Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

Roman fever

From the table at which they had been lunching two American ladies of ripe but well-
cared-for middle age moved across the lofty terrace of the Roman restaurant and, leaning
on its parapet, looked first at each other, and then down on the outspread glories of the
Palatine and the Forum, with the same expression of vague but benevolent approval.
Từ cái bàn mà mà 2 quý bà ở độ tuổi cuối trung niên thuộc tầng lớp giàu có, họ di chuyển băng
ngang qua cái sân thượng cao chót vót của nhà hàng Roman và tựa người vào cái lan can, họ
nhìn nhau lần đầu và sau đó nhìn xuống toàn bộ những phế tích Palatine và Forum với cùng một
ấn tượng mơ hồ nhưng cũng tán thưởng nhiều về nhau.
As they leaned there a girlish voice echoed up gaily from the stairs leading to the court
below. "Well, come along, then," it cried, not to them but to an invisible companion, "and
let's leave the young things to their knitting," and a voice as fresh laughed back: "Oh, look
here, Babs, not actually knitting—" "Well, I mean figuratively," rejoined the first. "After
all, we haven't left our poor parents much else to do.. . ." At that point the turn of the stairs
engulfed the dialogue.
Khi họ đứng tựa người vào lan can thì có một giọng nói vui vẻ của một cô gái vọng từ những
bậc thang bên dưới dẫn đến sân thượng. “ Nào, vậy thì đi thôi,” cô gái nói to, không phải là nói
với họ mà nói với một người bạn đi cùng đang đứng khuất góc đâu đó, “ và để cho 2 quý cô trẻ
trung của chúng ta ở lại mà đan lát,” và một giọng nói cũng trẻ trung không kém cười đáp lại:
“ồ, nhìn đây Babs, thực sự không phải là đan đâu”. “à, ý tôi là nghĩa bóng kìa,” cô gái đầu tiên
đáp lại. “ Dù sao đi nữa thì chúng ta đâu có để cho ba mẹ tội nghiệp của chúng ta nhiều việc gì
khác để mà làm đâu…” Tới đây thì khúc quẹo của cầu thang đã nuốt mất mẩu đối thoại của 2 cô
gái.
The two ladies looked at each other again, this time with a tinge of smiling embarrassment,
and the smaller and paler one shook her head and colored slightly.
Hai quý bà nhìn nhau một lần nữa, lần này thì nhìn nhau bằng những cái cười trừ và người có
thân hình nhỏ nhắn và trắng trẻo hơn lắc đầu và hơi đỏ mặt.
"Barbara!" she murmured, sending an unheard rebuke after the mocking voice in the
stairway.
“Barbara!” bà ta thì thào, như một lời quở trách, mắng với câu nói chế giễu ở cầu thang.
The other lady, who was fuller, and higher in color, with a small determined nose
supported by vigorous black eyebrows, gave a good-humored laugh. "That's what our
daughters think of us."
Quý bà còn lại, người có thân hình đẫy đà và da sậm hơn, với cái mũi nhỏ của loại người quyết
đoán và với đôi lông mày đen rộng càng làm tăng thêm tính quyết đoán, bật cười vui vẻ. “Đó là
những gì mà mấy đứa con gái của chúng ta nghĩ về tụi mình đó.”
Her companion replied by a deprecating gesture. "Not of us individually. We must
remember that. It's just the collective modern idea of Mothers. And you see—" Half
guiltily she drew from her handsomely mounted black handbag a twist of crimson silk run
through by two fine knitting needles. "One never knows," she murmured. "The new
system has certainly given us a good deal of time to kill; and sometimes I get tired just
looking—even at this." Her gesture was now addressed to the stupendous scene at their
feet.
Người bạn đồng hành đáp trả lại bằng một thái độ chán nản. “ Không phải chỉ riêng chúng ta
đâu. Chúng ta phải nhớ rằng đó là ý kiến chung thời nay của tụi trẻ về những người mẹ. Và chị
thấy đó – “ Có phần mặc cảm bà ta lôi từ cái ví xách màu đen được trang trí trông rất bắt mắt
một cuộn tơ màu đỏ thẫm được đâm xuyên qua bằng 2 cây que đan xịn. “ Người ta chẳng bao
giờ biết được,” bà ta thì thào. “ Cái tổ chức xã hội mới hiển nhiên là đã cho chúng ta quá nhiều
thời gian nhàn rỗi; và thỉnh thoảng tôi phát mệt thậm chí là ngắm cảnh đẹp như thế này.” Cử
chỉ của bà ta giờ đây hướng tới cảnh đẹp bao la hùng vĩ dưới chân họ.
The dark lady laughed again, and they both relapsed upon the view, contemplating it in
silence, with a sort of diffused serenity which might have been borrowed from the spring
effulgence of the Roman skies. The luncheon hour was long past, and the two had their end
of the vast terrace to themselves. At its opposite extremity a few groups, detained by a
lingering look at the outspread city, were gathering up guidebooks and fumbling for tips.
The last of them scattered, and the two ladies were alone on the air-washed height.
Quý bà có làn da sẫm bật cười một lần nữa, và cả 2 quay trở lại tiếp tục ngắm cảnh, và suy tư về
nó trong im lặng, một sự tĩnh mịnh lan toả ra mà có lẽ là đã được vay mượn từ sự rạng rỡ mùa
xuân của bầu trời La Mã. Giờ ăn trưa đã qua lâu rồi, và tại một đầu của nhà hàng chỉ còn lại có
mình 2 quý bà. Tại đầu bên kia có một vài nhóm, nấn ná ở lại xem cảnh thành phố trải dài dưới
chân họ, cũng đang thu dọn những cuốn sách hướng dẫn và lục lọi tiền thưởng cho người phục
vụ. Nhóm cuối cùng cũng tản đi, và chỉ còn lại 2 quý bà trên cái sân thượng cao lộng gió.
"Well, I don't see why we shouldn't just stay here," said Mrs. Slade, the lady of the high
color and energetic brows. Two derelict basket chairs stood near, and she pushed them into
the angle of the parapet, and settled herself in one, her gaze upon the Palatine. "After all,
it's still the most beautiful view in the world."
“À, tôi chẳng thấy lý do nào phải rời đây cả,” bà Slade nói, quý bà có làn da sậm và đôi lông
mày rậm. Có 2 cái ghế đan mây bỏ trống nằm gần đó, và ba ta đẩy chúng vào góc của lan can,
rồi thả người vào trong ghế, mắt bà ta nhìn đăm đăm vào phế tích Palatine . “ Dủ gì đi nữa thì
đây vẫn là cảnh đẹp nhất trên thế giới.”
"It always will be, to me," assented her friend Mrs. Ansley, with so slight a stress on the
"me" that Mrs. Slade, though she noticed it, wondered if it were not merely accidental, like
the random underlinings of old-fashioned letter writers.
“Đối với tôi lúc nào nó chẳng đẹp như thế,” bạn của bà ta là bà Ansley đồng ý, với chữ “ tôi”
nói rất nhỏ mà bà Slade mặc dù là chú ý đến điều đó nhưng cũng tự hỏi rằng liệu đó có phải là
sự tình cờ hay không, cũng giống như là những sự gạch dưới ngẫu nhiên của những người viết
thư thời xưa.
"Grace Ansley was always old-fashioned," she thought; and added aloud, with a
retrospective smile: "It's a view we've both been familiar with for a good many years.
When we first met here we were younger than our girls are now. You remember!"
“ Grace Ansley trước đây lúc nào cũng là người cổ hủ,” bà ta nghĩ thế; và nói lớn ra bằng một
nụ cười mang tính hồi tưởng: “ Hai chúng ta đã ở vào một cái cảnh cũng tương tự như thế này
cách đây nhiều năm rồi. Khi mà lần đầu tiên chúng ta gặp nhau tại đây, lúc đó chúng ta trẻ hơn
mấy đứa con gái chúng ta bây giờ. Chị nhớ chứ!”
"Oh, yes, I remember," murmured Mrs. Ansley, with the same undefinable stress
—"There's that head-waiter wondering," she interpolated. She was evidently far less sure
than her companion of herself and of her rights in the world.
              “Ồ, có, tôi nhớ chứ,” bà Ansley thì thào, cũng nói chữ “ tôi” rất nhỏ như câu trước -
“người trưởng phục vụ đang thắc mắc điều gì kìa,” bà ta nói chen vào. Rõ ràng là bà ta không
có sự tự tin nhiều như là người bạn của mình về chính bản thân và mình có quyền gì trên thế
giới.
"I'll cure him of wondering," said Mrs. Slade, stretching her hand toward a bag as
discreetly opulent-looking as Mrs. Ansley's. Signing to the headwaiter, she explained that
she and her friend were old lovers of Rome, and would like to spend the end of the
afternoon looking down on the view—that is, if it did not disturb the service! The
headwaiter, bowing over her gratuity, assured her that the ladies were most welcome, and
would be still more so if they would condescend to remain for dinner. A full moon night,
they would remember....
                 “ Tôi sẽ chữa cho anh ta khỏi thắc mắc,” bà Slade nói, và với tay lấy cái ví xách hiển
nhiên là cũng đẹp không kém cái của bà Ansley. Bà ta ra dấu cho người trưởng phục vụ và giải
thích rằng bà ta và người bạn là những người yêu cữ của thành phố La Mã, và sẽ ở lại ngắm
cảnh cho đến hết buổi chiều - liệu điều đó có làm phiền việc phục vụ hay không! Người trưởng
phục vụ cúi người xuống lấy tiền thưởng và trấn an rằng 2 quý bà đây luôn được hoan nghênh,
và sẽ còn được hoan nghênh hơn nữa nếu hạ cố lưu lại cho tới bữa tối. Một đêm trăng tròn, họ
sẽ nhớ…
Mrs. Slade's black brows drew together, as though references to the moon were out of
place and even unwelcome. But she smiled away her frown as the headwaiter retreated.
"Well, why not! We might do worse. There's no knowing, I suppose, when the girls will be
back. Do you even know back from where? I don't!"
Bà Slade nhíu đôi lông mày lại, như thề không muốn nói tới trăng và thâm chí là không chào
mời nó. Nhưng bà ta cười để che mất sự nhíu mày đó khi người trưởng phục vụ đi. “Ừ tại sao
không ở lại đây kia chứ! nhiều khi đi nơi khác còn tệ hơn ấy chứ. Tôi nghĩ là chẳng biết được khi
nào mấy đứa con gái mới về. Thậm chí là chị có biết chúng nó đi đâu về không nào? Tôi chịu!”
Mrs. Ansley again colored slightly. "I think those young Italian aviators we met at the
Embassy invited them to fly to Tarquinia for tea. I suppose they'll want to wait and fly
back by moonlight."
Bà Ansley lại hơi đỏ mặt. “ tôi nghĩ là mấy gã phi công Ý trẻ trung mà chúng ta đã gặp tại toà
đại sứ đã mời chúng nó bay tới Tarquinia để uống trà rồi. Tôi cho là chúng nó muốn đợi và bay
về lúc trăng sáng.”
"Moonlight—moonlight! What a part it still plays. Do you suppose they're as sentimental
as we were?"
                 “Ánh trăng – ánh trăng ư! Nó vẫn là một phần lớn của sự lãng mạn đấy. Chị có nghĩ
là chúng nó có uỷ mị như chúng ta hồi xưa không?
"I've come to the conclusion that I don't in the least know what they are," said Mrs.
Ansley. "And perhaps we didn't know much more about each other."
                 “ Tôi vừa đi đến một kết luận là tôi chẳng biết tý gì về chúng nó,” bà Ansley nói “ Và
có lẽ chùng ta đã chẳng biết nhiều về nhau.”
"No, perhaps we didn't."
“Ừ, có lẽ thế.”
Her friend gave her a shy glance. "I never should have supposed you were sentimental,
Alida."
                 Bà Ansley lén liếc nhìn bạn mình.” Tôi chưa bao giờ cho rằng chị là người uỷ mị, chị
Alida ạ.”
"Well, perhaps I wasn't." Mrs. Slade drew her lids together in retrospect; and for a few
moments the two ladies, who had been intimate since childhood, reflected how little they
knew each other. Each one, of course, had a label ready to attach to the other's name; Mrs.
Delphin Slade, for instance, would have told herself, or anyone who asked her, that Mrs.
