GT M L bản ngắn

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 114

Chương 1.

KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC

Mục đích: Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về triết học và
lịch sử triết học, trong đó triết học Mác – Lênin là một bộ phận cấu thành.
Yêu cầu: Sinh viên phải nắm được quan niệm về triết học trong lịch sử và
nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Về lịch sử triết học, sinh viên phải thấy được
bức tranh toàn cảnh của lịch sử ra đời, phát triển của triết học phương Đông và
phương Tây; nắm được những đặc điểm cơ bản của các trào lưu, trường phái triết
học cụ thể, xác định được những đặc trưng cốt lõi của tư tưởng triết học Việt
Nam.
Nội dung ôn tập cơ bản:
I. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học
1. Triết học

a. Khái niệm triết học

Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên
với những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp. Khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên đến thế kỷ
thứ VI trước Công nguyên, ở phương Tây là xã hội chiếm hữu nô lệ, còn ở
phương Đông đó là thời kỳ đang diễn ra sự chuyển tiếp từ xã hội chiếm hữu nô lệ
sang chế độ phong kiến.
Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ 哲(triết),
nghĩa là trí, bao gồm sự hiểu biết sâu rộng của con người và đạo lý làm người.
Theo người Ấn Độ, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ Darshana,
nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường
suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Theo người Hy Lạp, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ từ chữ φιλοσοφία
(philosophia), nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa

1
mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con
người.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Triết học là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí và vai trò của con người trong
thế giới đó.

Triết học khác với khoa học cụ thể ở chỗ: Nếu các khoa học cụ thể chỉ
nghiên cứu những mặt riêng lẻ của thế giới thì triết học xem xét thế giới như một
chỉnh thể và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó.

b. Nguồn gốc ra đời


Nguồn gốc nhận thức: Đến thời cổ đại, các tri thức của con người về thế giới
xung quanh đã tích luỹ được một khối lượng rất lớn, thể hiện ở kho tàng thần
thoại, nhu cầu khám phá bản chất của thế giới, hiểu biết thế giới cũng như vị trí
của con người trong thế giới…là những vấn đề luôn luôn được đặt ra. Để trả lời
những câu hỏi ấy triết học đã ra đời. Triết học ra đời khi tư duy của con người đạt
đến một trình độ nhất định có khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa khối tri thức
khổng lồ của nhân loại.
Nguồn gốc xã hội: Khi sản xuất đã phát triển, tạo ra sản phẩm dư thừa, xã hội
có sự phân hoá giai cấp, đồng thời kèm theo cuộc cách mạng trong phân công lao
động, lao động trí óc tách ra khỏi lao động chân tay, nhờ đó đã hình thành một lớp
người chuyên lao động trí óc, trong đó có các nhà triết học. Chính họ đã khái quát
những tri thức mà loài người đã tích luỹ được thành một hệ thống những quan
điểm, quan niệm có tính chất chỉnh thể về thế giới và mối quan hệ của con người
trong đó - tức là những tri thức triết học. Triết học ra đời khi xã hội công xã
nguyên thuỷ bị thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp
đầu tiên của nhân loại. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, triết học, tự nó đã mang trong
mình tính giai cấp, nghĩa là nó phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực
lượng xã hội nhất định.

c. Đối tượng nghiên cứu

2
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội ra đời từ thời cổ đại. Lúc
đầu vì tri thức của con người còn nghèo nàn, nên chưa có sự phân ngành khoa học,
chưa có sự phân biệt về đối tượng nghiên cứu giữa triết học với các khoa học cụ
thể. Sau này, khi trí tuệ của con người đã phong phú, triết học có đối tượng nghiên
cứu riêng và các môn khoa học cụ thể cũng có đối tượng nghiên cứu riêng.
Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác – Lênin là: Mối quan hệ vật chất và ý
thức; những quy luật chung nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy.

2. Vấn đề cơ bản của triết học

Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”1.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?.

Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan
không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không?.

Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và
điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu
chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và các học thuyết
của họ. Do đó, trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình
thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.

3. Các trường phái triết học cơ bản

Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học đã
chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm.

1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.403.
3
Chủ nghĩa duy vật cho rằng: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người.

Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Ý thức, tinh thần là cái có trước, cái quyết
định, còn vật chất là cái có sau, cái bị quyết định.

Các hình thức của chủ nghĩa duy vật: Là một trong hai trường phái cơ bản
của triết học, chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời Cổ đại. Từ đó cho đến
nay chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau: Chủ nghĩa duy vật
chất phác, ngây thơ thời Cổ đại, Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ
XVII – XVIII, Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy tâm bao gồm hai trào lưu chính đó là:
chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.

Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết là kết quả của cách giải quyết
mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, đó là việc trả lời câu hỏi: con người
có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Tuyệt đại đa số các nhà triết học
trong lịch sử (cả các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm) đều khẳng
định con người có thể nhận thức được thế giới. Có một số nhà triết học bác bỏ
khả năng nhận thức thế giới của con người. Học thuyết triết học phủ nhận khả
năng nhận thức của con người được gọi là thuyết không thể biết. Theo thuyết này,
con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có chăng chỉ là hiểu hình thức bề
ngoài.

Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận (duy vật và duy tâm), giải thích
thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học
theo nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để
giải thích thế giới, nhưng cuối cùng họ đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm vì họ thừa
nhận hai nguyên thể vật chất và tinh thần tuy tồn tại độc lập nhưng đều phục tùng
một nguyên thể thứ ba là Thần linh
II. Khái lược lịch sử triết học
1. Lịch sử triết học phương Đông
4
a. Triết học Ấn Độ cổ đại
b. Triết học Trung Hoa cổ đại
c. Triết học Việt Nam
2. Lịch sử triết học phương Tây
a. Triết học Hy Lạp cổ đại
b. Triết học Tây Âu thời trung cổ
c. Triết học Tây Âu thời phục hưng
d. Triết học Tây Âu thời cận đại
đ. Triết học cổ điển Đức
e. Triết học phương Tây hiện đại
3. Lịch sử triết học Mác – Lênin
a. Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác
b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác
c. Thực chất và ý nghĩa của bước ngoặt cách mạng trong triết học do Mác và
Ăngghen thực hiện.
d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác
e. Đặc điểm của triết học Mác – Lênin

Thứ nhất, triết học Mác đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học
từ quan điểm thực tiễn.

Thứ hai, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong
triết học Mác.

Thứ ba, triết học Mác là chủ nghĩa duy vật hoàn bị, sáng tạo ra chủ nghĩa
duy vật, triết học Mác đã trở thành chủ nghĩa duy vật triệt để - duy vật cả về tự
nhiên và xã hội.

Thứ tư, triết học Mác là thế giới quan của giai cấp vô sản cách mạng, tạo
nên sự thống nhất giữa tính cách mạng với tính khoa học, thống nhất giữa hệ tư
tưởng với lý luận khoa học.

Thứ năm, triết học Mác là một hệ thống khoa học mở.

5
Chương 2.
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Mục đích: Trang bị cho sinh viên nội dung cơ bản của triết học Mác – Lênin
phần chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó, sinh viên từng bước được tiếp nhận
hệ thống quan điểm về bản thể luận, nhận thức luận và phép biện chứng duy vật –
những nội dung cốt lõi của triết học Mác – Lênin; qua đó từng bước bình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng cho bản thân.
Yêu cầu: Sinh viên phải chịu khó đọc tài liệu, tích cực thảo luận, tập trung
tư duy học tập để nắm vững và chắc nội hàm của từng phạm trù, từng nguyên lý,
từng quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, thấy được logic nội tại và logic
nhận thức các phần kiến trức trong tổng thể.
Nội dung ôn tập cơ bản:
I. Vật chất và ý thức
1. Vật chất

a. Định nghĩa về vật chất

- Bối cảnh ra đời của định nghĩa:

Trong các học thuyết duy vật trước Mác, vật chất được coi là thực thể, cơ sở
đầu tiên bất biến của tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách
quan. Mặc dù còn hạn chế mang tính trực quan, cảm tính, siêu hình nhưng những
quan điểm trên của chủ nghĩa duy vật có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh
chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của tất cả
mọi tồn tại là tinh thần ý thức.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những giá trị tích cực, đồng thời vạch ra
những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học trước đó; tổng
kết các thành tựu khoa học hiện đại, khái quát, hình thành quan niệm khoa học về
phạm trù vật chất. Các ông đã nêu lên sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về tính
thống nhất vật chất của thế giới, tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại

6
của vật chất dưới dạng cụ thể. Tuy nhiên, khi đó Mác và Ăngghen chưa có điều
kiện đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất.

Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những thành tựu mới của khoa học tự
nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học. Đồng thời kế thừa những tư tưởng
và quan niệm của Mác và Ăngghen về phạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra một
định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”2.

– Nội dung của định nghĩa:

Thứ nhất, “Vật chất là một phạm trù triết học” – phạm trù khái quát nhất,
rộng nhất, được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, do đó,
cần phân biệt nó với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành – khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính.

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất là
“thực tại khách quan” (tồn tại khách quan) – tức là tồn tại ngoài ý thức, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người cho dù con người có nhận thức được
hay không nhận thức được nó. Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật
chất, cái gì không phải là vật chất.

Thứ ba, “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”. Điều đó có nghĩa “thực tại khách quan” (vật chất) dưới những
dạng tồn tại cụ thể của nó, là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; “cảm giác” (ý thức) của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản
ánh.

Nói cách khác, trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì vật chất là cái có
trước, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; và bằng những phương

2
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.322.
7
thức nhận thức khác nhau (chép lại, chục lại, phản ánh…) con người có thể nhận
thức được thế giới vật chất.

Tóm lại, nội dung định nghĩa của V.I. Lênin về phạm trù vật chất đã xuất
phát từ vấn đề cơ bản của triết học, đặt phạm trù vật chất trong mối quan hệ với
phạm trù ý thức và qua đó giải quyết được cả hai mặt trong nội dung vấn đề cơ
bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

– Ý nghĩa của định nghĩa:

Định nghĩa vật chất đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời khắc phục
được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất trước Mác,
quy vật chất vào các dạng cụ thể hoặc vào một thuộc tính cụ thể nào đấy của vật
chất.

Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại các quan điểm duy tâm (duy tâm
khách quan và duy tâm chủ quan) về vật chất; đồng thời nó tạo ra cơ sở lý luận để
khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật trước
Mác.

Định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với các khoa
học cụ thể trong việc đi sâu vào thế giới vật chất khách quan để phát hiện ra
những kết cấu mới, những thuộc tính mới của các vật thể trong thế giới.

b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

* Vận động – phương thức tồn tại của vật chất

– Định nghĩa: Vận động là mọi sự biến đổi nói chung.

Theo Ăngghen: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy”3.

– Tính chất:

Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó, có nghĩa là vật
3
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.519.
8
chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại
của mình. Không thể có vật chất không có vận động và ngược lại không thể có
vận động mà lại không phải là vận động của vật chất. “Các hình thức và các dạng
khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc tính
của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về một vật thể không vận động thì không có
gì mà nói cả”4.

Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Điều đó có nghĩa là: vật chất tồn
tại bằng vận động, nói đến vật chất là nói đến vận động, không ở đâu, không ở
nơi nào có vật chất mà lại không vận động. Vận động là thuộc tính vốn có của vật
chất.

Vận động của vật chất là sự tự thân vận động, được tạo nên từ sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm này đối
lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động – đi tìm nguồn gốc của vận
động ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.

Vật chất là vô hạn, vô tận, không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt,
cho nên, vận động với tính cách là phương thức tồn tại của vật chất cũng không
do ai sáng tạo ra và không thể tự mất đi.

– Các hình thức vận động của vật chất:

Theo Ăngghen, vận động bao gồm năm hình thức chính, đó là:

1) Vận động cơ học: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.

2) Vận động vật lý: Sự vận động của các nguyên tử, các hạt cơ bản, vận
động điện tử, các quá trình nhiệt, điện, ánh sáng…

3) Vận động hoá học: Sự vận động của các phân tử, các quá trình hoá hợp
và phân giải các chất.

4) Vận động sinh học: Các hoạt động sống của cơ thể, ở sự trao đổi chất
giữa cơ thể sống với môi trường.

5) Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các hình thái kinh tế – xã hội,

4
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.743.
9
các quá trình xã hội.

Quan hệ giữa các hình thức vận động: Các hình thức vận động biểu hiện
trình độ phát triển từ thấp đến cao của thế giới vật chất. Các hình thức vận động
cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình
thức vận động thấp hơn. Mỗi sự vật được đặc trưng bởi một hình thức vận động
cơ bản.

– Vận động và đứng im:

Đứng im là một trạng thái của vận động, là trường hợp riêng của vận động.
Đứng im là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.

Sự đứng im của sự vật thể hiện ở hai khía cạnh sau: Thể hiện ở khoảng cách
không thay đổi giữa một sự vật này với một sự vật khác. Thể hiện trong một
khoảng thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng chưa thay đổi một cách căn bản, chưa
biến thành sự vật, hiện tượng khác.

Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im, thì vận động là tuyệt đối, còn
đứng im chỉ là tương đối, tạm thời. Đứng im là tương đối, tạm thời vì: Thứ nhất,
hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ xác định (nhất
định) chứ không phải diễn ra trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ hai, đứng im
chỉ xảy ra với một hình thức vận động trong một lúc nào đó chứ không phải trong
mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.

* Không gian và thời gian – hình thức tồn tại của vật chất

Theo V.I. Lênin: “Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian”5.

– Định nghĩa:

Không gian là khái niệm dùng để chỉ vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn,
cao thấp của sự vật, hiện tượng.

Thời gian là khái niệm dùng để chỉ độ dài diễn biến biến đổi của sự vật, hiện
tượng.

5
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.209 – 210.
10
– Tính chất:

Tính khách quan. Nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật
chất, tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách
quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.

Tính vĩnh cửu và vô tận. Nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả
về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía
dưới, cả về bên phải lẫn bên trái.

Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba chiều
của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời
gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.

c. Tính thống nhất vật chất của thế giới

Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng: bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:

Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất đó là thế giới vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.

Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ mật thiết với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.

Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả
của nhau.

Tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện thực của
con người. Đó là con người không bao giờ bằng ý thức của mình mà sản sinh ra
được các đối tượng vật chất. Con người với ý thức chỉ có thể nhận thức được

11
những quy luật vận động, phát triển của thế giới vật chất, cải biến thế giới vật
chất theo những quy luật khách quan vốn có của nó.

2. Ý thức

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con người một cách
năng động và sáng tạo.

a. Nguồn gốc của ý thức

* Nguồn gốc tự nhiên

Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện ở sự phát triển của thuộc tính phản
ánh và vai trò của bộ não người.

– Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất.

Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc
điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại.

Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận
tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của
vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.

Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:

Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên vô sinh. Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định
hướng, sự lựa chọn, nó được thể hiện qua những biến đổi cơ, lý, hoá như: sự thay
đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá huỷ…ở các dạng vật chất vô sinh.

Phản ánh sinh học: Là hình thức phản ánh của giới tự nhiên hữu sinh. Nó
được biểu hiện ở hai trình độ khác nhau như:

Tính kích thích xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh
kích thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động của môi trường
trên cơ sở của sự chọn lọc. Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay động vật
bậc thấp có thể thích nghi với môi trường. Chẳng hạn, rễ cây mọc hướng về phía
12
có nhiều chất dinh dưỡng.
Tính cảm ứng xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác. Khi
các sự vật từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có thể
phản ứng lại trước những tác động đó. Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối
liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được thực hiện thông qua cơ chế
phản xạ không điều kiện.
Phản ánh tâm lý: Xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần kinh
trung ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện.
Ở phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác và biểu tượng. Phản ánh
tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý nghĩa của những thông
tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
Phản ánh ý thức: Là một hình thức phản ánh mới, có tính năng động sáng
tạo, chỉ có ở một dạng vật chất có tổ chức cao nhất đó là bộ não con người. Phản
ánh ý thức được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
người khi thế giới khách quan tác động lên giác quan của con người.
– Bộ não người và ý thức.
Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất,
mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con người.
Bộ não con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt
sinh vật – xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, nó có khoảng từ 14 – 15 tỷ tế bào
thần kinh.
Hoạt động ý thức của con người chỉ diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não người. Do vậy, khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ
bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể đồng nhất hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
não với hoạt động ý thức, hoạt động ý thức chỉ là một mặt của hoạt động sinh lý
thần kinh.

Tóm lại, không có bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào
bộ não người thì không thể có ý thức. Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

13
* Nguồn gốc xã hội

Nguồn gốc xã hội của ý thức thể hiện ở vai trò của lao động và ngôn ngữ.

Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với
tất cả các động vật khác. Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công
cụ và sử dụng các công cụ để tạo ra của cải vật chất. Lao động của con người là
hành động có mục đích, tác động vào thế giới vật chất khách quan làm biến đổi
thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Trong quá trình lao động, cấu
trúc cơ thể người thay đổi, bộ não người được phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.

Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ (tiếng
nói và chữ viết). Trong quá trình lao động, con người tất yếu có những quan hệ
với nhau và có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh nhu cầu “cần thiết
phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với
lao động. “Ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động. Đó
là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ” 6. Ngôn ngữ là
phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quát sự
vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ. Chính vì
vậy, Ăngghen khẳng định: Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu
biến bộ não con vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành
phản ánh ý thức.

Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình
thành và phát triển của ý thức.

b. Bản chất và kết cấu của ý thức

* Bản chất của ý thức

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nội dung của ý thức là
do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh
tinh thần nó không có tính vật chất. “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác

6
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.645.
14
hơn là sự tồn tại được ý thức” 7. Sự hình thành ý thức chịu sự tác động bởi lăng
kính chủ quan của mỗi chủ thể nhận thức (tình cảm, tâm trạng, nguyện vọng,
kinh nghiệm, nhu cầu, lập trường…).

Ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo. Tính năng
động của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động,
máy móc sự vật, mà ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan theo nhu cầu của
thực tiễn, là sự phản ánh chủ động và có chọn lọc của con người. Tính sáng tạo
của ý thức thể hiện ở chỗ, trên cơ sở cái đã có, ý thức có thể sáng tạo ra tri thức
mới về sự vật; có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế; ý thức có thể tiên
đoán, dự báo tương lai; ý thức có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, giả
thuyết, lý thuyết khoa học… Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức
đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và
trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể
tinh thần. Ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi ở trong đó”8.

Ý thức mang bản chất xã hội. Con người là thực thể xã hội, nên ý thức mang
bản chất xã hội. Sự ra đời tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn lịch
sử của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ
yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của con người quy định. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Ngay từ
đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người
còn tồn tại”9.

