tấn... tu tập chánh niệm... tu tập chánh định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này Ananda, là Tỷ-kheo thiện bạn
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn
Thánh đạo Tám ngành.); Tương Ưng 5, trang 51 (Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước
và điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông (arunuggam); cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, cái đi trước và điềm tướng báo trước sự sanh khởi của Thánh đạo Tám
ngành, chính là bạn hữu với thiện.
9. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề tài sản
Tương Ưng 1, trang 201~ 207
12. Vô thường
Tương Ưng 2, trang 428 (Này Ràhula, Ông nghĩ thế nào? Mắt là thường hay vô
thường? -Là vô thường, bạch Thế Tôn. Cái gì vô thường là khổ hay lạc? Là khổ, bạch
Thế Tôn. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu xem cái ấy:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này tự ngã của tôi"?
14. Bố thí
Tương Ưng 1, trang 219~222
3
15. Vấn đề danh lợi và sống chết
Tương Ưng 1, trang 223~228
16. Quan điểm của đức Phật về vấn đề xây dựng tự Viện
Tương Ưng 1, trang 404
Không thể có hội trường,
Nếu không có thiện nhân.
Không thể có thiện nhân,
Nếu không nói đúng pháp.
Những ai đã đoạn trừ,
Cả tham, sân và ái,
Nói lên lời đúng pháp,
Họ mới thật thiện nhân.
18. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề khổ hạnh
Tương Ưng 1, trang 229; Tương Ưng 4, trang 517~518 (Con có nghe rằng Sa-môn
Gotama chỉ trích tất cả khổ hạnh, bài bác, chống báng hoàn toàn mọi người sống khổ
hạnh, mọi lối sống khắc khổ. Những người nói như vậy, bạch Thế Tôn, không biết có
nói đúng với lời Thế Tôn, không xuyên tạc Thế Tôn với điều không thực, trả lời thuận
pháp, đúng pháp, và không một ai nói lời tương ứng đúng pháp có lý do để chỉ trích?
Này Thôn trưởng, những ai đã nói như sau: "Sa-môn Gotama chỉ trích tất cả khổ
hạnh, bài bác, chống báng hoàn toàn mọi lối sống khắc khổ"; họ nói không đúng lời
Ta nói, họ xuyên tạc Ta với điều không thật, với điều không chơn chánh. );531~534
21. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đề tín ngưỡng dân gian
Tương Ưng 1, trang 401~403 (tắm nước để được thanh tịnh Chánh pháp là ao
hồ, Giới là bến nước tắm, Không cấu uế, trong sạch, Ðược thiện nhơn tán thán, Là
chỗ bậc có trí, Thường tắm, trừ uế tạp, Khi tay chân trong sạch, Họ qua bờ bên kia.
6
29. Tán thán Xá Lợi Phất
Tương Ưng 1, trang 417 Tôn giả Vangìsa t án thán: Trí tuệ thâm, trí giải, Thiện xảo
đạo, phi đạo, Ngài Sàriputta, Là bậc Ðại trí tuệ. Chính Ngài đang thuyết pháp, Cho
các vị Tỷ-kheo. Ngài giảng cách tóm tắt, Ngài cũng thuyết rộng rãi. Như âm thanh vi
diệu, Của loại chim Sàli, Lời Ngài giảng tuôn trào, Tiếng Ngài nghe ngọt lịm. Với
giọng điệu ái luyến, Êm tai, và mỹ diệu, Chúng lắng tai nghe pháp, Tâm phấn khởi
hoan hỷ, Này các vị Tỷ-kheo.) 420 Thế Tôn tán thán Xá lợi Phất: Này Sàriputta, Ta
không có gì chỉ trích Ông về thân, hay về lời nói. Này Sàriputta, Ông là bậc Ðại trí.
Này Sàriputta, Ông là bậc Quảng trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tốc trí. Này Sàriputta,
Ông là bậc Tiệp trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Nhuệ trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Thể
nhập trí. Này Sàriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh
vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này Sàriputta, Ông chơn
chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận.
32. Tình cảm của Phật đối với tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên
Tương Ưng 5, trang 256~258 (Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Vajjii, tại
Ukkacelà, trên bờ sông Hằng, với đại chúng Tỷ-kheo, sau khi Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Moggalàna mệnh chung không bao lâu.
Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
Rồi Thế Tôn, sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo im lặng, liền nói với các Tỷ-kheo:
7
Này các Tỷ-kheo, chúng này của Ta được xem hình như trống không. Nay Sàriputta
và Moggalàna đã mệnh chung, này các Tỷ-kheo, chúng của Ta thành trống không.
Phương hướng nào Sàriputta và Moggalàna trú, phương hướng ấy không còn có ước
vọng gì (anapekkhà). Này các Tỷ-kheo, các bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong
thời quá khứ, các vị Thế Tôn ấy đã có một cặp đệ tử tối thắng như Ta có Sàriputta và
Moggalàna. Này các Tỷ-kheo, các bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nào trong đời vị
lai, những bậc Thế Tôn ấy sẽ có một cặp đệ tử tối thắng như Ta có Sàriputta và
Moggalàna. Thật là vi diệu thay về các đệ tử, này các Tỷ-kheo! Thật hy hữu thay về
các đệ tử, này các Tỷ-kheo! Họ thực hành những lời dạy của đức Bổn sư. Họ làm
trách nhiệm giáo giới. Họ được bốn chúng ái kính, khả ý, khả kính, quý mến. Thật vi
diệu thay, này các Tỷ-kheo, về Như Lai! Thật hy hữu thay, này các Tỷ-kheo, về Như
Lai! Trong khi cặp đệ tử như vậy mệnh chung, Như Lai không có sầu buồn, hay
không có than khóc. Làm sao, này Ananda, lời ước nguyền này có thể thành tựu được:
"Mong sao cái gì được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có
thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như vậy không xảy ra. Ví như, này các Tỷ-kheo, từ
một cây lớn mọc thẳng, có lõi cây, những cành cây lớn hơn bị gãy đỗ. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, từ nơi đại chúng Tỷ-kheo đứng thẳng, có lõi cây, Sàriputta và
Moggalàna bị mệnh chung. Làm sao, này các Tỷ-kheo, ở đây, lời ước nguyền này có
thể thành tựu được: "Mong sao cái gì được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp
bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như vậy không thể xảy ra.