Horace Ansley, twenty-five years ago, had been exquisitely lovely—no, you wouldn't
believe it, would you! though, of course, still charming, distinguished.... Well, as a girl she
had been exquisite; far more beautiful than her daughter, Barbara, though certainly Babs,
according to the new standards at any rate, was more effective—had more edge, as they
say. Funny where she got it, with those two nullities as parents. Yes; Horace Ansley was—
well, just the duplicate of his wife. Museum specimens of old New York. Good-looking,
irreproachable, exemplary. Mrs. Slade and Mrs. Ansley had lived opposite each other—
actually as well as figuratively—for years. When the drawing-room curtains in No. 20 East
Seventy-third Street were renewed, No. 23, across the way, was always aware of it. And of
all the movings, buyings, travels, anniversaries, illnesses—the tame chronicle of an
estimable pair. Little of it escaped Mrs. Slade. But she had grown bored with it by the time
her husband made his big coup in Wall Street, and when they bought in upper Park
Avenue had already begun to think: "I'd rather live opposite a speakeasy for a change; at
least one might see it raided." The idea of seeing Grace raided was so amusing that (before
the move) she launched it at a woman's lunch. It made a hit, and went the rounds—she
sometimes wondered if it had crossed the street, and reached Mrs. Ansley. She hoped not,
but didn't much mind. Those were the days when respectability was at a discount, and it
did the irreproachable no harm to laugh at them a little.
“Ừ, có lẽ tôi không phải loại người đó.” Bà Slade nheo mí mắt lại trong hồi tưởng; và trong
giây phút hai quý bà là những người bạn thân từ thủa nhỏ suy nghĩ xem họ biết về nhau ít như
thế nào. Rõ ràng là mỗi người đã có sẵn định kiến về nhau; ví dụ như bà Delphin Slade sẽ tự nói
với chính mình hoặc với bất kỳ ai mà hỏi bà ta rằng bà Horace Ansley cách đây 25 năm thì cực
kỳ xinh đẹp -  không, bạn sẽ không tin đâu, phải không nào! mặc dù rõ ràng bà ấy vẫn còn
duyên dáng, có dàng vẻ… Thực vậy, khi còn là con gái bà ấy cực kỳ xinh đẹp; đẹp hơn nhiều so
với con gái Barbara của bà ấy, mặc dù hiển nhiên con Babs, dẫu sao là mẫu người theo tiêu
chuẩn mới, là người có năng lực để làm việc – có nhiều điểm thuận lợi, như người ta nói thế.
Thật buồn cười là con đó nó lấy sự lanh lợi từ đâu ra với 2 con người tầm thường như cha mẹ
của nó cơ chứ. Đúng thế; Horace Ansley - quả thực là một con người tầm thường, chỉ là bản sao
của vợ hắn mà thôi. Những mẫu người New York lỗi thời ấy mà. Mẫu người ưa nhìn, mẫu mực
không chê trách vào đâu được. Bà Slade và bà Ansley sống đối diện nhau - cả về nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng – trong nhiều năm. Khi mà những cái màn cửa ờ nhà số 20 đường số 73 bên đông
thay mới, thì nhà số 23, bên kia đường , cũng biết được. Và tất cả mọi chuyển động, mua sắm,
du lịch, lễ lạy, ốm đau – được tuân theo thứ tự thời gian đều đặn của cặp vợ chồng đáng kính
đó. Hầu như chẳng có chuyện gì của nhà đấy mà qua mắt được bà Slade. Nhưng bà ta đã bắt
đầu chán ngấy cái trình tự đều đặn đó cho tới chừng chồng bà ta trở nên giàu có ở phố Wall, và
khi mà họ chuyển tới khu thượng lưu ở đại lộ Park ở trung tâm thành phố, ba ta đã bắt đầu nghĩ
rằng : “ Tôi thà là sống đối diện với một quán bán rượu lậu để cho đỡ nhàm chán; ít nhất ra còn
có thể xem được người ta bố ráp cái quán ấy.” Cái ý nghĩ thấy nhà con Grace bị bố ráp quá hào
hứng đến nỗi ( trước khi chuyển đi ) bà ta bắt đầu nói điều đó tại một bữa ăn trưa của một người
phụ nữ. Ý tưởng này giống như một giai điệu tự nhiên được nhiều người thích và lan đi khắp nơi
-  thỉnh thoảng bà ta nghĩ rằng liệu cái ý nghĩ đó nó có băng qua đường tới tai bà Ansley không
nhỉ. Bà ta hy vọng là không, nhưng cũng chả mấy quan tâm. Thủa đó khi mà người đáng kính
chẳng còn là bao, và cũng chẳng chê trách , chẳng hại tý nào khi cười nhạo họ một chút.
A few years later, and not many months apart, both ladies lost their husbands. There was
an appropriate exchange of wreaths and condolences, and a brief renewal of intimacy in
the half shadow of their mourning; and now, after another interval, they had run across
each other in Rome, at the same hotel, each of them the modest appendage of a salient
daughter. The similarity of their lot had again drawn them together, lending itself to mild
jokes, and the mutual confession that, if in old days it must have been tiring to "keep up"
with daughters, it was now, at times, a little dull not to.
Một vài năm sau, và cách nhau có vài tháng, chồng của 2 người đều qua đời. Đã có một sự qua
lại tương xứng với những vòng hoa và lời chia buồn, và đã có một sự làm mới lại sự thân mật
nhanh chóng trong lúc có phần u ám vì tang chế của họ; và giờ đây, sau một giai đoạn khác của
mối quan hệ, họ đã tình cờ gặp nhau ở Rome, ở cùng một khách sạn, cả hai đã trở thành những
vai phụ cho con gái mình. Sự giống nhau về số phận một lần nữa đã kéo họ lại với nhau, nó phù
hợp với những câu nói đùa nhẹ nhàng và sự thú nhận với nhau rằng  ngày xưa việc canh giữ
mấy đứa con gái chắc hẳn là làm phát mệt các bậc cha mẹ, hiện tại thì thỉnh thoảng có một chút
buồn tẻ khi không được chăm lo cho chúng.
No doubt, Mrs. Slade reflected, she felt her unemployment more than poor Grace ever
would. It was a big drop from being the wife of Delphin Slade to being his widow. She had
always regarded herself (with a certain conjugal pride) as his equal in social gifts, as
contributing her full share to the making of the exceptional couple they were: but the
difference after his death was irremediable. As the wife of the famous corporation lawyer,
always with an international case or two on hand, every day brought its exciting and
unexpected obligation: the impromptu entertaining of eminent colleagues from abroad, the
hurried dashes on legal business to London, Paris or Rome, where the entertaining was so
handsomely reciprocated; the amusement of hearing in her wakes: "What, that handsome
woman with the good clothes and the eyes is Mrs. Slade—the Slade's wife! Really!
Generally the wives of celebrities are such frumps."
Hiển nhiên, bà Slade suy tư, bà ta cảm thấy mình còn ở không hơn con Grace tội nghiệp kia. Từ
việc đang là vợ của Delphin Slade trở thành quá phụ của anh ta quả là một cú sốc lớn. Bà ta đã
luôn tự coi mình cũng ngang bằng với chồng về tài năng xã hội, cũng như là sự đóng góp đầy đủ
phần của mình để hai người họ trở thành một cặp vợ chồng nổi tiếng: nhưng sự khác biệt này
mà từ sau cái chết của chồng bà ta là không thể sửa chữa được. Với tư cách là vợ của một luật
sư trong một công ty nổi tiếng, lúc nào cũng có trong tay một hai trường hợp quốc tế, mỗi ngày
công việc phải làm đem đến sự bất ngờ và hào hứng ví dụ như việc chiêu đãi không có chuẩn bị
trước cho những đồng nghiệp danh tiếng từ nước ngoài đến, hay những chuyến đi vội vã về công
việc kinh doanh có liên quan đến pháp lý tới London, Paris hay Rome, mà ở những nơi như thế
thì họ cũng được chiêu đãi hậu hĩ; hay sự thích thú khi nghe những lời nói phía sau bà ta: “ Gì
cơ, người phụ nữ to lớn trong bộ đồ xịn có đôi mắt đẹp kia là bà Slade đó ư - Vợ của ông Slade
à! Thiệt vậy sao! Thường thì những bà vợ của mấy người nổi tiếng thì cù lần như thế đó.”
Yes; being the Slade's widow was a dullish business after that. In living up to such a
husband all her faculties had been engaged; now she had only her daughter to live up to,
for the son who seemed to have inherited his father's gifts had died suddenly in boyhood.
She had fought through that agony because her husband was there, to be help ed and to
help ; now, after the father's death, the thought of the boy had become unbearable. There
was nothing left but to mother her daughter; and dear Jenny was such a perfect daughter
that she needed no excessive mothering. "Now with Babs Ansley I don't know that I should
be so quiet," Mrs. Slade sometimes half-enviously reflected; but Jenny, who was younger
than her brilliant friend, was that rare accident, an extremely pretty girl who somehow
made youth and prettiness seem as safe as their absence. It was all perplexing—and to Mrs.
Slade a little boring. She wished that Jenny would fall in love—with the wrong man, even;
that she might have to be watched, out-maneuvered, rescued. And instead, it was Jenny
who watched her mother, kept her out of drafts, made sure that she had taken her tonic...
Đúng vậy, sau khi trở thành quá phụ của ông Slade là một chuyện khá buồn tẻ. Việc sống ngang
tầm với một người chồng như thế đã làm cho tất cả các năng lực của bà ta được vận dụng; giờ
thì chỉ còn có mỗi đứa con gái để mà sống ngang tầm với nó, vì thằng con trai đứa mà dường
như đã thừa hưởng những tài năng của cha nó đã đột nhiên chết lúc còn nhỏ. Bà ta đã chiến đấu
vượt qua được nỗi đau tột cùng đó bời vì chồng bà ta vẫn còn đó để được giúp đỡ và giúp lại bà
ta; giờ đây sau cái chết của chồng, cái suy nghĩ về thằng bé đã trở nên không thể chịu đựng nổi.
Chằng còn lại gì ngoại trừ việc làm mẹ một đứa con gái; và con Jenny yêu quý lại là một đứa
con gái quá ngoan đến độ bà ta chẳng cần phái làm công việc làm mẹ là mấy. “ Giờ đây với con
Babs Ansley tôi không biết là có nên quá yên lặng hay không nữa.” bà Slade thình thoảng suy
nghĩ có phần ganh tỵ; nhưng con Jenny, đứa mà chẳng có thông minh bằng con bạn nó, thì hiếm
mà gặp nguy hiểm gì, một đứa con gái cực kỳ xinh đẹp nhưng lại không biết làm sao mà nó lại
làm cho sự trẻ trung và xinh đẹp đó trở nên an toàn như là những đứa con gái thiếu hai thứ đó.
Điều đó thật mà khó hiểu – và đối với bà Slade thì có một chút chán nản. Bà ta ước rằng con
Jenny yêu ai đó - thậm chí là yêu lầm người đi nữa; để bà ta có thể canh chừng nó, bộc lộ sự
khôn ngoan của mình, để giải cứu nó. Và thay vào đó, chính con Jenny lại là người canh chừng
mẹ nó, giữ cho bà ta khỏi gió lùa, chắc chắn rằng bà ta đã uống thuốc bổ…
Mrs. Ansley was much less articulate than her friend, and her mental portrait of Mrs.
Slade was slighter, and drawn with fainter touches. "Alida Slade's awfully brilliant; but
not as brilliant as she thinks," would have summed it up; though she would have added, for
the enlightenment of strangers, that Mrs. Slade had been an extremely dashing girl; much
more so than her daughrer, who was pretty, of course, and clever in a way, but had none of
her mother's—well, "vividness," someone had once called it. Mrs. Ansley would take up
current words like this, and cite them in quotation marks, as unheard-of audacities. No;
Jenny was not like her mother. Sometimes Mrs. Ansley thought Alida Slade was
disappointed; on the whole she had had a sad life. Full of failures and mistakes; Mrs.
Ansley had always been rather sorry for her....
Bà Ansley là người không tỷ mỷ bằng bạn mình, và bức chân dung trong đầu của bà ta về bà
Slade thì mong manh hơn, và được vẽ lên bằng những nét chấm phá nhợt nhạt hơn. “ Alida
Slade là người hết sức thông minh; nhưng mà không thông minh như bà ta tưởng đâu.” Bà ta kết
luận thế mặc dù là bà ta đã thêm vào, vì để cho những người lạ biết rõ, rằng bà Slade trước đây
là một cô gái cực kỳ lanh lợi; hơn nhiều so với con gái bà ta, cái đứa mà xinh đẹp, và dĩ nhiên là
cũng thông minh trong một cách nào đó, nhưng nó không có của mẹ nó “ sự sống động”, à có
người trước đây đã gọi bà ta như thế. Bà Ansley lượm lặt những từ ngữ hiện như thế này, và
trích dẫn chúng trong ngoặc kép, như là những người vô cùng táo gan. Không; con Jenny nó
đâu có giống mẹ nó. Thỉnh thoảng bà Ansley nghĩ là Alida Slade thất vọng về nó; nhìn chung thì
bà ta có một cuộc đời buồn chán. Đầy rẫy những thất bại và lỗi lầm; bà Ansley đã luôn thương
hại cho bà ta…
So these two ladies visualized each other, each through the wrong end of her little telescope.