* Kết cấu của ý thức

Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố quan hệ với nhau. Tuỳ
theo cách tiếp cận, có thể phân chia kết cấu ý thức ở những góc độ khác nhau.

Theo chiều ngang, ý thức gồm các yếu tố cấu thành như: tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí,… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản cốt lõi nhất.
7
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.37.
8
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35.
9
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.43.
15
Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của quá trình
con người nhận thức thế giới khách quan. Sau khi thu nhận, con người phân loại
tri thức của mình thành nhiều lĩnh vực và nhiều cấp độ khác nhau. Muốn cải tạo
thế giới, con người phải có sự hiểu biết về thế giới, tức là phải có tri thức về đối
tượng cải tạo. Bởi vậy mà mọi hiện tượng của ý thức đều có nội dung tri thức ở
những mức độ khác nhau. Quá trình hình thành và phát triển của ý thức cũng
chính là quá trình con người tìm kiếm, tích luỹ tri thức về thế giới. Càng hiểu về
sự vật thì ý thức của con người về sự vật càng sâu.

Tình cảm là một hình thái đặc biệt của phản ánh ý thức, nó phản ánh mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới khách quan.
Tình cảm được biểu hiện ở xúc cảm, tâm trạng vui, buồn… của con người và ở
thái độ của con người đối với sự vật. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của
con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con
người. Tri thức với mức độ khác nhau phải được thực hiện cùng với nhân tố tình
cảm thì mới phát huy được tác dụng.

Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng
động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự
giác được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để
thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.

Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các
yếu tố khác.

Theo chiều dọc, theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người thì ý thức
bao gồm các yếu tố như: tự ý thức, tiềm thức và vô thức.

Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự
nhận thức bản thân mình, đó chính là tự ý thức. Tự ý thức là ý thức của con
người về những hành vi, tình cảm, tư tưởng, động cơ, nhu cầu, lợi ích và địa vị

16
của mình trong xã hội. Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự
ý thức của một giai cấp, một tập đoàn xã hội, một xã hội. Trình độ tự ý thức nói
lên trình độ phát triển của nhân cách, trình độ làm chủ bản thân. Nhờ có tự ý
thức, con người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các chuẩn mực mà xã
hội đề ra.

Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là
ý thức dưới dạng tiềm tàng.

Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển mà là do
thói quen, do bản năng. Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau
như bản năng ham muốn, giấc mơ, sự lỡ lời, nói nhịu,…

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

a. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức

Vai trò của vật chất đối với ý thức thể hiện ở tính quyết định của vật chất
trong mối quan hệ với ý thức. Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở chỗ:

Vật chất sinh ra ý thức. Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng
vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới
khách quan.

Vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào não người, là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Thế giới
khách quan không chỉ là nguồn gốc của ý thức, mà còn quy định nội dung của ý
thức.

Điều kiện vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức. Điều kiện vật
chất thay đổi thì sớm hoặc muộn ý thức cũng thay đổi. Sự biến đổi của ý thức là sự
phản ánh sự biến đổi của vật chất.

Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được bộc lộ ở mối

17
quan hệ giữa kinh tế và văn hoá, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

b. Vai trò tác động trở lại của ý thức đối với vật chất

Chủ nghĩa duy vật mácxít trong khi khẳng định vai trò quyết định của vật
chất vẫn thừa nhận vai trò hết sức to lớn của ý thức. C. Mác đã viết: “Vũ khí của
sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng
vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”10.

Mặc dù ý thức tự nó không thể làm gì được nhưng thông qua hoạt động của
con người, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất thậm
chí nó còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” để phục vụ cho cuộc sống của con người.
Do đó, có thể khẳng định:

Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất bởi vì ý thức có tính năng
động, sáng tạo; ý thức có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới
khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Ý thức có thể tác động trở lại vật chất theo hai chiều hướng: Ý thức phản ánh
đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con
người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Ý thức phản ánh không đúng hiện
thực khách quan, ở mức độ nhất định, có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Ngoài tính khoa học, sự tác
động của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của ý thức
vào những người hành động, vào điều kiện xã hội, trình độ phát triển của xã hội
và chế độ xã hội.

Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người. Con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu
biết những quy luật khách quan để từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện
pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.

Vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải
tạo thế giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa
10
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.580.
18
trên sự phản ánh thế giới khách quan và các điều kiện khách quan.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

Vật chất quyết định ý thức, cho nên trong hoạt động của con người đòi hỏi
phải luôn quán triệt quan điểm khách quan. Yêu cầu của quan điểm khách quan
là:

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn bao giờ cũng phải
xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là từ điều kiện vật chất
để xác định mục tiêu và phương hướng hành động, tránh chủ quan duy ý chí,
nóng vội, định kiến, không trung thực.

Thứ hai, quan điểm khách quan đặc biệt yêu cầu phải luôn luôn tôn trọng
các quy luật khách quan. Thực tế lịch sử cho thấy, mỗi khi làm trái quy luật, con
người đều phải trả giá. Từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong hoạt động
thực tiễn cách mạng, Cương lĩnh của Đảng đã rút ra bài học là: “Mọi đường lối
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”11.

Thứ ba, quan điểm khách quan còn yêu cầu muốn nhận thức và cải tạo sự
vật, hiện tượng thì phải xuất phát từ chính bản thân nó. Chúng ta không thể áp đặt
cho sự vật những cái mà vốn nó không có hoặc nó chưa thể có. Chúng ta chỉ có
thể phân tích chính bản thân sự vật, nhận thức bản chất của nó để từ đó có thể tìm
ra phương thức cải tạo nó. Nếu không như vậy sẽ thất bại.

Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người, cho nên cần phải phát huy tính tích cực của ý thức
đối với vật chất bằng cách bồi dưỡng tinh thần phấn đấu, xây dựng ý thức lành
mạnh, không ngừng nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận
dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Từ đó, làm cho con
người luôn chủ động, sáng tạo trong cuộc sống.

Cần phải chống bệnh chủ quan, duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chờ
đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan.

11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5.
19
II. Phép biện chứng duy vật

1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hoá
và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong
giới tự nhiên, xã hội và tư duy.

Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc của nhận thức và thực tiễn.

Ra đời từ thời Cổ đại, trong lịch sử phát triển của mình, phép biện chứng đã
trải qua ba hình thức cơ bản: Phép biện chứng chất phác, ngây thơ thời cổ đại;
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức; Phép biện chứng duy vật.

Kế thừa có chọn lọc các thành quả của các nhà triết học tiền bối, mà trực
tiếp là phép biện chứng của Hêghen và quan điểm duy vật của Phoiơbắc, dựa trên
việc khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học đương thời cũng như thực
tiễn lịch sử loài người, vào giữa thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đã sáng lập ra triết
học duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được Lênin phát
triển. Phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật
phát triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế
vốn có của phép biện chứng chất phác, ngây thơ thời Cổ đại, cũng như những sai
lầm trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen, làm cho phép biện chứng duy
vật trở thành một khoa học. Theo Ph.Ăngghen:“Phép biện chứng (…) là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”12.

a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

- Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến

Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển
hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một
hiện tượng trong thế giới.
12
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.201.
20
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.

Mối liên hệ phổ biến nhất là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại
ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật, như các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, chất và lượng, khẳng
định và phủ định, cái riêng và cái chung, nội dung và hình thức…

- Tính chất của mối liên hệ

Mối liên hệ mang tính khách quan, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Quan hệ giữa cây xanh với môi trường. Nó là cái vốn có của sự vật, hiện
tượng. Không phải do ý muốn của con người quy định. Cây xanh muốn tồn tại thì
phải có đất, nước, ánh sáng… nó phải liên hệ chặt chẽ với môi trường.

Mối liên hệ mang tính phổ biến. Mối liên hệ là phổ biến bởi vì mối liên hệ
chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội,
trong tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các giai đoạn trong quá
trình vận động, phát triển của mỗi sự vật và hiện tượng.

Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là rất đa dạng, phong
phú. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là rất đa dạng và phong
phú nên mối liên hệ giữa chúng cũng rất đa dạng. Các loại mối liên hệ khác nhau
có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật và
hiện tượng. Vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại các
mối liên hệ một cách cụ thể như: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài;
mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ chung bao quát thế giới
và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực nào đó; mối liên hệ trực tiếp và mối
liên hệ gián tiếp; mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên…

Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các
bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật. Nó giữ vai
trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ
bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nói chung, nó
không có ý nghĩa quyết định. Hơn nữa, nó thường phải thông qua mối liên hệ bên
21
trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát triển của sự vật.

Việc phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì các loại liên
hệ có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra do thay đổi
phạm vi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện
tượng. Mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối
liên hệ phổ biến nói chung. Song, sự phân loại các mối liên hệ là rất cần thiết, vì
vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng là không hoàn toàn như nhau.

Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên
cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu
những mối liên hệ chung nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “Phép biện
chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”13.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Nếu các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ
biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có
quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi:

Để nhận thức đúng đắn về sự vật thì cần phải đặt nó trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp.

Quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan, mà
phải thấy được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong
tổng thể của chúng, từ đó tiếp tục đi đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.

Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi phải chống lại cách xem xét phiến diện
một chiều, phải chống lại chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.

Vì các sự vật, hiện tượng khác nhau, tồn tại trong không gian, thời gian khác
nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và thực
13
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.455.
22
tiễn chúng ta cần có quan điểm lịch sử – cụ thể. Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi
hỏi: chúng ta khi nhận thức về sự vật và cải tạo sự vật phải chú ý đến điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát
triển. Thực tế cho thấy, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều
kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.

b. Nguyên lý về sự phát triển

- Khái niệm phát triển

Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.

Cần phân biệt khái niệm vận động và khái niệm phát triển. Khái niệm vận
động phản ánh sự biến đổi nói chung, còn khái niệm phát triển chỉ phản ánh tính
chất, khuynh hướng tiến lên của sự biến đổi nói chung ấy.

- Tính chất của sự phát triển

Sự phát triển mang tính khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của
sự vật quy định. Phát triển là thuộc tính vốn có, là quá trình tự thân của mọi sự
vật, hiện tượng.

Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển thể hiện ở
chỗ, sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. V.I.
Lênin chỉ ra rằng: “Nếu tất cả đều phát triển, thì cái đó có áp dụng cho những
khái niệm và những phạm trù chung nhất của tư duy không? Nếu không, thì tức
là tư duy không có liên hệ gì với tồn tại cả. Nếu có, thì tức là có phép biện chứng
của những khái niệm và phép biện chứng của nhận thức, phép biện chứng này có
một ý nghĩa khách quan”14.

Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển ở mỗi sự vật, hiện
tượng và mỗi lĩnh vực khác nhau thì cũng khác nhau. Khuynh hướng phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song, mỗi sự vật, mỗi hiện
14
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1981, t.29, tr.270 – 271.
23
tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác
nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá
trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng
khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự
vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.

Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều khâu
trung gian, thậm chí có lúc có sự thụt lùi tạm thời. Mỗi sự vật đều có quá trình
phát triển riêng của mình. Tuy nhiên nó vẫn phải tuân theo trình tự chung là: sinh
thành – lớn lên – tiêu vong. Khái niệm phát triển phản ánh tính chất, khuynh
hướng tiến lên của sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, nếu
xem xét toàn bộ một quá trình, chúng ta thấy rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều
vận động trải qua giai đoạn sinh thành, lớn lên và mất đi. Chính sự mất đi của các
sự vật, hiện tượng này là một trong những điều kiện ra đời của các sự vật, hiện
tượng khác. Bởi vì, sự ra đời của các sự vật, hiện tượng không phải từ hư vô, mà
là từ các sự vật, hiện tượng cũ, được chuẩn bị từ bên trong ở các sự vật, hiện
tượng cũ. Vì vậy, nếu thoạt nhìn thì hình như khuynh hướng đi lên được coi là
phát triển, và khuynh hướng thụt lùi, đi xuống tách rời nhau, không liên quan với
nhau, nhưng thực ra chính khuynh hướng thụt lùi, đi xuống lại là một điều kiện
cho sự phát triển tiến lên và cũng nằm trong sự phát triển.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình
thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất; sự phát triển diễn ra theo đường
xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm
xuất phát, nhưng trên một cơ sở mới cao hơn.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là
vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi:

Khi xem xét các sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong

24
sự phát triển không ngừng. V.I. Lênin viết: “Lôgic biện chứng đòi hỏi phải xét sự
vật trong sự phát triển, trong “sự vận động” (…), trong sự biến đổi của nó”15.

Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang có
mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó.

Trong quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức
tạp của quá trình phát triển như là một quá trình phổ biến. Thiếu quan điểm như
vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và
sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp
khó khăn trắc trở.

Trong hoạt động thực tiễn, nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn
có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật, và bằng hoạt
động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.

Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liện hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong việc
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Lênin cho rằng: “Để có tri thức đúng về sự vật,
bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát
triển của nó”16.

2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật thuộc một lĩnh vực
nhất định.

Khác với các phạm trù của các khoa học cụ thể, các phạm trù của phép
biện chứng duy vật là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một
15
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1979, t.42, tr.364.
16
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1979, t.42, tr.238.
25
lĩnh vực nhất định nào đấy của hiện thực, mà của toàn bộ thế giới hiện thực, bao
gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

a. Cái riêng và cái chung

- Khái niệm

Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng hay
một quá trình riêng lẻ nhất định.

Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những yếu tố, những
bộ phận, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất
định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ
khác.

Cái chung có thể phân thành cái phổ biến và cái đặc thù. Cái phổ biến là cái
chung của tất cả các sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực mà ta nghiên cứu. Cái
đặc thù là cái chung của một sự vật hoặc của nhóm sự vật trong lĩnh vực nói trên.
Cái chung còn phân thành cái chung căn bản và cái chung không căn bản. Cái
chung căn bản là cái chung thuộc về bản chất của sự vật. Cái chung không căn
bản là những cái chung nằm ngoài bản chất. Cái chung căn bản chi phối sự vận
động và phát triển của sự vật, còn cái chung không căn bản ảnh hưởng ít hoặc
nhiều đến sự vận động và phát triển của sự vật.

Cái đơn nhất: Khác với cái chung, cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ những nét, những mặt, những yếu tố, những bộ phận, những thuộc tính…
chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà không được lặp lại ở những kết cấu
vật chất khác.

- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cả cái riêng, cái chung
và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau.

Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng mà
biểu hiện sự tồn tại của mình.

26
Cái chung là những mặt, những thuộc tính giống nhau có ở các sự vật, hiện
tượng. Những mặt, những thuộc tính đó là những bộ phận làm thành sự vật, hiện
tượng. Không có các sự vật, hiện tượng thì không thể có cái chung. Do đó, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và
thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Điều đó cũng có nghĩa là,
không có cái chung tồn tại thuần tuý bên ngoài cái riêng.

Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung.

Cái riêng tồn tại độc lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái
riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất cứ cái riêng nào bao giờ cũng
tồn tại trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường,
hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với
các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình. Các mối liên hệ qua lại này cứ trải
rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên
một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một
hoặc một số cái chung nào đó.

Bất cứ cái riêng nào cũng đều không tồn tại vĩnh viễn. Mỗi cái riêng, sau khi
xuất hiện, đều tồn tại trong một thời gian nhất định rồi biến thành một cái riêng
khác, cái riêng khác này lại biến thành cái riêng thứ ba,... cứ như vậy cho đến vô
cùng tận. Kết quả của sự biến hoá vô cùng tận này là tất cả các cái riêng đều có
liên hệ với nhau và có những cái chung nhất định.

Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng.

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm
gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng
nó có. Nói cách khác, cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài cái chung,
trong cái riêng còn có cái đơn nhất.

Cái chung sâu sắc hơn cái riêng là bởi vì cái chung là cái gắn liền với bản
chất của sự vật, hiện tượng. Nó phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại. Do đó, cái chung là

27
cái quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì thế,
một khi cái chung thay đổi thì sự vật sẽ thay đổi theo.

Thứ tư, trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều
kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại, cái
chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất.

Sở dĩ có sự chuyển hoá lẫn nhau giữa cái chung và cái đơn nhất là vì trong
hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện
dưới dạng cái đơn nhất. Và về sau, theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay
thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến.

Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái
mới ra đời thay thế cái cũ. Đó là xu thế vận động tích cực ở sự vật. Ngược lại, sự
chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái
lạc hậu bị phủ định. Đây là xu hướng vận động đi xuống ở sự vật.

Phải thấy rằng không phải bất cứ cái đơn nhất nào cũng có quá trình chuyển
hoá thành cái chung, đồng thời không phải bất cứ cái chung nào cũng chuyển hoá
thành cái đơn nhất17.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình. Do đó, chúng ta chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất
phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng cụ thể chứ không được xuất phát từ
ý muốn chủ quan của con người. Không được tìm cái chung bên ngoài mỗi cái
riêng.

Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng, bộ
phận đó tác động qua lại với những bộ phận, những yếu tố còn lại của cái riêng –
những cái không gia nhập vào cái chung – nên bất cứ cái chung nào cũng tồn tại
trong cái riêng dưới dạng đã bị cải biến. Từ đó, một kết luận được rút ra là bất cứ
cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá.

17
Giáo trình triết học Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng, hệ cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội, 2007, tr.123.
28
Nếu không chú ý tới sự cá biệt hoá, đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối
hoá cái chung, thì sẽ rơi vào sai lầm của những người tả khuynh, rập khuôn, giáo
điều. Ngược lại, nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất, tuyệt đối
hoá cái đơn nhất thì sẽ rơi vào sai lầm của những người hữu khuynh, xét lại, cục
bộ địa phương.

Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài mối
liên hệ dẫn tới cái chung, cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách có
hiệu quả thì không thể lảng tránh được việc giải quyết những vấn đề chung –
những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu không giải quyết
những vấn đề lý luận chung thì sẽ không tránh khỏi sa vào tình trạng mò mẫm,
tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa.

Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung, và ngược lại cái chung có thể biến thành
cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái
đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành
cái đơn nhất.

b. Nguyên nhân và kết quả

- Khái niệm

Nguyên nhân là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những
biến đổi nhất định.

Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.

Điều kiện là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra. Nếu
không có chúng thì nguyên nhân không thể gây nên kết quả.

Nguyên cớ là nguyên nhân giả tạo.