33. Đức Phật khuyên Ananda về sự kiện ngài Xá lợi Phất nhập
diệt
Tương Ưng 5, trang 253~254 Này Ananda, Sàriputta có đem theo giới uẩn khi mệnh
chung? Có đem theo định uẩn khi mệnh chung? Có đem theo tuệ uẩn khi mệnh
chung? Có đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung? Có đem theo giải thoát tri kiến
khi mệnh chung không? Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta không đem theo giới uẩn
khi mệnh chung, không đem theo định uẩn khi mệnh chung, không đem theo tuệ uẩn
khi mệnh chung, không đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải
thoát tri kiến khi mệnh chung. Nhưng bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta là vị giáo giới
cho con, là vị đã vượt qua (bộc lưu), là bậc giáo thọ, là vị khai thị, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ, là vị thuyết pháp không biết mệt mỏi, là vị hộ trì cho các
đồng Phạm hạnh. Chúng con đều ức niệm rằng Tôn giả Sàriputta là tinh ba của pháp
(dhammojam), là tài sản của pháp (dhammabhogam), là hộ trì của pháp..
Này Ananda, có phải trước đây Ta đã từng tuyên bố với Ông rằng mọi pháp khả ái,
khả ý đều có tánh chất khác biệt, có tánh chất ly tán, có tánh chất đổi khác? Làm sao,
này Ananda, ở đây, lời ước nguyền này có thể thành tựu được: "Mong rằng cái gì
được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt
hoại!"? Sự kiện như vậy không xảy ra. Do vậy, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác.
Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nượng tựa
một điều gì khác.
8
34. Vấn đề tụng đọc
Tương Ưng 1, trang 445 (Một thời, một Tỷ-kheo sống giữa dân chúng Kosala, tại một
khu rừng.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy trước kia siêng năng tụng kinh rất nhiều, sau một thời gian,
trở thành thụ động, im lặng, an phận.
Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy không được nghe pháp từ Tỷ-kheo ấy, liền đi đến
vị ấy.
Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo ấy:
Này Tỷ-kheo, sao Ông
Sống chung các Tỷ-kheo,
Lại không chịu tụng đọc,
Các kinh điển pháp cú?
Ai nghe thuyết Chánh pháp,
Tâm sanh được tịnh tín.
Và ngay đời hiện tại,
Ðược mọi người tán than
9
Rồi nữ Bà-la-môn Dhananjàni, trong khi bưng cơm cho Bà-la-môn thuộc dòng họ
Bhàradvàja, hứng khởi thốt lên ba lần lời cảm hứng: "Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Chánh Giác ấy!"
Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja nói với nữ Bà-la-môn
Dhananjàni:
Như vậy, trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán vị Sa-môn trọc đầu
ấy. Này kẻ Hạ tiện kia, ta sẽ luận phá bậc Ðạo Sư của Ngươi….
…(352~354) Bà-la-môn Akkosaka Bhàradvàja được nghe Bà-la-môn thuộc dòng họ
Bhàradvàja đã xuất gia với Thế Tôn, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ông phẫn nộ, không hoan hỷ, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói những lời nói không
tốt đẹp, ác ngữ, phỉ báng và nhiếc mắng Thế Tôn…
Nhưng này Bà-la-môn, nếu họ không thâu nhận, thời các món ăn ấy về ai?
Thưa Tôn giả Gotama, nếu họ không thâu nhận, thời các món ăn ấy về lại chúng tôi.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, nếu Ông phỉ báng chúng tôi là người không phỉ báng;
nhiếc mắng chúng tôi là người không nhiếc mắng; gây lộn với chúng tôi là người
không gây lộn; chúng tôi không thâu nhận sự việc ấy từ Ông, thời này Bà-la-môn, sự
việc ấy về lại Ông. Này Bà-la-môn, sự việc ấy chỉ về lại Ông. Này Bà-la-môn, ai phỉ
báng lại khi bị phỉ báng, nhiếc mắng lại khi bị nhiếc mắng, gây lộn lại khi bị gây lộn,
thời như vậy, này Bà-la-môn, người ấy được xem là đã hưởng thọ, đã san sẻ với Ông.
Còn chúng tôi không cùng hưởng thọ sự việc ấy với Ông, không cùng san sẻ sự việc
ấy với Ông, thời này Bà-la-môn, sự việc ấy về lại Ông! Này Bà-la-môn, sự việc ấy về
lại Ông!
37. Quan điểm của đức Phật đối với vấn đế tế lễ của Bà la môn
Tương Ưng 1, trang 175~177
Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala tổ chức một đại tế đàn. Năm trăm con bò đực,
năm trăm con bò con đực, năm trăm con bò con cái, năm trăm con dê, và năm trăm
con cừu (urabbha) được dắt đến trụ tế lễ để làm lễ tế đàn.
Và có những người nô tỳ, hay những người phục dịch, hay những người lao động, bị
hình phạt thúc đẩy, bị sợ hãi thúc đẩy,với nước mắt đầy mặt, than khóc và làm các
công việc chuẩn bị (cho lễ tế đàn).
Rồi rất nhiều Tỷ-kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực;
khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
Ở đây, bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala tổ chức một đại lễ tế đàn. Năm trăm
con bò đực, năm trăm con bò con đực, năm trăm con bò con cái, năm trăm con dê,
năm trăm con cừu được dắt đến trụ tế lễ để làm lễ tế đàn. Và có những người nô tỳ,
hay những người phục dịch, hay những người lao công, bị hình phạt thúc đẩy, bị sợ
hãi thúc đẩy, với nước mắt đầy mặt và than khóc, làm các công việc chuẩn bị cho lễ tế
đàn.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ:
Lễ cúng ngựa, cúng người,
Quăng cọc, rượu chiến thắng,
Không chốt cửa, đại lễ,
10
Chúng không phải quả lớn.