Vì thế hai quý bà hình dung về nhau, mỗi người nhìn người kia thông qua đầu ngược của kính
viễn vọng.
II
For a long time they continued to sit side by side without speaking. It seemed as though, to
both, there was a relief in laying down their somewhat futile activities in the presence of the
vast Memento Mori which faced them. Mrs. Slade sat quite still, her eyes fixed on the
golden slope of the Palace of the Caesars, and after a while Mrs. Ansley ceased to fidget
with her bag, and she too sank into meditation. Like many intimate friends, the two ladies
had never before had occasion to be silent together, and Mrs. Ansley was slightly
embarrassed by what seemed, after so many years, a new stage in their intimacy, and one
with which she did not yet know how to deal.
            Họ tiếp tục ngồi cạnh nhau mà chẳng nói tiếng nào trong một lúc lâu. Dường như đối với
cả hai, có một sự nhẹ nhõm trong việc đặt xuống những hoạt động có phần vô ích của họ trong
khi họ đối diện với những phế tich to lớn của thành phố La Mã. Bà Slade ngồi khá im lặng, đôi
mắt nhìn đăm đăm về trườn dốc đầy nắng vàng của cung điện vua Caesars, và sau một lúc thì bà
Ansley cũng thôi loay hoay với cái ví của mình, và chìm vào sự trầm tư. Giống như nhiều người
bạn thân khác, hai quý bà đã chưa bao giờ có dịp ngồi yên lặng cùng nhau. Bà Ansley hơi bối
rối bởi sau nhiều năm, đây dường như là một giai đoạn mới trong tình bạn thân của họ, và một
giai đoạn mà bà ta chưa biết phải ứng phó với nó như thế nào.
Suddenly the air was full of that deep clangor of bells which periodically covers Rome with
a roof of silver. Mrs. Slade glanced at her wristwatch. "Five o'clock already," she said, as
though surprised.
Đột nhiên trong không trung đầy những tiếng chuông lanh lảng ngân vang theo định kỳ bao
trùm lấy toàn bộ La Mã bằng một màu bạc. Bà Slade liếc nhìn đồ hồ đeo tay. “Đã năm giờ rồi
kia à,” bà ta nói như thể là ngạc nhiên lắm.
Mrs. Ansley suggested interrogatively: "There's bridge at the Embassy at five." For a long
time Mrs. Slade did not answer. She appeared to be lost in contemplation, and Mrs. Ansley
thought the remark had escaped her. But after a while she said, as if speaking out of a
dream: "Bridge, did you say! Not unless you want to.... But I don't think I will, you know."
Bà Ansley hỏi dò: “Có đánh bài tây ở toà đại sứ lúc năm giờ đó.” Một lúc lâu bà Slade vẫn
không trả lời. Bà ta có vẻ như đang lạc vào sự suy tư, và bà Ansley nghĩ rằng bà ta không nghe
thấy lời đề nghị của mình. Nhưng sau một lúc bà ta nói, như thề là nói mơ: “Bài tây ư, chị đã
nói thế đúng không! Nếu chị muốn … Nhưng tôi không đi đâu, chị biết mà.”
"Oh, no," Mrs. Ansley hastened to assure her. "I don't care to at all. It's so lovely here;
and so full of old memories, as you say." She settled herself in her chair, and almost
furtively drew forth her knitting. Mrs. Slade took sideways note of this activity, but her
own beautifully cared-for hands remained motionless on her knee.
“Ồ, không đâu,” bà Ansley vội vã chấn an bà ta. “ Tôi chẳng có quan tâm đến nó chút nào đâu.
Ở đây đẹp quá; và đầy ắp những kỷ niệm xưa, như chị nói đó.” Bà ta ngồi vào trong ghế, và len
lén lôi ra cái miếng đan. Bà Slade liếc nhìn qua khoé mắt cái hành động này, và thấy đôi bàn tay
đẹp đẽ được chăm chút kỹ ấy vẫn còn để nguyên trên đầu gối của bà ta.
"I was just thinking," she said slowly, "what different things Rome stands for to each
generation of travelers. To our grandmothers, Roman fever; to our mothers, sentimental
dangers—how we used to be guarded!—to our daughters, no more dangers than the
middle of Main Street. They don't know it—but how much they're missing!"
                 “Tôi chỉ đang nghĩ,” bà ta chậm rãi nói, “Đối với mỗi thế hệ khách du lịch thì thành
phố La Mã tượng trưng cho cái gì nhỉ. Đối với thế hệ bà của chúng ta, là bệnh sốt rét La Mã; tới
thời mẹ của chúng ta, là những mối nguy hiểm do cảm xúc gây ra – chúng ta đã bị canh chừng
quá trời luôn! - tới thế hệ con gái chúng ta, làm gì còn mối nguy hiểm nào nữa. Chúng nó đâu có
biết điều đó – nhưng sao chúng nó đi lâu thế nhỉ!”
The long golden light was beginning to pale, and Mrs. Ansley lifted her knitting a little
closer to her eyes. "Yes, how we were guarded"
Ánh nằng vàng trải dài bắt đầu nhạt dần, và bà Ansley nhấc cái miếng đan gẩn hơn về phía mắt
mình. “Đúng vậy, chúng ta đã bị canh chừng quá trời luôn”
"I always used to think," Mrs. Slade continued, "that our mothers had a much more
difficult job than our grandmothers. When Roman fever stalked the streets it must have
been comparatively easy to gather in the girls at the danger hour; but when you and I were
young, with such beauty calling us, and the spice of disobedience thrown in, and no worse
risk than catching cold during the cool hour after sunset, the mothers used to be put to it to
keep us in—didn't they!"
                 “Tôi đã từng luôn nghĩ,” bà Sla de tiếp tục, “ rằng mẹ của chúng ta đã khó khăn để
canh chừng chúng ta hơn là bà chúng ta canh chừng mẹ. Khi mà cơn sốt rét La Mã đi rảo khắp
nẻo đường thì hẳn là phải tương đối dễ dàng để mà gom mấy đứa con gái lại vào giờ nguy hiểm;
nhưng khi chị và tôi còn trẻ, với cái cảnh đẹp quyễn rũ như thế mời gọi, và công thêm cái hương
vị của việc bất tuân, và cùng lắm là bị cảm lạnh trong những giờ trời trở lạnh sau khi mặt trời
lặn mà thôi, mẹ của chúng ta đã từng cực kỳ vất vả để canh giữ chúng ta trong nhà - phải vậy
không nào!”
She turned again toward Mrs. Ansley, but the latter had reached a delicate point in her
knitting. "One, two, three—slip two; yes, they must have been," she assented, without
looking up.
                 Bà ta một lần nữa quay người vế phía bà Ansley, nhưng bà Ansley lúc này đã đan tới
một chỗ phức tạp của miếng đan. “ Một, hai, ba - bỏ hai; đúng vậy, họ hẳn là đã cực kỳ vất vả,”
bà ta nói trong khi đầu vẫn cúi xuống miếng đan.
Mrs. Slade's eyes rested on her with a deepened attention. "She can knit—in the face of
this! How like her.... "
Đôi mắt của bà Sla de nhìn bà ta bằng với một sự chú ý ngạc nhiên.” Bà ta có thể đan ư – trong
khi đối diện với cảnh đẹp như thế này sao! Bà ta là loại người gì vậy …”
Mrs. Slade leaned back, brooding, her eyes ranging from the ruins which faced her to the
long green hollow of the Forum, the fading glow of the church fronts beyond it, and the
outlying immensity of the Colosseum. Suddenly she thought: "It's all very well to say that
our girls have done away with sentiment and moonlight. But if Babs Ansley isn't out to
catch that young aviator—the one who's a Marchese—then I don't know anything. And
Jenny has no chance beside her. I know that too. I wonder if that's why Grace Ansley likes
the two girls to go everywhere together! My poor Jenny as a foil—!" Mrs. Slade gave a
hardly audible laugh, and at the sound Mrs. Ansley dropped her knitting.
Bả Slade tựa người ra phía sau suy nghĩ, mắt bà ta quét tầm nhìn từ những phế tích trước mặt
bà ta cho tới chỗ trũng màu xanh lục dài của phế tích Forum, rồi tới vầng sáng đang nhạt dần
cùa phía trước ngôi nhà thờ nằm bên ngoải Forum, và ở ngoải cùng là đấu trường Col osseum
rộng mênh mông. Đột nhiên bà ta nghĩ: “ Cũng vui là mấy đứa con gái chúng ta đã bỏ đi sự uỷ
mị và lãng mạn. Nhưng tôi lấy làm lạ nếu con Babs nó ra ngoài mà không chụp được anh chàng
phi công trẻ trung đó – cái người mà được gọi là hầu tước. Và con Jenny bên cạnh con đấy thì
làm gì có cửa cơ chứ. Tôi cũng biết điều đó mà. Tôi thắc mắc là liệu đó có phải đó là lý do mà
con mụ Grace Ansley này thích 2 đứa chúng nó lúc nào cũng đi chơi cùng với nhau! Con Jenny
tội nghiệp của tôi chỉ y như là đứa làm nền cho bạn nó mà thôi - !” Bà Slade bật cười rục rịch,
và tiếng cười đó làm bà Ansley ngưng đan.
"Yes—?"
“ Gì cơ chị-?”
"I—oh, nothing. I was only thinking how your Babs carries everything before her. That
Campolieri boy is one of the best matches in Rome. Don't look so innocent, my dear—you
know he is. And I was wondering, ever so respectfully, you understand... wondering how
two such exemplary characters as you and Horace had managed to produce anything quite
so dynamic." Mrs. Slade laughed again, with a touch of asperity.
“ Tôi - ồ, không có gì. Tôi chỉ đã nghĩ là làm sao mà con Babs nó có mọi thứ cơ chứ. Cái thằng
Camplieri đó là một trong những đám mà người ta thèm muốn nhất ở Rome . Đừng làm bộ nữa,
bạn yêu - chị biết hắn mà ai mà. Và tôi đã thắc mắc, thực sự là lúc nào cũng thắc mắc, chị biết
đấy … thắc mắc rằng làm sao mà hai người mẫu mực như chị và anh Horace lại sinh ra một đứa
lanh lợi như thế chứ.” Bà Slade cười một lần nữa với một chút bực tức.
Mrs. Ansley's hands lay inert across her needles. She looked straight out at the great
accumulated wreckage of passion and splendor at her feet. But her small profile was almost
expressionless. At length she said, "I think you overrate Babs, my dear."
Đôi tay của bà Ansley vẫn còn để nguyên vắt chéo qua mấy cây que đan. Bà ta nhìn thằng ra
phía ngoài vào những phế tích của niềm đam mê và lộng lẫy to lớn được tích tụ lại dưới chân
mình. Nhưng cái khuôn mặt nhìn ngang của bà ta hầu như vô cảm. Cuối cùng bà ta nói, “ Tôi
nghĩ là chị đánh giá quá cao con Babs, chị ạ.”
Mrs. Slade's tone grew easier. "No; I don't. I appreciate her. And perhaps envy you. Oh,
my girl's perfect; if I were a chronic invalid I'd—well, I think I'd rather be in Jenny's
hands. There must be times... but there! I always wanted a brilliant daughter... and never
quite understood why I got an angel instead."
Giọng bà Sla de trở nên nhẹ nhàng hơn.” Không. Tôi đánh giá cao nó mà. Và có phần ghen tỵ
với chị. Ồ, con gái tôi thì ngoan quá; nếu tôi là người tàn tật, à thì có lẽ là tôi nghĩ rằng mình sẽ
thích ở trong vòng tay của Jenny. Hẳn sẽ có lúc như vậy thôi… nhưng chị thấy đó! Tôi đã luôn
muốn có một đứa con gái thông minh … và hầu như chẳng thể nào hiểu được là thay vào đó tôi
lại có một thiên thần.
Mrs. Ansley echoed her laugh in a faint murmur. "Babs is an angel too."
Bà Ansley cười đáp lại trong một giọng thì thào nhỏ. “ Babs nó cũng là một thần mà.”
"Of course—of course! But she's got rainbow wings. Well, they're wandering by the sea
with their young men; and here we sit... and it all brings back the past a little too acutely."
“ Dĩ nhiên – dĩ nhiên! Nhưng nó có tương lai rực rỡ. Ôi, chúng nó đang đi dạo trên biển với
những chàng trai trẻ; và chúng ta thì ngồi đây… và tất cả cảnh tượng này chỉ gợi về quá khứ có
phần sâu sắc.”
Mrs. Ansley had resumed her knitting. One might almost have imagined (if one had known
her less well, Mrs. Slade reflected) that, for her also, too many memories rose from the
lengthening shadows of those august ruins. But no; she was simply absorbed in her work.