Tính chất của mối liên hệ nhân – quả:

Tính khách quan, nguyên nhân và kết quả là cái vốn có của bản thân các sự

29
vật, của hiện thực khách quan. Nó tồn tại không phụ thuộc vào ý thức chủ quan
của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.

Tính phổ biến, thể hiện ở chỗ, mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy đều có nguyên nhân, chỉ có điều là chúng ta đã nhận thức được nguyên
nhân đó chưa mà thôi.

Tính tất yếu, thể hiện ở chỗ, cùng một nguyên nhân nhất định, trong những
điều kiện, hoàn cảnh càng ít khác nhau thì thu được kết quả càng giống nhau. Ví
dụ, vật trong chân không luôn rơi với gia tốc 9,8m/s 2. Nước ở áp suất 1amt luôn
luôn sôi ở 100 độ C. Thóc gieo xuống một mảnh ruộng sẽ cho lúa chứ không cho
ngô, khoai. Để có kết quả của những lần bắn tên trúng đích thì các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình bắn tên của xạ thủ phải giống nhau...

- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả

Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả vì vậy bao giờ nguyên nhân cũng là cái
có trước, kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và tác động. Cần
chú ý là ngoài quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian, quan hệ nhân – quả còn là
quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.

Thực tiễn cho thấy, một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác
nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được gây nên
bởi nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc.

Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng
thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại,
nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì
chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ
ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.

Căn cứ vào tính chất, phạm vi và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình
thành kết quả, có thể phân loại các nguyên nhân ra thành:

Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu. Nguyên nhân chủ yếu là

30
những nguyên nhân quyết định sự ra đời của kết quả, nếu thiếu nó kết quả không
xảy ra. Nguyên nhân thứ yếu là những nguyên nhân chỉ ảnh hưởng tới kết quả
hoặc chỉ quyết định những mặt, những bộ phận không cơ bản của kết quả.

Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Nguyên nhân bên trong là
sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, các yếu tố tạo thành sự vật gây nên sự
biến đổi của sự vật. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa sự vật
này với sự vật khác tạo nên sự biến đổi của từng sự vật ấy.

Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Đây là nguyên nhân
được xác định trong mối quan hệ với chủ thể hành động. Nguyên nhân khách
quan là những nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập với chủ thể hành động.
Nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân xuất hiện do sự điều khiển của chủ
thể tạo ra. Chủ thể ở đây có thể là một người, một giai cấp, một tổ chức nhất định
như chính đảng, đoàn thể.

+ Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân

Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại thụ động mà
có sự tác động trở lại nguyên nhân theo hai chiều hướng: có thể tích cực, có thể
tiêu cực. Do vậy, cần lợi dụng những kết quả để tác động lại nguyên nhân nhằm
đạt được mục tiêu của con người.

+ Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển đổi vị trí cho nhau trong quá trình
phát triển của sự vật

Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động của vật chất, không có một
hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có một kết quả
nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này sự vật và hiện tượng
nào đó được coi là nguyên nhân, song trong mối quan hệ khác nó lại là kết quả và
ngược lại. Do mối quan hệ nhân – quả là không đầu không đuôi, vì vậy một hiện
tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng phải đặt trong
một quan hệ xác định, cụ thể.

- Ý nghĩa phương pháp luận

31
Vì mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong
nên không có vấn đề có hay không có nguyên nhân của một hiện tượng nào đó,
mà chỉ có vấn đề các nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát hiện.
Nhiệm vụ của khoa học chính là đi tìm nguyên nhân chưa được phát hiện để hiểu
đúng hiện tượng. Quá trình đi tìm nguyên nhân cần lưu ý là chỉ có thể tìm trong
chính thế giới các hiện tượng chứ không thể ở ngoài nó. Chống tư tưởng chủ
quan muốn tìm nguyên nhân trong trí tưởng tượng của con người.

Một sự vật, hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên
nhân đó có thể có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Do vậy, trong
hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải phân loại các nguyên nhân một cách khoa
học, cụ thể.

Muốn nhận thức nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cần phân tích
những hiện tượng, quá trình có quan hệ với hiện tượng đó và xảy ra trước hiện
tượng đó.

Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng nó không tồn tại thụ động mà có thể
tác động trở lại nguyên nhân, vì vậy chúng ta phải biết khai thác và vận dụng các
kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự vật phát triển.

c. Tất nhiên và ngẫu nhiên

- Khái niệm

Tất nhiên là phạm trù chỉ những hiện tượng, quá trình do những nguyên
nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất
định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.

Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ những hiện tượng, quá trình không do mối liên
hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất quyết định, mà do các nhân tố bên ngoài,
do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện,
có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, có thể xuất hiện như thế
khác.

- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

32
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí, vai trò nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Cái tất
nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật. Cái ngẫu nhiên có tác dụng
làm cho quá trình phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm.

Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau, thể
hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số
cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng
thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.

Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện
nhất định. Cái ngẫu nhiên có thể chuyển hoá thành cái tất nhiên và ngược lại. Sự
chuyển hoá giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ: khi xem xét trong mối
quan hệ này thì sự vật, hiện tượng là cái ngẫu nhiên; nhưng khi xem xét trong mối
quan hệ khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái tất nhiên.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, là cái nhất định xảy ra theo quy
luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại
của sự vật, nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Do đó, trong hoạt động thực tiễn
chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên, không thể dựa vào cái ngẫu nhiên.

Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có
ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu đậm.
Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, đòi hỏi người ta phải
có các phương án dự phòng nhằm chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên
có thể xảy ra.

Vì cái tất nhiên thể hiện sự tồn tại của mình qua cái ngẫu nhiên. Do đó,
muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích, so
sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên.

Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành cái tất
nhiên và ngược lại, cho nên, cần chú ý tạo những điều kiện cần thiết hoặc để ngăn
trở, hoặc để sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
33
d. Nội dung và hình thức

https://prezi.com/3oi54gw96mam/pham-tru-noi-dung-va-hinh-thuc/

- Khái niệm

Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật.

Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các
mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.

Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài và hình thức bên trong. Hình
thức bên ngoài là tất cả những gì biểu hiện ra mà con người có thể nhìn thấy trực
tiếp, còn hình thức bên trong là hình thức của các bộ phận, của các quá trình ở
bên trong sự vật mà con người không thể nhìn thấy bằng trực giác. Phép biện
chứng duy vật chú ý chủ yếu đến hình thức bên trong của sự vật, nghĩa là nói đến
hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu bên trong của nội dung.

- Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Nội dung và hình thức tồn tại khách quan. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
cũng có các bộ phận, các yếu tố cấu thành, tức là nó phải có nội dung dù nội dung
ấy là phong phú hay đơn giản. Đồng thời, các bộ phận, các yếu tố đó phải được
sắp xếp theo một trật tự nhất định, phải có hình khối, màu sắc... do đó, nó phải có
hình thức dù hình thức này hợp lý hay chưa hợp lý.

Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống
nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần tuý không chứa đựng nội dung, ngược
lại cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định.

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức mang tính phức tạp. Không phải
một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định, và
một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà cùng một nội dung trong
tình hình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức, và ngược lại, cùng một
hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau.

Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì nội dung giữ vai trò quyết
34
định đối với hình thức. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội
dung có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi, còn hình thức có khuynh hướng chủ
đạo là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung.

Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung. Hình thức do nội dung
quyết định, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội
dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung theo hai hướng, cụ thể là: Nếu phù
hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát
triển. Nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự
phát triển của nội dung.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải chú ý đến sự
thống nhất giữa nội dung và hình thức, không được tách rời hình thức khỏi nội
dung, hoặc tuyệt đối hoá một trong hai mặt đó. Đặc biệt cần chống chủ nghĩa
hình thức.

Cùng một nội dung trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình
thức, ngược lại một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Vì vậy, trong
hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức
khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong giai
đoạn khác nhau.

Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo sự vật, trước
hết phải căn cứ vào nội dung, song hình thức có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại nội dung, nên trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu
giữa nội dung và hình thức, làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy
nội dung phát triển.

Khi hình thức đã lạc hậu, mâu thuẫn với nội dung thì phải kiên quyết thay
đổi hình thức để tạo điều kiện thuận lợi cho nội dung phát triển.

đ. Bản chất và hiện tượng

- Khái niệm

35
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Còn hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài
(Hiện tượng là sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất).

- Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan, là cái vốn có của sự vật không do
ai sáng tạo ra. Bởi vì, sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định.
Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen,
chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định. Những
mối liên hệ tất nhiên này tạo thành bản chất của sự vật. Sự vật tồn tại khách quan
và những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định này lại ở bên trong sự vật, nên
đương nhiên chúng cũng tồn tại khách quan, tức là bản chất của sự vật cũng tồn
tại khách quan. Còn hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái
khách quan không phải do cảm giác chủ quan của con người quyết định.

Giữa bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng: vừa thống nhất gắn
bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.

Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:

Thứ nhất, bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng
bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất
nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng, đồng thời cũng không có hiện tượng nào
hoàn toàn không biểu hiện ra bản chất.

Thứ hai, bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất
được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy,
bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi
thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng mất theo.

Sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng:

Thứ nhất, bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn
tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
36
Thứ hai, bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan,
còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.

Thứ ba, bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm; còn hiện tượng không
ổn định, nó luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Bản chất không tồn tại thuần tuý mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua
hiện tượng, do đó, muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ
những sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế.

Bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất
định và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do đó, cần phải phân
tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển
hình thì mới hiểu rõ được bản chất của sự vật, và từ bản chất ít sâu sắc mới tiến
tới nhận thức bản chất sâu sắc hơn.

Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự
vận động phát triển của sự vật; còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết
định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy, trong nhận thức không được chỉ
dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn
trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương
thức hoạt động cải tạo sự vật chứ không được dựa vào hiện tượng.

e. Khả năng và hiện thực

- Khái niệm

Khả năng là phạm trù chỉ những cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ có, sẽ
tới khi có điều kiện tương ứng.

Hiện thực là phạm trù chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.

Tuy tất cả các khả năng đều là khả năng thực tế, nhưng sự hình thành chúng
không hoàn toàn như nhau: có cái hình thành một cách tất nhiên, có cái lại hình
thành một cách ngẫu nhiên. Do vậy, tất cả các khả năng có thể phân thành khả
năng tất nhiên (được gây nên bởi các tương tác tất nhiên của hiện thực) và khả
37
năng ngẫu nhiên (được gây nên bởi các tương tác ngẫu nhiên của hiện thực).

Khả năng tất nhiên có thể phân thành khả năng gần và khả năng xa. Khả
năng gần là khả năng đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến
thành hiện thực. Còn khả năng xa là khả năng còn phải trải qua nhiều giai đoạn
phát triển quá độ nữa mới đủ điều kiện để biến thành hiện thực.

Ngoài các dạng khả năng chính trên đây, còn có thể phân các khả năng
thành khả năng chủ yếu và khả năng thứ yếu, khả năng tốt và khả năng xấu, khả
năng thuận nghịch và khả năng bất thuận nghịch, khả năng cùng tồn tại và khả
năng loại trừ lẫn nhau,…

- Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời nhau, thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của
sự vật. Trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển
của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới
đó, lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều kiện lại
chuyển hoá thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận
động phát triển một cách vô tận trong thế giới.

Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại
nhiều khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng. Nước Việt Nam hiện nay có
rất nhiều khả năng, cả tốt lẫn xấu. Việt Nam có thể trở thành một đất nước phát
triển trong thế kỷ XXI nhưng cũng có thể bị tụt hậu ngày càng xa so với các nước
phát triển trong khu vực hoặc bị chệch hướng trong quá trình phát triển này.

Ngoài những khả năng sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất
hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi
theo sự thay đổi của điều kiện. Có những khả năng mà điều kiện để trở thành hiện
thực ngày càng tăng, có khả năng các điều kiện đó lại giảm dần. Nhưng nhìn
chung, nếu mọi hiện thực đều chứa khả năng thì mọi khả năng cũng đều có thể
trở thành hiện thực khi có đủ điều kiện.

Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện
38
mà là một tập hợp nhiều điều kiện. Để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra cần một
tập hợp các điều kiện sau đây mà Lênin gọi là tình thế cách mạng: a) giai cấp
thống trị không thể giữ nguyên sự thống trị của mình dưới dạng cũ nữa;
b) giai cấp bị trị bị bần cùng hoá quá mức bình thường; c) tính tích cực của quần
chúng tăng lên đáng kể; d) giai cấp cách mạng có đủ năng lực tiến hành những
hành động cách mạng mạnh mẽ, đủ sức đập tan chính quyền cũ. Thiếu một trong
các điều kiện ấy, cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể nổ ra.

Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức
to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm
hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực; có thể điều khiển khả năng phát
triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng.
Tuy nhiên nếu tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan hoặc điều kiện khách quan thì đều
rơi vào sai lầm tả khuynh hay hữu khuynh.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên
trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng
để định ra chủ trương, phương hướng hành động của mình. Trong hoạt động thực
tiễn, nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Theo
Lênin: “Người mácxit chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình
những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được”18.

Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng
phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng
chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành
động sát hợp hơn. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng
gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên v.v.. từ đó mới tạo được các
điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.

Khả năng biến thành hiện thực trong điều kiện nhất định. Tuy nhiên, việc
chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một cách tự

18
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.432.
39
động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người.
Do đó, trong hoạt động thực tiễn, con người cần chủ động tạo ra điều kiện để
biến khả năng có lợi thành hiện thực, hoặc ngăn cản khả năng không có lợi trở
thành hiện thực.

3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.

Căn cứ vào lĩnh vực tác động: Quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, quy luật
của tư duy. Căn cứ vào tính phổ biến: Quy luật riêng, quy luật chung, quy luật phổ
biến. Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những
quy luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của
con người.

a. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng – chất) là một trong ba quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ cách thức phát triển của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

- Khái niệm chất

Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật,
hiện tượng là nó chứ không phải là cái khác.

Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu
thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc
được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Những thuộc tính vốn có
của các sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với
các sự vật, hiện tượng khác.

Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Song, chúng ta
40
không được đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính, bởi vì: Thứ nhất,
mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Những thuộc tính này không tham gia
vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản mới quy
định chất của sự vật. Vì thế, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự
vật mới thay đổi. Khi các thuộc tính không cơ bản có thể thay đổi, nhưng không
làm cho chất của sự vật thay đổi. Thứ hai, các thuộc tính cũng như chất của sự
vật chỉ bộc lộ qua những mối liên hệ cụ thể. Do đó, việc phân biệt thuộc tính cơ
bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ là tương đối. Và như vậy, mỗi
sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà có nhiều chất tuỳ theo những mối
quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Tuy nhiên, ở mỗi sự vật chỉ có một
chất căn bản, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại
hay mất đi của bản thân sự vật.

Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo
thành mà còn bởi những phương thức liên kết các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi
kết cấu của sự vật.

- Khái niệm lượng

Luợng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng cũng như của các thuộc tính của nó.

Lượng được biểu thị bằng các con số hoặc các đại lượng: chỉ kích thước dài
hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ
nhanh hay chậm... Đối với các sự vật phức tạp, lượng của nó không thể diễn tả
được bằng những con số chính xác, thì phải nhận thức bằng khả năng trừu tượng
hoá, khái quát hoá.

Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Và trong
sự tồn tại khách quan của mình, sự vật có vô vàn chất; do đó, nó cũng có vô vàn
lượng. So với chất, lượng là yếu tố thường xuyên biến đổi, không ổn định, do vậy
nó không nói lên sự vật đó là cái gì.

Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ là tương đối, nghĩa là, có cái ở
41
trong quan hệ này là chất, nhưng ở trong quan hệ khác lại là lượng, và ngược lại.
Do đó, cần chống quan điểm siêu hình tuyệt đối hoá ranh giới giữa chất và lượng.

Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Chất và
lượng là hai mặt quy định lẫn nhau không thể tách rời; một chất nhất định trong
sự vật có lượng tương ứng với nó. Ví dụ: Sự khác nhau về chất (trạng thái) của
nước ở thể lỏng với nước ở thể rắn (nước đá) được quy định bởi lượng là nhiệt
độ. Sự biến đổi tương quan giữa chất và lượng tạo nên tiến trình phát triển của sự
vật.

VD (trong slide ĐHTM): Khi có sự lớn lên về quy mô vốn trong sản xuất
kinh doanh, tất yếu đòi hỏi cũng phải có sự biến đổi về tính chất quản lý. Ngược
lại, với tính chất mới của tổ chức kinh tế có thể tạo cơ hội lớn nhanh về vốn.

- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

Trong quá trình phát triển của sự vật, trước hết sự vật bao giờ cũng có sự
thay đổi dần dần về lượng đến một giới hạn nào đó chuyển thành những thay đổi
về chất. Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng
thường xuyên biến đổi. Song, hai mặt đó không tách rời nhau mà chúng tác động
lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ
nhất định khi sự vật đang tồn tại.

Xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác
nhau (chất – trạng thái), ứng với chất – trạng thái đó, lượng ở đây là nhiệt độ. Thì
trong điều kiện áp suất bình thường, sự tăng hoặc giảm nhiệt độ trong giới hạn
giữa 0 độ C đến 100 độ C, nước vẫn ở trạng thái Lỏng chứ chưa chuyển sang
trạng thái Rắn hoặc Hơi.

Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là
khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về
chất của sự vật. Trong ví dụ trên đây, sự thống nhất giữa trạng thái lỏng của nước
và nhiệt độ trong khoảng từ 0 đến 100 là độ tồn tại của nước ở trạng thái lỏng.
Nếu nhiệt độ của nước giảm tới 0 độ và được duy trì ở đó thì nước từ trạng thái
lỏng sẽ chuyển thành trạng thái rắn, tức là thay đổi về chất.
42
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về
chất của sự vật. Bất cứ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Tại điểm giới
hạn như 0 độ và 100 độ ở ví dụ trên gọi là điểm nút. Tại điểm đó sự thay đổi về
lượng đã làm thay đổi về chất của sự vật.

Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Do đó, bước nhảy
là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi
về lượng trước đó gây ra.

Bước nhảy là bước ngoặt căn bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi
về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Do vậy,
có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các
điểm nút. Bước nhảy không chấm dứt sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt
một dạng tồn tại của sự vật. Trong sự vật mới, lượng mới lại biến đổi đến điểm
nút mới lại xảy ra bước nhảy mới.