Chỗ nào có giết hại,
Dê, cừu và trâu bò,
Lễ tế đàn như vậy,
Bậc Đại Thánh không đi.
Tế đàn không rộn ràng,
Cúng dường được thường hằng,
Không có sự giết hại,
Dê, cừu và trâu bò,
Lễ tế đàn như vậy,
Bậc Đại Thánh sẽ đi.
Bậc trí tế như vậy,
Tế đàn vậy, quả lớn.
Ai tế lễ như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu,
Là tế đàn vĩ đại,
Được chư Thiên hoan hỷ
38. Sự thanh tịnh hay không thanh tịnh không tùy thuộc việc
niệm chú hay giai cấp
Tương Ưng 1, trang 362~363
Dầu lẩm bẩm nhiều chú,
Nhưng không vì thọ sanh,
Ðược gọi Bà-la-môn,
Nội ô nhiễm bất tịnh,
Y cứ trên lừa đảo,
Bà-la-môn, Phệ-xá,
Thủ-đà, Chiên-đà-la,
Kẻ đổ phẩn, đổ rác,
Tinh cần và tinh tấn,
Thường dõng mãnh tấn tu,
Ðạt được tịnh tối thắng,
Bà-la-môn nên biết!
39. Đức Phật bài bác việc tụng chú của Bà la môn
Tương Ưng 1, trang 362~368
…Ta không có hưởng thọ,
Vì tụng hát kệ chú,
Thường pháp không phải vậy,
Ðối vị có tri kiến.
Chư Phật đã loại bỏ,
Tụng hát các kệ chú,
11
Chân thật niệm Chánh pháp,
Sở hành là như vậy.
40. Ngoại đạo luôn luôn tìm cách phá hoại đạo Phật
Tương Ưng 4, trang 505~509 (Gia Tộc (S.iv,322)
1) Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân tộc Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi
đến Nàlandà. Tại đây, Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvarikamba.
2) Lúc bấy giờ, Nàlandà đang bị đói kém, khó để lo miệng sống (dviihitikà), xương
trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ (sàlàkàvuttà).
3) Lúc bấy giờ Nigantha Nàtaputta sống ở Nàlandà với đại chúng Nigantha.
4) Rồi Thôn trưởng Asibandhakaputta, đệ tử của Nigantha Nàtaputta, đi đến Nigantha
Nàtaputta; sau khi đến đảnh lễ Nigantha Nàtaputta rồi ngồi xuống một bên.
5) Nigantha Nàtaputtta nói với thôn trưởng Asibandhakaputta đang ngồi một bên:
-- Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến cật vấn Sa-môn Gotama. Như vậy, tiếng đồn tốt
đẹp sẽ được lan khắp về Ông: "Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có uy lực
như vậy, đã bị thôn trưởng Asibandhakaputta cật vấn!"
-- Thưa Tôn giả, làm thế nào con có thể cật vấn Sa-môn Gotama, một vị có đại thần
lực như vậy, có đại uy lực như vậy?
6) -- Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến Sa-môn Gotama; sau khi đến nói với Sa-môn
Gotama như sau:
"-- Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các
gia đình, tán thán bảo vệ các gia đình, tán thán từ mẫn với các gia đình"?
Này Thôn trưởng, được hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama, trả lời như sau:
"-- Ðúng như vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán,
thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn".
Thời ông hỏi Sa-môn Gotama:
"-- Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại
Nàlandà đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ?
Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành sự bất hạnh cho các gia
đình, thực hành sự tổn hại cho các gia đình".
Như vậy, này Thôn trưởng, bị ông hỏi với câu hỏi có hai đầu nhọn, Sa-môn Gotama
không có thể nhổ ra, cũng như không có thể nuốt xuống.
7) -- Thưa vâng, Tôn giả.
Thôn trưởng Asibandhakaputta vâng đáp Nigantha Nàtaputta, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Nigantha Nàtaputta, thân phía hữu hướng về người rồi đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, thôn trưởng đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
8) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn:
-- Có phải, bạch Thế Tôn, Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các
gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn?
-- Ðúng vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính
các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn.
-- Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại
Nàlandà đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ?
Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia
đình, thực hành tổn hại cho các gia đình.
12
9) -- Này Thôn trưởng, Ta nhớ từ chín mươi mốt kiếp về trước, Ta không hề biết đã
có làm hại một gia đình cho đến một bữa cơm nấu cúng dường. Các gia đình ấy đều
rất giàu, tiền của nhiều, tài sản nhiều, vàng bạc nhiều, vật dụng nhiều, ngũ cốc nhiều.
Tất cả tài sản ấy được thâu hoạch do bố thí, được thâu hoạch một cách chân thật, được
thâu hoạch một cách tự chế.
10) Này Thôn trưởng, có tám nhân, có tám duyên làm tổn hại các gia đình. Do quốc
vương, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do trộm cướp, các gia đình đi đến tổn hại.
Hay do lửa, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do nước, các gia đình đi đến tổn hại. Hay
họ tìm không được tiền của dấu cất. Hay do biếng nhác, họ bỏ bê công việc. Hay
trong gia đình khởi lên kẻ phá hoại gia đình, người ấy phân tán, phá hoại, làm tổn hại
(vikirati vidhamati viddhamseti). Và vô thường là thứ tám. Này Thôn trưởng, chính
tám nhân, tám duyên này làm tổn hại các gia đình.
11) Này Thôn trưởng, vì rằng tám nhân này, tám duyên này có mặt, có hiện hữu, nếu
ai nói về Ta như sau: "Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh
cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình; thời này Thôn trưởng, nếu người
ấy không bỏ lời nói ấy, không bỏ tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, chắc chắn
(yathàhatam) người ấy sẽ bị ném vào địa ngục như vậy.