What was there for her to worry about! She knew that Babs would almost certainly come
back engaged to the extremely eligible Campolieri. "And she'll sell the New York house,
and settle down near them in Rome, and never be in their way... she's much too tactful. But
she'll have an excellent cook, and just the right people in for bridge and cocktails... and a
perfectly peacefuI old age among her grandchildren."
Bà Ansley đã quay trở lại đan. Người ta hầu như có thể hình dung ( nếu những người đó không
biết nhiều đến bà ta, bà Sla de suy tư ) rằng , đối với bà ta cũng thế, quá nhiều những kỷ niệm
hiện ra từ những cái bóng đang trải dài cùa những cái phế tích oai vệ kia. Nhưng không; bà ta
hiển nhiên là đang đắm mình trong công việc của mình. Ờ đó có gì để bà ta lo lắng cơ chứ! Bà
ta biết rằng con Babs hầu như chắc chắn quay trở về và đính hôn với thằng Cam polieri cực kỳ
được mọi người thèm khát đó. “ Và bà ta sẽ bán ngôi nhà ở New York , và cư ngụ gần con cái
của bà ta ở Rome , và bà ta sẽ có cuộc sống khác với mình … bà ta khôn khéo quá đi mất.
Nhưng bà ta sẽ có một đầu bếp tuyệt vời, và có những người phù hợp để chơi bài tây và tiệc
tùng… và có một cuộc sống tuổi già bình yên tuyệt vời giữa đàn cháu của mình.”
Mrs. Slade broke off this prophetic flight with a recoil of self-disgust. There was no one of
whom she had less right to think unkindly than of Grace Ansley. Would she never cure
herself of envying her! Perhaps she had begun too long ago.
Bà Slade tách ra khỏi sự suy đoán này bằng việc một cái giật bắn người về phía sau bởi sự kinh
tởm chính bản thân mình. Chỉ có Grace Ansley là bà ta có quyền không nghĩ tốt mà thôi. Bà ta
sẽ chẳng bao giờ chữa cho mình khỏi sự ganh tỵ với bạn mình! Có lẽ bả ta đã bắt đầu ganh tỵ từ
rất lâu rồi.
She stood up and leaned against the parapet, filling her troubled eyes with the tranquilizing
magic of the hour. But instead of tranquilizing her the sight seemed to increase her
exasperation. Her gaze turned toward the Colosseum. Already its golden flank was
drowned in purple shadow, and above it the sky curved crystal clear, without light or color.
It was the moment when afternoon and evening hang balanced in midheaven.
Bà ta đứng dậy tựa người vào lan can, cố làm yên dịu trở lại đôi mắt ganh tỵ của mình bằng
cảnh đẹp lúc đó. Nhưng thay vì làm yên dịu mình thì cái cảnh này dường như làm tăng thêm sự
bực bội của bà ta. Cái nhìn đăm đăm của bà ta quay về phía đấu trường Col osseum. Cái sườn
đầy nắng vàng của nó đã bị nhấn chìm trong cái bóng chìều tím, và bầu trời phía trên nó uốn
cong trong vắt như pha lê, không có chút ánh sáng hay màu sắc gì cả. Đó chính là giây phút mà
buổi chiều và buổi tối giao nhau trên bầu trời.
Mrs. Slade turned back and laid her hand on her friend's arm. The gesture was so abrupt
that Mrs. Ansley looked up, startled.
Bà Slade quay ngược trở lại và đặt tay lên cánh tay của bạn mình. Cái động tác đó quá đột ngột
đến nỗi bà Ansley giật nảy người ngước nhìn lên.
"The sun's set. You're not afraid, my dear?"
“Trời lặn rồi. Bộ chị không sợ sao, bạn yêu?”
"Afraid—?"
“ Sợ gì cơ - ?”
"Of Roman fever or pneumonia! I remember how ill you were that winter. As a girl you
had a very delicate throat, hadn't you?"
“ Sợ bệnh sốt rét La Mã hay bệnh sưng phổi đây ! Tôi còn nhớ vào mùa đông đó chị bệnh quá
chừng luôn. Khi còn là con gái thì cổ họng của chị yếu lắm, phải không nào?”
"Oh, we're all right up here. Down below, in the Forum, it does get deathly cold, all of a
sudden... but not here."
“Ồ, hai chúng ta ở ngay tại đây. Xuống phía bên dưới, trong cái Forum, trời lạnh đến chết
người, đột nhiên … nhưng không phải ở đây.”
"Ah, of course you know because you had to be so careful." Mrs. Slade turned back to the
parapet. She thought: "I must make one more effort not to hate her." Aloud she said:
"Whenever I look at the Forum from up here, I remember that story about a great-aunt of
yours, wasn't she? A dreadfully wicked great-aunt?"
“À, dĩ nhiên là chị biết điều đó bời vì chị đã phải rất cẩn thận mà.” Bà Slade quay người trờ ra
phía lan can. Bà ta nghĩ: “ Tôi phải làm một nỗ lực hơn nữa để không ghét bà ta.” Bà ta nói lớn
lên: “ Mỗi khi tôi nhìn vào cái Forum từ trên cao như thế này, tôi nhớ đến câu chuyện về bà cố
gì của chị, bà ấy phải không? một bà cố gì độc ác đến phát khiếp phải không?”
"Oh, yes; Great-aunt Harriet. The one who was supposed to have sent her young sister out
to the Forum after sunset to gather a nightblooming flower for her album. All our great-
aunts and grandmothers used to have albums of dried flowers."
“Ồ, đúng rồi, bà cố gì Harriet. Chính là người được cho đã sai cô em gái của minh đi ra tới
Forum sau khi mặt trời lặn để thu nhặt một bông hoa nở về đêm cho bộ sưu tập của mình. Tất
các bà cố gì và bà của chúng ta đã từng có những bộ sưu tập hoa khô mà.”
Mrs. Slade nodded. "But she really sent her because they were in love with the same man"
Bà Slade gật đầu. “ Nhưng bà ta sai cô em đi thực ra là bởi vì cả hai người đều yêu 1 người đàn
ông – “
"Well, that was the family tradition. They said Aunt Harriet confessed it years afterward.
At any rate, the poor little sister caught the fever and died. Mother used to frighten us with
the story when we were children."
“Thực vậy, đó là truyền thống gia đình thôi. Người ta nói gì Harriet đã thú nhận điều đó sau
nhiều năm. Dẫu sao thì cô em gái tội nghiệp của cố gì cũng bị sốt rét và chết. Mẹ tôi đã từng
doạ chúng tôi bằng câu chuyện đó khi chúng tôi còn nhỏ.”
"And you frightened me with it, that winter when you and I were here as girls. The winter
I was engaged to Delphin."
“ Và chị cũng đã hù doạ tôi bằng câu chuyện đó, mùa đông đó khi mà cả chị vả tôi đã ở đây khi
còn là con gái. Cái mùa đông mà tôi đã đính hôn với Delphin đó.”
Mrs. Ansley gave a faint laugh. "Oh, did I! Really frightened you? I don't believe you're
easily frightened."
Bà Ansley bật cười nho nhỏ. “Ồ, tôi đã doạ sao! Thực sự là đã doạ chị thiệt sao? Tôi không tin
là chị dễ dàng bị hù doạ đâu.”
"Not often; but I was then. I was easily frightened because I was too happy. I wonder if you
know what that means?"
“Không thường xuyên lắm; nhưng lúc đó tôi rất dễ bị doạ mà bởi vì khi đó tôi quá hạnh phúc.
Tôi không biết là liệu chị có biết ý của tôi không?”
"I—yes... " Mrs. Ansley faltered.
“ Tôi – có chứ… “ bà Ansley nói ngắt quãng.
"Well, I suppose that was why the story of your wicked aunt made such an impression on
me. And I thought: 'There's no more Roman fever, but the Forum is deathly cold after
sunset—especially after a hot day. And the Colosseum's even colder and damper.'"
“ Thực ra, tôi cho rằng đó là lý do tại sao câu chuyện về người dì độc ác của chị đã gây một ảnh
hưởng mạnh mẽ với tôi như thế. Và tôi nghĩ : ‘làm gì còn cơn sốt La Mã nữa, nhưng sau khi mặt
trời lặn thì Forum là nơi lạnh đến chết người - đặc biệt là sau một ngày nắng nóng. Và
Colosseum thậm chí còn lạnh và ẩm thấp hơn nữa.”
"The Colosseum—?"
“Đấu trường Col osseum ư - ?”
"Yes. It wasn't easy to get in, after the gates were locked for the night. Far from easy. Still,
in those days it could be managed; it was managed, often. Lovers met there who couldn't
meet elsewhere. You knew that?"
“Đúng vậy. Đâu có dễ vào trong đó sau khi các cánh cổng đã bị khoá lại vào buổi tối. Cực kỳ là
khó. Tuy nhiên, lúc bấy giờ thì người ta vẫn có thể xoay xở vào được; thường là vẫn xoay xở
được. Những người đang yêu mà không thể gặp nhau ở chỗ khác thì gặp nhau ở đó. Chị biết
điều đó chứ?”
"I—I daresay. I don't remember."
“Tôi – tôi khẳng định. Tôi không nhớ nữa.”
"You don't remember? You don't remember going to visit some ruins or other one
evening, just after dark, and catching a bad chill! You were supposed to have gone to see
the moonrise. People always said that expedition was what caused your illness."
“ Chị không nhớ ư? Chị không nhớ là chị định đi xem một vài cái phế tích hay cái gì khác vào
một buổi tối chỉ sau khi màn đêm xuống, và chị bị cảm rất nặng! Người ra nghĩ là chị đã đi
ngắm trăng mọc. Người ta vẫn luôn nói rằng chính việc đi chơi đó làm chị bịnh quá chừng
luôn.”
There was a moment's silence; then Mrs. Ansley rejoined: "Did they? It was all so long
ago."
Yên lặng trong giây lát; sau đó bà Ansley trả lời: “ Vậy họ đã nói thế à? Chuyện đó lâu quá rồi
còn gì.”
"Yes. And you got well again—so it didn't matter. But I suppose it struck your friends—
the reason given for your illness. I mean—because everybody knew you were so prudent on
account of your throat, and your mother took such care of you.... You had been out late
sightseeing, hadn't you, that night"
“Đúng vậy. Và chị đã nhớ lại nhiều rồi đấy - Chuyện đó cũng đâu có gì nghiêm trọng. Nhưng tôi
nghĩ là cái lý do mà chị đưa ra về việc chị bệnh làm cho những người bạn của chị chú ý. Ý tôi là
bởi vì mọi người biết rằng chị là người rất cẩn thận về sức khỏe của cổ họng chị, và mẹ chị canh
chừng chị kỹ thế kia cơ mà… Thế mà chị lại đi ra ngoài ngắm cảnh tới khuya vào đêm đó, có
phải vậy không nào.”
"Perhaps I had. The most prudent girls aren't always prudent. What made you think of it
now?"
“ Có lẽ là tôi đã ra ngoài khuya. Người con gái cẩn thận nhất cũng có lúc không cẩn thận mà.
Giờ đây cái gì khiến chị nhớ đến chuyện đó vậy?”
Mrs. Slade seemed to have no answer ready. But after a moment she broke out: "Because I
simply can't bear it any longer—"
Bà Slade dường như bị bất ngờ với câu hỏi. Nhưng sau một lúc bà ta nói to lên: “Bởi vì đơn
giản là tôi không thể chịu đựng được điều đó thêm một tý nào nữa – “
Mrs. Ansley lifted her head quickly. Her eyes were wide and very pale. "Can't bear what?"
Bà Ansley nhanh chóng ngẩng đầu lên. Đôi mắt trợn tròn và trắng nhợt. “ Không thể chịu đựng
được điều gì cơ chứ?”
"Why—your not knowing that I've always known why you went."
“Tại sao à - bộ chị không biết rằng tôi lúc nào cũng đã biết vì sao chị đã đi ra ngoài.”
"Why I went—?"
“ Tại sao tôi đi ra ngoài ư - ?”
"Yes. You think I'm bluffing, don't you? Well, you went to meet the man I was engaged to
—and I can repeat every word of the letter that took you there."
“Đúng vậy, chị nghĩ là tôi đang hù chị phải không? Thực vậy, chị đã đi gặp vị hôn phu của tôi
và tôi có thể lặp lại từ từng của lá thư mà đã dẫn chị đi tới đó.”
While Mrs. Slade spoke Mrs. Ansley had risen unsteadily to her feet. Her bag, her knitting
and gloves, slid in a panic-stricken heap to the ground. She looked at Mrs. Slade as though
she were looking at a ghost.
Bà Ansley run rẩy trong khi bà Slade nói. Túi xách, găng tay, đồ đan rơi tuột xuống đất trong
khi bà đang hoang mang sợ hãi. Bà nhìn bà Slade như thể đang nhìn một bóng ma. 