Quy luật lượng – chất không chỉ nói lên một chiều là sự biến đổi về lượng
dẫn đến sự biến đổi về chất mà còn có chiều ngược lại. Chiều ngược lại có nghĩa
là: khi chất mới đã ra đời nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với nó, để có một
sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở quy mô,
ở mức độ và nhịp điệu phát triển mới của lượng. Khi nước từ trạng thái lỏng
chuyển sang trạng thái hơi, thì tốc độ vận động của các phân tử hơi nước nhanh
hơn, thể tích của hơi nước lớn hơn, và độ hoà tan của nó cũng khác trước.

Tóm lại, quy luật lượng – chất đã chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật và
hiện tượng. Trước hết, lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm
nút, điểm giới hạn của sự thống nhất giữa chất và lượng sẽ dẫn đến bước nhảy về
chất. Chất mới ra đời lại tạo nên sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Quá trình
tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi, phát triển.

- Các hình thức của bước nhảy

Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước
nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn, làm thay đổi chất của toàn bộ
43
kết cấu cơ bản của sự vật. Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từng
bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần
những nhân tố của chất cũ.

Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật, có bước nhảy toàn bộ
và bước nhảy cục bộ. Tuy nhiên, việc phân loại này chỉ mang tính tương đối, tuỳ
thuộc vào những mối quan hệ so sánh nhất định. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy
làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố
riêng lẻ của sự vật.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất
của nó. Những nhận thức ban đầu về chất (thấy sự khác nhau) của các sự vật chỉ
trở nên đúng đắn và được làm sâu sắc thêm, khi đạt tới tri thức về sự thống nhất
giữa chất và lượng của các sự vật đó.

Muốn cho sự vật, hiện tượng phát triển thì cần có một quá trình tích luỹ về
lượng. Nhưng khi sự tích luỹ về lượng đã đạt đến điểm nút thì việc thực hiện
bước nhảy có sự thay đổi về chất là một tất yếu khách quan trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật. Từ đó, trong cuộc sống chúng ta cần chống hai
khuynh hướng: (1) Khuynh hướng tả khuynh: là những tư tưởng chủ quan, duy ý
chí, nôn nóng, chưa có sự tích luỹ về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy vọt về
chất. Hoặc coi nhẹ sự tích luỹ dần về lượng, chỉ nhấn mạnh đến các bước nhảy từ
đó dẫn đến các hành động phưu lưu, mạo hiểm. (2) Khuynh hướng hữu khuynh:
là tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó, không dám thực hiện bước nhảy về chất.
Hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải
lương.

Trong hoạt động thực tiễn cần phải xác định được quy mô, tốc độ những
bước nhảy một cách khách quan, khoa học. Chống giáo điều, rập khuôn, chống
bảo thủ, ngại khó khi điều kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi.

44
Trong thực tế, muốn duy trì sự vật ở một trạng thái nào đó phải nắm được giới hạn
độ, không để cho lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ.

b. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, Lênin coi quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của
phép biện chứng, bởi vì, nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát
triển. V.I. Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về
sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển
thêm”19.

- Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn

+ Khái niệm mâu thuẫn:

Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại
một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Mâu thuẫn là một chỉnh thể (một kết cấu) trong đó bao gồm hai mặt đối lập.
Hai mặt đối lập này vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Nói cách
khác, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh,
chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.

+ Các tính chất chung của mâu thuẫn:

Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, là cái vốn có trong các sự vật,
hiện tượng.

Mâu thuẫn là một hiện tượng phổ biến tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy.

Mâu thuẫn có tính phức tạp và đa dạng. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong
mỗi lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau. Trong mỗi sự vật không phải chỉ có một
19
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.240.
45
mâu thuẫn mà có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại
có đặc điểm, có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của
sự vật.

- Quá trình vận động của mâu thuẫn

VÍ dụ: https://8910x.com/thong-nhat-va-dau-tranh-cua-cac-mat-doi-
lap/

Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau.

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:

Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau
của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền
đề.

Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có
những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất”
của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao
hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó. Lênin khẳng định: “Phép biện chứng là
học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở
thành) đồng nhất – trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách
chuyển hoá lẫn nhau”. Nếu không có sự đồng nhất không thể có sự chuyển hoá
giữa chúng.

Sự đồng nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả sự tác động ngang nhau
giữa chúng.

+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập:

Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau của các mặt đó.

Không nên hiểu đấu tranh giữa các mặt đối lập với tư cách là một phạm trù
triết học một cách giản đơn chỉ như là: sự thủ tiêu lẫn nhau, sự xung đột giữa các
lực lượng thù địch bằng bạo lực, vì theo cách hiểu đơn giản đó sẽ không giải thích

46
được sự đấu tranh giữa hạt nhân và điện tử, đồng hoá và dị hoá... Cũng vì lẽ đó,
Lênin đã đưa từ đấu tranh vào trong ngoặc kép (“đấu tranh”). Tính đa dạng của
hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập cũng như của mối quan hệ qua lại giữa
chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều
kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ví dụ: Sự đấu tranh
giữa tư sản và vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về mọi mặt rất
gay gắt và quyết liệt, chỉ có thể thông qua cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức,
kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn này một cách căn bản. Sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập: đồng hoá và dị hoá, sức hút và sức đẩy, vi phân và
tích phân,... thì lại diễn ra dưới sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.

Với tư cách là hai xu hướng khác nhau trong mối quan hệ qua lại giữa các
mặt đối lập của một mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sự thống nhất của các mặt đối lập là
tương đối, đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối, bởi vì trong khi quy định,
ràng buộc lẫn nhau hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược
nhau, đấu tranh với nhau. Lênin viết: “Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều
kiện, tạm thời, thoáng qua tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”20.

+ Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập:

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, dẫn tới kết quả là làm cho các mặt đối lập
chuyển hoá. Do sự đa dạng của thế giới, nên các hình thức chuyển hoá cũng rất
đa dạng. Cụ thể là:

Thứ nhất, là sự chuyển hoá từng mặt, từng khía cạnh của mặt đối lập này
sang mặt đối lập khác.

Thứ hai, có thể mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập khác.

Thứ ba, cả hai mặt đối lập cũ đều bị mất đi và chuyển thành hai mặt đối lập
mới trong sự vật mới.

Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống
20
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.379– 380.
47
nhất của các mặt đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hoá
giữa chúng là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển.

Ph. Ăngghen nói: “Nguyên nhân chân chính và cuối cùng của mọi sự vật là
sự tác động lẫn nhau. Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh
hướng đối lập. Sự tác động qua lại đó quy định sự thay đổi thường xuyên trong
tất cả các mặt hay các sự vật đang tác động lẫn nhau”.

Trong thực tế, do đồng nhất đấu tranh với mọi sự va chạm, đụng độ, với
những sự rối loạn, mất ổn định nên con người thường ác cảm với đấu tranh.
Tuy nhiên, nếu không có đấu tranh sẽ không thể đưa đến sự phát triển. Chính
thông qua đấu tranh mà các mặt đối lập phải điều chỉnh lại cho phù hợp với sự
vận động biến đổi của chúng cũng như phù hợp với những điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử mới. Chính đấu tranh mới làm cho những cái cũ, cái lỗi thời có
thể mất đi và cái mới, cái tiến bộ có thể ra đời.

Đấu tranh có một ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của sự vật. Vì thế
Lênin khẳng định: “Sự phát triển là cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập. Có
điều không thể đồng nhất sự đấu tranh với các hiện tượng bè phái mất đoàn kết,
vì các hiện tượng này không tạo ra sự phát triển”21.

+ Quá trình hình thành mâu thuẫn:

Đồng nhất – Khác nhau (xung đột) – Mâu thuẫn

Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt.
Song, không phải bất cứ sự khác nhau nào của các mặt cũng là mâu thuẫn. Chỉ có
hai mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể và có khuynh
hướng phát triển trái ngược nhau, thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn.
Sau đó phát triển lên thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn
xung đột với nhau gay gắt và khi có điều kiện chín muồi thì giữa chúng có sự
chuyển hoá. Mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới
được hình thành và lại một quá trình mới làm cho sự vật không ngừng vận động
và phát triển.

21
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.379.
48
Như vậy, sự đấu tranh của các mặt đối lập đã làm cho các sự vật không thể
tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là
động lực bên trong của mọi sự vận động và phát triển.

- Phân loại mâu thuẫn

Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong
là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự
vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật với nhau.

Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu
thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn
cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả
các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu
thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn
không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật,
nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải
quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.

Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu
và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một
giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai
đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho
sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu
thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó
không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu
thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.

Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong
xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối
kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản
đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã

49
hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ
bản, cục bộ, tạm thời. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có
ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết
mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn
không đối kháng thì phải bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục trong nội bộ
nhân dân.

Tóm lại, thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là:
Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn
tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn vậy, phải tìm trong thể thống nhất của những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. Lênin khẳng định: “Sự phân đôi
của cái thống nhất và sự nhận thức của các bộ phận của nó…, đó là thực chất…
của phép biện chứng”22.

Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu
thuẫn. Đồng thời, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng
mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn
nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, xu
hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.

Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn
bằng con đường đấu tranh, không được điều hoà mâu thuẫn. Việc giải quyết mâu
thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương

22
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.378.
50
thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải
quyết khi điều kiện đã chín muồi. Vì vậy, một mặt, phải chống thái độ chủ quan,
nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho
các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải
có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu
thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với
điều kiện cụ thể. Phải biết lợi dụng mâu thuẫn trong những điều kiện cụ thể.

c. Quy luật phủ định của phủ định

ví dụ:
https://docs.google.com/document/d/11HCkAcuzw2sWT5h4yYYKOBKiXmI
0wDYGq80sGTUajNE/edit#

Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật, chỉ rõ khuynh hướng của sự vận động, phát triển của sự vật và
sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ.

- Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng

Trong thế giới vật chất, các sự vật đều có quá trình sinh ra, tồn tại, mất đi và
được thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là sự phủ định.
Như vậy, phủ định là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất.

Theo quan điểm siêu hình, phủ định là kết quả của sự tác động từ bên ngoài,
là sự phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự tồn tại và phát triển của nó.

Theo quan điểm biện chứng. Phủ định biện chứng là sự thay thế sự vật này
bằng sự vật khác trên cơ sở mất đi của sự vật cũ và nảy sinh sự vật mới, đó là sự
phủ định có kế thừa, tạo ra điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Với tư cách là học
thuyết về sự phát triển, phép biện chứng duy vật chú trọng phân tích không phải
sự phủ định nói chung mà căn bản là sự phủ định biện chứng.

Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng:

Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan. Thể hiện ở chỗ
nguồn gốc của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật, đó là kết quả của
51
việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật. Hơn nữa, phương thức phủ định
sự vật cũng không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Khi đề cập tới
vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng, do đó
mà có sự phát triển.

Tính kế thừa của phủ định biện chứng thể hiện ở chỗ: Cái mới ra đời trên cơ
sở của cái cũ, đó là sự phủ định có kế thừa, trong đó bao hàm sự loại bỏ những
yếu tố đã lỗi thời lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển; đồng thời cũng chọn lọc,
giữ lại những yếu tố tích cực và cải biến đi cho phù hợp với cái mới.

Tính kế thừa:
– Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó không
thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.

– Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra
đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời,
lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt
tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.

– Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt, tích cực và
chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.

Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai đoạn sau
bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giải đoạn trước và bổ sung thêm
những mặt mới phù hợp với hiện thực.

Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết
giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện tại. Phủ định biện
chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.

Ví dụ:
Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực
của cha mẹ và bỏ qua những yếu tố lạc hậu.

– Tuy vậy, cũng cần lưu ý là, những nhân tố tích cực của sự vật cũ được giữ lại vẫn
phải được cải tạo, phải được biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.

- Nội dung quy luật phủ định của phủ định

Thế giới vật chất vận động và phát triển diễn ra thông qua quá trình phủ định
biện chứng vô tận. Sự phát triển của các sự vật diễn ra qua nhiều lần phủ định,
tạo ra một khuynh hướng đi từ thấp đến cao có tính chu kỳ. Tính chu kỳ của sự
phủ định biện chứng biểu hiện ở chỗ thông qua một số lần phủ định, cái mới xuất
hiện dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.

52
Ví dụ:

Hạt thóc –––––––– Cây lúa –––––––Hạt thóc

(Khẳng định) (Phủ định) (Phủ định của phủ định)

Qua sự phủ định lần thứ nhất, sự vật chuyển thành mặt đối lập với chính
mình. Đó là một bước trung gian trong sự phát triển (Cây lúa phủ định hạt thóc).

Qua sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới này lại chuyển thành mặt đối lập với
nó và dường như trở lại dạng ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Nó thể hiện rõ
rệt bước tiến của sự phát triển (Hạt thóc phủ định cây lúa).

Như vậy, kết quả của sự phủ định của phủ định là cái tổng hợp tất cả những
yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước, trong cái khẳng định ban đầu và cái
phủ định lần thứ nhất. Đó là sự lọc bỏ biện chứng những giai đoạn đã qua để đạt
đến cái mới về chất cao hơn. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của
phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái
kết quả của lần phủ định thứ nhất.

Ở ví dụ trên, qua hai lần phủ định sự vật trải qua một chu kỳ phát triển. Rõ
ràng ở sự vật đơn giản, ít ra cũng phải thông qua hai lần phủ định mới có được sự
phát triển, ở các sự vật phức tạp số lần phủ định có thể nhiều hơn.

Ví dụ, vòng đời của con Tằm: Tằm – Nhộng – Ngài – Trứng – Tằm. Trong
xã hội loài người, từ xã hội không có giai cấp thời cộng sản nguyên thuỷ đến xã
hội không có giai cấp ở xã hội văn minh cũng phải thông qua nhiều lần phủ định.

Tuy nhiên, trong số rất nhiều lần phủ định của một chu kỳ phát triển biện
chứng, tất cả các lần phủ định đó vẫn có thể khái quát lại là hai lần: phủ định biện
chứng “lần thứ nhất” là loại phủ định chuyển cái xuất phát thành cái đối lập với
mình, phủ định biện chứng “lần thứ hai” là loại phủ định chuyển cái trung gian
thành cái đối lập của nó và, do đó, làm xuất hiện sự vật dường như lặp lại cái xuất
phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn.

Ví dụ: Cộng sản nguyên thuỷ – Chiếm hữu nô lệ – Phong kiến – Tư bản chủ
nghĩa – Cộng sản chủ nghĩa (Xã hội chưa có giai cấp – Xã hội có giai cấp – Xã
hội không còn giai cấp).
53
Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời
lại là điểm xuất phát của một chu kỳ mới và cứ như thế tiếp tục mãi mãi, tạo nên
hình thái “xoáy ốc” của sự phát triển (chứ không phải theo đường thẳng hoặc
theo đường vòng tròn tuần hoàn lặp lại thuần tuý mà không thấy được sự
tiến lên). Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua,
nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ
định”); sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo đường
thẳng”23.

Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy ốc” chính là hình
thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến
lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện một trình độ
cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái đã qua, dường
như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự
phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.

Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép
biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái
khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện
cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích
cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự
phát triển. Khái quát tính tất yếu khách quan của sự vận động đi lên của mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng
chung, là tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá
trình phát triển không diễn ra theo con đường thẳng mà quanh co, phức tạp, trải
qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được
cách nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc

23
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.26, tr.65.
54
biệt là các hiện tượng xã hội.

Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới,
vì cái mới, là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi
mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn
phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

Quy luật này còn vạch rõ cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ. Giữa cái mới
và cái cũ không có sự tách rời tuyệt đối. Do đó, trong khi phê phán cái cũ, cần
phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ hư vô
chủ nghĩa, phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên xi.

III. Lý luận nhận thức

1. Nguồn gốc, bản chất, mục đích của nhận thức

a) Nhận thức và các nguyên tắc nhận thức

Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách sáng tạo và được
minh chứng bởi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và thực tiễn xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức.
Học thuyết này ra đời dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:

Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
con người, là đối tượng nhận thức.

Thứ hai, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận thức
được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức được.

Thứ ba, khẳng định sự phản ánh là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết,
từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc
đến bản chất sâu sắc hơn.

Thứ tư, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là động

55
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.

Dựa trên những nguyên tắc trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:

Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ óc của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về
thế giới khách quan đó.

- Các trình độ nhận thức

Căn cứ vào mức độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức, người
ta chia nhận thức thành: Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Nhận thức
kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức
kinh nghiệm khoa học. Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu
tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của
nhận thức lý luận là những tri thức lý luận– thể hiện chân lý sâu sắc, chính xác và
có hệ thống. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận có quan hệ biện chứng
với nhau.

Căn cứ vào tính tự phát hay tính tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của
sự vật, người ta chia nhận thức thành: Nhận thức thông thường và nhận thức khoa
học. Nhận thức thông thường là loại nhận thức hình thành một cách tự phát, trực
tiếp từ hoạt động hằng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy
ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự
vật. Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgíc là các khái niệm,
phạm trù, quy luật khoa học. Giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa
học có quan hệ biện chứng với nhau.

b. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

- Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

56
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Thực tiễn gồm ba hình thức hoạt động cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất,
hoạt động chính trị – xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.

Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động thực tiễn quan trọng
nhất, có sớm nhất và cơ bản nhất. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng
những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải và các điều
kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình cũng như xã hội.

Hoạt động chính trị – xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ chính trị – xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.

Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một dạng đặc biệt của hoạt động thực
tiễn. Đó là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra
gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các
quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Ngày nay, trong điều
kiện cách mạng và khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì hình thức hoạt
động thực tiễn này càng đóng vai trò quan trọng.

Ngoài ba hình thức cơ bản trên, hoạt động thực tiễn còn được thể hiện ở một
số lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, nghệ thuật... Nhưng xét đến cùng, những
hình thức hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực trên lại thuộc về các hình thức
cơ bản của hoạt động thực tiễn.

Mối quan hệ giữa các hình thức cơ bản của thực tiễn: Mỗi hình thức hoạt
động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể
thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động
có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn
khác. Các hình thức hoạt động chính trị– xã hội và thực nghiệm khoa học có tác
dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức


57
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.

Bằng hoạt động thực tiễn, con người trực tiếp tác động vào các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng
phải bộc lộ các thuộc tính, các mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem
lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các
quy luật vận động và phát triển của thế giới.

Thứ hai, thực tiễn là động lực của nhận thức.

Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển, luôn đặt ra những vấn đề mới
đòi hỏi nhận thức phải trả lời, đặt ra những nhiệm vụ và phương pháp phát triển
cho nhận thức, đòi hỏi những tri thức mới, những khái quát mới để lý giải những
vấn đề mới nảy sinh. Đó chính là động lực chủ yếu thúc đẩy nhận thức ngày càng
phát triển.

Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng phát
triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng
cố và phát triển. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới,
khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình
về thế giới.

Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các công cụ, phương tiện, máy móc nhận
thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người
trong việc nhận thức thế giới, thúc đẩy nhận thức, tư duy phát triển.

Thứ ba, thực tiễn là mục đích của nhận thức.

Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức mà là
nhằm cải tạo hiện thực khách quan phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của xã
hội. Do đó, mọi tri thức khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa thiết thực khi nó
được vận dụng vào thực tiễn, nghĩa là được vận dụng vào sản xuất vật chất, vào
cải tạo xã hội và vào thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ con người.

Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý

Để đánh giá, kiểm nghiệm được tính đúng đắn hay sai lầm của những tri
thức đã thu nhận, không có con đường nào thay thế được vai trò của thực tiễn. Vì
58
thế, thực tiễn chính là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được
trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức.

Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.
Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất; tương đối vì bản thân thực
tiễn luôn luôn biến đổi và phát triển. Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất
phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát
triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể
nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhận mạnh vai trò đó của thực tiễn, Lênin đã cho
rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận về nhận thức”24.

2. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức

- Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính

V.I.Lênin trong tác phẩm Bút ký triết học đã khái quát: Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan.
+ Nhận thức cảm tính:

Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai
đoạn mà con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật
nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Nhận thức cảm tính bao gồm ba hình thức là cảm
giác, tri giác và biểu tượng.

Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.

Tri giác là sự phản ánh tương đối đầy đủ, toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó
đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Tri giác nảy sinh dựa
trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.

Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính.
24
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.167.
59
Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc người về
sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan.

Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu
nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa
phân biệt được cái gì là bản chất và không bản chất, đâu là tất yếu, đâu là ngẫu
nhiên, đâu là cái bên trong, đâu là cái bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức là phải
nắm được cái bản chất của sự vật, cái tất yếu, cái bên trong của sự vật. Muốn nắm
bắt được bản chất của sự vật thì nhận thức của con người phải phát triển lên một
trình độ mới, cao hơn về chất. Đó là trình độ nhận thức lý tính hay còn gọi là giai
đoạn tư duy trừu tượng.

+ Nhận thức lý tính:

Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát
những thuộc tính, đặc điểm bản chất của sự vật. Đây là giai đoạn nhận thức thực
hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật
của các sự vật. Vì vậy, nó đạt đến trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn
và đầy đủ hơn bản chất của đối tượng. Nhận thức lý tính bao gồm các hình thức
như khái niệm, phán đoán và suy luận (suy lý).

Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc
tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát,
tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật.

Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để
phản ánh mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng nhằm khẳng định hoặc phủ định
một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.

Suy luận là hình thức cao nhất của nhận thức lý tính, phản ánh những mối
liên hệ phức tạp giữa các sự vật, hiện tượng. Suy luận là sự liên kết các phán
đoán lại với nhau để rút ra phán đoán mới.

+ Quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình
nhận thức, giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau, không tách rời nhau.
60
Chúng đều cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là
hệ thần kinh của con người và đều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử– xã
hội. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, cung cấp tài liệu cho nhận thức lý
tính. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Có nhận thức
cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt được bản chất và
quy luật của sự vật. Nhận thức lý tính có sự tác động trở lại nhận thức cảm tính
làm cho nó có được sự định hướng đúng, chính xác hơn, nhạy bén hơn.

- Giai đoạn từ nhận thức lý tính đến thực tiễn

Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay sai lầm.
Ngoài ra, mục đích của nhận thức là để phục vụ, định hướng cho hoạt động thực
tiễn cải tạo thế giới.

Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của
nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn mới một chu trình nhận thức tiếp theo lại bắt
đầu và cứ như thế mãi mãi, làm cho quá trình nhận thức ở con người không
ngừng vận động và phát triển.

Như vậy, có thể thấy quy luật chung của quá trình vận động, phát triển của
nhận thức chính là: từ thực tiễn đến nhận thức – tái thực tiễn – tái nhận thức –...
Quá trình này không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt
dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về
thực tại khách quan.

3. Quan điểm duy vật biện chứng về chân lý

Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn
kiểm nghiệm. Chân lý là một quá trình vì nhận thức của con người là một quá
trình. Lênin nhận xét: “Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình.
Tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im
chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh
hướng, không vận động…”25.

Các tính chất của chân lý: Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể,
25
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.207.
61
tính tuyệt đối và tính tương đối.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tính khách quan của chân lý. Chân
lý là khách quan. Nghĩa là tuy chân lý là nhận thức của con người nhưng nội
dung của nó không phụ thuộc vào con người. Nếu phủ nhận tính khách quan của
chân lý thì nhất định sẽ dẫn tới thuyết không thể biết và chủ nghĩa duy tâm chủ
quan (những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và phủ nhận
khả năng nhận thức được thế giới đó). Lênin cho rằng: “Là người duy vật, có
nghĩa là thừa nhận chân lý khách quan”26.

Tính tuyệt đối và tương đối của chân lý. Chân lý tương đối là tri thức phản
ánh đúng hiện thực khách quan và đã được thực tiễn kiểm nghiệm nhưng chưa
đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình phát
triển tiếp theo của nhận thức. Chân lý tuyệt đối là những tri thức phản ánh đúng
đắn, hoàn toàn đầy đủ, toàn diện hiện thực khách quan và đã được thực tiễn kiểm
nghiệm. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách rời nhau mà có
sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các
chân lý tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng
chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối.

Tính cụ thể của chân lý (không có chân lý trừu tượng). Chân lý đạt được
trong quá trình nhận thức bao giờ cũng gắn với một lĩnh vực cụ thể của hiện thực
và được phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó. Vì vậy, Lênin
khẳng định: “Không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”27. Chân
lý là cụ thể bởi vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ cũng tồn tại một cách
cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những quan hệ cụ thể. Vì
vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn với điều kiện lịch sử – cụ thể. Nếu thoát ly
khỏi điều kiện lịch sử – cụ thể thì cái vốn là chân lý sẽ không còn là chân lý nữa.

Vai trò của chân lý đối với thực tiễn: Chân lý là một trong những điều kiện
tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.Hoạt
động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng
26
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.155.
27
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, t.42, tr.364.
62
được những tri thức đúng đắn về thế giới khách quan trong chính hoạt động thực
tiễn của mình.

Chương 3.
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mục đích: Trang bị cho sinh viên hệ thống quan điểm duy vật biện chứng
về xã hội, kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử
nhân loại, nhờ đó hoàn thiện thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Sinh viên thấy được chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong
những phát hiện vĩ đại nhất của triết học Mác.
Yêu cầu: Sinh viên phải nắm được những nội dung cốt lõi của học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, những quy luật xã hội chi phối sự vận động và phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử; nắm được mối quan hệ biện chứng
giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại, nguồn gốc và bản chất của nhà nước, vai

63
trò của cách mạng xã hội, vai trò của ý thức xã hội và của con người trong tiến
trình lịch sử xã hội của chính mình.
Nội dung ôn tập cơ bản:
I. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội
- Sản xuất vật chất là gì ?
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Sản xuất vật chất được
thực hiện trong quá trình lao động.
- Vai trò của sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự sinh tồn, phát triển của con người và xã
hội. Mác khẳng định rằng: Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và
do đó là tiền đề của mọi quá trình lịch sử đó là việc “con người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết
cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo, và vài thứ khác nữa. Như vậy,
hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu
cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” 28. Ăngghen cũng khẳng định:
“Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người”29.
Sản xuất vật chất còn là cơ sở làm phát sinh, hình thành và phát triển tất cả
các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của xã hội. Mác viết: "Việc sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp... tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta
phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm
chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta"30.
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Sản xuất vật chất không
phải lúc nào cũng ở trình độ như cũ mà nói chung là không ngừng tiến lên từ thấp
đến cao. Mỗi khi sản xuất vật chất phát triển đến một giai đoạn mới, cách thức sản
xuất của con người cũng thay đổi, kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động nâng

28
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.39–40.
29
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.641.
30
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NxbQ Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.500.
64
cao thì quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất cũng có sự biến đổi
và mọi mặt của đời sống xã hội đều có sự thay đổi theo.
- Phương thức sản xuất là gì ?
Phương thức sản xuất là phạm trù dùng để chỉ cách thức con người thực hiện
quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài
người.
- Vai trò của phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất thống trị trong mỗi xã hội như thế nào thì tính chất của
chế độ xã hội như thế ấy, các giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của các mối
quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị, đạo đức, pháp
quyền, triết học... ra sao, tất cả đều do phương thức sản xuất quyết định. Do đó,
phương thức sản xuất là tiêu chí để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Mác
viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì
mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”31.
Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua
các giai đoạn lịch sử. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương
thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi
căn bản, từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội
đến các tổ chức xã hội. Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất,
lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển. Do
đó, nghiên cứu phương thức sản xuất chính là chiếc chìa khoá để nghiên cứu lịch
sử vận động của xã hội loài người.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Trong quá trình sản xuất vật chất con người có quan hệ "song trùng": Một
mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là
quan hệ giữa con người với con người, tức là quan hệ sản xuất.
- Lực lượng sản xuất:

31
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.269.

65
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản
xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra năng lực thực
tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định
của con người và xã hội.
Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (với những kinh
nghiệm, kỹ năng, thói quen, tri thức, biết sử dụng tư liệu sản xuất… để tạo ra của cải
vật chất) và tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, tư liệu lao động mà trước hết là công
cụ lao động và các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,…).
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu
lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động phụ trợ của quá trình sản
xuất
Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ
phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, được con người sử dụng mới là đối
tượng lao động trực tiếp. Đối tượng lao động tồn tại dưới hai dạng: thứ nhất, là
dạng có sẵn trong tự nhiên, con người tách nó ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự
nhiên và biến thành sản phẩm như gỗ trong rừng nguyên sinh, quặng trong lòng
đất, tôm cá dưới sông biển; thứ hai, là dạng đã trải qua lao động chế biến như than
trong nhà máy nhiệt điện, sắt, thép để chế tạo máy móc…đối tượng lao động thuộc
loại này còn gọi là nguyên liệu. Chúng thuộc đối tượng lao động của các ngành
công nghiệp chế biến.
Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình
với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền sự tác động của con người vào đối
tượng lao động nhằm biến đối tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu
của con người. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất
của quá trình lao động sản xuất, hợp thành tư liệu sản xuất.
Trong tư liệu lao động, công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất, nó là hệ
thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất. Trong quá trình sản xuất, công cụ lao
động luôn được cải tiến. Nó là yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực
lượng sản xuất. Cùng với sự cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động thì kinh
nghiệm sản xuất của loài người cũng được phát triển và phong phú thêm.

66
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ
phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại
kinh tế. Mác viết: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối
xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”32.
Ngoài công cụ lao động là chủ yếu, trong tư liệu lao động còn bao gồm các tư
liệu phụ trợ quá trình sản xuất như: hệ thống bình chứa và kết cấu hạ tầng sản
xuất.
Tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao động, gọi chung là
hệ thống bình chứa của sản xuất, như ống, thùng, vại, giỏ v.v.. Loại tư liệu lao
động này đóng vai trò quan trọng trong ngành sản xuất hoá chất. Sản xuất phát
triển theo hướng ngày một hiện đại và thương mại ngày càng văn minh, thì loại tư
liệu lao động này càng phong phú, đa dạng và có tác dụng kích thích sản xuất, tiêu
dùng trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Tư liệu lao động, với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như đường sá, bến
cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, điện, nước, thuỷ lợi, bưu điện,
thông tin liên lạc, v.v.. là điều kiện rất cần thiết đối với quá trình sản xuất sản
phẩm. Cùng với sự phát triển của công cụ lao động, sự phát triển của kết cấu hạ
tầng sản xuất cũng đi từ thấp đến cao, từ thô sơ đến hiện đại.
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng:
Trong lực lượng sản xuất, người lao động đóng vai trò quyết định. Chính con
người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử
dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng
nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, không thể
trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Lênin viết: "Lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động"33.
Những sản phẩm của con người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều
phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư
liệu lao động nào.
32
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.187.
33
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, t.38, tr.430.
67
Năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đồng thời, xét đến cùng, nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của
một trật tự xã hội mới.
Ngày nay, khoa học đã trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành
“lực lượng sản xuất độc lập”34. Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến
đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra những ngành sản xuất mới, chế tạo ra
những vật liệu sản xuất mới. Tri thức khoa học được kết tinh vào mọi nhân tố của
lực lượng sản xuất từ đối tượng lao động, tư liệu lao động, tri thức của người lao
động. Khoa học làm cho thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất có sự
thay đổi. Bên cạnh người công nhân lao động chân tay, còn có các kỹ thuật viên,
kỹ sư, cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất chính là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội
dung vật chất của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào
có thể diễn ra nếu thiếu một trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản
xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất
hiện thực được mà còn cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình
thức kinh tế của quá trình sản xuất ấy.
- Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất vật chất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc
lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức con
người.
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản
xuất; Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; Quan hệ trong phân phối sản
phẩm lao động. Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó, quan hệ về
mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những
quan hệ khác. Quan hệ tổ chức quản lý và phân phối có vai trò quan trọng, nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất do đó tác động trở lại quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
34
Giáo trình Triết học Mác– Lênin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004, tr.437.
68
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu
xã hội. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung
vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất. Do đó, quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất và
trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu
công cộng (xã hội) là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi
thành viên của cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa con người với con người trong
mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người đó là quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá
trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ
thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực
lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử
đó. Trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện ở: Trình độ phát triển của công
cụ lao động, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ
chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học – kỹ thuật vào sản
xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển tới chỗ có tính chất cá
nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công như búa, rìu,

69
cày bừa v.v.., phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có
tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao
động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng
nhất. Thể hiện ở chỗ: Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt
hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao
động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến
đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao
động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của người lao động cũng tiến bộ lên.
Do đó, lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình
thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy
đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử
dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó
lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
nguyên tắc khách quan của quá trình sản xuất:
Lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển thuận lợi khi quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của nó. Nhưng lực lượng sản xuất là yếu tố động, thường xuyên
biến đổi, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc
hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế, khi lực lượng sản xuất đã
phát triển lên một trình độ mới sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở
thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản
xuất trở thành xiềng xích, chướng ngại của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Từ đây, nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của
phương thức sản xuất. 35

35
https://luatduonggia.vn/quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-trinh-do-phat-trien-cua-luc-luong-san-xuat/
70
Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp
với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, để mở đường và thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng
có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của
một phương thức sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của
các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách
mạng xã hội.
- Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất
không thụ động. Tuy hình thành và biến đổi trên cơ sở lực lượng sản xuất nhưng quan
hệ sản xuất có sự tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất là bởi vì: Nó
quy định mục đích sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản
lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người
lao động được hưởng. Vì thế, nó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần chúng
lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Nó tạo ra những điều kiện hoặc
kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu
khoa học – kỹ thuật vào sản xuất...
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể
diễn ra theo hai chiều hướng là phù hợp hoặc không phù hợp. Khi quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó trở thành động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Ngược lại, khi quan hệ sản
xuất đã lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Song, tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất đã lỗi thời đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất chỉ là tạm thời. Theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó
cũng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với trình

71
độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
không phải là giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động thực tiễn cải
tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai
cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối
quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh
tế của quá trình sản xuất xã hội. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình
đi từ sự thống nhất (phù hợp, tác động lẫn nhau) đến những khác biệt (không phù
hợp) và đối lập gay gắt, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải
quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị;
Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ; Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các quan hệ sản xuất khác. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu
hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội. Vì thế, đặc trưng cho tính chất
của một cơ sở hạ tầng cụ thể là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tuy nhiên,
quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, hệ thống quan hệ sản xuất hiện thực của một xã hội đóng vai trò
kép: một mặt, với lực lượng sản xuất, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế cho sự
duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất hiện thực; mặt khác, với các
quan hệ chính trị– xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế, làm
cơ sở cho sự thiết lập một hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng

72
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội... được hình thành trên cơ
sở hạ tầng nhất định.
Khi phân tích những quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của việc xác
lập trên đó những quan hệ chính trị– xã hội. Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng
lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất
định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”36.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, nhưng chúng tồn tại
không tách rời nhau mà có sự liên hệ tác động qua lại với nhau, đều được nảy sinh
trên một cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng đó. Không phải tất cả các yếu tố
của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó mà
mỗi yếu tố có sự liên hệ riêng, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng bao gồm: Hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị và các thiết chế tương ứng như nhà nước, giáo hội, toà
án, nhà tù...; ngoài ra còn có những quan điểm, các tổ chức xã hội của các tầng lớp
trung gian, của các giai cấp mới đang là mầm mống của một xã hội tương lai cũng
như những tàn dư tư tưởng cuả xã hội cũ còn rơi rớt lại.
Trong xã hội có giai cấp, bộ phận quan trọng nhất trên kiến trúc thượng tầng
là nhà nước. Nó là công cụ để thực hiện sự thống trị của giai cấp thống trị về mọi
mặt (nhà nước quản lý, thống trị xã hội bằng pháp luật, có quân đội, công an, toà
án, nhà tù…). Nhờ có nhà nước, tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được
toàn bộ đời sống xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng có tính giai cấp. Tính giai cấp
của kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ các giai cấp luôn có sự đối lập và luôn
đấu tranh với nhau về mặt chính trị và tư tưởng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

36
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15.
73
Thứ nhất, mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng
tương ứng với nó, quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị về chính trị và trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản
xuất nào thống trị thì sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng.
Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng quyết định các mâu thuẫn trong
lĩnh vực chính trị tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu
hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp luật, triết
học, tôn giáo... đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở
hạ tầng quyết định.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng
thay đổi theo.
Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế – xã hội cũng như khi
chuyển từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang một hình thái kinh tế – xã hội
khác. Mác nhận định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng
đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”37.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến biến đổi của kiến trúc thượng tầng từ
một hình thái kinh tế– xã hội này sang một hình thái kinh tế– xã hội khác là một
quá trình diễn ra hết sức phức tạp:
Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất
theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với
nó cũng xuất hiện. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra
thông qua cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Sự hình thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết
định, nhưng nó còn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng xã hội cũ.