42. Sự khác nhau giữa công việc của người tại gia và xuất gia
Tương Ưng 1, trang 378 (Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo mạ; sau khi cày và gieo mạ,
tôi ăn. Này Sa-môn, Ông có cày và gieo mạ không; sau khi cày và gieo mạ, Ông ăn?
Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn …)
13
44. Sự khác biệt giữa những người xin ăn và hạnh khất thực
Tương Ưng 1, trang 400.
Bà-la-môn Bhikkhaka bạch Thế Tôn:
Thưa Tôn giả Gotama, con là người khất thực và Tôn giả cũng là người khất thực.
Vậy có sự sai khác gì giữa chúng ta?
4) (Thế Tôn):
Không phải ai xin ăn,
Cũng gọi là khất sĩ.
Nếu chấp trì độc pháp,
Không còn gọi Tỷ-kheo.
Ai sống ở đời này,
Từ bỏ các phước báo,
Ðoạn trừ mọi ác pháp,
Hành trì theo Phạm hạnh,
Sống đời sống chánh trí,
Vị ấy xứng "Tỷ-kheo
46. “Kinh Tương Ưng” phát triển thành “Kinh Tung Bộ”
Tương Ưng 4, trang 276 (Ví như, này Hiền giả, một người cần dùng lõi cây, tìm cầu
lõi cây, đi tìm lõi cây, cầm cây búa sắc bén đi vào trong rừng. Ở đấy, người này thấy
một thân cây chuối lớn, thẳng, mới lớn và cao. Người ấy chặt đứt rễ cây, chặt đứt
xong, người ấy chặt ngọn. Sau khi chặt ngọn, người ấy lột vỏ ngoài ra. Người ấy ở
đây không tìm được giác cây, còn nói gì lõi cây.
15
52. Giới luật
Tương Ưng 5, trang 292 (Ở đây, này các Tỷ-kheo, hãy sống hộ trì với sự hộ trì của
Giới bổn (Pàtimokkha), đầy đủ uy nghi chánh hạnh (àcàragocarasampanno), thấy sự
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và thực hành các học giới. Này Tỷ-
kheo, sau khi sống, hộ trì với sự hộ trì của Giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy
sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và thực hành các học giới rồi, này
Tỷ-kheo, y cứ trên giới, an trú trên giới, hãy tu tập bốn niệm xứ.
53. Liên quan đến vấn đề giới luật (Giới biệt trú)
Tương Ưng 2, trang 44 (Này Kassapa, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia,
muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống
bốn tháng biệt trú, nếu chúng Tăng đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành
vị Tỷ-kheo.
55. 5 giới
Tương Ưng 2, trang 126~127; Tương Ưng 5, trang 519~523 (Ở đây, này các Gia chủ,
vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét
khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, không muốn chết,
muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với ta. Nhưng
nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ,
như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy. Một pháp này không
khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người
khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp
ấy cho một người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh, khuyến khích người
khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh. Như vậy, về thân hành, vị ấy được
hoàn toàn thanh tịnh (kotiparisuddham).
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai lấy của không
cho của ta, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc
không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý
cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp
này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy
của không cho, nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho. Như vậy, về thân hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Nếu ai có tà hạnh với vợ
của ta, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta có tà hạnh
với vợ của người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ý, không
16
khả ái cho người khác. Và một pháp này không khả ý, không khả ái cho ta, thời sao ta
lại đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh
trong các dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục, nói lời tán thán
từ bỏ tà hạnh trong các dục. Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Nếu có ai làm tổn hại lợi
ích ta với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng
nếu ta cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy là một việc không
khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này... cho một người khác?" Do suy tư
như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói láo, khuyến khích người khác từ bỏ nói láo, nói lời
tán thán từ bỏ nói láo. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta
bằng lời nói hai lưỡi,như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng
nếu ta chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc không khả
ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp không khả ái... đem cột pháp ấy cho một
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người
khác từ bỏ nói lời hai lưỡi, nói lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi. Như vậy, về khẩu
hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta
bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta
cũng đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không
khả ý cho người ấy. Và một pháp không khả ái... đem cột pháp ấy cho một người
khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ thô ác ngữ, khuyến khích người khác
từ bỏ thô ác ngữ, nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được
hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta với
lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy
là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Và một pháp không khả ái,
không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và
một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho
một người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ lời nói phù phiếm, khuyến
khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán từ bỏ nói lời phù phiếm. Như vậy,
về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
57. Đạo Phật là Tôn giáo đề cao vai trò hiểu biết hay trí tuệ
Tương Ưng 2, trang 58 (Này các Tỷ-kheo, đối với người biết, này các Tỷ-kheo, đối
với người thấy, Ta nói các lậu hoặc được đoạn diệt, không phải đối với người không
biết, không phải đối với người không thấy.);
Tương Ưng 3, trang 272~273 (Do biết, do thấy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố sự đoạn
tận các lậu hoặc, không phải do không biết, do không thấy);
17
Tương Ưng 4, trang 34 (Này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu tri, không ly
tham, không từ bỏ tất cả, thời không có thể đoạn tận khổ đau.)
58. Nghiệp
Tương Ưng 2, trang 63~78(Này Hiền giả Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ
trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm. Này Hiền giả Sàriputta, có một số Sa-
môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm. Này Hiền giả
Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự
mình làm và do người khác làm. Này Hiền giả Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-
môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác
làm, khổ do tự nhiên sanh.) ; Tương Ưng 4, trang493~505; Tương Ưng 5, trang
525~259 (Đức Phật giải thích vấn đề sanh thú
59. Tứ thánh đế
Tương Ưng 2, trang 147~154; Tương Ưng 3, trang 282~283 (Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ
thuyết cho các Ông về Khổ, Khổ tập khởi, Khổ đoạn diệt, Con đường đưa đến khổ
đoạn diệt. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Khổ? Phải trả lời là năm thủ
uẩn. Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn... thức thủ uẩn. Ðây gọi là Khổ, này các Tỷ-
kheo. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Khổ tập khởi? Chính là khát ái này, đưa đến tái
sanh... phi hữu ái. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Khổ tập khởi. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Khổ đoạn diệt? Chính là sự ly tham, đoạn diệt không dư tàn khát ái ấy, sự xả ly,
sự từ bỏ, sự giải thoát, sự thoát ly chấp trước. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Khổ đoạn
diệt. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Con đường đưa đến khổ đoạn diệt? Chính là con
đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là Con đường đưa đến khổ đoạn diệt.);
Tương Ưng 5 trang 601~663 ; 601
18
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
đoạn trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh
mạng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích
khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý
muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện
pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với
mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, khởi lên ý
muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã
được sanh có thể duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu
tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm. Này các Tỷ-
kheo, đây gọi là chánh tinh tấn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu
ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục
đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục,
ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh
niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và
trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh định.