"No, no—don't," she faltered out.
“ Không, không – không có.” Bà ta nói ngắt quãng.
"Why not? Listen, if you don't believe me. 'My one darling, things can't go on like this. I
must see you alone. Come to the Colosseum immediately after dark tomorrow. There will
be somebody to let you in. No one whom you need fear will suspect'—but perhaps you've
forgotten what the letter said?"
“ Không có ư? Nếu chị không tin tôi thì nghe nè. ‘Em yêu dấu duy nhất của anh, mọi thứ không
thể tiếp diễn như thế này được. Anh phải gặp riêng mình em. Hãy đến Col osseum ngay sau khi
trời tối vào ngày mai. Sẽ có người đưa em vào trong. Em không cần phải sợ người khác nghi
ngờ’ – nhưng có lẽ chị đã quên mất cái thư đó nói gì rồi?”
Mrs. Ansley met the challenge with an unexpected composure. Steadying herself against
the chair she looked at her friend, and replied: "No; I know it by heart too."
Bà Ansley đối diện cái thử thách này bằng một sự trấn tĩnh đến bất ngờ. Trong khi dựa người
vững chắc vào ghế, bà ta nhìn vào bà bạn của mình và trả lời: “Không; tôi cũng thuộc lòng lá
thư đó mà.”
"And the signature? 'Only your D.S.' Was that it? I'm right, am I? That was the letter that
took you out that evening after dark?"
“ Và chữ ký nữa chứ? ‘D.S chỉ là của em.’ Lá thư đó là thế phải không nào? Tôi nói đúng, đúng
không? Đó chính là lá thư mà khiến chị đi ra ngoài vào tối hôm đó sau màn đêm đúng không?”
Mrs. Ansley was still looking at her. It seemed to Mrs. Slade that a slow struggle was going
on behind the voluntarily controlled mask of her small quiet face. "I shouldn't have
thought she had herself so well in hand," Mrs. Slade reflected, almost resentfully. But at
this moment Mrs. Ansley spoke. "I don't know how you knew. I burned that letter at
once."
Bà Ansley vẫn đang nhìn vào bà ta. Đối với bà Sla de dưởng như có một sự vẫy vùng từ từ đang
diễn ra phía sau cái mặt nạ được điểu khiển bằng lý trí của cái khuôn mặt trầm tính nhỏ nhắn
đó. “Đáng lý ra tôi không nên nghĩ là chị sẽ xử lý tốt chuyện đó,” bà Sla de suy tư, hầu như là
bực bội. Nhưng lần này bà Ansley nói.” Tôi không biết làm sao mà chị lại biết được lá thư đó.
Tôi đã đốt chúng ngay khi đọc xong rồi mà.”
"Yes; you would, naturally—you're so prudent!" The sneer was open now. "And if you
burned the letter you're wondering how on earth I know what was in it. That's it, isn't it?"
“Đúng thế; chị đã đốt nó, hiển nhiên rồi - chị là người rất cẩn thận mà!” Giờ đây bà ta bắt đầu
dè bỉu. “Và nếu chị đã đốt chúng vậy thì chị đang tự hỏi làm quái nào mà tôi lại biết trong đó
viết những gì. Có đúng vậy không nào?”
Mrs. Slade waited, but Mrs. Ansley did not speak.
Bà Slade chờ đợi, nhưng bà Ansley chẳng nói lời nào.
"Well, my dear, I know what was in that letter because I wrote it!"
“Thực ra, chị à, tôi biết những gì viết trong thư là bởi vì chính tôi đã viết nó!”
"You wrote it?"
“Chị viết nó sao?”
"Yes."
“Đúng vậy.”
The two women stood for a minute staring at each other in the last golden light. Then Mrs.
Ansley dropped back into her chair. "Oh," she murmured, and covered her face with her
hands.
Hai người phụ nữ đứng dậy nhìn chằm chằm vào nhau trong giây phút trong ánh nắng vàng
cuối cùng. Sau đó bà Ansley ngồi phệt xuống vào trong ghế. “Ôi,” bà ta thì thào, và đưa hai tay
lên che lấy khuôn mặt.
Mrs. Slade waited nervously for another word or movement. None came, and at length she
broke out: "I horrify you."
Bà Slade căng thẳng chờ đợi một lời lẽ hay một cử chỉ nào khác. Nhưng chẳng có gì cả, và cuối
cùng bà ta nói lớn :”Tôi kinh sợ chị.”
Mrs. Ansley's hands dropped to her knees. The face they uncovered was streaked with
tears. "I wasn't thinking of you. I was thinking—it was the only letter I ever had from
him!"
Bà Ansley buông hai tay xuống đầu gầu gối. Khuôn mặt lúc này để lộ ra những vệt nước mắt. “
Tôi đã không nghĩ chị là bạn tôi. Tôi đã nghĩ rằng đó chính là lá thư mà tôi đã có từ anh ta!”
"And I wrote it. Yes; I wrote it! But I was the girl he was engaged to. Did you happen to
remember that?"
“ Và tôi đã viết nó. Đúng vây: tôi đã viết nó đó! Nhưng tôi mới là người con gái mà anh ta đã
đính hôn. Chị có ngẫu nhiên nghĩ tới điều đó không?”
Mrs. Ansley's head drooped again. "I'm not trying to excuse myself... I remembered... "
Bà Ansley cụp đầu xuống một lần nữa. “Tôi sẽ không cố bào chữa cho mình nữa… Tôi đã nhớ
chứ…”
"And still you went?"
“Và chị vẫn đi ư?”
"Still I went."
“ Tôi vẫn đi.”
Mrs. Slade stood looking down on the small bowed figure at her side. The flame of her
wrath had already sunk, and she wondered why she had ever thought there would be any
satisfaction in inflicting so purposeless a wound on her friend. But she had to justify
herself.
Bà slade đứng nhìn xuống cái thân hình nhỏ nhắn cong người lại bên cạnh mình. Ngọn lửa
cuồng nộ của bà ta đã chìm xuống, và bà ta tự hỏi tại sao bà ta đã từng nghĩ rằng có bất kỳ sự
thoả mãn nào trong việc vô tình gây ra vết thương cho bạn mình. Nhưng bà ta phải chứng minh
là mình đúng.
"You do understand? I'd found out—and I hated you, hated you. I knew you were in love
with Delphin—and I was afraid; afraid of you, of your quiet ways, your sweetness... your...
well, I wanted you out of the way, that's all. Just for a few weeks; just till I was sure of him.
So in a blind fury I wrote that letter... I don't know why I'm telling you now."
“Chị có hiểu không? Tôi đã phát hiện ra – và tôi đã ghét chị, ghét chị. Tôi đã biết chị yêu anh
Delphin – và tôi đã sợ; sợ chị, sợ những cái cách điềm tĩnh của chị, sự ngọt ngào của chị … của
chị … thực vậy, tôi muốn chị đừng cản đường tôi, thế thôi. Chỉ trong một vài tuần; chỉ khi tôi đã
nắm chắc anh ấy. Vì thế trong một lúc cuồng nộ mù quáng tôi đã viết lá thư đó… Tôi không biết
là tại sao giờ đây tôi lại đi nói với chị.”
"I suppose," said Mrs. Ansley slowly, "it's because you've always gone on hating me."
“Tôi cho là,” bà Ansley từ từ nói, “đó là bởi vì chị lúc nào chị cũng ghét tôi suốt.”
"Perhaps. Or because I wanted to get the whole thing off my mind." She paused. "I'm glad
you destroyed the letter. Of course I never thought you'd die."
“Có lẽ thế. Hoặc là bởi vì tôi đã muốn nói hết mọi chuyện này trong đầu ra.” Bà ta ngưng lại.
“Tôi mừng là chị đã đốt lá thư đó. Đương nhiên là tôi đã chưa bao giờ nghĩ là chị sẽ chết.”
Mrs. Ansley relapsed into silence, and Mrs. Slade, leaning above her, was conscious of a
strange sense of isolation, of being cut off from the warm current of human communion.
"You think me a monster!"
Bà Ansley yên lặng trở lại, và bà Slade, ngả người phía trên bà ta, nhận thức được một cảm giác
lạ lùng của sự cô độc, của việc bị tách ra khỏi cái dòng chảy ấm áp của sự cảm thông con
người. “ Chị nghĩ tôi là một con quỷ sao.!”
"I don't know... It was the only letter I had, and you say he didn't write it"
“ Tôi không biết nữa … Đó chính là lá thư duy nhất tôi đã có, và giờ chị lại nói rằng không phải
chính anh ta đã viết nó.”
"Ah, how you care for him still!"
“À, chị vẫn còn lo lắng cho anh ta đến thế kia à!”
"I cared for that memory," said Mrs. Ansley.
“ Tôi quan tâm đến cái kỷ niệm đó,” bà Ansley nói.
Mrs. Slade continued to look down on her. She seemed physically reduced by the blow—as
if, when she got up, the wind might scatter her like a puff of dust. Mrs. Slade's jealousy
suddenly leaped up again at the sight. All these years the woman had been living on that
letter. How she must have loved him, to treasure the mere memory of its ashes! The letter
of the man her friend was engaged to. Wasn't it she who was the monster?
Bà Slade tiếp tục đứng nhìn xuống bạn mình. Bà ta dường như mềm nhũn người bởi đòn giáng
đó – như thể là khi bà ta thức dậy, thì cơn gió đó có thể xé tan bà ta như một đám bụi. Sự ghen
tức của bà Sla de đột nhiên nhảy dựng lên một lần nữa vào cái cảnh đẹp này. Người phụ nữ đó
đã sống suốt bằng ấy năm chỉ vì cái lá thư ấy. Hẳn là bà ta yêu anh ấy biết chừng nào, để ấp ủ
cái kỷ niệm chỉ là đống tro tàn! Cái lá thư của người đàn ông mà bạn mình đã đính hôn. Vây
không phải chính bà ta mới là con qủy sao?
"You tried your best to get him away from me, didn't you? But you failed; and I kept him.
That's all."
“Chị đã cố hết sức để lôi anh ta ra khỏi tôi, có phải vậy không nào? Nhưng chị đã thua; và tôi
đã giữ được anh ấy. Chuyện là thế.”
"Yes. That's all."
“Đúng vậy, chuyện là thế.”
"I wish now I hadn't told you. I'd no idea you'd feel about it as you do; I thought you'd be
amused. It all happened so long ago, as you say; and you must do me the justice to
remember that I had no reason to think you'd ever taken it seriously. How could I, when
you were married to Horace Ansley two months afterward? As soon as you could get out of
bed your mother rushed you off to Florence and married you. People were rather surprised
—they wondered at its being done so quickly; but I thought I knew. I had an idea you did it
out of pique—to be able to say you'd got ahead of Delphin and me. Kids have such silly
reasons for doing the most serious things. And your marrying so soon convinced me that
you'd never really cared."
“Bây giờ tôi ước là tôi đã không nói cho chị biết. Tôi đã không biết rằng chị sẽ cảm nhận nó như
thế; Tôi đã nghĩ là chị sẽ vui. Chu yện đó xảy ra cũng đã quá lâu rồi, như chị nói đó; và chị phải
công tâm với tôi mà để nhớ rằng tôi chắng có lý do gì để nghĩ chị đã từng đón nhận lá thư đó
một cách nghiêm túc. Tôi có thể nghĩ thế nào khi chị đã cưới Horace Ansley chỉ 2 tháng sau đó?
Ngay khi chị có thể ra khỏi giường thì mẹ chị đã vội vã đưa chị rời khỏi Rome đi Florence và
làm đám cưới cho chị. Mọi người đã rất ngạc nhiên - họ thắc mắc là lễ cưới được làm quá
chóng vánh; nhưng tôi nghĩ là tôi biết. Tôi đã có một ý nghĩ là chị lảm đám cưới vì chị tức tôi –
để có thể nói rằng chị đã làm đám cưới còn trước cả Del phi n và tôi. Mấy đứa trẻ có những lý
do hết sức là ngớ ngẩn để làm những việc cực kỳ quan trọng. Và cái đám cưới chóng vánh của
chị đã thuyết phục tôi rằng chị đã chẳng bao giờ quan tâm đến lá thư đó.”
"Yes. I suppose it would," Mrs. Ansley assented.
“Đúng thế. Tôi cho là thế,” Bà Ansley đồng ý.
The clear heaven overhead was emptied of all its gold. Dusk spread over it, abruptly
darkening the Seven Hills. Here and there lights began to twinkle through the foliage at
their feet. Steps were coming and going on the deserted terrace—waiters looking out of the
doorway at the head of the stairs, then reappearing with trays and napkins and flasks of
wine. Tables were moved, chairs straightened. A feeble string of electric lights flickered
out. A stout lady in a dustcoat suddenly appeared, asking in broken Italian if anyone had
seen the elastic band which held together her tattered Baedeker. She poked with her stick
under the table at which she had lunched, the waiters assisting.