37
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15.
74
Nguyên nhân trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đến lượt nó, lại
làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản.
- Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, nhưng
toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc
lập tương đối và tác động mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở chức năng
xã hội của kiến trúc thượng tầng là duy trì, bảo vệ và củng cố cơ sở hạ tầng đã sinh ra
nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì nhà nước giữ vai trò đặc
biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì nó là công cụ bạo lực
tập trung trong tay sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị. Dựa vào
Nhà nước, giai cấp thống trị kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu
tố vật chất như: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù... để tăng cường sức mạnh kinh
tế của giai cấp thống trị, củng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.
Ph.Ăngghen viết: “Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước)– cũng là một sức mạnh
kinh tế”38.
Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật v.v.. cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình
thức khác nhau có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Không những thế bản thân giữa các
yếu tố đó cũng có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động của các yếu tố này đối
với cơ sở hạ tầng thường phải thông qua nhà nước, pháp luật và các thể chế tương
ứng mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng cũng như đối với toàn xã
hội.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực: Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp
với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế
phát triển; Nếu như kiến trúc thượng tầng tác động không phù hợp với các quy

38
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.37, tr.683.
75
luật kinh tế khách quan thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kìm hãm sự
phát triển xã hội. Tuy nhiên, sự kìm hãm của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở
hạ tầng không phải là mãi mãi. Cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội vẫn tự mở đường
đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên
Học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế – xã hội vạch rõ kết cấu cơ bản
và phổ biến của mọi xã hội, quy luật vận động và phát triển tất yếu của xã hội.
a. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế– xã hội
- Khái niệm
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy.
- Cấu trúc
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống cấu trúc phức tạp, trong đó có
những yếu tố cơ bản nhất là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi yếu tố đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo
nên sự vận động của cơ thể xã hội.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất– kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế –
xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế – xã hội xét đến cùng
là do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình
thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự
phát triển của xã hội loài người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả mọi quan hệ xã
hội khác. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế–
xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó, do vậy nó là tiêu chuẩn

76
khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Các quan hệ
sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.
Những quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên
đó hình thành lên một kiến trúc thượng tầng xã hội (đó là các quan điểm về chính
trị, pháp quyền, đạo đức, triết học…và các thiết chế tương ứng như nhà nước,
đảng phái…), mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên đây, các hình thái kinh tế– xã hội còn có các
quan hệ khác như quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc và các quan
hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi
cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
b. Quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế –
xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp
nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã
hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử đều
do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã
hội. C.Mác khẳng định: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế– xã hội
là một quá trình lịch sử – tự nhiên"39.
Các yếu tố cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế– xã hội (lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng) không tách rời nhau mà có quan hệ
biện chứng với nhau, hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Đó là:
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng... Chính do sự
tác động của các quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế–xã hội vận
động, phát triển và thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình
lịch sử– tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con
người.

39
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.21.
77
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của các hình
thái kinh tế– xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Bởi vì, quá trình phát
triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Sự thay thế những hình thái kinh tế– xã hội thường được thực hiện thông qua
cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất khi quan hệ sản xuất lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm muộn toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng
biến đổi theo.
Lênin khẳng định: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử– tự nhiên”40.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế– xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao– đó là con đường phát triển chung của
nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi
các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện khách quan và chủ quan
như: về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hoá, về điều kiện quốc tế v.v..
Chính vì thế, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân
tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế– xã hội từ
thấp đến cao một cách tuần tự, chẳng hạn như các nước như Anh, Pháp,...
Thứ hai, có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế– xã hội
nào đó. Chẳng hạn như người thổ dân châu Úc, châu Mỹ đi từ chế độ nô lệ lên
thẳng chủ nghĩa tư bản; Việt Nam, Trung Quốc “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa
tiến lên chủ nghĩa xã hội…. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá
trình lịch sử– tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Việc bỏ qua đó phải
tuân thủ một số điều kiện khách quan, chủ quan nhất định: Một là, trên thế giới,

40
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974, t 1, tr. 163.
78
phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại đã xuất hiện và ít nhiều đã chứng tỏ
được tính ưu việt của nó. Hai là, trên thế giới, phương thức sản xuất bị bỏ qua đã
trở nên lạc hậu, lỗi thời, đang cản trở bước tiến của lịch sử. Ba là, trong nội bộ
quốc gia, dân tộc đó phải có một lực lượng xã hội tiên tiến, đủ trình độ và bản lĩnh
để lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện bước chuyển biến cách mạng này.
Thứ ba, trong thực tế lịch sử, sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế– xã
hội ở các khu vực khác nhau diễn ra không đều. Tuy cùng một thời gian nhưng có
những nước đã đạt tới một hình thái kinh tế– xã hội cao, lại có những nước vẫn
còn ở một hình thái kinh tế– xã hội thấp hoặc rất thấp.
Như vậy, quá trình lịch sử– tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong
những điều kiện lịch sử nhất định. Lênin viết: “Tính quy luật chung của sự phát
triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số
giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trật tự của
sự phát triển đó”41.
c. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế– xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội
(coi xã hội là một sự kết hợp có tính chất máy móc của nhiều cá nhân và gia đình,
coi sự vận động, phát triển của xã hội là do ý chí của những nhà cầm quyền chi
phối). Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân của nó là lý
luận hình thái kinh tế– xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học
trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội (làm cho xã hội học trở thành một khoa học
thật sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử). Thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế– xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ
sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của
nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống
xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc
từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội
mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc

41
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974, t 45, tr. 431.
79
biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội mà cốt lõi của nó
là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế– xã hội, xã hội không phải là sự kết
hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động,
trong đó các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc
thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai
trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính xác
đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hoá khoa học– đó
là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân
tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hoá, khoa học…) của đời
sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế– xã hội, sự vận động, phát triển của xã
hội là một qúa trình lịch sử– tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Do vậy, muốn nhận thức và
giải quyết đúng đắn, có hiệu qủa những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
II. Giai cấp và dân tộc
1. Định nghĩa giai cấp
Trên cơ sở tư tưởng của Mác và Ăngghen về đặc trưng giai cấp, trong tác
phẩm sáng kiến vĩ đại (1919), Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp như sau:
"Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà
tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập
đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế – xã hội nhất định"42.

42
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, t 39, tr. 17–18.
80
Giai cấp có bốn đặc trưng cơ bản là: Thứ nhất, giai cấp là những tập đoàn
người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Thứ hai,
có quan hệ khác nhau về quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Thứ ba, có vai trò
khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội và trong tổ chức quản lý sản xuất.
Thứ tư, có những phương thức và quy mô thu nhập khác nhau về của cải xã hội.
Bốn đặc trưng trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đặc trưng thứ hai là đặc
trưng cơ bản nhất, có vai trò chi phối các đặc trưng khác.
2. Nguồn gốc giai cấp
Nguồn gốc trực tiếp quyết định sự hình thành các giai cấp là sự xuất hiện chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Nguồn gốc sâu xa của sự phân hoá giai cấp trong xã hội là do sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Con đường hình thành, phát triển giai cấp có thể diễn ra với những hình thức
khác nhau, mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác nhau trong lịch sử.
Điều đó tuỳ thuộc cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình
vận động, phát triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá
trình hình thành giai cấp trong lịch sử diễn ra theo hai con đường sau:
Thứ nhất, sự phân hoá trong nội bộ cộng đồng xã hội (công xã) thành kẻ
giàu, người nghèo, kẻ bóc lột, người bị bóc lột.
Thứ hai, con đường bạo lực (chiến tranh xâm lược nô dịch, những tù binh của
các cuộc chiến tranh không bị giết như trước đây mà được giữ lại làm nô lệ phục
vụ những người giàu và có địa vị xã hội).
3. Đấu tranh giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là gì ?
Theo Lênin, đấu tranh giai cấp là "Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản"43.

43
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, t 7, tr.237–238.
81
Nói cách khác, đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp có
lợi ích căn bản đối lập nhau.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối
lập về lợi ích và địa vị của các giai cấp khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã
hội nhất định.
Liên minh giai cấp: Trong quá trình của cuộc đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp
đều tập hợp những lực lượng, những giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội
về phía mình. Sự liên kết giữa các giai cấp khác nhau để phấn đấu cho những mục
tiêu chung là liên minh giai cấp.
- Các hình thức đấu tranh giai cấp trong lịch sử
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp
cũng khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thức đấu tranh của nô lệ còn giản đơn
như phá hoại công cụ sản xuất, bỏ công việc, phá hoại mùa màng, tài sản của quý
tộc, chủ nô, hoặc bỏ trốn. Hình thức đấu tranh tích cực và cao nhất lúc ấy chỉ là tổ
chức những cuộc bạo động hay khởi nghĩa vũ trang.
Trong xã hội phong kiến, hình thức đấu tranh của nông dân là đánh phá trại
ấp, cướp lương thực của lãnh chúa. Hình thức cao hơn là những cuộc khởi nghĩa
lớn làm rung chuyển cả chế độ xã hội. Những cuộc khởi nghĩa của nông nô có thể
làm cho chính quyền phong kiến sụp đổ, nhưng họ không tạo ra được một xã hội
mới. Trong thời kỳ ấy, bản thân quần chúng lao động chỉ là lực lượng cơ bản của
cách mạng tư sản.
Chủ nghĩa tư bản ra đời, đã đẩy chế độ tư hữu lên đỉnh cao nhất của nó. Cuộc
đấu tranh giai cấp lúc này trở nên sâu sắc hơn với những hình thức đấu tranh của
giai cấp vô sản trong xã hội tư bản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng và đấu
tranh chính trị.
Đấu tranh kinh tế là hình thức đấu tranh đầu tiên và trở thành hình thức đấu
tranh cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản. Đó là cuộc đấu tranh cho những
lợi ích hàng ngày của công nhân như tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện
làm việc...Ngày nay, đấu tranh kinh tế là điều kiện để có việc làm, đấu tranh

82
chống sa thải trong điều kiện trang bị các kỹ thuật hiện đại. Qua đấu tranh kinh tế,
những người công nhân trực tiếp ý thức được lợi ích giai cấp và mục tiêu cụ thể
của mình, hình thành và phát triển tình đoàn kết giai cấp. Vì vậy, khi đến độ chín
muồi, đấu tranh kinh tế tất yếu chuyển thành đấu tranh chính trị.
Đấu tranh tư tưởng là vạch trần bản chất bóc lột của các xã hội cũ, tính chất
phản động của tư tưởng tư sản và đưa thế giới quan Mác– Lênin– hệ tư tưởng
khoa học và cách mạng vào vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của quần chúng
vô sản, làm cho giai cấp vô sản nhận thức được vai trò lịch sử vĩ đại của mình,
phát huy tính tích cực, sáng tạo, cách mạng của quần chúng nhân dân lao động,
tập hợp, đoàn kết họ xung quanh đội tiền phong cách mạng của giai cấp vô sản.
Đấu tranh tư tưởng còn nhằm giáo dục quần chúng thấm nhuần chiến lược,
sách lược cách mạng của Đảng, biến đường lối của Đảng thành hành động cách
mạng. Đấu tranh tư tưởng còn phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đủ loại, bảo
vệ chủ nghĩa Mác– Lênin, đường lối của Đảng.
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản. Mục
tiêu của nó là giành chính quyền và sử dụng chính quyền đó như một công cụ có
hiệu lực để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đấu tranh chính trị đòi hỏi phải
nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân, liên kết họ lại trong mặt trận
thống nhất của toàn giai cấp dưới sự chỉ đạo của một lực lượng nòng cốt, tiên
phong là Đảng cộng sản.
- Giành chính quyền Nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào nếu chưa giải quyết
được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết được những
vấn đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, không phải mọi cuộc
đấu tranh giai cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước
là vấn đề trung tâm của nó mà chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới
trình độ đấu tranh chính trị thì vấn đề đó mới trở thành vấn đề trung tâm và cơ bản
của nó– đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội với tư cách là
đỉnh cao của sự đấu tranh giai cấp.

83
- Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có
giai cấp
Thứ nhất, đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của
sự phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hoá thành đối kháng giai
cấp.
Thứ hai, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp không chỉ
thể hiện ở trong thời kỳ cách mạng mà còn cả trong thời kỳ hoà bình.
Thứ ba, đấu tranh giai cấp không những có tác dụng cải tạo xã hội, xoá bỏ
quan hệ sản xuất lỗi thời, xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu mà còn có tác
dụng cải tạo bản thân giai cấp cách mạng, làm cho giai cấp cách mạng trưởng
thành.
Tuy vậy, cần chú ý là, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất
làm nên sự phát triển của lịch sử. Ngoài đấu tranh giai cấp, còn phải kể đến hàng
loạt các nhân tố khác như: nhu cầu ngày càng tăng của con người, sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, cả những nhân tố tư tưởng, đạo đức... đều là những động
lực phát triển của xã hội.
4. Mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại
a. Quan hệ giai cấp - dân tộc
- Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết với nhau. Song, giai cấp và dân tộc
sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại, giai cấp có trước dân
tộc. Khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Sẽ không hiểu được bản chất
của vấn đề dân tộc, mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc nếu không thấy được vai
trò của nhân tố kinh tế - xã hội.
- Quan hệ giai cấp xét đến cùng là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự hình
thành dân tộc, đối với xu hướng phát triển của dân tộc, qui định bản chất xã hội
của dân tộc, qui định bản chất của mối quan hệ giữa các dân tộc. Biểu hiện rõ
nhất, điển hình nhất là vai trò của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đối với sự
hình thành các dân tộc hiện đại.
- Bản chất xã hội của dân tộc được qui định bởi phương thức sản xuất thống trị
trong dân tộc, bởi quan hệ giai cấp do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra.

84
- Áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa, căn bản của áp bức dân tộc. Hiện
tượng dân tộc này thống trị, áp bức dân tộc khác trong lịch sử, về thực chất là: giai
cấp thống trị của dân tộc này áp bức bóc lột dân tộc khác, trong đó tập đoàn người
bị áp bức bóc lột nặng nề nhất là nhân dân lao động.
- Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. Các
vấn đề: Giai cấp nào lãnh đạo phong trào, liên minh giai cấp nào là lực lượng nòng
cốt của phong trào là những vấn đề trọng yếu của cách mạng giải phóng dân tộc.
- Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc không phải chỉ có
một chiều là đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn có chiều
ngược lại: đấu tranh dân tộc tác động vào đấu tranh giai cấp. Nếu dân tộc chưa có
độc lập, thống nhất thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở
thành giai cấp dân tộc thì phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân tộc, phải
thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc lập, thống nhất dân tộc.
- Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có
vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân trên
toàn thế giới. Giải quyết mối quan hệ giữa đấu tranh dân tộc và đấu tranh giải
phóng giai cấp trên phạm vi toàn cầu cũng như trong từng quốc gia dân tộc trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa Lênin.
b. Mối quan hệ giữa giai cấp và nhân loại
- Khái niệm nhân loại chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất từ hàng
triệu năm nay. Nhân loại một mặt phân chia thành các giai cấp, tầng lớp có vai trò
xã hội và lợi ích khác nhau; mặt khác phân chia thành các cộng đồng xã hội tộc
người có trình độ phát triển khác nhau. Song, nhân loại vẫn là một thể thống nhất.
Cơ sở của sự thống nhất ấy là bản chất người của từng cá thể và của cả cộng đồng,
bản chất đó qui định lợi ích chung và qui luật phát triển chung của cả cộng đồng.
- Lợi ích chung của nhân loại là vấn đề có liên quan đến sự sống còn của cả
loài người. Chẳng hạn, những vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi
truờng, vấn đề dân số, chống các loại dịch bệnh đe doạ sự sống còn của cả nhân
loại. Lợi ích nhân loại là những nhân tố đáp ứng nhu cầu phát triển của loài người
của mọi quốc gia, không phân biệt sự khác nhau về giai cấp, dân tộc hay tôn giáo.

85
-Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi
ích giai cấp, lợi ích dân tộc và vì vậy, nó bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Lịch sử
xã hội đã cho thấy, lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại.
Các giai cấp phản động đối với lịch sử thì lợi ích của giai cấp về căn bản mâu
thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích chung của nhân loại.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn giải phóng mình, giai cấp vô sản
phải giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vì
vậy, lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân
loại.
III. Nhà nước và cách mạng xã hội
1. Nhà nước
Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật
tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
a. Nguồn gốc của nhà nước
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là một phạm trù lịch
sử, nghĩa là nó có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước chỉ xuất
hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nó sẽ tiêu
vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nó không
còn nữa.
- Lịch sử cho thấy, không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội
nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, do đó nhà
nước chưa xuất hiện.
- Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu, từ đó xã
hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể
điều hoà xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt
lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không xảy ra, một cơ
quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử
là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Nó ra đời trong cuộc đấu tranh không thể điều hoà
giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô. Tiếp đến là nhà nước phong kiến, nhà nước
tư sản.