Tương Ưng 5, trang 78 (Ví như, này các Tỷ-kheo, vào cuối tháng mùa hạ, bụi mù bay
lên, rồi có đám mây lớn trái mùa thình lình làm chúng tiêu tan và tịnh chỉ. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo
Tám ngành, đối với các ác, bất thiện pháp tiếp tục sanh thình lình làm chúng tiêu tan
và tịnh chỉ.
61. Kiết sử
Tương Ưng 2, trang 157~158 (Này các Tỷ-kheo, ví như duyên dầu và duyên tim,
ngọn đèn dầu được cháy đỏ. Tại đấy có người thỉnh thoảng rót thêm dầu và khơi tim
lên. Này các Tỷ-kheo, ngọn đèn dầu ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế như
vậy, có thể cháy đỏ trong một thời gian dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy
vị ngọt trong các pháp kiết sử, ái được tăng trưởng. Do duyên ái, thủ sanh khởi... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi….
62. 5 uẩn
Tương Ưng 2, trang 170~175; Tương Ưng 3, trang 46~69 (Này các Tỷ-kheo, cái gì
không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các
19
Ông…. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ
nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Thọ không phải của các Ông... Tưởng
không phải của các Ông. Các hành không phải của các Ông... Thức không phải của
các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.)
Tương Ưng 3, trang 111~121;161~163 (Giải thích về 5 uẩn); 125~128 (Sắc, này các
Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh
hoạn…vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn…); 155 (Này các Tỷ-kheo, sắc
là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải
như thật thấy với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"…); 244~246 (Biết như thế nào, bạch Thế Tôn,
thấy như thế nào đối với thân có thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có
(tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên?
20
66. Ngoại đạo trà trộn trong tăng đoàn vì lợi dưỡng
Tương Ưng 2, trang 212 (Thưa Hiền giả Susìma, ngài hãy đi đến và sống Phạm hạnh
dưới sự chỉ dẫn của Sa-môn Gotama. Sau khi ngài học Chánh pháp xong hãy nói lại
cho chúng tôi. Sau khi chúng tôi học pháp ấy chúng tôi sẽ nói lại với các gia chủ. Như
vậy chúng tôi sẽ được cung kính, được tôn trọng, được kính lễ, được cúng dường,
được tôn sùng và chúng tôi sẽ nhận được các vật dụng cúng dường như y áo, ẩm thực,
sàng tọa và dược phẩm trị bệnh.
21
cầu sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, do tầm cầu dục tầm cầu, kẻ vô văn phàm phu thực
hành tà hạnh theo ba xứ: thân, ngữ, ý.
23
thách đố. Hãy đi giải tỏa quan điểm của Ông. Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ông có thể
làm được". Vì sao?
Những câu chuyện ấy, này các Tỷ-kheo, không liên hệ đến mục đích, không phải căn
bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn.
24
83. Sự nhập diệt của Thế Tôn có làm cho tâm của Xá lợi Phất đau
khổ không?
Tương Ưng 2, trang 479~480 (Tôn giả Sàriputta nói: Ở đây, này các Hiền giả, trong
khi tôi độc trú tĩnh cư, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên: "Có cái gì trong đời,
khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não?".
Rồi này các Hiền giả, tôi suy nghĩ: "Không có cái gì trong đời, khi bị biến hoại, trạng
huống đổi khác, có thể khởi lên nơi ta, sầu bi khổ ưu não". 4) Khi được nói vậy, Tôn
giả Ananda nói với Tôn giả Sàriputta: Bậc Ðạo Sư, này Hiền giả Sàriputta, khi bị biến
hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi Hiền giả sầu, bi, khổ, ưu, não. Bậc
Ðạo Sư, này Hiền giả Ananda, khi bị biến hoại, trạng thái đổi khác, không có thể khởi
lên nơi ta sầu bi khổ ưu não. Nhưng ta có thể suy nghĩ: "Mong rằng bậc Ðại Thế Lực,
bậc Ðạo Sư có đại thần thông, có đại uy lực chớ có biến diệt! Nếu bậc Thế Tôn ấy an
trú lâu dài, thời như vậy thật là hạnh phúc cho quần sanh, thật là an lạc cho quần sanh,
vì lòng từ mẫn cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài
Người".
86. Tinh thần tùy duyên bất biến trong đạo Phật
Tương Ưng 3, trang 18 (Chúng tôi muốn, thưa Hiền giả Sàriputta, đi đến quốc độ
phương Tây. Chúng tôi muốn trú ở quốc độ phương Tây. Bậc Ðạo Sư đã cho phép
chúng tôi. Này các Hiền giả, có những người đặt câu hỏi với vị Tỷ-kheo thường đi các
quốc độ khác nhau: Các Sát-đế-lị hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền trí,
các Sa-môn hiền trí. Này chư Hiền giả, các bậc hiền trí với óc ưa quán sát (sẽ hỏi):
25
"Bậc Ðạo Sư của Tôn giả nói gì, tuyên bố gì? Pháp có được chư Tôn giả khéo nghe,
khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thâm nhập với trí tuệ không?" Ðể khi trả
lời, các Tôn giả có thể lập lại các ý kiến của Thế Tôn, không có xuyên tạc Thế Tôn
với điều không thật, có thể trả lời tùy pháp, đúng với Chánh pháp, và không để một vị
đồng pháp nào, nói lời đúng pháp, có thể có lý do để quở trách.