Bầu trời trong sáng trên đầu họ không còn nắng vàng. Hoàng hôn trải dài trên bầu trời, đột
nhiên bóng tối bao trùm cả thành phố. Rải rác những ánh đèn bắt đầu lấp lánh xuyên qua những
đám lá dưới chân họ. Những bước chân đến và đi trên cái sân thượng trống vắng – những người
phục vụ đang nhìn ra bên ngoài cánh cửa ở đầu những bậc thang, sau đó lại xuất hiện cùng với
những cái khay, những khăn ăn và những chai rượu dẹp. Họ dịch chuyển những cái bàn, những
cái ghế cho ngay thẳng. Một chùm ánh điện yếu ớt chiếu ra lập loè. Một quý bà mập mạp trong
cái áo che bụi đột nhiên xuất hiện, hỏi bằng tiếng Ý giọng nước ngoài rằng có ai thấy cái dây
thung cột để giữ cái cuốn sách du lịch bị xé rách của bả ta hay không. Bà ta lấy gậy chọc chọc
xuống dưới cái bàn mà bà ta đã ngồi ăn trưa, những người phục vụ cũng giúp bà ta tìm kiếm.
The corner where Mrs. Slade and Mrs. Ansley sat was still shadowy and deserted. For a
long time neither of them spoke. At length Mrs. Slade began again: "I suppose I did it as a
sort of joke—"
Cái góc mà bà Sla de và bà Ansley ngồi vẫn còn tối và vắng người. Một lúc lâu mà cả hai chẳng
nới với nhau câu nào. Cuối cùng bà Sla de bắt đầu nói: “ Tôi nghĩ là tôi viết lá thư đó như là
một trò đùa thôi –“
"A joke?"
“ Một trò đùa ư?”
"Well, girls are ferocious sometimes, you know. Girls in love especially. And I remember
laughing to myself all that evening at the idea that you were waiting around there in the
dark, dodging out of sight, listening for every sound, trying to get in—of course I was upset
when I heard you were so ill afterward."
“Đúng vậy, chị biết đấy thỉnh thoảng tụi con gái cũng dữ tợn lắm. Đặc biệt là mấy đứa con gái
đang yêu. Và tôi nhớ là tôi đã tự cười suốt cả tối hôm đó khi nghĩ rằng chị đang đợi quanh quẩn
đâu đó trong bóng tối, lẩn tránh để khỏi bị phát hiện, lắng nghe từng âm thanh, cố để vào trong
– dĩ nhiên là tôi đã cảm thấy lo lắng khi tôi nghe tin chị ốm nặng sau đó.”
Mrs. Ansley had not moved for a long time. But now she turned slowly toward her
companion. "But I didn't wait. He'd arranged everything. He was there. We were let in at
once," she said.
Bà Ansley không động đậy trong một lúc lâu. Nhưng giờ đây bà ta từ từ quay lại phía bạn mình.
“ Nhưng tôi không phải đợi. Anh ấy đã sắp xếp mọi thứ. Anh ấy đã ở đó. Lần đó chúng tôi đã
vào trong.” Bà ta nói.
Mrs. Slade sprang up from her leaning position. "Delphin there! They let you in! Ah, now
you're lying!" she burst out with violence.
Bà Slade giật bắn người lên từ chỗ mà bà ta đứng tựa người. “ Del phi n ở đó ư! Họ cho hai
người vào ư! À, giờ chắc chị đang nói dối!” bà ta nói lớn lên với sự giận dữ.
Mrs. Ansley's voice grew clearer, and full of surprise. "But of course he was there.
Naturally he came—"
Giọng của bà Ansley trở nên rõ ràng hơn, và đầy ắp sự ngạc nhiên.” Nhưng dĩ nhiên là anh ấy
đã ở đó mà. Đương nhiên là anh ấy đã đến – “
"Came? How did he know he'd find you there? You must be raving!"
“Đã đến ư? Làm sao anh ấy biết là sẽ tìm thấy chị ở đó? hẳn là chị đang nói bốc nói phét!”
Mrs. Ansley hesitated, as though reflecting. "But I answered the letter. I told him I'd be
there. So he came."
Bà Ansley lưỡng lự như thể đang suy tư. “ Nhưng tôi đã trả lời lá thư đó. Tôi nói với anh ấy
rằng tôi sẽ ở đó. Vì thế mà anh ấy đã đến.”
Mrs. Slade flung her hands up to her face. "Oh, God—you answered! I never thought of
your answering.... "
Bà Slade vung tay che mặt lại. “Ôi chúa ơi - chị đã trả lời thư! Tôi đã chưa bao giờ nghĩ tới việc
chị sẽ trả lời thư …”
"It's odd you never thought of it, if you wrote the letter."
“Thật lạ là chị đã không bao giờ nghĩ tới điều đó nếu chị là người viết thư.”
"Yes. I was blind with rage."
“Vâng. Tôi đã bị cơn giận làm cho mù quáng.”
Mrs. Ansley rose, and drew her fur scarf about her. "It is cold here. We'd better go.... I'm
sorry for you," she said, as she clasped the fur about her throat.
Bà Ansley đứng dậy và kéo cái khăng choàng bằng lông thú về phía mình. “Ở đây lạnh quá. Tốt
hơn hết chúng ta nên đi … Tôi thương hại cho chị,” bà ta nói khi bà ta quấn quanh cái khăn vào
cổ bà ta.
The unexpected words sent a pang through Mrs. Slade. "Yes; we'd better go." She
gathered up her bag and cloak. "I don't know why you should be sorry for me," she
muttered.
Những lời lẽ bất ngờ đó làm cho bà Sla de đau nhói. “Ừ, chúng ta nên đi.” Bà ta thu nhặt ví
xách và áo khoác của mình. “ Tôi không biết là tại sao chị lại thương hại cho tôi,” bà ta nói khẽ.
Mrs. Ansley stood looking away from her toward the dusky mass of the Colosseum. "Well
—because I didn't have to wait that night."
Bà Ansley đứng nhìn xa xăm hướng về phía đám bụi khổng lồ của đấu trường Colosseum. “À là
bởi vì vào đêm hôm đó tôi đâu có phải đợi.”
Mrs. Slade gave an unquiet laugh. "Yes, I was beaten there. But I oughtn't to begrudge it
to you, I suppose. At the end of all these years. After all, I had everything; I had him for
twenty-five years. And you had nothing but that one letter that he didn't write."
Bà Slade bật cười lo lắng. “Ừ, tôi đã bị đánh bại lúc đó. Nhưng tôi cho rằng tôi chẳng nên ghen
tức điều đó với chị. Cuối cùng sau bằng đó năm. Dẫu sao tôi cũng đã có mọi thứ; Tôi đã có anh
ấy trong 25 năm. Còn chị chả có gì ngoại trừ một lá thư mà không phải do anh ấy viết.”
Mrs. Ansley was again silent. At length she took a step toward the door of the terrace, and
turned back, facing her companion.
Bà Ansley yên lặng một lần nữa. Cuối cùng bà ta bước một bước về phía cánh cửa của sân
thượng và quay ngược trở lại đối mặt với người bạn của mình.
"I had Barbara," she said, and began to move ahead of Mrs. Slade toward the stairway.
“Tôi có Barbara,” bà ta nói và bắt đầu di chuyển lên trước bà Slade hướng về phía cầu thang.

The lady or the tiger


In the very olden time there lived a semi-barbaric king, whose ideas, though somewhat
polished and sharpened by the progressiveness of distant Latin neighbors, were still large,
florid, and untrammeled, as became the half of him which was barbaric. He was a man of
exuberant fancy, and, withal, of an authority so irresistible that, at his will, he turned his
varied fancies into facts. He was greatly given to self-communing, and, when he and himself
agreed upon anything, the thing was done. When every member of his domestic and
political systems moved smoothly in its appointed course, his nature was bland and genial;
but, whenever there was a little hitch, and some of his orbs got out of their orbits, he was
blander and more genial still, for nothing pleased him so much as to make the crooked
straight and crush down uneven places.
Among the borrowed notions by which his barbarism had become semified was that of the
public arena, in which, by exhibitions of manly and beastly valor, the minds of his subjects
were refined and cultured.
But even here the exuberant and barbaric fancy asserted itself. The arena of the king was
built, not to give the people an opportunity of hearing the rhapsodies of dying gladiators,
nor to enable them to view the inevitable conclusion of a conflict between religious opinions
and hungry jaws, but for purposes far better adapted to widen and develop the mental
energies of the people. This vast amphitheater, with its encircling galleries, its mysterious
vaults, and its unseen passages, was an agent of poetic justice, in which crime was
punished, or virtue rewarded, by the decrees of an impartial and incorruptible chance.
When a subject was accused of a crime of sufficient importance to interest the king, public
notice was given that on an appointed day the fate of the accused person would be decided
in the king's arena, a structure which well deserved its name, for, although its form and
plan were borrowed from afar, its purpose emanated solely from the brain of this man,
who, every barleycorn a king, knew no tradition to which he owed more allegiance than
pleased his fancy, and who ingrafted on every adopted form of human thought and action
the rich growth of his barbaric idealism.
When all the people had assembled in the galleries, and the king, surrounded by his court,
sat high up on his throne of royal state on one side of the arena, he gave a signal, a door
beneath him opened, and the accused subject stepped out into the amphitheater. Directly
opposite him, on the other side of the inclosed space, were two doors, exactly alike and side
by side. It was the duty and the privilege of the person on trial to walk directly to these
doors and open one of them. He could open either door he pleased; he was subject to no
guidance or influence but that of the aforementioned impartial and incorruptible chance. If
he opened the one, there came out of it a hungry tiger, the fiercest and most cruel that
could be procured, which immediately sprang upon him and tore him to pieces as a
punishment for his guilt. The moment that the case of the criminal was thus decided,
doleful iron bells were clanged, great wails went up from the hired mourners posted on the
outer rim of the arena, and the vast audience, with bowed heads and downcast hearts,
wended slowly their homeward way, mourning greatly that one so young and fair, or so old
and respected, should have merited so dire a fate.
But, if the accused person opened the other door, there came forth from it a lady, the most
suitable to his years and station that his majesty could select among his fair subjects, and to
this lady he was immediately married, as a reward of his innocence. It mattered not that he
might already possess a wife and family, or that his affections might be engaged upon an
object of his own selection; the king allowed no such subordinate arrangements to interfere
with his great scheme of retribution and reward. The exercises, as in the other instance,
took place immediately, and in the arena. Another door opened beneath the king, and a
priest, followed by a band of choristers, and dancing maidens blowing joyous airs on
golden horns and treading an epithalamic measure, advanced to where the pair stood, side
by side, and the wedding was promptly and cheerily solemnized. Then the gay brass bells
rang forth their merry peals, the people shouted glad hurrahs, and the innocent man,
preceded by children strewing flowers on his path, led his bride to his home.
This was the king's semi-barbaric method of administering justice. Its perfect fairness is
obvious. The criminal could not know out of which door would come the lady; he opened
either he pleased, without having the slightest idea whether, in the next instant, he was to
be devoured or married. On some occasions the tiger came out of one door, and on some
out of the other. The decisions of this tribunal were not only fair, they were positively
determinate: the accused person was instantly punished if he found himself guilty, and, if
innocent, he was rewarded on the spot, whether he liked it or not. There was no escape
from the judgments of the king's arena.
The institution was a very popular one. When the people gathered together on one of the
great trial days, they never knew whether they were to witness a bloody slaughter or a
hilarious wedding. This element of uncertainty lent an interest to the occasion which it
could not otherwise have attained. Thus, the masses were entertained and pleased, and
the thinking part of the community could bring no charge of unfairness against this plan,
for did not the accused person have the whole matter in his own hands?
This semi-barbaric king had a daughter as blooming as his most florid fancies, and with a
soul as fervent and imperious as his own. As is usual in such cases, she was the apple of his
eye, and was loved by him above all humanity. Among his courtiers was a young man of
that fineness of blood and lowness of station common to the conventional heroes of
romance who love royal maidens. This royal maiden was well satisfied with her lover, for
he was handsome and brave to a degree unsurpassed in all this kingdom, and she loved him
with an ardor that had enough of barbarism in it to make it exceedingly warm and strong.
This love affair moved on happily for many months, until one day the king happened to
discover its existence. He did not hesitate nor waver in regard to his duty in the premises.
The youth was immediately cast into prison, and a day was appointed for his trial in the
king's arena. This, of course, was an especially important occasion, and his majesty, as well
as all the people, was greatly interested in the workings and development of this trial.