86
Như vậy, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hoà được. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là một tất yếu
khách quan. Theo Lênin: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà đuợc. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì
nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được" (1).
b. Bản chất của nhà nước
- Nhà nước xuất hiện từ nhu cầu kìm chế sự đối lập giữa các giai cấp, làm cho
cuộc đấu tranh giữa những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó không
đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và giữ cho sự xung đột nằm trong vòng trật tự, trật tự
đó hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế trong đó giai cấp này bóc lột giai
cấp khác.
- Giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp có thế lực nhất, giai
cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế, là chủ sở hữu tư liệu sản xuất trong xã hội.
Do vậy, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ
trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
- Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về
chính trị và do đó, nó có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp
khác. Vì thế, về bản chất Ănghen khẳng định: "Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ
máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác"(2).
- Từ bản chất trên cho thấy:
+ Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra
nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động.
Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp
khác vì lợi ích của giai cấp thống trị. Đây là bản chất của nhà nước theo nguyên
nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột.
+ Nhà nước không thể là lực lượng điều hoà xung đột giai cấp, trái lại, nó càng
làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt.
(1)
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, T.33, tr.9.
(2)
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.22, tr.290-291.
87
+ Thực tế lịch sử cũng cho thấy, cho dù được che dấu dưới những hình thức
nào thì nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo
vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Đặc trưng thứ nhất: Nhà nước quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Đặc trưng thứ hai: Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Đặc trưng thứ ba: Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng
cường bộ máy cai trị.
d. Chức năng cơ bản của nhà nước
Tuỳ theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia khác
nhau: Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống
trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của
quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) là chức năng
nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của
giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng
nhà nước thực hiện sự quản lí những hoạt động chung vì sự tồn tại của toàn xã
hội; thoả mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lí
của nhà nước. Trong hai chức năng trên thì chức năng thống trị chính trị của giai
cấp là cơ bản nhất. Song, chức năng giai cấp chỉ thực hiện được thông qua chức
năng xã hội.
Chức năng đối nội: Nhà nước thực hiện chức năng đối nội nhằm duy trì trật tự
kinh tế, xã hội, chính trị và các trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của
giai cấp cầm quyền. Chức năng đối ngoại: Nhà nước thực hiện chức năng đối
ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, hoặc có thể mở mang lãnh thổ và quan hệ
với các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như của quốc gia, khi lợi
ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối nội
và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thể thống nhất. Trong đó,

88
chức năng đối nội là chủ yếu, quyết định tính chất của chức năng đối ngoại. Chức
năng đối ngoại tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội của nhà nước.
e. Các kiểu và các hình thức của nhà nước
- Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp
nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội
nào. Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau.
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, đó là hình thức cầm quyền của
giai cấp thống trị.
- Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử (chiếm
hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa) là ba kiểu nhà nước: Nhà nước chiếm
hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản.
Tuỳ theo tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà
nước được tổ chức theo những hình thức khác nhau. Cụ thể là:
Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đây là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại.
Nhà nước này được tổ chức dưới các hình thức như: chính thể quân chủ và chính
thể cộng hòa, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Dù tồn tại dưới hình thức
nào thì chúng vẫn là nhà nước chủ nô, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp chủ nô thống
trị, thực hiện chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến. Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà
nước phong kiến tồn tại chủ yếu dưới hai hình thức là: Phong kiến phân quyền ở
phương Tây và phong kiến tập quyền ở phương Đông. Dù tồn tại dưới hình thức nào
thì nó cũng vẫn chỉ là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc, là công cụ để giai cấp
địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.
Nhà nước tư sản. Đây là nhà nước của giai cấp tư sản. Nhà nước tư sản được tổ
chức dưới nhiều hình thức rất khác nhau, nhưng nhìn chung chỉ có hình thức cơ bản
nhất là: hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại
được tổ chức dưới các hình thức khác nhau như: cộng hoà Đại nghị, cộng hoà Tổng

89
thống, trong đó cộng hòa Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến. Ngoài ra, các
hình thức cụ thể của nhà nước tư sản hiện đại còn có sự khác nhau về chế độ bầu cử,
chế độ tổ chức một viện hay hai viện, về nhiệm kỳ tổng thống... Tất nhiên, dù là hình
thức nào, cơ chế tổ chức nào thì nó vẫn không làm thay đổi bản chất nhà nước tư sản,
là công cụ bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản
và quần chúng lao động.
Lênin viết: "Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau,
nhưng thực chất chỉ là một. Chung qui lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận
thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản" (1).
- Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới
+ Tính tất yếu của nhà nước vô sản
C.Mác khẳng định, giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn xóa bỏ tình
trạng người bóc lột người và mọi sự tha hoá của con người do chế độ chiếm hữu
tư nhân đối với tư liệu sản xuất sản sinh ra, trước hết là phải chiếm lấy chính
quyền, thực hiện chuyên chính của giai cấp công nhân. Song để hoàn thành vai trò
lịch sử đó, giai cấp vô sản không thể sử dụng bộ máy nhà nước tư sản sẵn có, mà
phải thay thế bằng nhà nước của mình là nhà nước vô sản. Sự ra đời và tồn tại của
nhà nước vô sản là một tất yếu lịch sử, bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng
vô sản - một cuộc cách mạng sâu sắc và triệt dể nhất trong lịch sử. Nhờ có nhà
nước của mình giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới có thể: Đè bẹp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột và bọn phản động; Xoá bỏ mọi ách áp bức bóc lột,
đảm bảo cho người lao động trở thành người làm chủ xã hội; Phát triển và hoàn
thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tính tích cực sáng tạo của nhân dân; Xây
dựng và củng cố lực lượng quốc phòng, chống mọi âm mưu xâm lược và phá hoại
của kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng; Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu và vận
dụng những giá trị mới của nền văn minh nhân loại phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Những đặc điểm cơ bản của nhà nước vô sản

(1)
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, T.33, tr.43-44.
90
Nhà nước vô sản là nhà nước của dân, do dân và vì dân; là một tổ chức thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nhà nước vô sản vừa là cơ quan cưỡng chế vừa là cơ quan quản lý kinh tế, văn
hoá, xã hội. Cùng một lúc thực hiện hai chức năng tổ chức, xây dựng và trấn áp,
trong đó tổ chức, xây dựng là mặt chủ yếu của nhà nước vô sản.
Nhà nước vô sản vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc vừa thực hiện nhiệm vụ quốc
tế. Nó liên kết với giai cấp công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh giải quyết
những vấn đề vì lợi ích chung của nhân loại như hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
- Hình thức của nhà nước vô sản
Nhà nước vô sản tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như: nhà nước vô sản
kiểu công xã, nhà nước vô sản kiểu xô viết, nhà nước dân chủ nhân dân... Dù tồn
tại dưới hình thức nào thì nhà nước vô sản cũng vẫn là chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, nhà nước vô sản là một nhà nước đặc
biệt, nhà nuớc không còn nguyên nghĩa, nhà nước nửa nhà nuớc. Bởi vì, sau khi
những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự ra đời và tồn tại của nhà nước vô sản không
còn nữa thì nhà nước vô sản mất đi. Sự mất đi của nhà nước vô sản bằng con
đường tự tiêu vong.
2. Cách mạng xã hội
a. Khái niệm cách mạng xã hội
Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn
bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển
từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi
thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
Dù theo nghĩa nào, thì giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng. Bởi vì, chỉ có thể giành chính quyền về tay mình, giai cấp cách mạng
mới có thể xác lập được nền chuyên chính của mình, mới có cơ sở để đảm bảo
quyền lực của mình.

91
Cách mạng xã hội khác với: tiến hoá xã hội, cải cách xã hội và đảo chính.
b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định
thì quan hệ sản xuất trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến với giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt
là công cụ nhà nước có trong tay để bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời. Để
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn và làm cho nó trở
thành quan hệ sản xuất thống trị, để giải phóng mình, giai cấp cách mạng phải tiến
hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền nhà nước. Do
vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp và là bước nhảy vọt tất
yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp.
c. Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, bởi vì:
Thứ nhất, cách mạng xã hội là phương thức thay thế hình thái kinh tế - xã hội
này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Chỉ có cách mạng xã hội mới
thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Thứ ba, thông qua cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân
dân được phát huy cao độ. Vì thế, Mác khẳng định: cách mạng xã hội là đầu tầu
của lịch sử.
d. Biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách
mạng xã hội.
- Điều kiện khách quan
Cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra khi đã có những điều kiện khách quan cần
thiết, chín muồi tạo thành tình thế cách mạng.

92
Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội dẫn tới những đảo lộn trong
nền tảng kinh tế - xã hội, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc khiến
cho việc thay thế thể chế chính trị đó bằng thể chế chính trị khác tiến bộ hơn như
là một thực tế không thể đảo ngược.
Tình thế cách mạng có ba đặc trưng sau:
Một là: Giai cấp thống trị lâm vào khủng hoảng chính trị, bộ máy nhà nước
suy yếu nghiêm trọng. Giai cấp thống trị không thể thống trị được như trước nữa.
Hai là: Nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề
hơn mức bình thường.
Ba là: Do những nguyên nhân trên, tính tích cực của quần chúng được nâng
cao rõ rệt, đòi hỏi cần phải có hành động lịch sử độc lập.
- Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là hành động của chủ thể (con người) nhằm tác động vào
hoàn cảnh khách quan để biến đổi nó.
Sự chín muồi của nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội biểu hiện ở trình
độ cao của tính tổ chức, ở mức độ quyết tâm đến đỉnh điểm của giai cấp cách
mạng sẵn sàng tiến hành những hành động cách mạng mạnh mẽ nhất, kiên quyết
nhất để lật đổ chính quyền cách mạng do giai cấp đó làm chủ thể.
Trong cách mạng vô sản, nhân tố chủ quan bao gồm: Trình độ trưởng thành
của phong trào công nhân, phong trào quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân; Sự sẵn sàng về tư tưởng, về tổ chức và hành động của Đảng
cộng sản; Ý chí quật khởi của quần chúng sẵn sàng đứng lên lật đổ nhà nước tư sản.
- Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách
mạng xã hội
Muốn cho cách mạng xã hội nổ ra và giành thắng lợi, thì cần có sự kết hợp
chặt chẽ điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan:
Nếu chưa có những điều kiện khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội thì
không có một nỗ lực nào của người cách mạng có thể đưa cách mạng đến thắng
lợi.

93
Khi điều kiện khách quan cho cuộc cách mạng đã chín muồi, thì vận mệnh của
một cuộc cách mạng lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào nhân tố chủ quan và lúc đó nhân
tố chủ quan giữ vai trò chủ đạo.
Cách mạng xã hội không thể nổ ra và thắng lợi khi điều kiện khách quan
không cho phép. Nhưng giai cấp cách mạng không thể thụ động ngồi chờ, mà phải
chuẩn bị lực lượng và phải tác động làm cho điều kiện khách quan chín muồi. Và
khi điều kiện khách quan đã chín muồi, tình thế cách mạng xuất hiện thì giai cấp
cách mạng phải kịp thời chớp lấy thời cơ, phát động quần chúng đứng lên làm
cách mạng, giành chính quyền về tay mình.
Tóm lại, cách mạng xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan. Quá trình phát triển của cách mạng là quá trình kết hợp biện
chứng giữa hai nhân tố đó. Sự thống nhất đó là một qui luật cơ bản của cách mạng xã
hội, xem thường nó thì không có sự thắng lợi của cách mạng.
IV. Ý thức xã hội
1. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội
Lênin viết: “Chủ nghĩa duy vật lấy tồn tại để giải thích ý thức chứ không phải
ngược lại, thì khi áp dụng vào đời sống xã hội của loài người, nó buộc phải lấy tồn
tại xã hội để giải thích ý thức xã hội”44.
a. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ những sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các
yếu tố chính là: Điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý: Vị trí địa lý, đất đai, sông
ngòi, khí hậu…; Dân số: số lượng dân số, tỷ lệ dân số, mật độ dân cư,…; Phương
thức sản xuất vật chất. Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết
định nhất, vì nó có khả năng chi phối các yếu tố khác.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống..., nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất
định.

44
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.26, tr.66.
94
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng nhưng
không đồng nhất. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân thuộc mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến ý thức xã hội là nói đến ý thức của
một cộng đồng người. Cộng đồng này có thể hiểu là một nhóm người trong xã hội,
một giai cấp, một tầng lớp, một dân tộc, thậm chí là toàn bộ nhân loại. Ý thức cá
nhân là ý thức của mỗi con người trong xã hội, là thế giới tinh thần của những con
người riêng biệt, cụ thể. Quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân
thể hiện ở chỗ: Ý thức xã hội bao giờ cũng tồn tại trong và thông qua ý thức cá
nhân. Ý thức xã hội với tư cách là ý thức cộng đồng, nó là sự trưng cất cái chung,
cái phổ biến của các cá nhân. Sự phát triển của ý thức cá nhân góp phần làm phát
triển phong phú, đa dạng ý thức xã hội (xã hội hoá cái đơn nhất). Ý thức xã hội
khi được hình thành, nó sẽ tham gia chi phối ý thức cá nhân, trở thành một bộ
phận của ý thức cá nhân. Tuy nhiên, sự biểu hiện của ý thức xã hội trong từng cá
nhân khác nhau cũng sẽ khác nhau (cá biệt hoá cái chung).
Ý thức xã hội có kết cấu hết sức phức tạp. Theo lĩnh vực phản ánh tồn tại xã
hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau như: ý thức chính trị, ý thức
pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học..;
Theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, ý thức xã hội được
chia thành: ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận; tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng.
b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy tâm đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý
thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội,
quyết định sự phát triển xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách
rời cơ sở kinh tế– xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã
hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất vật chất biến đổi thì
những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, văn học, nghệ thuật... sớm muộn cũng biến đổi theo.

95
Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn
hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung và hưởng chung, nên
chưa có quan niệm về tư hữu, chưa có ý thức về sự bóc lột. Khi chế độ công xã
nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành kẻ giàu người
nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng biến đổi căn bản; nảy sinh
và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân...Cũng chính từ
nền tảng kinh tế người bóc lột người trong xã hội tư bản đã làm nảy sinh các trào
lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa,
đồng thời đề xuất những phương án xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp thay thế xã hội
tư bản. Những ví dụ trên chứng tỏ rằng: "Không phải ý thức của con người quyết
định tồn tại của họ; trái lại, chính tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ"45.
Mác viết: “…không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý
thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời
sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những
quan hệ sản xuất xã hội”46.
Quan điểm duy vật lịch sử cũng khẳng định: tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu
trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội
nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ
khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được
phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Song, ý thức xã hội không phải là yếu tố thụ động mà nó có tác động tích cực đối
với đời sống kinh tế – xã hội. Và, trong mối quan hệ với tồn tại xã hội, ý thức xã
hội mang tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu
hiện ở những khía cạnh sau.
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

45
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15.
46
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.66.
96
Lịch sử xã hội cho thấy nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu, nhưng ý thức xã
hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc
biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen....
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên
nhân sau đây.
Một là, tồn tại xã hội là cái có trước, ý thức xã hội là cái có sau, phản ánh tồn
tại xã hội. Tồn tại xã hội là cái biến đổi trước, và thường xuyên diễn ra với tốc độ
nhanh cho nên ý thức xã hội không thể phản ánh kịp vì thế trở nên lạc hậu hơn.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội (nhất là những tư tưởng tôn
giáo, những quy tắc về đạo đức). Theo Lênin: “Sức mạnh của tập quán ở hàng
triệu và hàng chục triệu người, đó là sức mạnh ghê gớm nhất”47.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các lực lượng phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác khẳng định rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng
của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội, dự báo trước được tương lai và có tác dụng tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá
trình phát triển khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa là trong
trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Trái lại,
tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội, mà phản ánh chính xác,
sâu sắc lôgíc vận động của tồn tại xã hội, đem lại khả năng, sức mạnh cải tạo tồn
tại xã hội cho con người khi vận dụng những tư tưởng xã hội tiên tiến.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình

47
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969, t.31, tr.46.
97
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan
điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được
tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài
người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Lênin nhấn mạnh: “Văn hoá vô sản phải là sự
phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ
được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của
bọn quan liêu”48. Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với mở
rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới”49.
Thừa nhận tính kế thừa, trong sự phát triển của tư tưởng giúp chúng ta giải
thích được hiện tượng vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về
kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển rất cao. Nước Pháp thế kỷ XVIII
có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước
Anh (với các nhà Khai sáng tên tuổi như Môngtexkiơ, Vônte, Rútxô, Mettri,
Điđrô, Hônbách); so với Anh, Pháp thì Đức ở nửa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh
tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học (với các tên tuổi như Cantơ,
Phoiơbắc, Hêghen).
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai
cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau
của các thời đại trước. Cụ thể là: Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư
tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thường tiếp
thu, khôi phục những lý thuyết, tư tưởng xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch
sử trước. Vì vậy, khi tiến hành đấu tranh trong lĩnh vực ý thức, một mặt phải vạch ra
tính chất phản khoa học, mặt khác phải thấy được nguồn gốc lý luận của nó trong lịch
sử.

48
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, t41, tr. 361.
49
ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.49.
98
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát
triển của chúng
Ý thức xã hội biểu hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: Triết học, chính trị,
pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học.... Mỗi hình thái ý thức xã hội
phản ánh một đối tượng nhất định của tồn tại xã hội. Nhưng giữa chúng có mối
quan hệ với nhau. Sự liên hệ, tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có
những tính chất, những mặt không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn
tại xã hội hay các điều kiện vật chất.
Ở mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể mà thường có
những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu, ở chúng biểu hiện tập trung
ý thức của thời đại đó và có tác động mạnh đến những hình thái ý thức khác.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng, nó tác động và chi phối một cách trực tiếp hay gián
tiếp đến tất cả các hình thái ý thức xã hội khác.
Như vậy, khi phân tích một hình thái ý thức nào đó thì không nên chỉ chú ý
đến các điều kiện kinh tế– xã hội sinh ra nó và những yếu tố mà nó kế thừa được
trong ý thức của các thời đại trước, mà còn phải chú ý tới sự tác động của nó với
các hình thái ý thức khác.
e. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là một biểu hiện
quan trọng trong tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, v.v.. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng
có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”50.
Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể diễn ra theo hai
chiều hướng đối lập nhau: nếu ý thức xã hội phản ánh đúng tồn tại xã hội, khoa
học và tiến bộ thì sẽ góp phần thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Còn ý thức xã hội
lạc hậu, phản động thì sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.

50
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, t.39, tr.271.
99
Mức độ tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều
yếu tố sau: Phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của ý thức xã hội đó đối với
hiện thực. Phụ thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng. Phụ
thuộc vào mức độ triển khai thực hiện tư tưởng đó trong quần chúng. Phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử – cụ thể như điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội,
truyền thống cụ thể v.v.
Tóm lại, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội và
của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ quan niệm sai lầm về mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội (quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai
trò của ý thức xã hội hay quan điểm của chủ nghĩa duy vật duy kinh tế phủ nhận
tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội).
3. Các hình thái ý thức xã hội
a. Ý thức đạo đức
- Ý rhức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm, trách
nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những qui tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi
ứng xử giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
- Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các qui tắc điều chỉnh (bằng dư
luận xã hội) hành vi của con người. Sự phát triển của ý thức đạo đức là nhân tố
biểu hiện tiến bộ xã hội. Vì sự ý thức về lương tâm, danh dự, lòng tự trọng... phản
ánh khả năng tự chủ của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con
người.
- Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị
đạo đức, tình cảm và lý tưởng, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng
nhất.
- Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức
mang tính toàn nhân loại. Đó là những qui tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi
của con người, cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường
ngày của mọi người. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp thì nội dung chủ yếu của
đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp.