94. Thuyết phủ nhận giá trị nhân quả nghiệp báo
Tương Ưng 3, trang 358, Tương đương Tạp A hàm, Đại tạng 2, 44b (Do có cái gì, này
các Tỷ-kheo, do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên: "Tự làm
hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người
đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây áo não hay khiến
người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của
không cho, phá cửa nhà mà vào cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp
giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác gì. Nếu lấy một
bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một
chồng thịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ
phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu,
khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía
Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy
mà có phước báo. Bố thí, điều phục, cấm giới, tự chế, tôn trọng sự thật, không có
phước đức, không đưa đến phước đức"?) Tương Ưng 4, trang 552
28
Không có lời nguyền: "Với giới hạnh này, với kỷ luật này, với khổ hạnh này hay với
Phạm hạnh này, tôi sẽ làm cho chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc
trừ diệt những nghiệp đã thuần thục bởi những nhẫn thọ liên tục, không thể đo lường
khổ và lạc với những vật đo lường, trong khi luân hồi không có giảm tăng, không có
thặng dư, thiếu thốn.
Ví như một cuộn chỉ được tung ra sẽ được kéo dài đến một mức độ nào đó. Cũng như
vậy, kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ đoạn tận khổ đau".
29
người ấy không như thật biết rõ: "Các hành là vô thường"; "Thức là vô thường",
người ấy không như thật biết rõ: "Thức là vô thường".
"Sắc là khổ", người ấy không như thật biết rõ: "Sắc là khổ"; "Thọ là khổ"... "Tưởng là
khổ"... "Các hành là khổ"... "Thức là khổ", người ấy không như thật biết rõ: "Thức là
khổ".
"Sắc là vô ngã", người ấy không như thật biết rõ: "Sắc là vô ngã"; "Thọ là vô ngã"...
"Tưởng là vô ngã"... "Các hành là vô ngã"... "Thức là vô ngã", người ấy không như
thật biết rõ: "Thức là vô ngã".
"Sắc là hữu vi", người ấy không như thật biết rõ: "Sắc là hữu vi"; "Thọ là hữu vi"...
"Tưởng là hữu vi"... "Các hành là hữu vi"; "Thức là hữu vi", người ấy không như thật
biết rõ: "Thức là hữu vi".
103. Đức Phật xác định thân của ngài vẫn bị hôi thối
Tương Ưng 3, trang 219. Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân
hôi hám này.
30
104. Giáo Pháp của Phật không phải để tranh luận
Tương Ưng 3, trang 249 (Này các Tỷ-kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời
tranh luận với Ta. Này các Tỷ-kheo, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một
ai ở đời.
32
nặng xuống, đã đạt được mục đích, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh
trí.
116. Tứ Thiền
Tương Ưng 3, trang 382~384 (Ở đây, này Hiền giả, ly dục, ly pháp bất thiện, tôi
chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ nhất", hay
"Tôi đã chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ nhất".
Ở đây, này Hiền giả, làm cho lắng dịu tầm và tứ, tôi đã chứng đạt và an trú Thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Tôi
không có khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã chứng
nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ hai".
Ở đây, này Hiền giả, ly hỷ và trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là: "Xả niệm lạc trú", tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Này Hiền
giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ ba", hay "Tôi đã
chứng nhập Thiền thứ ba", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ ba".
Ở đây, này Hiền giả, xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, tôi chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền giả, tôi
không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ tư", hay "Tôi đã chứng nhập
Thiền thứ tư", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ tư".); Tương Ưng 4, trang 350; 355;
420~424
117. 8 định
Tương Ưng 4, trang 424~429
33
118. Diệt thọ tưởng định
Tương Ưng 4, trang 355; 367 (Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo vượt qua Phi tưởng phi
phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Diệt thọ tưởng định. Lạc này là lạc
khác với lạc kia, này Ananda, còn vi diệu hơn, còn tế nhị hơn. Sự kiện này xảy ra, này
Ananda. Có các du sĩ ngoại đạo có thể hỏi như sau: "Sa-môn Gotama nói đến Diệt thọ
tưởng định, và tuyên bố là Diệt thọ tưởng định ấy thuộc về lạc. Ý nghĩa này là gì và
như thế nào?". Ðược nói vậy, này Ananda, các du sĩ ngoại đạo cần được trả lời như
sau: "Này chư Hiền, Thế Tôn không tuyên bố thuộc về lạc, dựa vào lạc thọ. Nhưng
chỗ nào, này chư Hiền, lạc được cảm thọ, chỗ ấy, Thế Tôn tuyên bố cảm thọ thuộc
vào lạc thọ".) ;
Tương Ưng 4, trang 461~463 (Bạch Thượng tọa, người đã chết, đã mệnh chung, và
Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định, giữa những người này có những sai khác gì?
Ðối với người đã chết, đã mệnh chung, này Gia chủ, thân hành người ấy được đoạn
diệt, được khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, được khinh an; ý hành được đoạn diệt,
được khinh an, thọ mạng được đoạn tận; sức nóng được tịnh chỉ; các căn bị hủy hoại.
Còn Tỷ-kheo đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, thân hành được đoạn
diệt, khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, khinh an; ý hành được đoạn diệt, khinh an;
thọ mạng không bị đoạn tận; sức nóng không bị tịnh chỉ; các căn được trong sáng.
Này Gia chủ, người đã chết, đã mệnh chung và Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng
định, giữa những người này có những sai khác như vậy.
120. Nguyên thủy Phật giáo khái niệm Bồ Tát chỉ lúc Phật chưa
giác ngộ
Tương Ưng 4, trang 19, 21 (Thuở trước, này các Tỷ-kheo, khi Ta chưa giác ngộ, chưa
chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát.