Never before had such a case occurred; never before had a subject dared to love the
daughter of the king. In after years such things became commonplace enough, but then
they were in no slight degree novel and startling.
The tiger-cages of the kingdom were searched for the most savage and relentless beasts,
from which the fiercest monster might be selected for the arena; and the ranks of maiden
youth and beauty throughout the land were carefully surveyed by competent judges in
order that the young man might have a fitting bride in case fate did not determine for him
a different destiny. Of course, everybody knew that the deed with which the accused was
charged had been done. He had loved the princess, and neither he, she, nor any one else,
thought of denying the fact; but the king would not think of allowing any fact of this kind
to interfere with the workings of the tribunal, in which he took such great delight and
satisfaction. No matter how the affair turned out, the youth would be disposed of, and the
king would take an aesthetic pleasure in watching the course of events, which would
determine whether or not the young man had done wrong in allowing himself to love the
princess.
The appointed day arrived. From far and near the people gathered, and thronged the great
galleries of the arena, and crowds, unable to gain admittance, massed themselves against its
outside walls. The king and his court were in their places, opposite the twin doors, those
fateful portals, so terrible in their similarity.
All was ready. The signal was given. A door beneath the royal party opened, and the lover
of the princess walked into the arena. Tall, beautiful, fair, his appearance was greeted with
a low hum of admiration and anxiety. Half the audience had not known so grand a youth
had lived among them. No wonder the princess loved him! What a terrible thing for him to
be there!
As the youth advanced into the arena he turned, as the custom was, to bow to the king, but
he did not think at all of that royal personage. His eyes were fixed upon the princess, who
sat to the right of her father. Had it not been for the moiety of barbarism in her nature it is
probable that lady would not have been there, but her intense and fervid soul would not
allow her to be absent on an occasion in which she was so terribly interested. From the
moment that the decree had gone forth that her lover should decide his fate in the king's
arena, she had thought of nothing, night or day, but this great event and the various
subjects connected with it. Possessed of more power, influence, and force of character than
any one who had ever before been interested in such a case, she had done what no other
person had done,—she had possessed herself of the secret of the doors. She knew in which
of the two rooms, that lay behind those doors, stood the cage of the tiger, with its open
front, and in which waited the lady. Through these thick doors, heavily curtained with
skins on the inside, it was impossible that any noise or suggestion should come from within
to the person who should approach to raise the latch of one of them. But gold, and the
power of a woman's will, had brought the secret to the princess.
And not only did she know in which room stood the lady ready to emerge, all blushing and
radiant, should her door be opened, but she knew who the lady was. It was one of the
fairest and loveliest of the damsels of the court who had been selected as the reward of the
accused youth, should he be proved innocent of the crime of aspiring to one so far above
him; and the princess hated her. Often had she seen, or imagined that she had seen, this
fair creature throwing glances of admiration upon the person of her lover, and sometimes
she thought these glances were perceived, and even returned. Now and then she had seen
them talking together; it was but for a moment or two, but much can be said in a brief
space; it may have been on most unimportant topics, but how could she know that? The
girl was lovely, but she had dared to raise her eyes to the loved one of the princess; and,
with all the intensity of the savage blood transmitted to her through long lines of wholly
barbaric ancestors, she hated the woman who blushed and trembled behind that silent
door.
When her lover turned and looked at her, and his eye met hers as she sat there, paler and
whiter than any one in the vast ocean of anxious faces about her, he saw, by that power of
quick perception which is given to those whose souls are one, that she knew behind which
door crouched the tiger, and behind which stood the lady. He had expected her to know
it. He understood her nature, and his soul was assured that she would never rest until she
had made plain to herself this thing, hidden to all other lookers-on, even to the king. The
only hope for the youth in which there was any element of certainty was based upon the
success of the princess in discovering this mystery; and the moment he looked upon her, he
saw she had succeeded, as in his soul he knew she would succeed.
Then it was that his quick and anxious glance asked the question: "Which?" It was as plain
to her as if he shouted it from where he stood. There was not an instant to be lost. The
question was asked in a flash; it must be answered in another.
Her right arm lay on the cushioned parapet before her. She raised her hand, and made a
slight, quick movement toward the right. No one but her lover saw her. Every eye but his
was fixed on the man in the arena.
He turned, and with a firm and rapid step he walked across the empty space. Every heart
stopped beating, every breath was held, every eye was fixed immovably upon that man.
Without the slightest hesitation, he went to the door on the right, and opened it.
Now, the point of the story is this: Did the tiger come out of that door, or did the lady?
The more we reflect upon this question, the harder it is to answer. It involves a study of the
human heart which leads us through devious mazes of passion, out of which it is difficult to
find our way. Think of it, fair reader, not as if the decision of the question depended upon
yourself, but upon that hot-blooded, semi-barbaric princess, her soul at a white heat
beneath the combined fires of despair and jealousy. She had lost him, but who should have
him?
How often, in her waking hours and in her dreams, had she started in wild horror, and
covered her face with her hands as she thought of her lover opening the door on the other
side of which waited the cruel fangs of the tiger!
But how much oftener had she seen him at the other door! How in her grievous reveries
had she gnashed her teeth, and torn her hair, when she saw his start of rapturous delight as
he opened the door of the lady! How her soul had burned in agony when she had seen him
rush to meet that woman, with her flushing cheek and sparkling eye of triumph; when she
had seen him lead her forth, his whole frame kindled with the joy of recovered life; when
she had heard the glad shouts from the multitude, and the wild ringing of the happy bells;
when she had seen the priest, with his joyous followers, advance to the couple, and make
them man and wife before her very eyes; and when she had seen them walk away together
upon their path of flowers, followed by the tremendous shouts of the hilarious multitude, in
which her one despairing shriek was lost and drowned!
Would it not be better for him to die at once, and go to wait for her in the blessed regions of
semi-barbaric futurity?
And yet, that awful tiger, those shrieks, that blood!
Her decision had been indicated in an instant, but it had been made after days and nights
of anguished deliberation. She had known she would be asked, she had decided what she
would answer, and, without the slightest hesitation, she had moved her hand to the right.
The question of her decision is one not to be lightly considered, and it is not for me to
presume to set myself up as the one person able to answer it. And so I leave it with all of
you: Which came out of the opened door,—the lady, or the tiger?
Ngày xửa ngày xưa có một ông vua bán khai, đầu óc ông ta tuy đã có phần trở nên tinh tế và sắc bén
nhờ sự tiến bộ của những lân bang Latin xa xôi dội đến, nhưng đó vẫn là một đầu óc phóng túng,
bóng bẩy vì nửa con người ông là nguyên chất bán khai. Nhà vua có một trí tưởng tượng mãnh liệt,
thêm vào đó là một quyền lực kiên trì đến mức nếu muốn ông có thể biến trò chơi thay đổi khôn
lường của trí tưởng tượng vốn rất dồi dào nơi ông thành hiện thực. Nhưng ông lại có thiên hướng
phân tích các hành động của mình, và một khi đã thuyết phục được bản thân thì không có gì ngăn
cản được ông đẩy sự việc đến cùng. Nếu mọi thành viên trong các hệ thống gia đình và chính trị của
ông vận hành theo đúng quỹ đạo đã vạch thì ông là người ôn tồn và tốt bụng; nhưng hễ có một trục
trặc nhỏ và một vài hành tinh của ông đi lạc quỹ đạo thì ông lại càng ôn tồn và tốt bụng hơn. Bởi vì
không có gì làm ông vui sướng bằng được thể hiện khả năng uốn thẳng những chỗ cong, san phẳng
những chỗ gồ ghề.
Trong số các ý niệm vay mượn làm tính man rợ của ông bớt đi một nửa, có ý niệm dựng lên một vũ
đài công cộng cho người và thú quyết đấu, qua đó nhằm thuần thục và cải tạo tâm hồn của các thần
dân.
Nhưng chính tại đó trí tưởng tượng sôi sục, man rợ lại bộc lộ mạnh nhất. Vũ đài của nhà vua được
dựng lên không phải để cho nhân dân có cơ hội nghe thấy những sự thống khoái của các đấu sĩ đang
hấp hối, cũng không phải để họ tận mắt thấy cái kết thúc tất yếu của sự xung đột giữa đức tin tôn
giáo và cái bụng đói, mà nhằm mục đích tạo ra một nơi thật thích hợp cho việc đề cao năng lượng
trí tuệ của nhân dân. Đấu trường rộng lớn với những hành lang bao quanh, những hầm ngầm bí ẩn,
những lối đi không ai nhìn thấy, là nơi thưởng phạt công minh, ở đó tội ác bị trừng phạt hoặc đức
hạnh được ban thưởng theo sự phán quyết của một cơ may vô tư và liêm khiết.
Khi một thần dân nào đấy bị kết án phạm vào một tội đủ khiến đức vua tò mò thì một thông báo sẽ
được phát ra rằng vào ngày đã định số phận của kẻ có tội sẽ được giải quyết tại đấu trường của nhà
vua, một tòa công trình rất xứng với tên gọi này, bởi vì dù cho hình thức và thiết kế của nó là vay
mượn từ phương xa, nhưng mục đích của nó hoàn toàn là từ đầu óc của con người này mà ra. Ông
ta không coi trọng một truyền thống nào lớn hơn trí tưởng tượng của mình và đã đem cấy ghép vào
mọi dạng tư duy và hành động thông thường của con người vô vàn những lý tưởng bán khai của
mình.
Khi mọi người đã tụ tập trong các hành lang và đức vua được các triều thần hộ tống đã ngồi vào
ngai vị, ông bèn ra hiệu, một cánh cửa phía dưới chỗ ông ngồi mở ra, kẻ bị kết tội bước ra vũ đài.
Đối diện thẳng với hắn, ở phía bên kia của khoảng không gian khép kín, có hai cánh cửa giống hệt
nhau nằm sát cạnh nhau. Kẻ tử tội có bổn phận và đặc ân là phải đi đến chỗ hai cánh cửa đó và mở
ra một cánh. Hắn muốn mở cửa nào cũng được; hắn không phải chịu sự chỉ đạo hay tác động nào,
ngoài sự phán quyết vô tư và liêm khiết đã nói trên. Nếu hắn mở một cửa, từ đấy một con hổ đói
hung dữ và độc ác nhất trần đời sẽ lập tức nhào ra, nhảy bổ vào hắn, xé xác hắn ra làm trăm mảnh
để trừng phạt tội lỗi của hắn. Khi số phận của kẻ tội phạm đã được kết liễu như vậy xong, những
quả chuông sắt sẽ kêu rền rĩ, các bức tường vọng lại âm u tiếng kêu la của lũ người khóc mướn ngồi
ở rìa phía ngoài vũ đài, còn đám đông người xem thì cúi đầu buồn bã chậm chạp lê bước về nhà,
lòng đầy xót thương cho một người trai trẻ hay một bậc tôn kính đã chẳng may phải chịu một số
phận thảm khốc đến thế.
Nhưng nếu kẻ tử tội mở cánh cửa khác thì từ đó sẽ bước ra một cô nương mà xét về tuổi tác và địa
vị xã hội thì là người xứng đôi vừa lứa với hắn nhất so với tất cả phụ nữ mà quốc vương có thể lựa
chọn, và với cô gái như một phần thưởng cho sự vô tội đó, người ta lập tức làm lễ cưới cho hắn. Dù
hắn đã có vợ con hay đã đem lòng thương nhớ ai cũng mặc: đức vua không cho phép những chuyện
lặt vặt như thế xen ngang vào kế hoạch thưởng phạt uy nghiêm của ông ta đã vạch ra. Cũng như
trong trường hợp kia, mọi chuyện lúc này tức khắc được thực hiện trên vũ đài. Dưới ngai vị của đức
vua lại có một cánh cửa nữa được mở ra, thầy tư tế bước ra cùng dàn đồng ca và đoàn nhảy múa do
một vũ sư dẫn đầu trong tiếng nhạc vang lừng của đội kèn vàng; tất cả những người này cùng bước
đến chỗ cặp vợ chồng mới đang kề vai sát cánh bên nhau và nghi lễ đám cưới diễn ra nhanh chóng
và tưng bừng. Khi đó những tiếng chuông vui vẻ thong thả ngân vang, dân chúng hân hoan hô to lời
chào mừng, kẻ vô tội dẫn cô dâu về nhà mình, đi trước là một đám trẻ rắc hoa đầy đường.
Phương thức bán khai để thực thi công lý của ông vua này là như vậy. Sự công bằng hoàn hảo ở đây
là hiển nhiên. Kẻ tử tội không thể biết cô dâu ở bên cửa nào và tùy ý mở một cửa mà không mảy
may hình dung được là trong giây lát mình sẽ bị xé xác hay được làm lễ cưới. Đôi khi con hổ bước
ra từ cửa này, đôi khi từ cửa khác. Cách giải quyết của pháp đình này không những công bằng mà
còn dứt khoát: nếu kẻ bị buộc tội xác định là mình có tội thì tức khắc sẽ bị trừng phạt; còn nếu
chứng tỏ mình vô tội thì vẫn nguyên tại chỗ hắn được ban thưởng, dù hắn có thích phần thưởng đó
hay không. Không có cách gì tránh được phán quyết của vũ đài nhà vua.