100
b. Ý thức thẩm mỹ
- Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan
hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp. Đó là toàn bộ những cảm xúc, thị
hiếu, quan điểm và lý tưởng thẩm mỹ, trong đó những yếu tố lý trí không thể tách
rời yếu tố tình cảm. Sự phát triển tư duy thẩm mỹ dẫn đến sự hình thành một khoa
học triết học đặc thù là mỹ học.
- Con người nhận thức, đánh giá theo quan điểm thẩm mỹ tất cả các sự kiện và
hiện tượng của tự nhiên và cuộc sống con người. Trong các hình thức hoạt động ấy
thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
- Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã
hội, phản ánh tồn tại xã hội. Khác với chính trị, triết học, khoa học phản ánh thế
giới hiện thực bằng khái niệm, phạm trù, qui luật thì nghệ thuật phản ánh thế giới
một cách sinh động, cụ thể bằng hình tượng nghệ thuật. Và sự phản ánh ấy không
phải bao giờ cũng là sự phản ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, dễ thấy.
- Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân, là nhân
tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của
con người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân
thực và có giá trị thẩm mỹ cao, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của
con người, kích thích tính tích cực của con người, xây dựng ở con người những
hành động và đạo đức tốt đẹp.
- Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai cấp. Nó
chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, biểu
hiện cao và tập trung nhất về tính giai cấp của nghệ thuật là tính đảng của nó. Tuy
nhiên, khi nhấn mạnh tính giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin không
phủ nhận tính nhân loại chung của nghệ thuật.
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm Mác - Lênin về văn học nghệ
thuật, Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã đề ra đường lối văn nghệ hết
sức đúng đắn. Nhờ có đường lối đó, nền văn học nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp
cách mạng khoa học công nghệ.

101
c. Ý thức khoa học
- Khoa học là hệ thống các tri thức chân thực về thế giới đã được kiểm
nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng phản ánh của khoa học rộng hơn bất cứ hình thái
ý thức xã hội nào khác, đó là tất cả các hiện tượng và quá trình của tự nhiên, xã
hội và tư duy con người. Nội dung căn bản của khoa học là các qui luật khách
quan vốn có của thế giới được chứng minh từ lý thuyết đến thực tiễn. Hình thức
biểu hiện chủ yếu của các tri thức khoa học là hệ thống các phạm trù, định luật,
qui luật, nguyên lý. Tri thức khoa học có thể và cần phải thâm nhập vào tất cả các
hình thái ý thức xã hội để hình thành nên các khoa học tương ứng với từng hình
thái ý thức xã hội đó, ví dụ như đạo đức học, tôn giáo học, luật học...
- Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu, khoa học được chia thành: Khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, khoa học nhân văn, khoa học về tư duy. Tuy nhiên, dựa
vào đối tượng cụ thể mà có chuyên ngành khoa học cụ thể. Còn những vấn đề
chung, những qui luật chung của tự nhiên, xã hội và tư duy là đối tượng nghiên
cứu của triết học với tư cách là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận
chung.
- Xét về vai trò tác động, khoa học được chia thành khoa học cơ bản và khoa
học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra các qui luật, phương pháp chung cho các
khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng vạch ra các nguyên tắc, phương pháp cụ
thể để ứng dụng trực tiếp trong thực tiễn đời sống.
- Với mỗi khoa học có thể có hai cấp độ tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri
thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là những tư liệu hiện thực được tích luỹ và tổng
kết thực tiễn từ sự quan sát, thử nghiệm. Tri thức lý luận là kết quả của quá trình
trừu tượng hoá, khái quất hoá từ tri thức kinh nghiệm, được thể hiện trong các
phạm trù, qui luật, nguyên lý xác định.
* Cho đến nay lịch sử khoa học đã trải qua ba giai đoạn phát triển đó là:
+ Giai đoạn 1, bắt đầu từ thời cổ đại cho đến thế kỷ XV. Ở giai đoạn này,
khoa học như còn thai nghén, vừa rất sơ khai, vừa hạn hẹp trong một số lĩnh vực:
cơ học, toán học, thiên văn học nhằm đáp ứng trực tiếp nhu cầu thuỷ lợi, hàng hải,
kiến trúc... Khoa học chưa ảnh hưởng bao nhiêu tới sản xuất. Đặc biệt, trong đêm

102
trường trung cổ phong kiến, các phát minh khoa học được coi là tội lỗi, là tà đạo
và bị chừng phạt bởi nhà thờ cấu kết với nhà nước.
+ Giai đoạn 2, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Gồm hai thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất, bắt đầu từ Côpecnic và kết thúc ở Nuitơn. Đặc điểm của
thời kỳ này là khoa học lần lượt đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực của hiện thực,
đề cao thực nghiệm và suy lý, tuyên chiến với các giáo điều, công khai hoài nghi
tất cả các dự đoán chưa được chứng minh bằng thực nghiệm hoặc bằng suy lý
chắc chắn.
- Thời kỳ thứ hai, bắt đầu từ giả thuyết về sự hình thành thái dương hệ của
Cantơ và kết thúc với các thành tựu khoa học tự nhiên xuất sắc nhất ở thế kỷ XIX
như thuyết tế bào, thuyết tiến hoá các giống loài, định luật bảo toàn và chuyển hoá
năng lượng.
+ Giai đoạn 3, thế kỷ XX. Đặc điểm của giai đoạn này không chỉ là sự gia tăng
vượt bậc của mọi tri thức khoa học, mà còn là sự gia tăng rõ rệt vai trò của khoa học
đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các khoa học lần lượt tham gia vào cuộc
cách mạng khoa học - kỹ thuật, và ở 30 năm cuối thế kỷ XX thì tham gia vào cách
mạng khoa học - công nghệ, vô luận là khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học
nhân văn. Dự báo thiên tài của C. Mác từ thế kỷ XIX "khoa học sẽ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp" đã trở thành hiện thực.
V. Triết học về con người
1. Khái niệm con người
Khác với các quan điểm về con người như: Prôtago– nhà nguỵ biện cổ đại
Hy Lạp cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ”; Arixtốt cho rằng con người
là “một động vật có tính xã hội”; Phranklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ
con người biết sử dụng công cụ lao động; Pascal cho rằng con người là “một cây
sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”.v.v.. quan điểm mácxít khẳng định: Con
người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng
giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
– Mặt sinh vật của con người thể hiện ở chỗ:

103
Con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân
con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự
nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm– sinh lý, các
giai đoạn phát triển khác nhau.
Giống như các sinh vật khác, con người cũng chịu sự quy định của quy luật
sinh học, của tự nhiên, chẳng hạn như: quy luật biến dị– di truyền, đồng hoá– dị
hoá, sự sống chết của cơ thể... ở đây bản tính tự nhiên được thể hiện ra bên ngoài
là các nhu cầu khách quan như ăn, ở, mặc, sinh con...
Mặt sinh vật của con người cũng có những nét chung với động vật cao cấp
nhưng đã được cải tạo nhờ mặt xã hội. Vì vậy, con người là một sinh vật hoàn
thiện nhất.
– Mặt xã hội của con người thể hiện ở chỗ:
Con người chỉ tồn tại với tư cách người khi sống trong xã hội, có quan hệ với
nhau, có hoạt động xã hội cho mình và cho đồng loại.
Là thành viên của xã hội, con người chịu sự tác động của các quy luật xã hội.
Lao động sản xuất là yếu quyết định quá trình hình thành bản chất xã hội của
con người. Qua lao động sản xuất, con người sản xuất ra củae cải vật chất và tinh
thần, hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy, xác lập các quan hệ xã hội.
Mác và Ăngghen khẳng định: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng
ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người
bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình– đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”51.
– Sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội của con người:
Quá trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quyết định bởi ba hệ
thống quy luật: quy luật tự nhiên, quy luật tâm lý– ý thức, quy luật xã hội. Ba hệ
thống quy luật trên cùng tác động tạo nên con người với tư cách là thực thể thống
nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội.

51
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.29.
104
Trong con người, mặt sinh vật là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
Mặt sinh vật là cơ sở để hình thành mặt xã hội. Mặt xã hội tác động lớn đến
mặt sinh vật, nó kìm chế, định hướng các hành vi sinh vật của con người. Vì vậy,
các hành vi sinh vật của con người luôn diễn ra một cách có văn hóa.
Tóm lại, hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành
con người Tự nhiên – xã hội.
* Bản chất của con người
Mác khẳng định: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội"52.
Luận điểm này bao hàm những nội dung sau:
Khi nói tới bản chất con người, trong tính hiện thực của nó là tổng hoà các
quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành
bản chất con người, nhưng có ý nghĩa quyết định là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các
quan hệ xã hội khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ sản
xuất. Mỗi hình thái kinh tế– xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò
chi phối và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái, xét đến cùng, tạo nên bản chất con
người trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể đó.
Khi khẳng định bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, triết
học Mác– Lênin không hạ thấp hay xem nhẹ mặt sinh vật của con người, cũng như
không tuyệt đối hóa mặt xã hội của con người mà khẳng định rằng con người là
một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Khi đưa ra luận điểm
này: Mác muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước
hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết
học trước Mác đã không thấy được bản chất xã hội của con người.
Con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới tự nhiên cũng như đời
sống xã hội, đồng thời cũng làm biến đổi chính bản thân mình.

52
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11.
105
Bản chất của con người không cố định, bất biến mà vận động phát triển cùng
với xã hội, phụ thuộc vào bản chất mỗi hình thái kinh tế– xã hội.
* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn là chủ thể của lịch sử–
xã hội.
Con người là chủ thể của lịch sử – xã hội: Con người bằng hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, làm phong phú thêm giới tự
nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trên cơ sở nắm bắt
quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần,
thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con
người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã
hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Con người là sản phẩm của lịch sử – xã hội: Điều kiện lịch sử xã hội luôn
luôn vận động biến đổi, do đó, dẫn tới sự biến đổi của bản chất con người. Để phát
triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh, môi
trường tự nhiên và xã hội tiến bộ, lành mạnh.
2. Hiện tượng tha hóa của con người và vấn đề giải phóng con người

Theo Mác thực chất của hiện tượng tha hoá con người là lao động của con
người bị tha hoá. Thực chất của lao động bị tha hoá là quá trình lao động và sản
phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con người, để phát triển con người đã bị biến
thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người. Người lao động chỉ hành
động với tính cách con người khi thực hiện các chức năng sinh học như ăn, ngủ,
sinh con đẻ cái,… còn khi lao động, tức là khi thực hiện chức năng cao quý của
con người thì họ lại chỉ nhưlà con vật.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác hiện tượng tha hoá của
con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân chia
giai cấp. Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hoá con người là chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chế dộ đó đã tạo ra sự phân hoá xã hội về việc
chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô
sản, một số ít trở thành tư sản, chiếm hưũ toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã

106
hội.Vì vậy những người vô sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để
các nhà tư sản bóc lột mình và sự tha hoá lao động bắt đầu từ đó.
Biểu hiện của sự tha hóa con người:
Thứ nhất, con người bị tha hoá là con người bị đánh mất mình trong lao
động, tức trong hoạt động của con người. Lao động là hoạt động sáng tạo của con
người, là đặc trưng chỉ có ở con người chứ không hề có ở con vật, là hoạt động
người, nhưng khi hoạt động nó lại là hoạt động của con vật. Lao động bị cưỡng
bức, bị ép buộc của điều kiện xã hội. Con người lao động không phải để sáng tạo,
không phải để phát triển các phẩm chất người mà chỉ là để đảm bảo sự tồn tại của
thể xác họ. Điều đó có nghĩa rằng họ đang thực hiện chức năng của con vật. Khi
họ ăn uống, sinh con đẻ cái thì họ lại là con người vì họ được tự do.
Thứ hai, trong hoạt động lao động con người quan hệ với tư liệu sản xuất
đúng ra là quan hệ với đồ vật, con người là chủ thể trong quan hệ với tư liệu sản
xuất. Nhưng vì trong chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất thì người lao động
phải phụ thuộc vào các tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là do con người tạo ra.
Như vậy, con người bị lệ thuộc vào chính sản phẩm do chính mình tạo ra. Mặt
khác để có tư liệu sinh hoạt người lao động buộc phải lao động cho các chủ tư
bản, sản phẩm của họ làm ra trở nên xa lạ với họ và được chủ sở hữu dùng để
trói buộc họ, bắt họ lệ thuộc nhiều hơn vào chủ sử hữu và vào các vật phẩm lao
động. Quan hệ giữa người và người đã bị thay thế bằng quan hệ giữa người và vật.
Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên chế
độ tư hữu tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó, sự tha hóa của lao động còn được
tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội: sự tha hóa
của nền chính trị vì thiểu số, sự tha hóa của các tư tưởng của tầng lớp thống trị, sự
tha hóa của các thiết chế xã hội khác. Chính vì vậy việc khắc phục sự tha hóa
không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà còn gắn
liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội.
Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp để giải phóng con người, giải phóng lao
động.
Giải phóng con người được các nhà kinh điển triển khai trong nhiều nội
dung lý luận khác nhau và trên nhiều phương diện khác nhau của thực tiễn đời
sống xã hội. Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng
con người về phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục
sự tha hóa của con người và của lao động của họ, biến lao động sáng tạo trở thành
chức năng thực sự của con người là nội dung có ý nghĩa then chốt.
107
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, việc giải
phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Việc giải phóng con người được quan
niệm một cách toàn diện, đầy đủ, ở tất cả các nội dung và phương diện của con
người, cộng đồng, xã hội và nhân loại với tính cách là các chủ thể ở các cấp độ
khác nhau. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác –
Lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội dung và các phương diện: con
người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại, con
người lao động, v.v.
3. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay
Việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay đã
được Đảng ta chú trọng nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, trong các văn
kiện của BCH Trung ương, trong các chủ trương, chính sách, quản lý và điều
hành sự phát triển kinh tế nói chung. Một mặt, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu
tranh không khoan nhượng chống thoái hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư
tưởng đạo đức, chống lại những thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con
người Việt Nam đang cản trở sự phát triển của chính con người và xã hội. Mặt
khác, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay với những đức tính sau
đây:
“- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực”53.
Hội nghị lần thứ Chín BCH Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục nhấn

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII.-
53

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.-tr. 58-59.


108
mạnh và bổ sung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển
toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học … hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người
Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân,
ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm,
trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội
và đất nước”54
“Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là
bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hảo dân tộc, đạo đức, lối sống, nhân cách.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người
Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hảo, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc… xây
dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân, thiện, mỹ. Gắn xây
dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt
Nam… Xây dựng và phát huy lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người …”55. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải đặt con người vào vị trí trung
tâm, xem đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển và cũng chỉ bằng
cách đó thì sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay mới có thể thực hiện được.
Độc lập, tự do và hạnh phúc của con người, sự phát triển toàn diện của nó là nội
dung cốt lõi, mục tiêu chủ yếu, cao nhất và bao trùm nhất của công cuộc đổi mới
nói riêng và sự nghiệp giải phóng con người nói chung. Mục tiêu của công cuộc
đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là sự thể hiện tập trung
mục tiêu giải phóng con người trong giai đoạn hiện nay.
4. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm
những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể
dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
54
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương lần thứ 9, khóa XI về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước.- Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản.- Hà Nội, 2014.-tr. 46-47.
55
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương lần thứ 9, khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước.- Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản.- Hà Nội, 2014.-tr. 49.50
109
Nói cách khác, quần chúng nhân dân là tất cả nhân dân lao động và các lực lượng
tiến bộ trong xã hội mà thông qua hoạt động của họ lịch sử sẽ biến đổi.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột,
đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội
thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử vận động biến đổi theo
sự phát triển của lịch sử xã hội.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá
nhân trong lịch sử
- Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào lại
không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản
của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Thứ ba, quần chúng nhân dân còn là người sáng tạo ra những giá trị tinh
thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học,
nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào thực tiễn. Hoạt
động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho
mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh
thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và
truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.

110
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh
thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều
kiện khách quan và chủ quan, đó là: Trình độ phát triển của phương thức sản xuất;
trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã
hội; bản chất của chế độ xã hội, v.v..Do vậy, việc phân tích vai trò sáng tạo lịch sử
của quần chúng nhân dân cần phải đứng trên quan điểm toàn diện, phát triển và
lịch sử– cụ thể.
- Vai trò của cá nhân trong lịch sử
Theo Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào”56.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa
học, nghệ thuật v.v.. Họ là người nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong
một lĩnh vực nhất định của hoạt động lý luận khoa học và thực tiễn.
- Phẩm chất của lãnh tụ
Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất, là vĩ nhân, nhưng không phải cá nhân
kiệt xuất hay vĩ nhân nào cũng có thể là lãnh tụ vì lãnh tụ là những người làm thủ
lĩnh phong trào cách mạng, biết định hướng và thống nhất hành động của quần
chúng.
Lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành
động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, nguyện hy sinh quên mình
vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.

56
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, t.4, tr.473.
111
Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ
cần giải quyết thì trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện
những lãnh tụ, đáp ứng yêu cầu của lịch sử.
- Nhiệm vụ của lãnh tụ
Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết
những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách
mạng.
Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý
chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu
cách mạng đề ra.
- Vai trò của lãnh tụ
Một là, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của phong trào cách
mạng, của sự tiến bộ xã hội. Nếu lãnh tụ nắm bắt được những quy luật vận động
phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, nếu không nắm
bắt được những quy luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển đối
với xã hội, thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp.
Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn
của các tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức, điều khiển và quản lý các tổ
chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển và hoạt
động của các tổ chức ấy.
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra
của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với một
thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu
tượng tinh thần, tồn tại mãi mãi trong tình cảm và niềm tin của quần chúng nhân
dân.
Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ. Mối quan hệ giữa quần
chúng nhân dân với lãnh tụ là mối quan hệ biện chứng, biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế,

112
chính trị, xã hội của quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ.
Những cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi
ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách
mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Lợi
ích biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau như lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,
lợi ích văn hóa... Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội lực để liên kết các cá nhân
cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất về
ý chí và hành động.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai
trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối
với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực
lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong
trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là mối quan hệ biện
chứng, vừa thống nhất vừa khác biệt. Chủ nghĩa Mác– Lênin khẳng định vai trò
quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Lý luận của chủ nghĩa Mác– Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng
nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một
phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học vai trò quyết định lịch sử của quần
chúng nhân dân đã xoá bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm từng thống trị lâu
dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài
người, đồng thời đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu
và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá
nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung
cấp một phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng

113
xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa – đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập
hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng.

114

You might also like