34
121. 12 xứ là chỉ cho tất cả pháp
Tương Ưng 4, trang 31 (Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và
các tiếng ; mũi và các hương; lưỡi và các vị ; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả.
36
126. Sự chăm lo chúng tăng của ngài Xá lợi Phất
Tương Ưng 4, trang 102 (Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa,
hãy chịu đựng! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa chịu đựng. Nếu Tôn giả Channa
không có các món ăn, không có các dược phẩm thích hợp, thời tôi sẽ tìm các dược
phẩm thích hợp cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có người hầu hạ
thích ứng, thời tôi sẽ hầu hạ Tôn giả Channa. Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao.
Tôn giả Channa hãy chịu đựng. Chúng tôi muốn Tôn giả Channa chịu đựng.
127. Liên quan đến Phẩm Thường Bất Khinh trong “Kinh Pháp
hoa”
Tương Ưng 4, trang 108~109
128. Đức Phật không chủ trương tìm hiểu những vấn đề không
liên hệ đời sống phạm hạnh
Tương Ưng 4, trang 164 (Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới
không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới.
Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được
bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới.
129. Phạm vi khái niệm hiểu biết hay trí tuệ trong Phật giáo
nguyên thủy
Tương Ưng 5, trang 322~323 (Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-
kheo, không như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly khỏi sáu căn này; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo,
không được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay không được chấp nhận
là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn giả ấy, này các Tỷ-kheo,
ngay trong hiện tại, không tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục
đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, như thật rõ biết sự tập
khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi sáu căn này; những vị Sa-
môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng
Sa-môn, hay được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những bậc
Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú
mục đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
Tương Ưng 4, trang 213~215 (Này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố rằng đối với tất
cả Tỷ-kheo cần phải cố gắng không phóng dật đối với sáu xúc xứ. Nhưng này các Tỷ-
kheo, Ta cũng không tuyên bố rằng đối với tất cả Tỷ-kheo không cần phải cố gắng
không phóng dật đối với sáu xúc xứ. Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào là bậc A-
la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, đã được
giải thoát nhờ chánh trí; thời này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo ấy, Ta tuyên bố
rằng không cần phải cố gắng không phóng dật đối với sáu xúc xứ. Vì sao? Vì các vị
ấy đã hành trì không phóng dật, đến nỗi họ không thể trở thành phóng dật.
Này các Tỷ-kheo, còn những Tỷ-kheo nào còn là hữu học, sở nguyện chưa thành đạt,
đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các khổ ách; thời này các Tỷ-kheo, đối với
các Tỷ-kheo ấy, Ta tuyên bố rằng họ cần phải cố gắng không phóng dật đối với sáu
xúc xứ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức khả ái và không
khả ái. Dầu chúng xúc chạm tâm nhiều lần, chúng không chi phối được tâm và tồn tại.
38
Do tâm không bị chi phối, tinh cần, tinh tấn khởi lên, không có biếng nhác; niệm được
an trú, không có thất thoát; thân được khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được định
tĩnh, nhứt tâm. Này các Tỷ-kheo, thấy được quả không phóng dật này, đối với những
Tỷ-kheo ấy. Ta tuyên bố rằng, cần phải cố gắng không phóng dật đối với sáu xúc xứ.
39
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi
mắt thấy sắc, Tỷ-kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì khiến nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các
ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự những nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn
căn, thực hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị...
thân cảm xúc.... ý nhận thức các pháp..
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống? Ở đây, này các Tỷ-
kheo, Tỷ-kheo chân chánh giác sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa, không
phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để
thân này được an trú, được bảo dưỡng, khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh; vị ấy
nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi lên các cảm thọ mới,
và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an lạc".
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chú tâm tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-
kheo, Tỷ-kheo ban ngày trong khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng
ngại pháp. Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng
ngại pháp. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên phải, trong dáng nằm con sư
tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý đến lúc thức dậy. Ban đêm trong
canh cuối cùng, vị ấy thức dậy và trong khi đi kinh hành và ngồi, tâm trừ sạch các
chướng ngại pháp.
41
vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng,
mong rằng tôi được sống trong một gia đình không có người vợ địch thủ!" Này các
Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ ba thật khó cho người đàn bà không làm các công đức có
thể thực hiện được. "Sau khi được sanh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi
đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được sống trong một gia đình không có
người vợ địch thủ, mong rằng tôi sẽ sanh được người con trai!" Này các Tỷ-kheo, đây
là sự kiện thứ tư thật khó cho người đàn bà không làm các công đức có thể thực hiện
được. "Sau khi được sanh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ)
một gia đình thích đáng, sau khi được ở trong một gia đình không có người vợ địch
thủ, sau khi sanh được người con trai, mong rằng tôi chinh phục được chồng tôi!" Này
các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ năm thật khó cho người đàn bà không làm các công
đức có thể thực hiện được.
42
140. Định nghĩa về Niết bàn
Tương Ưng 4, trang 403~405 ("Niết-bàn, Niết-bàn", này Hiền giả Sàriputta, như vậy
được nói đến. Này Hiền giả, thế nào là Niết-bàn? Này Hiền giả, đoạn tận tham, đoạn
tận sân, đoạn tận si, đây gọi là Niết-bàn.
44
145. Tỷ kheo nắm giữ vàng bạc và vấn đề ‘Thập sự phi pháp’
trong luật tạng
Tương Ưng 4, trang 510 (Lúc bấy giờ trong cung vua, quần thần nhà vua đang ngồi tụ
họp, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Các Sa-môn thuộc dòng Thích tử được phép
dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử được
nhận lấy vàng bạc".
146. Không nên bàn luận về những chuyện không liên quan đến
đời sống phạm hạnh
Tương Ưng 5, trang 609 (Này các Tỷ-kheo, chớ có nói những câu chuyện của loài súc
sanh, như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần,
câu chuyện về binh lính, câu chuyện về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu
chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về vải mặc, câu chuyện về
giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà
con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện
về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông,
câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước,
câu chuyện người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện biến trạng của thế
giới, câu chuyện về biến trạng của đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không
hiện hữu. Vì sao?