Thiết định này hết sức được ưa chuộng. Khi dân chúng tụ về ngày xử án, không một ai biết sẽ được
chứng kiến một cảnh tượng đổ máu rùng rợn hay một đám cưới vui vẻ. Yếu tố bất định làm cho
nghi lễ thêm phần hấp dẫn, điều không có được trong trường hợp ngược lại. Như vậy, dân chúng thì
được vui thích và dễ chịu, còn bộ phận có học của xã hội thì không thể buộc tội thiết định đó là bất
công được, bởi vì chẳng phải là kẻ tội phạm nắm toàn bộ vận mệnh mình trong tay đó sao?
Ông vua bán khai có một cô con gái với vẻ đẹp mãn khai rực rỡ như đầu óc tưởng tượng muôn màu
của ông, với một tâm hồn nồng nàn và quyền uy như chính ông. Giống như trong mọi trường hợp
thế này, nhà vua say đắm con mình hơn mọi thứ trên đời. Trong số các triều thần của ông có một
chàng trai mà dòng máu thanh cao và địa vị thấp hèn đã đặt chàng vào cùng hàng với các nhân vật
lãng mạn truyền thống đem lòng yêu con gái nhà vua. Nàng công chúa hoàn toàn bằng lòng với ý
trung nhân của mình, bởi sắc đẹp và lòng dũng cảm của chàng vượt hơn tất cả những người khác
trong vương quốc, nàng yêu chàng hừng hực, với tất cả sự nóng bỏng và mạnh mẽ nàng có được
nhờ dòng máu bán khai mang trong mình. Mối tình hạnh phúc của họ kéo dài nhiều tháng cho đến
khi bị nhà vua phát giác. Ông không chần chừ, do dự trước việc phải làm. Chàng trai bị tống ngay
vào ngục; ngày thử thách chàng trên đấu trường được ấn định. Tất nhiên đây là một trường hợp
quan trọng, đặc biệt nên cả đức vua và toàn thể dân chúng đều náo nức quan tâm theo dõi vụ này.
Chưa từng bao giờ có chuyện như vậy xảy ra cả; hàng bao đời nay chưa hề có một thần dân nào lại
dám cả gan yêu con gái vua. Về sau này những chuyện như thế trở thành bình thường, nhưng thời
đó nó là chuyện mới mẻ, đáng kinh ngạc.
Người ta lục soát khắp các chuồng thú của cả vương quốc để tìm kiếm những con thú man dại, độc
ác nhất, từ đó chọn ra một con thích hợp nhất cho cảnh tượng rùng rợn sắp xảy ra; người ta kiểm tra,
thử thách tài trí nhiều cô gái đẹp để chàng trai được nhận cô dâu xứng đáng nếu như số phận mỉm
cười với chàng. Cố nhiên tất cả đều biết rằng chàng trai bị buộc tội là không oan. Chàng đã yêu
công chúa, và cả chàng cả nàng hay một ai đó khác cũng không có ý chối bỏ sự thật đó, nhưng nhà
vua cũng không có ý định can thiệp vào tiến trình xử phạt vốn làm ông thỏa mãn và thích thú cao
độ. Dù kết cục là thế nào chăng nữa, chàng trai vẫn phải lên vũ đài, còn nhà vua thì được hưởng sự
thỏa mãn thẩm mỹ khi ngồi theo dõi diễn biến quá trình xác định xem liệu chàng trai có phạm tội
hay không trong việc tự ý yêu công chúa.
Ngày xét xử đã đến. Mọi người xa gần nô nức kéo đến, ngồi chật các hành lang vũ đài, còn đám
đông không chen vào được thì tụ tập quanh các bức tường phía ngoài. Đức vua và các triều thần
ngồi vào các chỗ của mình, đối diện với hai cánh cửa kép, hai cánh cổng định mệnh, giống hệt nhau
khủng khiếp.
Tất cả đã sẵn sàng. Hiệu lệnh được ban ra. Cánh cửa phía dưới chỗ nhà vua ngồi mở rộng, chàng
trai ý trung nhân của công chúa bước ra vũ đài. Chàng trai cao lớn, đẹp đẽ, tóc sáng được chào đón
bằng những tiếng hò la đầy thán phục và lo âu. Một nửa số khán giả không biết sống giữa họ lại có
một chàng trai hào hoa đến vậy. Công chúa yêu chàng là phải. Thật khủng khiếp là chàng phải đứng
ở đây!
Khi tiến vào vũ đài chàng trai quay người lại cúi chào nhà vua, theo đúng tục lệ, nhưng chàng
không hề nghĩ đến bậc chí tôn đó. Cặp mắt chàng nhìn xoáy vào nàng công chúa đang ngồi bên phải
vua cha. Nếu như không phải bản tính còn mang nửa phần hoang dại thì có lẽ nàng đã không đến
đây; nhưng tâm hồn đam mê, cháy bỏng không cho phép nàng bỏ qua sự kiện khiến nàng rất đỗi
quan tâm này. Sau khi biết sắc lệnh của vua cha tuyên phạt người yêu của nàng trên đấu trường,
suốt đêm ngày nàng không nghĩ gì khác ngoài sự kiện trọng đại đó và nhiều chuyện liên quan đến
nó. Vốn có một quyền lực to lớn, một uy tín rộng rãi, một tính cách mạnh mẽ hơn bất kỳ ai khác bị
rơi vào hoàn cảnh tương tự, nàng đã làm được một việc không ai làm được: biết bí mật các cánh
cửa. Nàng biết phía sau cửa nào là chuồng hổ, còn phía sau cửa nào là cô dâu. Hai tấm cửa dày, bên
trong lại phủ kín bằng những bộ da lông thú, không để cho một âm thanh, tín hiệu nào lọt được ra
ngoài, vang được đến tai người đang bước tới gần nâng chốt cửa lên. Nhưng vàng bạc và sức mạnh
của ý chí phụ nữ đã tiết lộ cho công chúa điều bí mật.
Và nàng không chỉ biết cánh cửa nào che giấu cô dâu ửng hồng tươi tắn sẵn sàng bước ra ngoài khi
cửa được mở mà nàng còn biết cô gái đó là ai. Để ban thưởng cho kẻ tử tội, nếu chàng chứng tỏ
được mình vô tội, người ta đã chọn một trong những cô gái xinh đẹp và quyến rũ nhất trong triều,
và nàng căm ghét cô ta. Nàng thường nhận thấy, hay là nghĩ rằng nhận thấy, cô gái xinh xắn đó nhìn
người tình của nàng bằng ánh mắt thán phục, đôi khi nàng phải cam chịu thừa nhận là dường như
những cái nhìn đó không phải không được đáp lại. Thi thoảng nàng thấy họ có trò chuyện với nhau
dù chỉ là thoáng chốc, nhưng một khoảng thời gian ngắn ngủi cũng có thể nói được nhiều điều; có
thể họ chỉ nói chuyện vặt thôi, nhưng làm sao nàng biết được? Cô gái trông hấp dẫn, nhưng cô ta đã
dám ngước mắt nhìn người tình của công chúa; và với toàn bộ dòng máu hoang dại thừa hưởng từ
vô số các tổ tiên thời còn mông muội, công chúa căm tức người con gái giờ đây đang run rẩy và ửng
hồng ở phía sau cánh cửa đóng chặt im lìm.
Khi chàng trai quay lại nhìn nàng công chúa đang ngồi nhợt nhạt tái xanh hơn ai hết giữa cả biển
người hồi hộp căng thẳng, hai luồng mắt của họ gặp nhau, và chàng thấy - nhờ một chớp lóe trong
đầu óc mà chỉ những ai hòa quyện tâm hồn với nhau mới có được - nàng biết con hổ ở cửa nào, cô
dâu ở cửa nào. Chàng nghĩ là nàng biết điều đó. Chàng hiểu tính cách của nàng, tâm hồn chàng tin
chắc rằng công chúa sẽ không yên chừng nào chưa biết rõ điều này, cái điều mà tất thảy mọi người
ngồi trên vũ đài, thậm chí nhà vua, đều không biết. Điều duy nhất chàng trai có thể hi vọng là công
chúa biết được điều bí mật đó; và khi đưa mắt nhìn nàng, chàng hiểu là nàng đã biết được nó, y như
trong tâm hồn mình chàng từng biết là nàng đã biết được nó.
Và khi đó cái nhìn tinh nhanh, khắc khoải của chàng đặt ra câu hỏi: “Cửa nào?”. Nó vọng đến chỗ
nàng như thể chàng hét to lên từ chỗ chàng đang đứng. Không thể bỏ lỡ khoảnh khắc. Câu hỏi được
hỏi bằng tia mắt; nó phải được đáp lại bằng cách khác.
Cánh tay phải của nàng đang đặt lên hàng lan can phủ nệm trước mặt. Nàng giơ tay, làm một cử
động nhẹ rất nhanh về phía phải. Không ai ngoài chàng nhìn về nàng. Mọi người đều đang đổ dồn
mắt vào con người trên vũ đài.
Chàng quay lại và bằng những bước đi rắn chắc, nhanh nhẹn chàng băng qua khoảng không gian
trống trải. Từng trái tim thắt lại, từng hơi thở phập phồng, từng ánh mắt hút vào chàng. Không hề do
dự, chàng bước lại cánh cửa bên phải và mở nó ra.
Bây giờ, mấu chốt câu truyện là đây: ai sẽ bước ra ngoài - con hổ hay cô dâu?
Bạn càng suy nghĩ về câu hỏi này càng thấy khó trả lời. Nó đòi hỏi phải nghiên cứu trái tim con
người là cái luôn cuốn chúng ta vào những mê cung rắc rối của những đam mê mà không dễ tìm lối
ra. Hãy suy nghĩ chuyện này đi, bạn đọc thân mến, chỉ có điều là giải pháp ở đây không tùy thuộc
vào bạn, mà vào nàng công chúa bán khai hừng hực lửa tình, tâm hồn nàng đã bị nung đến cháy đỏ
bởi ngọn lửa tuyệt vọng và ngọn lửa ghen tuông. Nàng đã mất chàng, nhưng ai sẽ được chàng đây?
Thường thường, lúc mơ cũng như lúc tỉnh, nàng run lên vì khủng khiếp và lấy tay che mặt mỗi khi
nghĩ đến việc người tình của nàng mở cánh cửa nhốt con hổ đói dữ tợn ở trong.
Nhưng thường nàng thấy chàng ở bên cánh cửa khác nhiều hơn! Nàng nghiến răng giật tóc trong
những cơn mơ cay đắng thấy chàng run lên mừng rỡ khi mở cánh cửa có cô dâu. Tâm hồn nàng xiết
bao đau khổ khi thấy chàng lao đến gặp cô gái có đôi má ửng hồng, cặp mắt long lanh vui sướng vì
số phận may mắn của mình; khi nàng thấy chàng dẫn cô gái bước ra, thân thể chàng tràn đầy niềm
vui được sống lại; khi nàng nghe những tiếng hò reo hân hoan của đám đông, những tiếng chuông
mừng rung vang cuồng nhiệt; khi nàng thấy thầy tư tế cùng đoàn hộ giá tưng bừng bước lại gần đôi
trai gái tuyên bố họ là chồng là vợ ngay trước mặt nàng; và khi nàng thấy hai người sánh bước bên
nhau trên con đường rải đầy hoa, trong tiếng reo hò vang dội của đám đông nhấn chìm nỗi tuyệt
vọng cô đơn của nàng!
Giá như chàng chết ngay đi và đợi nàng ở những miền cực lạc của cuộc sống bán khai ở thế giới
bên kia có phải tốt hơn không?
Nhưng con hổ dữ tợn, những tiếng gào rú, máu chảy xương rơi!
Để trả lời người tình nàng chỉ cần một giây, nhưng quyết định của nàng đã được đưa ra sau nhiều
ngày đêm suy tính trong đau khổ. Nàng biết là nàng sẽ được hỏi, nàng đã quyết định câu trả lời cần
thiết, và không mảy may do dự nàng đã khẽ cử động tay phải.
Câu hỏi về quyết định của nàng công chúa là câu hỏi không thể xem xét qua loa được, và tôi không
có quyền tự nhận mình là người duy nhất có khả năng trả lời được nó. Vì thế tôi xin dành cho các
bạn quyền trả lời: ai sẽ bước ra vũ đài - cô dâu hay con hổ?

You might also like