Những câu chuyện này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến mục đích, không phải căn
bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn.
46
Và này các Tỷ-kheo, điều gì mà Ta nói? "Ðây là Khổ", này các Tỷ-kheo, là điều Ta
nói. "Ðây là Khổ tập", là điều Ta nói. "Ðây là Khổ diệt", là điều Ta nói. "Ðây là Con
Ðường đưa đến Khổ diệt", là điều Ta nói.
Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỷ-
kheo, những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho Phạm hạnh, đưa đến yếm ly,
ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta nói lên những
điều ấy.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ"... một cố
gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
150. Vô vi
Tương Ưng 4, trang 559~563 (559: Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vô vi? Này các
Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là vô vi.
156. 4 thủ
Tương Ưng 5, trang 94 (Này các Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế nào là bốn? Dục thủ,
kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.)
48
157. 7 tùy miên
Tương Ưng 5, trang 95 (Này các Tỷ-kheo, có bảy tùy miên này. Thế nào là bảy? Dục
tham tùy miên (kàmaràgànusaya), hận tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn
tùy miên, hữu tham tùy miên (bhavaràgànusaya), vô minh tùy miên.
162. Tứ Niệm xứ
Tương Ưng 5, trang 219~
Tương Ưng 5, trang 219~220 (Có con đường độc nhất này, này các Tỷ-kheo, khiến
cho các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt qua được sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng
đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn? Ở đây, này
49
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm... trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác... trú, quán pháp trên các pháp,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Có con đường độc nhất
này, này các Tỷ-kheo, khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt qua được sầu
bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Con đường ấy tức là
bốn niệm xứ.
163. 5 căn
Tương Ưng 5, trang 301~318; 308~310 (Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có
lòng tin, đặt lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là tín căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống
tinh cần, tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, với nỗ
lực kiên trì, tinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp. Vị ấy đối với các
pháp bất thiện chưa sanh, phát khởi lòng ước muốn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố
gắng làm cho không sanh khởi; đối với các pháp bất thiện đã sanh, phát khởi lòng ước
muốn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng làm cho đoạn tận; đối với các thiện pháp
chưa sanh, phát khởi lòng ước muốn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng làm cho
sanh khởi; đối với các thiện pháp đã sanh, phát khởi lòng ước muốn, tinh cần, tinh tấn,
quyết tâm, cố gắng làm cho an trú, không có mê ám, được tăng trưởng, quảng đại,
được tu tập, được làm cho viên mãn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tấn căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
chánh niệm, thành tựu niệm tuệ, tối thắng, ức niệm, tùy niệm các việc làm từ lâu, và
lời nói từ lâu. Vị ấy trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm
trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử, sau
khi từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhứt tâm. Vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp,
chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có
tứ... an trú Thiền thứ hai... an trú Thiền thứ ba... từ bỏ lạc, từ bỏ khổ, chấm dứt hỷ ưu
đã cảm thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là định căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí
tuệ, đầy đủ trí tuệ về sự sanh diệt các pháp, trí tuệ thuộc bậc Thánh thể nhập (các
pháp), đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Vị ấy như thật rõ biết đây là khổ, như
thật rõ biết đây là khổ tập khởi, như thật rõ biết đây là khổ đoạn diệt, như thật rõ biết
đây là con đường đưa đến khổ đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ căn.
50
164. Pháp môn niệm hơi thở
Tương ưng 5, trang 463~499; 463 (Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được
làm cho sung mãn thời có quả lớn, có lợi ích lớn. Thế nào là một pháp? Niệm hơi thở
vô, hơi thở ra. Và này các Tỷ-kheo, niệm hơi thở vô, hơi thở ra, tu tập như thế nào,
làm cho sung mãn như thế nào thời có quả lớn, có lợi ích lớn?
Thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài".
Thở vô ngắn, vị ấy rõ biết : "Tôi thở vô ngắn". Thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra
ngắn".
"Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập.
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập.
"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán
đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ
bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi
thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn.
51
166. 4 chánh cần
Tương Ưng 5, trang 377~378 (Này các Tỷ-kheo, có bốn chánh cần này. Thế nào là
bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi
lên ý muốn không cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.
Ðối với các ác, bất thiệp pháp đã sanh, khởi lên ý muốn đoạn tận, tinh cần, tinh tấn,
quyết tâm, cố gắng.
Ðối với các ác, thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi, tinh cần,
tinnh tấn, quyết tâm, cố gắng.
Ðối với các thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn làm cho an trú, không cho vong thất
(asammosàya), làm cho tăng trưởng, làm cho quảng đại, tu tập, làm cho viên mãn,
tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.
167. Nguyên nhân chánh pháp không tồn tại ở thế gian
Tương Ưng 5, trang 270 (Tôn giả Bhadda nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên:
Do nhân gì, do duyên gì, này Hiền Giả Ananda, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu
pháp không có tồn tại lâu dài? Do nhân gì, do duyên gì, này Hiền giả, khi Như Lai
nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài?…Do bốn niệm xứ không được tu tập,
không được làm cho sung mãn, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp
không có tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa
Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài. Thế nào là bốn?
52
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật... đối
với Pháp... đối với chúng Tăng... đầy đủ các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa
đến Thiền định.
172. Anàthapindika
Tương Ưng 5, trang 556~567
53
Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các
Tỷ-kheo, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho Phạm
hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Do vậy, Ta không nói lên những điều ấy.
Và này các Tỷ-kheo, điều gì mà Ta nói? "Ðây là Khổ", này các Tỷ-kheo, là điều Ta
nói. "Ðây là Khổ tập", là điều Ta nói. "Ðây là Khổ diệt", là điều Ta nói. "Ðây là Con
Ðường đưa đến Khổ diệt", là điều Ta nói.
Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỷ-
kheo, những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho Phạm hạnh, đưa đến yếm ly,
ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta nói lên những
điều ấy.)
54